Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

TIỂU LUẬN NGOẠI GIAO VĂN HOÁ QUẢNG BÁ VĂN HOÁ VIỆT NAM QUA LỄ HỘI VIỆT NAM TẠI NHẬT BẢN – VIETNAM FESTIVAL 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.91 MB, 26 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA QUAN HỆ QUỐC TẾ

LƯU NGUYỄN NGÂN HÀ

QUẢNG BÁ VĂN HOÁ VIỆT NAM QUA LỄ HỘI VIỆT NAM TẠI
NHẬT BẢN – VIETNAM FESTIVAL 2019

TIỂU LUẬN MƠN: NGOẠI GIAO VĂN HỐ

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: Ths. NGÔ THỊ THUÝ HIỀN

Hà Nội, tháng 11 – năm 2019


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU................................................................................................................................3
1.

Lý do lựa chọn đề tài.............................................................................................................3

2.

Mục đích nghiên cứu đề tài...................................................................................................6

3.

Kết cấu tiểu luận:...................................................................................................................6

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGOẠI GIAO VĂN HOÁ VÀ


HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO VĂN HOÁ CỦA VIỆT NAM TẠI NHẬT BẢN:................8
1.1. Cơ sở lý luận về ngoại giao văn hóa...................................................................................8
1.1.1.
1.1.2.
1.1.3.
1.1.4.

Định nghĩa ngoại giao văn hóa........................................................................................................ 8
Chức năng........................................................................................................................................... 9
Mục tiêu............................................................................................................................................. 10
Chủ thể............................................................................................................................................... 10

1.2. Thực tiễn ngoại giao văn hóa của Việt Nam.....................................................................11
1.2.1. Chính sách ngoại giao văn hóa của Việt Nam..............................................................................11
1.2.2.
Thực tiễn triển khai và một số thành tựu...............................................................................11
1.2.3.
Hạn chế...................................................................................................................................... 12

1.3.
Công tác ngoại giao văn hoá của Việt Nam cụ thể qua Lễ hội Việt Nam tại Nhật Bản
– Vietnam Festival 2019................................................................................................................13

1.3.2.
Lễ hội Việt Nam tại Nhật Bản – Vietnam Festi val 2019:....................................................13
1.3.3.
Hoạt động ngoại giao văn hoá của Việt Nam thông qua Lễ hội Việt Nam tại Nhật Bản
– Vietnam Festi val 2019............................................................................................................................ 21

CHƯƠNG 2: GÓP Ý, ĐỀ XUẤT GIÚP NÂNG CAO HIỆU QUẢ NGOẠI GIAO VĂN HOÁ SAU LỄ

HỘI VIỆT NAM TẠI NHẬT BẢN – VIETNAM FESTIVAL 2019...............................................24
2.1. Nhận xét, đánh giá về kết quả, hạn chế của hoạt động ngoại giao văn hoá qua Lễ hội
Việt Nam tại Nhật Bản – Vietnam Festival 2019........................................................................24
2.1.1. Nhận xét:........................................................................................................................................... 24
2.1.2. Hạn chế:............................................................................................................................................ 24

2.2. Những đề xuất nhằm cải thiện hiệu quả ngoại giao văn hoá............................................25

KẾT LUẬN..........................................................................................................................26
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................27

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong thời đại tồn cầu hố và hội nhập quốc tế hiện nay, ngoại giao
văn hoá đóng vai trị hết sức quan trọng trong chính sách đối ngoại
của mỗi quốc gia.


