Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

luận văn thạc sĩ phát huy vai trò nhân tố con người bộ đội hải quân trong bảo vệ quần đảo trường sa hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 104 trang )

0

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

3

Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁT HUY VAI TRÒ NHÂN
TỐ CON NGƯỜI BỘ ĐỘI HẢI QUÂN TRONG
BẢO VỆ QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA
1.1. Thực chất phát huy vai trò nhân tố con người bộ đội

13

Hải quân trong bảo vệ quần đảo Trường Sa
1.2. Những vấn đề có tính quy luật trong phát huy vai trò

13

nhân tố con người bộ đội Hải quân Trường Sa

35

Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ
NHÂN TỐ CON NGƯỜI BỘ ĐỘI HẢI QUÂN TRONG
BẢO VỆ QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA HIỆN NAY

52

2.1. Thực trạng và yêu cầu đối với phát huy vai trò nhân tố


con người bộ đội Hải quân trong bảo vệ quần đảo
Trường Sa hiện nay
2.2. Giải pháp cơ bản phát huy vai trò nhân tố con người bộ

52

đội Hải quân trong bảo vệ quần đảo Trường Sa hiện nay

74
96
98
102

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất, mà hơn thế
nữa, con người cịn đóng vai trị là chủ thể hoạt động của mọi quá trình lịch
sử. Là sản phẩm của lịch sử, con người còn là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Vì vậy,


1

Đảng ta luôn xác định con người Việt Nam vừa là mục tiêu, vừa là động lực
cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Điều đó cho thấy vai trị vơ cùng quan trọng của con người và nhân tố
con người. Song, trong thực tiễn không phải lúc nào chúng ta cũng quan tâm một

cách đầy đủ nhất đến con người và việc phát huy vai trò nhân tố con người.
Trước đổi mới, chúng ta xem xét đánh giá con người, nhân tố con người có phần
chung chung, trừu tượng. Từ Đại hội VI năm 1986 đến nay, con người được
quan tâm, xem xét một cách toàn diện, cụ thể hơn. Vai trò con người được xem
xét trong thực hiện các nhiệm vụ cơ bản như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Con người không chỉ là chủ thể của quá trình phát triển
kinh tế - xã hội, mà cịn là chủ thể của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Thực tiễn xây dựng quân đội của một số nước xã hội chủ nghĩa đã cho
chúng ta thấy, một quân đội được trang bị vũ khí kỹ thuật hiện đại, được ni
dưỡng chu đáo, song không phát huy và sử dụng đúng đắn, có hiệu quả vai trị
nhân tố con người thì qn đội đó vẫn bị vơ hiệu hố trước những âm mưu,
thủ đoạn “Diễn biến hồ bình” của các thế lực thù địch.
Thực tiễn xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của bộ đội Hải quân
Trường Sa đã khẳng định vị trí đặc biệt quan trọng, vai trị to lớn của nhân
tố con người đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo Tổ quốc nói
chung và bảo vệ quần đảo Trường Sa nói riêng trước các thế lực thù địch
với sức mạnh vượt trội về vũ khí trang bị kỹ thuật, đặc biệt là trong thời đại
chiến tranh công nghệ cao như hiện nay.
Quần đảo Trường Sa là nơi có vị trí đặc biệt quan trọng giữa Biển Đơng,
nơi có đường hàng hải và hàng khơng huyết mạch thơng thương giữa Thái Bình
Dương và ấn Độ Dương, giữa châu Âu, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật
Bản và các nước trong khu vực. Đây được coi là vị trí lý tưởng để thiết lập các
căn cứ chiến lược nhằm kiểm sốt các tuyến đường giao thơng trên biển, trên


2

không khi qua Biển Đông. Quần đảo Trường Sa được coi là lá chắn rất quan
trọng bảo vệ vùng biển, hải đảo và sườn phía Đơng Nam của đất nước.
Do vai trò quan trọng của quần đảo Trường Sa và Biển Đơng đối với kinh

tế và an ninh quốc phịng nên một số nước ln tìm mọi cách gây ảnh hưởng và
tranh chấp quần đảo Trường Sa. Đặc biệt là trong thời gian gần đây, Trung Quốc
ln có những động thái quân sự làm cho tình hình khu vực Biển Đông và quần
đảo Trường Sa ngày càng phức tạp thêm, đe doạ an ninh khu vực và Việt Nam.
Trước tình hình đó, địi hỏi chúng ta phải ln coi trọng xây dựng, củng cố nền
quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân trên biển, xây dựng các lực lượng vũ trang
nhân dân, nòng cốt là Hải quân trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc làm
chỗ dựa vững chắc cho ngư dân và các thành phần kinh tế sản xuất và khai thác tài
nguyên biển. Các lực lượng Hải quân trên quần đảo Trường Sa có nhiệm vụ bảo
vệ quần đảo phải được xây dựng vững mạnh toàn diện, có đủ phẩm chất và năng
lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, cùng với các lực lượng khác
bảo vệ vững chắc quần đảo Trường Sa trong mọi tình huống.
Trước những diễn biến phức tạp trên Biển Đơng, khu vực quần đảo
Trường Sa và tình hình chất lượng nhân tố con người của bộ đội Hải quân
Trường Sa, bên cạnh những mặt tích cực, tiến bộ vẫn còn những hạn chế,
bất cập so với yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ xây dựng Hải quân
nhân dân Việt Nam trong thời kỳ mới cùng với yêu cầu cơ bản, lâu dài,
xuyên suốt của nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quần đảo Trường Sa
cũng như nhiệm vụ trước mắt về quốc phòng, an ninh, đối ngoại mà Nghị
quyết về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 đã xác định. Do đó, việc
luận giải cơ sở khoa học và đề ra giải pháp để phát huy vai trò nhân tố con
người bộ đội Hải quân trong bảo vệ quần đảo Trường Sa hiện nay là vấn đề
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết.
Bằng cách nào để phát huy và sử dụng có hiệu quả vai trò nhân tố con
người của bộ đội Hải quân Trường Sa để họ xứng đáng là lực lượng chủ yếu


3

trong nhiệm vụ bảo vệ quần đảo? Vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng đó

đang đặt ra một cách bức thiết phải được nghiên cứu một cách khoa học để
góp phần luận giải và tìm kiếm những giải pháp phù hợp làm cơ sở để huấn
luyện cán bộ, chiến sĩ Hải quân trên quần đảo Trường Sa đáp ứng với yêu cầu
nhiệm vụ trong tình hình hiện nay.
Từ tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn trên đây mà tác giả đã chọn
đề tài “Phát huy vai trò nhân tố con người bộ đội Hải quân trong bảo vệ
quần đảo Trường Sa hiện nay” làm luận văn cao học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Con người là chủ thể của mọi quá trình lịch sử, là trung tâm nghiên cứu
của mọi thời đại và của rất nhiều lĩnh vực. Con người cũng là trung tâm của
nghiên cứu lý luận và nghiên cứu khoa học. Chừng nào cịn tồn tại lịch sử xã
hội thì người ta vẫn còn bàn đến vấn đề con người. Tuy nhiên, nghiên cứu về
con người là công việc rất phức tạp, khó khăn và nhiều thách thức. Mặc dù
vậy, khoa học tự nhiên và khoa học xã hội đã dành nhiều thời gian và cơng
sức và đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về con người. Đặc biệt, dưới chế độ
xã hội chủ nghĩa, vai trò con người được đề cao vì con người vừa là mục tiêu,
vừa là động lực để xây dựng xã hội mới. Những năm gần đây, vấn đề nghiên
cứu con người đã được các nhà khoa học ngày càng quan tâm.
Nhóm các cơng trình nghiên cứu về con người Việt Nam trong công
cuộc xây dựng đất nước hiện nay như chương trình khoa học cấp nhà nước
KX 07 “Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế
xã hội” do GS.TS Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm [23] đã hồn thành và lần
lượt cơng bố các kết quả nghiên cứu của mình dưới dạng các ấn phẩm như:
“Vấn đề con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; “Gia đình, nhà trường, xã hội với sự
phát hiện tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ người tài”,