Ngoại giao văn hoá là việc quan hệ với các thành phần phi chính phủ
(cơng chúng) nước ngồi để thực hiện chính sách đối ngoại của đất
nước. Ở Việt Nam, ngoại giao văn hố là một bộ phận của cơng tác
đối ngoại, thực chất là việc vận động công chúng nước ngồi đồng
tình, ủng hộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đứng ngồi cơng chúng bao gồm cả canh đứng ngoài chủ yếu của
Việt Nam hiện nay là ngoại giao nhà nước, đối ngoại đảng và đối
ngoại nhân dân. Đứng ngồi cơng chúng mang lại tính đại chúng,
rộng rãi, khơng bị gị bó và các lễ nghi, quy định chặt chẽ. Do vậy
ngoại giao văn hố vừa có tiếng nói chính thức vừa khơng chính
thức, có thể tiến hành mềm dẻo, linh hoạt và trong nhiều trường hợp
đạt hiệu quả nhanh hơn, tốt hơn so với các hình thức đối ngoại chính

thức.
Đẩy mạnh hoạt động ngoại giao văn hố nhằm giữ vững mơi trường
hịa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế
thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đồng thời góp
phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hịa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Trong quá trình cách
mạng Việt Nam, đặc biệt là từ khi đất nước ta tiến hành công cuộc
đổi mới, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, hoạt động ngoại giao
văn hố giữ một vị trí quan trọng khơng thể thiếu trên mặt trận ngoại
giao Việt Nam, góp phần khơng nhỏ vào việc thực hiện thắng lợi
đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Với chủ trương “mở rộng sự hợp tác và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế”
được đại hội lần thứ VI (1986) của đảng đề ra, việt Nam đã chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế.


Nhiều thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại “độc lập, tự chủ, Hịa
Bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế”, sau hơn 25 năm đổi mới, việt
Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong quan hệ đối
ngoại. Từ chỗ bị cô lập về chính trị, bị bao vây, cấm vận về kinh tế,
đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 179 nước, quan hệ
kinh tế, thương mại và đầu tư với hơn 220 nước và vùng lãnh thổ trên
thế giới. Việt Nam hiện là thành viên của hơn 60 tổ chức quốc tế và
khu vực. Lần đầu tiên trong lịch sử, nước ta có quan hệ với tất cả các
nước, các trung tâm chính trị - kinh tế lớn trên thế giới. Đảng ta có
quan hệ ở các mức độ khác nhau với trên 220 chính đảng ở các nước
trên khắp các châu lục trên thế giới. Các đoàn thể và tổ chức nhân
dân ta có quan hệ với 100.000 tổ chức nhân dân, tổ chức phi chính
phủ của quốc gia và quốc tế. Những thành tựu đó, một mặt, đã góp

phần thẳng định tính đúng đắn của tư duy đối ngoại đổi mới, đường
lối đối ngoại nhất quán của ta, mặt khác thể hiện sự hội nhập thành
công, nhanh chóng, sâu sắc của việt Nam vào đời sống quốc tế.
Đến nay, việc mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế đã trở thành yêu cầu nội xinh, bức thiết của đất nước ta,
của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và cách triển kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việt Nam đã thực sự trở
thành bạn, thành đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc
tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực. Quan
hệ đối ngoại đã có những bước phát triển mới. Hoạt động đối ngoại
của Đảng, Nhà nước và nhân dân phát triển mạnh, góp phần giữ vững
mơi trường hịa bình, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao uy tín của


Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Để đạt được những thành
cơng đó Đảng và Nhà nước đã khơng ngừng đẩy mạnh hoạt động
đứng ngồi cơng chúng.
Ngoại giao văn hoá tạo điều kiện cho thế giới hiểu Việt Nam, hiểu về
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh” của Việt Nam, trên cơ sở đó thực tác nhiều hơn với chúng ta.
Ngoại giao văn hố giúp xây dựng hình ảnh Việt Nam hịa bình, ổn
định, hợp tác và phát triển, đồng thời đang góp phần tích cực vào
cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Ngoại giao văn hoá giúp cho nhân dân
Việt Nam đón nhận những thành tựu khoa học kĩ thuật, kinh nghiệm
tổ chức quản lý, sản xuất cùng tinh hoa văn hóa của các dân tộc trên
thế giới. Do đó để hội nhập quốc tế ngày càng trở nên sâu rộng, cần
phải tích cực đẩy mạnh hoạt động ngoại giao văn hố hơn nữa.
Chính vì vậy, đề tài nghiên cứu ”Hoạt động ngoại giao văn hoá của
Việt Nam qua Lễ hội Việt Nam tại Nhật Bản – Vietnam Festival