4


Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1996 ; “Vấn đề phát huy và sử dụng đúng
đắn vai trò động lực của con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội”, Hà
Nội, 1996; đề tài KX 07 - 13, do Viện Triết học chủ trì, GS.PTS Lê Hữu
Tầng làm chủ nhiệm: “Vấn đề phát huy và sử dụng đúng đắn vai trò động
lực của con người trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội” [43]; A.
Ruđikốpski, “Vị trí của lợi ích trong định hướng hoạt động của con người”,
Tập san Triết học của Trường đại học tổng hợp Lơmơnơxốp, số 4 [35] ; cơng
trình của Tiến sĩ Nguyễn Thị Phi Yến “Tìm hiểu : Vai trị quản lý nhà nước
đối với việc phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế”, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia [50]…
Những cơng trình trên đã đề cập nhiều khía cạnh quan trọng về vai
trị của con người, của nhân tố con người đối với sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước; đối với sự phát triển kinh tế - xã hội cũng như
sự tác động, ảnh hưởng trở lại của hoàn cảnh xã hội nước ta hiện nay với
sự phát triển của con người. Đặc biệt một số cơng trình khoa học đã đi sâu
nghiên cứu, tìm ra giải pháp của vấn đề sử dụng đúng đắn vai trò động lực
của con người trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội và phát huy nhân
tố con người trong phát triển kinh tế của đất nước. Những đề tài này phần
nào đã đề cập đến một số vấn đề lý luận về con người, nhân tố con người
với tư cách là một bộ phận chủ yếu của đối tượng quản lý nhà nước cần
được phát huy một cách toàn diện cả về thể chất, năng lực, trí tuệ cùng
tồn bộ hoạt động sáng tạo khác của nó vì sự phát triển tiến bộ của kinh tế
- xã hội. Việc phát huy nhân tố con người chịu sự tác động mạnh mẽ của
các nhân tố như nhu cầu, lợi ích, dân chủ…Do vậy, họ cho rằng “quản lý
nhà nước nhằm phát huy nhân tố con người để phát triển kinh tế cần được
hướng vào việc tạo lập và vận dụng có hiệu quả các nhân tố đó vào hoạt
động quản lý của mình” [50, tr.72].


5


Nhóm các cơng trình khoa học trong và ngồi qn đội đã đề cập trực
tiếp đến tính tích cực xã hội của con người và tích cực hố nhân tố con người
như cơng trình của tác giả Lê Văn Dương “Nâng cao tính tích cực xã hội của
quần chúng trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ ở nước ta”,Tạp
chí Triết học số 4 [9]; Luận án PTS khoa học Triết học Nguyễn Văn Hạ,
“Nâng cao tính tích cực xã hội của người lao động Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới” [22]; đặc biệt cơng trình khoa học của PGS,TS Nguyễn Văn Tài “Phát
huy tính tích cực xã hội của đội ngũ cán bộ nước ta hiện nay” Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia [40], đã đi sâu phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn
của đường lối, chính sách cán bộ của Đảng ta. Đặc biệt, với phương pháp tiếp
cận có hệ thống, tác giả đã đưa ra những đánh giá sát thực tế về tình hình cán
bộ nước ta hiện nay, qua đó đã đề xuất một số giải pháp cơ bản, có tính khả
thi để góp phần kiện tồn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nước ta hiện
nay. Những công trình khoa học của các tác giả khác cũng đã phân tích khá rõ
nét tính tích cực xã hội của quần chúng nhân dân, của người lao động Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới, của đội ngũ giảng viên trong các nhà trường Quân
đội nhân dân Việt Nam...Các tác giả đã đưa ra những đánh giá sát thực về tình
hình xã hội các đối tượng trên, qua đó đề xuất các giải pháp góp phần nâng
cao tính tích cực xã hội của họ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa.
Trong quân đội, có nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề này như công trình
của Nguyễn Văn Hồ “Tích cực hố nhân tố con người của đội ngũ giảng viên
trong nhà trường quân đội”, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị [26];
cơng trình của tác giả Nguyễn Văn Tài “Tích cực hoá nhân tố con người của
đội ngũ sĩ quan trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”, Luận án
Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị [39]…Với tính cách là những vấn đề có
tính quy luật, luận án chỉ ra vấn đề lợi ích, dân chủ và trí tuệ vừa là những giá trị



6

cơ bản, phổ quát của con người, vừa là những yếu tố, những cơ sở mà thông qua
việc phát huy và sử dụng đúng đắn, sẽ kích thích, thúc đẩy tính tích cực xã hội
của đội ngũ giảng viên, đội ngũ sĩ quan trong quân đội phát triển, tạo nên động
lực sâu sa, bền vững của sự nghiệp xây dựng quân đội trong mọi điều kiện, hoàn
cảnh lịch sử. Các cơng trình trên cịn làm sáng tỏ vai trị nhân tố con người của
đội ngũ giảng viên, sĩ quan trong sự thống nhất hai phương diện. Họ vừa là
nguồn nhân lực đặc biệt, vừa là kiểu nhân cách tiêu biểu của người cán bộ cách
mạng trong sự nghiệp xây dựng qn đội hiện nay.
Nhóm các cơng trình đề cập trực tiếp đến vai trò nhân tố con người và việc
phát huy vai trò nhân tố con người trong quân đội như cơng trình của tác giả Hồng
Quang Đạt “Nâng cao chất lượng nhân tố con người trong sức mạnh chiến đấu của
quân đội ta hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị [19]; Nguyễn
Thúc Lanh “Vai trò ngày càng tăng của nhân tố con người trong nâng cao chất
lượng thông tin liên lạc quân sự hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện
Chính trị [30]; Trần Quốc Thắng “Phát huy vai trò nhân tố con người trong sức
mạnh chiến đấu của các lữ đoàn tàu chiến đấu mặt nước của Hải quân hiện nay”,
Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị [37]; Lê Q Trịnh “Vai trị trí tuệ
trong nâng cao chất lượng con người sĩ quan trẻ quân đội nhân dân Việt Nam hiện
nay”, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị [47]; Vũ Quang Tạo “Mối
quan hệ giữa con người và vũ khí trong sức mạnh chiến đấu của bộ đội Tăng thiết
giáp hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị, [41]... Đây là những
cơng trình khoa học đã phân tích một cách hệ thống việc nâng cao chất lượng nhân
tố con người của cán bộ, chiến sĩ trong quân đội nhân dân Việt Nam, trong đó đã
khẳng định nhân tố con người là trung tâm, là chủ thể quyết định vai trò ngày càng
tăng lên trước sự phát triển mới của sức mạnh chiến đấu. Việc nâng cao chất lượng
nhân tố con người, phát huy vai trò nhân tố con người là vấn đề cơ bản lâu dài,
đặc biệt hiện nay đang trở thành vấn đề cấp thiết. Chất lượng nhân tố con người



7

đó đang đứng trước yêu cầu phát triển của vũ khí - kỹ thuật, trước yêu cầu xây
dựng sức mạnh chiến đấu mới đấu tranh trên mặt trận chính trị - tư tưởng, trước
yêu cầu phát triển của bản thân con người trong quân đội còn những hạn chế,
bất cập so với yêu cầu của nhiệm vụ mới. Từ đó, các cơng trình đã đề ra các
giải pháp như việc bồi dưỡng phẩm chất chiến đấu cho cán bộ, chiến sỹ, đặc
biệt phẩm chất chính trị - đạo đức, kết hợp với xây dựng tổ chức quân đội vững
mạnh, chú trọng xây dựng sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội để nâng cao chất
lượng nhân tố con người…
Liên quan đến nhiệm vụ bảo vệ quần đảo Trường Sa và biển đảo Tổ
quốc hiện nay đã có một số cơng trình: Chiến lược bảo vệ biển gắn với
phát triển kinh tế biển, đề tài cấp Bộ quốc phòng, Đại tướng Phùng Quang
Thanh, Bộ trưởng Bộ quốc phòng (chủ biên) [38]; Nghiên cứu nâng cao
chất lượng công tác đảng, công tác chính trị đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
bảo vệ chủ quyền biển đảo, thềm lục địa Tổ quốc của Quân chủng Hải
quân trong tình hình mới, đề tài cấp Bộ Quốc phịng, Phó Đơ đốc Nguyễn
Văn Tình (chủ biên) [44]; Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư
tưởng - văn hoá trên các đảo, nhà giàn Hải quân hiện nay, đề tài cấp
Tổng Cục chính trị, Đại tá Trịnh Đăng Khoa (chủ biên) [29]; Nghiên cứu
hoạt động tác chiến bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Hải quân nhân dân
Việt Nam, đề tài khoa học cấp Bộ quốc phòng, Phó Đơ đốc, Tư lệnh Hải
qn Nguyễn Văn Hiến (chủ biên) [24]; cơng trình của tác giả Lê Văn
Tân, Xây dựng mơi trường văn hố bộ đội Hải qn trên quần đảo
Trường Sa hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị [42];
cơng trình của tác giả Nguyễn Đức Phương (2007), Đảng cộng sản việt
nam lãnh đạo bảo vệ chủ quyền biển, đảo tổ quốc từ năm 1986 đến năm
2001, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện
Chính trị ; cơng trình của tác giả Trần Đại Nghĩa (2010), Công tác đảng,



8

cơng tác chính trị trong nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quần đảo
Trường Sa của các đơn vị thuộc Quân chủng Hải quân hiện nay , Luận án
Tiến sĩ Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội…
Những cơng trình khoa học trên đã nghiên cứu làm sáng tỏ một số
vấn đề về đặc điểm, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo và công tác
đảng, công tác chính trị trong bảo vệ chủ quyền biển đảo; về xây dựng mơi
trường văn hố trên quần đảo Trường Sa; đặc điểm chi phối cơng tác tư
tưởng - văn hố trên tàu, trên đảo, nhà giàn Hải quân. Các công trình đã
xác định vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ, tiêu chí đánh giá chất lượng
cơng tác đảng, cơng tác chính trị, nâng cao chất lượng cơng tác tư tưởng văn hoá ở các đơn vị Hải quân làm nhiệm vụ bảo vệ quần đảo Trường Sa
và biển đảo của Tổ quốc. Thành cơng của các cơng trình trên là đã đi sâu
đánh giá đúng thực trạng các đơn vị đó; qua đó, rút ra kinh nghiệm và xác
định yêu cầu, giải pháp nâng cao chất lượng công tác đảng, cơng tác chính
trị ở các tàu Hải qn, các nhà giàn, các đảo để nâng cao chất lượng nhân
tố con người bộ đội Hải quân. Đây thực sự là những cơng trình có giá trị
thực tiễn cũng như lý luận mà tác giả đã kế thừa, vận dụng, nghiên cứu để
làm phong phú thêm đề tài của mình.
Mặc dù đã được đề cập ở khá nhiều khía cạnh, nhiều gốc độ khác nhau
về con người, nhân tố con người nhưng chưa có một cơng trình nào nghiên
cứu chun biệt vấn đề “Phát huy vai trò nhân tố con người bộ đội Hải quân
trong bảo vệ quần đảo Trường Sa hiện nay”. Chính vì vậy, tác giả đã kế thừa
những kết quả nghiên cứu khoa học đó để nghiên cứu một cách cơ bản và có
hệ thống vấn đề khoa học nói trên.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn



9

- Mục đích: luận giải một số vấn đề lý luận và thực tiễn làm cơ sở khoa
học đề xuất một số giải pháp cơ bản phát huy vai trò nhân tố con người bộ đội
Hải quân trong bảo vệ quần đảo Trường Sa hiện nay.
- Nhiệm vụ:
1. Luận giải thực chất những vấn đề có tính quy luật phát huy vai trò
nhân tố con người bộ đội Hải quân trong nhiệm vụ bảo vệ quần đảo Trường Sa.
2. Phân tích thực trạng và vạch rõ những yêu cầu trong phát huy vai trò
nhân tố con người bộ đội Hải quân đang làm nhiệm vụ trên quần đảo Trường
Sa hiện nay.
3. Đề xuất giải pháp cơ bản phát huy vai trò nhân tố con người bộ đội
Hải quân trên quần đảo Trường Sa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ chủ quyền biển đảo Tổ quốc hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng : nghiên cứu bản chất, tính quy luật phát huy vai trò nhân tố
con người bộ đội Hải quân trong bảo vệ quần đảo Trường sa hiện nay.
- Phạm vi : nghiên cứu q trình phát huy vai trị nhân tố con người bộ
đội Hải quân đang làm nhiệm vụ trên quần đảo Trường Sa. Các tư liệu, số liệu
phục vụ cho nghiên cứu chủ yếu từ năm 2005 đến nay. Phạm vi điều tra, khảo
sát điểm ở một số đảo của quần đảo Trường Sa, Đoàn M46 (Vùng D) Hải quân.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận văn: là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, nhân tố con người; quan
điểm, đường lối của Đảng về bảo vệ chủ quyền biển, đảo và phát huy vai trò
nhân tố con người trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc.
Luận văn còn dựa vào các văn kiện, nghị quyết của Đảng uỷ Quân chủng
Hải quân, đồng thời tham khảo các cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học
trong và ngồi qn đội có liên quan đến các vấn đề được đề cập. Luận văn còn



10

dựa vào các báo cáo chuyên đề, báo cáo tổng kết năm, văn kiện đại hội Đảng của
Vùng D Hải quân, Đoàn M 46 Hải quân.
- Cơ sở thực tiễn: q trình cơng tác của tác giả trong Qn chủng Hải
quân, ở Trường Sa và điều tra khảo sát thực tế của người làm luận văn về tình
hình đơn vị có liên quan đến nhân tố con người.
- Phương pháp nghiên cứu: luận văn sử dụng các phương pháp của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, khái quát hoá,
trừu tượng hoá, hệ thống cấu trúc, phân tích tổng hợp, kết hợp lơgic và
lịch sử, phương pháp chuyên gia...và các phương pháp điều tra xã hội học
khác để nghiên cứu.
6. ý nghĩa của luận văn
- Kết quả nghiên cứu khoa học góp phần đáp ứng yêu cầu nghiên cứu
cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, đồng thời đáp ứng yêu cầu cấp thiết của thực
tiễn xây dựng Hải quân nhân dân Việt Nam; giải quyết được mối quan hệ giữa
phát triển kinh tế với đảm bảo an ninh quốc phòng trong “Chiến lược biển
Việt Nam” của Đảng ta.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu khoa học,
giảng dạy các nội dung liên quan đến con người, vai trò nhân tố con người và
nhiệm vụ bảo vệ quần đảo Trường Sa và biển đảo của Tổ quốc.
7. Kết cấu của luận văn.
Luận văn gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận và danh mục tài
liệu tham khảo.