2019” góp phần vào việc phân tích hoạt động ngoại giao văn hoá ở
nhiều quốc gia, đặc biệt là những quốc gia có quan hệ song phương
sâu sắc về Việt Nam. Đề tài này cũng sẽ góp phần tìm hiểu, phân tích
kinh nghiệm tổ chức hoạt động ngoại giao văn hoá của Việt Nam,
làm minh chứng chứng minh chúng ta đã chủ động, tích cực hơn
trong q trình hội nhập quốc tế và khu vực.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Làm rõ hoạt động ngoại giao văn hoá của việt Nam thông qua Lễ hội
Việt Nam tại Nhật Bản – Vietnam Festival 2019, sau đó đưa ra một


một số giải pháp và khuyến khích đóng góp cho hoạt động ngoại giao
văn hoá trong kỳ hội nhập quốc tế của Việt Nam.
3. Kết cấu tiểu luận:
Tiểu luận gồm có 3 phần chính: Phần mở đầu, phần nội dung, phần
kết luận.
Trong đó, phần nội dung bao gồm chương và tiết như sau:
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGOẠI
GIAO VĂN HOÁ VÀ HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO VĂN HOÁ CỦA
VIỆT NAM TẠI NHẬT BẢN.
1.1. Cơ sở lý luận và một số điểm cơ bản của ngoại giao văn hoá.
1.2. Thực tiễn ngoại giao văn hóa của Việt Nam
1.3. Cơng tác ngoại giao văn hố của Việt Nam cụ thể qua Lễ hội
Việt Nam tại Nhật Bản – Vietnam Festival 2019
CHƯƠNG 2: GÓP Ý, ĐỀ XUẤT GIÚP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
NGOẠI GIAO VĂN HOÁ SAU LỄ HỘI VIỆT NAM TẠI NHẬT
BẢN – VIETNAM FESTIVAL 2019
2.1. Nhận xét, đánh giá về kết quả, hạn chế của hoạt động ngoại
giao văn hoá qua Lễ hội Việt Nam tại Nhật Bản – Vietnam Festival
2019.

2.2. Những đề xuất nhằm cải thiện hiệu quả ngoại giao văn hoá
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGOẠI
GIAO VĂN HOÁ VÀ HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO VĂN HOÁ CỦA
VIỆT NAM TẠI NHẬT BẢN:
1.1. Cơ sở lý luận về ngoại giao văn hóa
1.1.1. Định nghĩa ngoại giao văn hóa
Có nhiều quan điểm khác nhau về ngoại giao văn hóa của Việt
Nam. Có ý kiến cho rằng, ngoại giao văn hóa là hoạt động ngoại giao vì
văn hóa và bằng văn hóa và là sản phẩm chung của chính sách văn hóa
và chính sách ngoại giao; nhằm nâng cao hình ảnh và vị thế quốc gia,
mở rộng giao lưu văn hóa với thế giới và tạo điều kiện mơi trường thuận
lợi cho hội nhập quốc tế. 1 Theo một quan điểm khác, ngoại giao văn hóa
là một lĩnh vực hay hình thức ngoại giao thơng qua cơng cụ văn hóa để
thiết lập, duy trì và phát triển quan hệ đối ngoại nhằm đạt được các mục
tiêu lợi ích cơ bản của quốc gia là an ninh, phát triển và mở rộng ảnh
hưởng. 2 Một số ý kiến khác lại cho rằng, ngoại giao văn hóa là một hoạt
động của văn hóa đối ngoại triển khai trong một khoảng thời gian nhất
định nhằm đạt được những mục tiêu trính trị, đối ngoại bằng các hình
thức văn hóa; được nhà nước tổ chức, ủng hộ và bảo trợ. 3
Tổng hợp từ các quan điểm trên, có thể định nghĩa ngoại giao văn
hóa là một hoạt động ngoại giao đặc thù, sử dụng cơng cụ văn hóa để
đạt được các mục tiêu của ngoại giao và sử dụng ngoại giao để tôn vinh
vẻ đẹp của văn hóa. Các hoạt động ngoại giao văn hóa được thực hiện
thơng qua việc áp dụng các hình thức văn hóa, nghệ thuật bao gồm:
1 Nguyên Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh, Ngoại giao Văn hóa và Văn hóa Ngoại giao, tham luận tại Hội thảo Quốc
gia “Ngoại giao Văn hóa vì một bản sắc Việt Nam trên trường quốc tế, phục vụ hịa bình, hội nhập và phát triển bền