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁT HUY VAI TRÒ NHÂN TỐ CON NGƯỜI
BỘ ĐỘI HẢI QUÂN TRONG BẢO VỆ QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA



11

1.1. Thực chất phát huy vai trò nhân tố con người bộ đội Hải
quân trong bảo vệ quần đảo Trường Sa
1.1.1. Vai trò nhân tố con người bộ đội Hải quân trong bảo vệ
quần đảo Trường Sa
Quần đảo Trường Sa là phần lãnh thổ có chủ quyền của Nước Cộng hồ
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nằm phía Đơng - Đông Nam bờ biển Trung Bộ và
Nam Bộ Việt Nam. Quần đảo Trường Sa thuộc huyện đảo Trường Sa, Khánh
Hoà, cách vịnh Cam Ranh khoảng 480 km, cách đảo Hải Nam khoảng 1.150 km,
cách Đài Loan khoảng 1.780 km [4, tr.27].
Địa hình xung quanh các đảo, bãi cạn, bãi ngầm rất hiểm trở, các rìa san
hơ ngầm bao quanh đảo có nơi rộng tới 1km, ra khỏi rìa đảo là vách đá san hô
dựng đứng với nhiều rãnh sâu rộng từ 3 5m, độ sâu lớn từ 200300m đến
hàng nghìn mét. Độ sâu trung bình của quần đảo khoảng 1500m [4, tr.29].
Quần đảo Trường Sa giữ một vị trí hết sức quan trọng cả về chính trị, kinh
tế, quốc phịng, an ninh và đối ngoại, là một trong số 10 tuyến đường biển thông
thương lớn nhất trên thế giới liên quan đến Biển Đông. Nền kinh tế của nhiều
nước trong khu vực Đông Á như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Xin-ga-po... phụ thuộc
sống còn vào các tuyến hàng hải này.
Quần đảo Trường Sa có nhiều tài ngun khống sản đa dạng, đặc biệt
là dầu mỏ và khí đốt. Hải sản có nhiều lồi q hiếm tập trung với mật độ lớn,
có giá trị kinh tế cao. Hiện trạng quần đảo Trường Sa đang bị nhiều nước
chiếm giữ trái phép từng phần như Philippin, Malaixia, Đài Loan, Brunây và
đặc biệt Trung Quốc đang chiếm 07 bãi đá ngầm và là nước có yêu sách lớn
nhất, toàn diện nhất về chủ quyền Biển Đơng. Với tiềm lực vai trị ngày càng
lớn mạnh và chủ trương đẩy mạnh chiến lược biển, trước hết là xuống phía
Nam, các hoạt động của Trung Quốc tạo ra nguy cơ và thách thức lớn nhất với
vấn đề tranh chấp Biển Đông và quần đảo Trường Sa.



12

Gần đây, Bắc Kinh đã có hàng loạt các hoạt động gây lo lắng cho các nước
trong khu vực. Từ thiết lập căn cứ tàu ngầm nguyên tử tại Hải Nam, tuyên bố
thành lập thành phố Tam á bao gồm các quần đảo trong Biển Đông, xây dựng tàu
sân bay, tập trận có bắn đạn thật ở khu vực quần đảo Trường Sa, thông qua Luật
sử dụng các đảo không người ở, Cương yếu Quy hoạch xây dựng và phát triển
đảo du lịch quốc tế Hải Nam 2010 – 2020, y mnh thm dũ du khớ...làm cho
tình hình trên Biển Đông và quần đảo Trờng Sa ngày một
thêm căng thẳng.
Qun đảo Trường Sa nằm trên Biển Đông, mà Biển Đông ngồi vai trị
quan trọng về kinh tế, chính trị; cịn là một hướng chiến lược vô cùng quan trọng
đối với quốc phòng và an ninh đất nước. Trong lịch sử, có 13 cuộc chiến tranh
xâm lược của phong kiến phương Bắc đối với nước ta thì đã có 10 cuộc chiến
tranh được tiến hành từ hướng biển. Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ngày nay,
biển vẫn luôn là hướng chiến lược rất quan trọng. Từ hướng biển, địch có thể
nhanh chống triển khai lực lượng, bất ngờ đánh chiếm các mục tiêu chiến lược
quan trọng trong đất liền. Ngày nay, với việc sử dụng vũ khí cơng nghệ cao thì
hướng biển là nơi rất thuận tiện để địch triển khai hoả lực, phát huy tối đa ưu thế
của vũ khí kỹ thuật.
Từ vai trị quan trọng của Biển Đơng và quần đảo Trường Sa nên tình
hình tranh chấp trên ở khu vực này ngày càng phức tạp. Hội nghị ngoại trưởng
ASEAN lần thứ 43 tại Hà Nội (7/2010) đã đặt vấn đề Biển Đông lên bàn nghị sự
và ra Thông cáo nhấn mạnh tầm quan trọng của DOC (Tuyên bố về cách ứng xử
của các bên trên Biển Đông) và mong muốn cùng với Trung Quốc hướng tới
việc thảo luận một bộ luật ứng xử mang tính ràng buộc giữa các bên (COC). Lần
đầu tiên sau Tuyên bố ASEAN 1992, ASEAN đã thể hiện một quan điểm chung
trước sự đe doạ an ninh trong khu vực. Vấn đề Biển Đông và quần đảo Trường

Sa giờ đây đã vượt ra khỏi khu vực, trở thành mối quan tâm của nhiều nước trên
thế giới trong đó có Mỹ. Các chiến lược gia thế giới nhận định: Biển Đông là


13

khu vực tiềm tàng xung đột, điểm nóng dễ bùng nổ trên thế giới. Tranh chấp trên
Biển Đông là tranh chấp phức tạp nhất với 5 nước 6 bên.
Các đơn vị Hải quân đóng quân trên các đảo có đảo nổi và đảo chìm.
Khoảng cách giữa các đảo trong quần đảo cũng cách xa nhau, do đó việc chi
viện giữa các đảo cũng khó khăn, các đảo phải độc lập tác chiến là chủ yếu.
Nét đặc thù của khối đảo, so với mẫu biên chế của các đơn vị trên đất liền là
quân số biên chế ít hơn, nhưng phương tiện vũ khí trang bị nhiều hơn và do
đó, nhiệm vụ của họ cũng nặng nề hơn.
Bảo vệ chủ quyền quần đảo Trường Sa là nhiệm vụ chính trị của toàn
Đảng, toàn quân và toàn dân ta mà Hải quân nhân dân Việt Nam là lực lượng
nòng cốt, các đơn vị Hải quân làm nhiệm vụ bảo vệ quần đảo Trường Sa là
lực lượng chủ yếu, trực tiếp, trong đó, bộ đội Hải quân Trường Sa là lực
lượng trực tiếp nhất.
Bảo vệ quần đảo Trường Sa là ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ can thiệp
quân sự và xung đột vũ trang, xâm hại đến chủ quyền quần đảo và vùng
trời, vùng biển phụ cận thuộc quyền quản lý của Việt Nam.
Đối tượng liên quan đến nhiệm vụ bảo vệ quần đảo rất đa dạng, phức
tạp, ngoài đối tượng tác chiến thường trực, đó là tàu quân sự của các nước
xâm lược, các lực lượng thù địch, cịn có các loại tàu thuyền dân sự nước
ngoài hoạt động trinh sát, thăm dò, khai thác, đánh bắt hải sản xâm nhập trái
phép vùng biển; các tàu thuyền vượt biên, cướp biển, tàu buôn, bọn phản
động, tội phạm khác nhau, và một số tàu của ta bị bọn nước ngồi móc ngoặc,
mua chuộc… ở khu vực vùng biển Trường Sa.
Sẵn sàng chiến đấu bảo vệ toàn vẹn chủ quyền biển đảo, thềm lục địa của

Tổ quốc, bảo vệ vững chắc quần đảo Trường Sa, chống mọi hành động phá hoại
và vi phạm chủ quyền quốc gia, bảo vệ cơng cuộc lao động hồ bình của nhân
dân trên biển là nhiệm vụ chính trị trọng tâm của bộ đội Hải quân.
Bộ đội Hải quân bảo vệ quần đảo Trường Sa là những chủ thể được nhà
nước và quân đội giao cho nhiệm vụ bảo vệ quần đảo Trường Sa gồm các đơn vị


14

sau: Đoàn Hải quân đánh bộ, các Đoàn tàu mặt nước, Tàu ngầm, Pháo binh-Tên
lửa bờ biển, Công binh hải qn, Đặc cơng hải qn. Ngồi ra, có sự tham gia
phối thuộc của các đơn vị như Thông tin - Rađar thuộc binh chủng Thông tin,
Không quân thuộc quân chủng Phịng khơng - Khơng qn và các lực lượng
nhân dân đang công tác, sinh sống trên quần đảo Trường Sa, ngư dân đang
đánh bắt hải sản xung quanh quần đảo Trường Sa…Trong đó đối tượng trực
tiếp nhất mà luận văn nghiên cứu là bộ đội Hải quân đóng quân trên quần
đảo Trường Sa được tác giả gọi là: Bộ đội Hải quân Trường Sa.
Như vậy, bộ đội Hải quân Trường Sa mà luận văn đề cập ở đây bao gồm
nhiều đơn vị Hải quân đang làm nhiệm vụ trên quần đảo Trường Sa như Đoàn
M46 Vùng D Hải quân, T83 Cơng binh Hải qn, Đặc cơng Hải qn ... trong
đó lực lượng Đoàn M46 Hải quân là chủ yếu.
Để bảo vệ vững chắc chủ quyền quần đảo Trường Sa, trước hết cần nâng
cao chất lượng những con người đang trực tiếp bảo vệ quần đảo - con người bộ
đội Hải quân Trường Sa. Chất lượng con người bộ đội Hải quân Trường Sa
được cấu thành từ những nhân tố như phẩm chất và năng lực của họ, đó là nhân
tố con người.
Nhân tố con người là vấn đề đã được nhiều ngành khoa học tập trung
nghiên cứu, khai thác dưới các gốc độ tiếp cận khác nhau tuỳ vào mục đích nghiên
cứu của từng mơn học. Trước đây, người ta đã nghiên cứu từng khía cạnh của
nhân tố con người như mặt hoạt động, vai trò của đạo đức, tinh thần, ý chí... Nhiều

nhà nghiên cứu cũng đã chỉ rõ, nhân tố con người là sự phát triển sáng tạo quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người với tư cách là người sáng tạo có ý
thức, là chủ thể sáng tạo lịch sử. Trong giới nghiên cứu hiện nay cũng có khá
nhiều quan niệm về nhân tố con người. Nhưng vấn đề quan tâm nhất mà họ đề cập
đến là toàn bộ những dấu hiệu đặc thù nói lên vai trị của con người, trong hệ
thống các mối quan hệ xã hội; con người như một chủ thể hoạt động trong các
lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội [28, tr.28]. Khi xây dựng khái niệm


15

nhân tố con người, nhìn chung, các tác giả đều nhấn mạnh đến mặt hoạt động
thực tiễn của con người. Vì thế, tác giả thấy rằng với quan niệm: Nhân tố con
người là hệ thống các yếu tố, các đặc trưng quy định vai trị chủ thể tích cực,
tự giác, sáng tạo của con người, bao gồm một chỉnh thể thống nhất giữa mặt
hoạt động với tổng hoà các đặc trưng về phẩm chất, năng lực của con người
trong một quá trình biến đổi và phát triển xã hội nhất định [40, tr.21], phù
hợp với hướng nghiên cứu của luận văn.
Với cách khái quát về nhân tố con người trên đây chỉ ra mối quan hệ
biện chứng giữa mặt hoạt động với phẩm chất và năng lực của con người.
Hoạt động của con người bao gồm hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận;
hoạt động vật chất và hoạt động tinh thần. Thông qua những hoạt động này
mà con người được coi là lực lượng quyết định sự vận động, phát triển xã hội.
Phẩm chất của con người bao gồm những phẩm chất về chính trị, đạo đức
được biểu hiện ra đó là ý thức chính trị, ý thức tổ chức kỷ luật, niềm tin, lý
tưởng, phương pháp, tác phong làm việc, ứng xử giữa người với người, giữa
người với tự nhiên và các mối quan hệ của con người...Năng lực của con
người đó là tri thức khoa học, tri thức nghề nghiệp, khả năng tư duy, tổ chức
hoạt động thực tiễn, khả năng thích ứng với mơi trường...Trong mối quan hệ
biện chứng giữa mặt hoạt động với phẩm chất, năng lực của con người thì

phẩm chất năng lực có vai trị, vị trí rất quan trọng, là cơ sở, điều kiện để
thực hiện những hoạt động thực tiễn của con người; còn “Nhân tố hoạt động”
là yếu tố quyết định bởi như quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng
định, con người hiện thực, con người hoạt động là tiền đề xuất phát của mọi
quá trình lịch sử. Phương pháp luận được rút ra ở đây là, trong xem xét, đánh
giá con người không được quá coi trọng, nhấn mạnh vào một yếu tố nào, nhất
là tuyệt đối hoá mặt hoạt động mà coi nhẹ phẩm chất, năng lực. Bởi đây là