vững”.
2 Kỷ yếu Hội thảo Ngoại giao Văn hóa Việt Nam và đóng góp của cộng đồng doanh nghiệp, 10/06/2009.
3 Kỷ yếu Hội thảo Ngoại giao Văn hóa Việt Nam và đóng góp của cộng đồng doanh nghiệp, 10/06/2009.


nghệ thuật, lịch sử, tư tưởng, truyền thống văn hóa, thông tin, ẩm thực,
các ấn phẩm văn học… 4
1.1.2. Chức năng
Theo PGS. TS. Phạm Thái Việt và ThS. Lý Thị Hải Yến, trong
cuốn Ngoại giao văn hóa: Cơ sở lý luận, Kinh nghiệm quốc tế và Ứng
dụng, ngoại giao văn hóa có 5 chức năng cơ bản, cụ thể như sau:
Mở đường: văn hóa là chất dễ thẩm thấu, dễ gây thiện cảm nên có
thể phá được rào cản chính trị, quân sự, tạo thuận lợi cho quan hệ chính
trị, kinh tế quốc tế phát triển.
Xúc tác: ngoại giao văn hóa có thể được sử dụng làm chất xúc tác,
gắn kết về tinh thần, thúc đẩy ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế,
thông qua việc gắn nội dung văn hóa với các hoạt động chính trị và kinh
tế đối ngoại của đất nước.
Quảng bá: quảng bá và tôn vinh những nét văn hóa độc đáo về đất
nước, con người Việt Nam, làm cho thế giới hiểu đúng và có thiện cảm
với Việt Nam, qua đó nâng cao vị thế và hình ảnh Việt Nam trên trường
quốc tế.
Vận động: vận động UNESCO công nhận mới các di sản văn hóa
vật thể và phi vật thể của Việt Nam là di sản văn hóa của nhân loại, các
khu dự trữ sinh quyển, công viên địa chất là khu dự trữ sinh quyển và
cơng viên địa chất thế giới…, qua đó giới thiệu các nét văn hóa đặc sắc
của Việt Nam, góp phần phát triển kinh tế và du lịch.

4 Phạm Thái Việt, Lý Thị Hải Yến. Ngoại giao Văn hóa: Cơ sở lý luận, Kinh nghiệm quốc tế và Ứng dụng. Nxb
Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2004, tr.77.