16

mối quan hệ biện chứng mà hai mặt vừa làm tiền đề, điều kiện cho nhau, vừa
tạo nên động lực bên trong của sự phát triển nhân tố con người.
Nhân tố con người bộ đội Hải quân Trường Sa mang đầy đủ những
khía cạnh bản chất của nhân tố con người Việt Nam nói chung, người quân
nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng; đồng thời phản ánh sâu
sắc những nét đặc trưng tiêu biểu của lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam
và bộ đội Hải quân Trường Sa. Theo đó, nhân tố con người bộ đội Hải quân
Trường Sa vừa có dấu hiệu chung, vừa có dấu hiệu riêng so với các đối tượng
khác trong quân đội.
Nhân tố con người bộ đội Trường Sa mang những dấu hiệu chung
của nhân tố con người Việt Nam đó là : tinh thần yêu nước, ý thức dân
tộc, ý chí tự lực tự cường; lao động cần cù, sáng tạo, nhạy cảm với cái
mới; biết đối xử linh hoạt, ứng xử mềm mỏng, biết thích nghi và hội nhập
để tồn tại và phát triển; có tinh thần cộng đồng, truyền thống đoàn kết,
nhân ái, bao dung, độ lượng, hiếu thảo, coi trọng tình nghĩa …Bên cạnh
những giá trị tích cực vẫn tồn tại một số mặt hạn chế trong nhân tố con
người Việt Nam như tính cục bộ địa phương, tâm lý bình quân chủ nghĩa;
tự do tuỳ tiện, thiếu ý thức kỷ luật…
Nhân tố con người bộ đội Trường Sa mang những đặc trưng bản chất

của nhân tố con người Bộ đội Cụ Hồ, vì họ đều là quân nhân trong Quân đội
nhân dân Việt Nam, mà Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội từ nhân dân
mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu; được Đảng, Bác Hồ giáo dục và rèn luyện.
Vì thế, bộ đội Hải quân Trường Sa mang những đặc trưng nhân cách người
chiến sĩ cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là lịng trung thành vơ hạn
với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của Tổ quốc và nhân dân; ý thức trách
nhiệm với nhiệm vụ, ý thức tổ chức kỷ luật và dân chủ, tinh thần sẵn sàng hy
sinh, dũng cảm ngoan cường, mưu trí sáng tạo, ln thể hiện văn hoá ứng xử


17

cao trong giải quyết tất cả các mối quan hệ quân sự như trong quan hệ với
đồng chí, đồng đội là quan hệ gần gũi, thân thiết của những con người luôn
dựa cậy vào nhau trong sinh hoạt đời thường như tình ruột thịt. Trong quan hệ
với nhân dân ln kính trọng dân, giúp đỡ dân, bảo vệ dân. Những đặc trưng
nhân cách của Bộ đội Cụ Hồ được Hồ Chí Minh khái quát : “Trung với Đảng,
hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ
nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ
thù nào cũng đánh thắng” [33, tr.303,304].
Nhân tố con người bộ đội Hải quân Trường Sa trước hết phải mang
những đặc trưng của nhân tố con người Hải quân nhân dân Việt Nam. Đó là
những phẩm chất và năng lực được tơi luyện trong mơi trường sóng nước.
Tính đặc thù của mơi trường được quy định bởi tính đặc thù về nhiệm vụ và
đặc điểm môi trường hoạt động của bộ đội Hải quân được biểu hiện trước
hết ở nhân cách người lính thuỷ. Nhân cách đặc trưng của bộ đội Hải qn là
do mơi trường hoạt động và hồn cảnh sống trên biển, đảo quy định. Môi
trường biển đảo, tàu thuyền quy định tâm lý lối sống của người lính Hải
quân. Chính trong gian khổ, hiểm nguy, bản lĩnh của người lính biển được
rèn luyện, thử thách và trưởng thành, tạo nên một nhân cách đặc trưng Hải

quân gắn liền với truyền thống của Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng,
đó là truyền thống: “Chiến đấu anh dũng, mưu trí sáng tạo, làm chủ vùng
biển, quyết chiến quyết thắng”.
Là bộ đội Hải quân Trường Sa, họ mang những đặc trưng nhân cách
chung của nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ - người chiến sĩ Hải quân”. Bộ đội Hải
quân Trường Sa được rèn luyện, huấn luyện trong môi trường biển, đảo. Họ
phải nếm trải sự khắc nghiệt của môi trường công tác, vừa phải chịu sự thiếu
thốn về vật cht v tinh thn...Trong hoàn cảnh đó, những phẩm
chất kiên cờng, chịu đựng khó khăn, gian khổ và vơn lên


18

thích nghi, cải tạo, chiến thắng hoàn cảnh luôn xuất hiÖn.
Những thế hệ bộ đội Hải quân trên quần đảo Trường Sa gần một phần ba thế
kỷ qua đã chứng minh một chân lý rằng: hồn cảnh càng khó khăn, khắc
nghiệt thì bản chất người càng mạnh mẽ, con người càng trở thành chủ thể
đầy uy lực của hoàn cảnh. Đó là q trình hình thành khả năng bền bỉ, dẻo dai
của thể chất và phát triển nhân cách đặc biệt của người chiến sĩ bám trụ kiên
cường trên quần đảo đầy thử thách này giống như Mác khẳng định: “Con
người tạo ra hồn cảnh trong chừng mực nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con
người trong chừng mực ấy” [32, tr.55].
Như vậy, nhân tố con người bộ đội Hải quân Trường Sa xét ở khía
cạnh nhân cách là tổng hồ những đặc trưng trong mơ hình nhân cách con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhân cách người chiến sĩ - “Bộ đội Cụ Hồ”,
nhân cách “người chiến sỹ Hải quân” và nhân cách người chiến sĩ Trường Sa.
Từ cơ sở lý luận và phương pháp tiếp cận nói trên có thể quan niệm:
Nhân tố con người bộ đội Hải quân Trường Sa là hệ thống các thuộc tính, các
đặc trưng quy định vai trị chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo của bộ đội Hải
quân Trường Sa, bao gồm một chỉnh thể thống nhất giữa mặt hoạt động với

tổng hoà những đặc trưng về phẩm chất và năng lực của cán bộ, chiến sĩ đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ quần đảo Trường Sa và biển đảo của Tổ quốc.
Quan niệm nhân tố con người bộ đội Hải quân Trường Sa cho thấy
những đặc điểm nhân tố con người trong bộ đội Hải quân Trường Sa được
thể hiện trong hoạt động, trong phẩm chất, năng lực thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ quần đảo Trường Sa.
Về hoạt động của bộ đội Hải quân Trường Sa thuộc về lao động quân
sự, là lao động trước hết và luôn ln vì lợi ích xã hội, lợi ích Tổ quốc
được diễn ra trong những điều kiện hồn cảnh khó khăn của mơi trường
sống, của địa hình phức tạp trên đảo nổi, đảo chìm, trên biển với những


19

tình huống diễn biến khó lường, phải đối mặt với nhưng âm mưu thủ đoạn
của các thế lực thù địch nhằm độc chiếm Biển Đông và quần đảo Trường
Sa. Trong những hoạt động của bộ đội Hải quân Trường Sa thì hoạt động
về chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quần đảo là đặc trưng nổi bật
nhất trong nhân tố con người của họ. Hoạt động của bộ đội Hải quân
Trường Sa là một dạng lao động đặc thù địi hỏi tính tích cực, tự giác, sáng
tạo rất cao. Tính đặc thù vì mơi trường, địa hình chiến đấu trên đảo tương
đối trống trải, có ít và có đảo khơng có vật che chắn; khoảng cách giữa các
đảo tương đối xa nhau, di chuyển chậm nên điều kiện chi viện của các đảo
với nhau, của các tàu với đảo diễn ra khó khăn. Những đặc trưng hoạt động
của bộ đội Hải quân Trường Sa là cơ sở quyết định việc hình thành, phát
triển những phẩm chất, năng lực, định hình nhân cách người quân nhân
cách mạng, người chiến sĩ Hải quân Trường Sa.
Về phẩm chất của bộ đội Hải quân Trường Sa, là những người được rèn
luyện, thử thách trong thực tiễn, nhất là trong thời gian công tác ở Trường Sa.
Đó là mơi trường tốt nhất cho cán bộ, chiến sĩ rèn dũa những tố chất của

người chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng. Trong đó phẩm chất
chính trị - tinh thần được đặt lên hàng đầu. Vì chính trị - tinh thần khơng những
làm tăng lên sức mạnh của từng nhân tố trong sức mạnh chiến đấu của bộ đội Hải
quân Trường Sa, mà còn gắn kết các nhân tố với nhau, làm tăng lên sức mạnh
tổng hợp của Hải quân nhân dân Việt Nam, sức mạnh này chỉ có thể được củng cố
và tăng cường khi toàn quân chủng là một ý chí, quyết tâm chiến đấu đến cùng,
bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Cùng với phẩm chất chính
trị, phẩm chất đạo đức cũng là một yếu tố cốt lõi trong nhân tố con người
của cán bộ, chiến sĩ bộ đội Hải qn Trường Sa. Chính vì vậy, địi hỏi cán
bộ, chiến sĩ phải có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, có tình đồn
kết gắn bó thương yêu lẫn nhau, thiết tha gắn bó với đảo, với biển. Phải hết
lịng thương u đồng đội, đồn kết giúp đỡ nhau mọi mặt, khắc phục khó


20

khăn gian khổ, sẵn sàng chiến đấu hy sinh để bảo vệ vùng trời, vùng biển,
thềm lục địa Tổ quốc đúng như lời Bác Hồ đã dạy: “Ngày trước ta chỉ có
đêm và rừng, ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta
phải biết giữ gìn lấy nó”.
Về năng lực bộ đội Hải quân Trường Sa được hình thành trong quá
trình đào tạo, huấn luyện và quá trình tự rèn luyện của mỗi cán bộ, chiến sĩ.
Làm nhiệm vụ tại một địa bàn khó khăn, nguy hiểm vì phải ln đối mặt với
mơi trường khí hậu khắc nghiệt và sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ quần đảo
trong bất kỳ tình huống nào. Người chiến sĩ Hải quân Trường Sa phải là
những chiến sĩ Hải qn tinh nhuệ, có trình độ kỹ chiến thuật cao, khả năng
sử dụng thành thạo các loại vũ khí trang bị, có sức khoẻ tốt để vượt qua thử
thách, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Đặc thù hoạt động của bộ đội Hải quân
Trường Sa gắn liền với việc sử dụng các loại vũ khí của quân đội ta hiện có
như súng bộ binh, pháo phịng khơng, pháo mặt đất, tên lửa đất đối hải, xe

tăng và các loại vũ khí đặc chủng đã hình thành cho cán bộ, chiến sĩ năng lực
toàn diện để kết hợp và phát huy khả năng trong huấn luyện, chiến đấu và sẵn
sàng chiến đấu; với tinh thần yêu nước, yêu biển, đảo của Tổ quốc, bộ đội Hải
quân Trường Sa dám đánh, biết đánh và biết thắng kẻ thù. Truyền thống đánh
thắng trận đầu của Hải quân nhân dân Việt Nam đã chứng minh điều đó. Mặt
khác, tinh thần ý chí và tính tự giác năng động sáng tạo ngày càng cao của cán
bộ, chiến sĩ đã khắc phục khó khăn gian khổ, đoàn kết hiệp đồng chặt chẽ,
vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong việc kết hợp các loại vũ khí hiện có để
chiến thắng kẻ thù có vũ khí hiện đại hơn nhiều lần và tương lai có thể chiến
đấu, đánh thắng cuộc chiến tranh vũ khí cơng nghệ cao. Tuy nhiên “Chiến
tranh hiện đại cũng như kỹ thuật hiện đại thì địi hỏi phải có nhân lực có chất
lượng cao” [25, tr.193]. Đó là những con người có phẩm chất và năng lực đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong mọi tình huống. Điều đó cho thấy vai trị vô


21

cùng quan trọng của nhân tố con người, mà cụ thể ở đây là nhân tố con người
bộ đội Hải quân Trường Sa.
Vai trò nhân tố con người bộ đội Hải quân Trường Sa được thể hiện trên
những khía cạnh sau đây:
Một là, vai trò nhân tố con người trong mối quan hệ giữa con người bộ đội
Hải quân Trường Sa với vũ khí, trang bị kỹ thuật.
Thực chất vai trò nhân tố con người bộ đội Hải quân Trường Sa chính là vai
trị tính tích cực xã hội của họ, nói lên bộ đội Hải quân Trường Sa là chủ thể
tích cực, tự giác, sáng tạo, hoạt động trên môi trường biển đảo, tạo nên động
lực phát triển của nhiệm vụ bảo vệ quần đảo Trường Sa. Khi nói đến vai trò
nhân tố con người của bộ đội Hải quân Trường Sa phải được đặt trong mối
quan hệ với các yếu tố khác. Trước hết, đó là mối quan hệ giữa con người bộ
đội Hải quân Trường Sa với các yếu tố cấu thành sức mạnh chiến đấu của bộ

đội Hải quân nói chung và bộ đội Hải quân Trường Sa nói riêng; hay nói cách
khác vai trị nhân tố con người bộ đội Hải quân Trường Sa được xem xét
trong mối quan hệ với vũ khí trang bị kỹ thuật. Bởi vì, trong 6 yếu tố cơ bản
tạo nên sức mạnh của quân đội (số lượng quân nhân với thể lực, trạng thái
chính trị - tinh thần, bản lĩnh chính trị và kỷ luật của họ, tri thức về chiến
lược, sách lược cách mạng, về kinh nghiệm nghệ thuật đấu tranh chính trị - tư
tưởng; khoa học và nghệ thuật quân sự; kỹ thuật, kỹ năng chiến đấu của bộ
đội; biên chế tổ chức quân sự; trình độ, bản lĩnh lãnh đạo, chỉ huy của đội
ngũ cán bộ; vũ khí và trang bị kỹ thuật) đã có 5 yếu tố thuộc về con người và
chỉ có một yếu tố thuộc về vũ khí trang bị kỹ thuật. Vai trò nhân tố con người
của bộ đội Hải quân Trường Sa thể hiện sâu sắc trong 5 yếu tố thuộc về con
người; do đó chất lượng con người, bao gồm cả nhân tố con người của bộ đội
Hải quân Trường Sa có ý nghĩa quyết định.
Bởi vì, các yếu tố vật chất và tinh thần tạo nên sức mạnh chiến đấu đều
hoặc nằm trong ngay chính bản thân con người, hoặc thông qua con người mà


22

phát huy tác dụng trong chiến đấu. Các yếu tố đó trong sự tương tác lẫn nhau
ở con người chi phối hành vi của họ trong chiến đấu tạo nên phẩm chất chiến
đấu của quân nhân. Phẩm chất chiến đấu ấy là tổng hợp các thành tố: phẩm
chất chính trị - đạo đức, nghệ thuật và kỹ năng chiến đấu, phẩm chất tâm lý,
sức bền thể lực và phẩm chất liên kết của bộ đội Hải quân Trường Sa.
Con người (cán bộ, chiến sĩ Hải quân ở trên quần đảo Trường Sa) kết
hợp với vũ khí, trang bị kỹ thuật, trở thành công cụ vật chất đặc biệt trong
chiến đấu. Vũ khí trang bị kỹ thuật được con người sử dụng, cải tiến, khai
thác, đưa vào quá trình thực tiễn mới phát huy được tác dụng của một loại
công cụ kỹ thuật có sức mạnh đặc biệt.
Sự phân tích trên đây về nhân tố con người trong sức mạnh chiến đấu

của quân đội để chứng minh vai trò chủ thể của con người trong đó, đồng thời
cũng đặt ra vấn đề phải chứng minh vai trò quyết định của nhân tố con người
trong quan hệ với các yếu tố khác, nhất là vũ khí, trang bị. Đây là mối quan hệ
biện chứng giữa nhân tố con người và vũ khí, trang bị trong tạo thành sức
mạnh chiến đấu. Con người phải có trình độ hiểu biết nhất định, nhất là hiểu
biết về tính năng, tác dụng của vũ khí, trang bị để không những làm chủ, sử
dụng tinh thông mà cịn cải tạo, sáng chế để phát huy tính năng, tác dụng của
chúng. Điều này đã được chứng minh trong thực tiễn chiến đấu của quân đội
ta trong các cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược. Mặt khác, làm chủ
trang thiết bị vũ khí để con người sáng tạo ra cách đánh phù hợp từng loại vũ
khí, với địa hình biển đảo và với con người sử dụng chúng để phát huy tối đa
hiệu quả của vũ khí, trang bị. Tuy nhiên, dù vũ khí, trang bị là cơ sở vật chất
tạo thành sức mạnh chiến đấu phải thông qua con người, thì chúng ta cũng
khơng thể coi sức mạnh chiến đấu quy lại chỉ còn là chất lượng con người, tức
phẩm chất chiến đấu của nó. Bởi vì, vũ khí trang bị dù chịu sự chi phối của
con người, nhưng nó có tính độc lập tương đối là một tác nhân khách quan đối
với sự phát triển của sức mạnh chiến đấu. Lênin viết: “Một quân đội giỏi nhất,


23

những người trung thành nhất với sự nghiệp cách mạng cũng đều sẽ lập tức bị
kẻ thù tiêu diệt, nếu họ không được vũ trang, tiếp tế lương thực và huấn luyện
đầy đủ” [31, tr.498].
Hai là, vai trò nhân tố con người trong nâng cao chất lượng tổng hợp
của bộ đội Hải quân Trường Sa.
Tác chiến trên biển đảo là một hình thức tác chiến đặc biệt của nhiệm
vụ bảo vệ quần đảo; do đó, địi hỏi bộ đội Hải quân Trường Sa phải luôn được
nâng cao chất lượng tổng hợp để trở thành những chiến sĩ Hải quân tinh nhuệ.
Nhân tố con người với các yếu tố cấu thành như phẩm chất, năng lực và hoạt

động của họ tạo nên chất lượng tổng hợp ấy.
Trong tình hình hiện nay, nhiệm vụ của Hải quân nhân dân Việt Nam đã
có bước phát triển mới căn cứ vào tình hình ngày càng phức tạp tên hướng
biển. Nhiệm vụ của bộ đội Hải quân Trường sa vì thế càng nặng nề hơn. Họ
không những phải chiến đấu bảo vệ chủ quyền quần đảo Trường Sa mà còn
phải thực hiện các nhiệm vụ khác như xua đuổi, ngăn cản tàu nước ngoài xâm
phạm lãnh hải nước ta…Bộ đội Hải quân Trường Sa còn phải đấu tranh với
những hành động phi vũ trang như những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc nói
xấu Đảng, quân đội và lợi dụng tình hình khó khăn trên đảo để mua chuộc, làm
giao động tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ. Trong tình hình đó, con người mà
trước hết là bộ đội Hải quân Trường Sa với phẩm chất chính trị - tinh thần ln
là vũ khí “trực tiếp” trong cuộc đấu tranh tự bảo vệ mình, bảo vệ đảo và bảo vệ
đất nước trước các cuộc tiến công của kẻ thù từ hướng biển.
Chất lượng tổng hợp của bộ đội Hải quân Trường Sa được tạo thành từ
mối quan hệ giữa con người bộ đội Hải quân Trường Sa và các tổ chức trên
đảo (tổ chức lãnh đạo, tổ chức chỉ huy và tổ chức quần chúng). Trong đó,
con người là chủ thể mọi hoạt động, là nhân tố quyết định chất lượng tổng
hợp của tổ chức.


24

Nâng cao chất lượng tổng hợp bộ đội Hải quân Trường Sa ngồi việc
nâng cao phẩm chất chính trị - tinh thần, phẩm chất đạo đức của người quân
nhân cách mạng còn phải nâng cao năng lực chiến đấu. Đối với cán bộ đó là
năng lực lãnh đạo, chỉ huy trong huấn luyện, trong chiến đấu; là nghệ thuật tác
chiến trên chiến trường biển đảo - nghệ thuật quân sự Hải quân; trình độ tổ
chức lực lượng chiến đấu, trình độ hiệp đồng, phối hợp tác chiến, biên chế con
người và trang bị vũ khí kỹ thuật, trình độ kỹ chiến thuật, bản lĩnh lãnh đạo, chỉ
huy chiến đấu của đội ngũ cán bộ… Đối với chiến sĩ Hải quân Trường Sa, trình

độ, năng lực của họ thể hiện ở trình độ sử dụng các trang thiết bị, vũ khí, khí
tài; sự thành thạo trong chiến đấu, khả năng tiêu diệt nhiều sinh lực địch bảo vệ
được đảo, bảo vệ được tính mạng của bản thân và đồng đội.
Tuy nhiên, vai trò nhân tố con người trong nâng cao chất lượng tổng hợp
bộ đội Hải quân Trường Sa không dừng lại ở một mức độ nhất định mà ngày
càng tăng lên bắt nguồn từ động lực bên trong của con người nhằm đáp ứng với
yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc trong tình hình mới. Mặt
khác, chất lượng tổng hợp của bộ đội Hải quân Trường Sa luôn vận động, phát
triển cùng với sự phát triển chất lượng nhân tố con người và chất lượng của điều
kiện, phương tiện, vũ khí trang bị kỹ thuật.
Vai trò ngày càng tăng lên của nhân tố con người trong nâng cao chất
lượng tổng hợp bộ đội Hải quân Trường Sa cịn bắt nguồn từ khả năng hiện
đại hố quân đội, Quân chủng Hải quân. Với mục tiêu “Xây dựng Hải quân
nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và hiện đại” thì việc
trang bị các phương tiện, vũ khí, khí tài hải quân hiện đại hơn so với trước
đây là một yêu cầu khách quan. Khi một loại trang bị vũ khí mới đưa vào sử
dụng, làm thay đổi nghệ thuật qn sự, thì nó buộc con người phải nâng cao
chất lượng để sử dụng, làm chủ, thậm chí thay đổi cả một số chức năng hoạt
động của người lính, tạo nên sức mạnh chiến đấu mới.


×