Tiếp thu: hỗ trợ việc tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa, tri
thức, khoa học tiên tiến của nhân loại vào Việt Nam, làm phong phú hơn
kho tàng văn hóa và tri thức của Việt Nam, đảm bảo giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc.
1.1.3. Mục tiêu
Ngoại giao văn hóa có ba mục tiêu chung của ngoại giao, đó là
góp phần đảm bảo an ninh quốc gia, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội
và nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế.
Bên cạnh đó, ngoại giao văn hóa có các mục tiêu cụ thể như sau:
nâng cao sự hiểu hiết về đất nước, con người và nền văn hóa quốc gia;
tạo dựng thương hiệu cho quốc gia; củng cố lòng tin cho việc xây dựng
quan hệ hữu nghị lâu dài với cộng đồng quốc tế; làm giàu đẹp hơn bản
sắc văn hóa dân tộc thơng qua giao lưu văn hóa, tiếp thu văn hóa thế
giới.
1.1.4. Chủ thể
Chủ thể của ngoại giao văn hóa bao gồm nhà nước và nhân dân,
trong đó nhà nước là chủ thể chính, thực hiện chính sách đối ngoại nói
chung và hoạch định, triển khai chính sách ngoại giao văn hóa nói
riêng. Chủ thể thứ hai là nhân dân, vì trong điều kiện ngoại giao kênh 2
phát triển mạnh hiện nay, nhân dân ngày càng trở thành chủ thể chính
của nhiều hoạt động văn hóa, vừa là người tổ chức thực hiện, vừa là
người biểu diễn. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng, chỉ có nhà
nước/chính phủ mới là chủ thể của ngoại giao văn hóa, cịn nhân dân
thuộc lĩnh vực ngoại giao cơng chúng.


1.2. Thực tiễn ngoại giao văn hóa của Việt Nam
1.2.1. Chính sách ngoại giao văn hóa của Việt Nam

Nhận thức chung về vai trò, tầm quan trọng của ngoại giao văn
hóa của lãnh đạo các cấp, các ngành đã được tăng cường đáng kể. Chính
sách ngoại giao văn hóa của Việt Nam được thể hiện thông qua Chiến
lược Ngoại giao văn hóa đến năm 2020 do Thủ tướng Chính phủ ban
hành. Theo đó, để đạt được các mục tiêu của ngoại giao văn hóa, cần
triển khai thực hiện hiệu quả các biện pháp chính sách và các biện pháp
cụ thể.
Các biện pháp chính sách bao gồm: tăng cường lý luận và nhận
thức về ngoại giao văn hóa; tiếp tục xây dựng và hồn hiện cơ chế,
chính sách về ngoại giao văn hóa. Các biện pháp cụ thể bao gồm: đẩy
mạnh các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho cơng tác
ngoại giao văn hóa; bảo đảm nguồn lực cho ngoại giao văn hóa; gắn kết
các hoạt động ngoại giao văn hóa với cơng tác về cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngồi; gắn kết ngoại giao văn hóa với ngoại giao chính trị
và kinh tế; đẩy mạnh quảng bá hình ảnh Việt Nam; đa dạng hóa các loại
hình vận động danh hiệu quốc tế và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
1.2.2.

Thực tiễn triển khai và một số thành tựu

Cơng tác ngoại giao văn hóa được Nhà nước ta triển khai mạnh mẽ
cả ở trong nước và trên thế giới. Ngoại giao văn hóa đã bước đầu gắn
kết với ngoại giao chính trị, nội dung văn hóa được đưa vào đề án hoạt
động đối ngoại trong các chuyến thăm của Lãnh đạo cấp cao, chương
trình làm việc của cơ chế song phương, trên các diễn đàn đa phương
như UNESCO, ASEAN, ASEM... Các chương trình biểu diễn nghệ
thuật, triển lãm nhạc cụ, tranh ảnh giới thiệu về đất nước con người Việt


Nam cũng được tổ chức nhân các chuyến thăm của Lãnh đạo cấp cao,

nhằm tăng cường hiểu biết giữa Việt Nam với bạn bè quốc tế, qua đó
cũng giới thiệu về tiềm năng kinh tế, du lịch của đất nước.
Hoạt động ngoại giao văn hóa cũng góp phần tích cực hỗ trợ các
địa phương tổ chức các lễ hội văn hóa có yếu tố quốc tế, qua đó giúp
địa phương quảng bá các lễ hội, di sản, danh lam thắng cảnh, thúc đẩy
quan hệ kinh tế - thương mại, phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của các địa phương. Các địa phương tích cực phát hiện và xây
dựng lộ trình vận động các tổ chức quốc tế cơng nhận các danh hiệu văn
hóa. Đến nay, Việt Nam đã được UNESCO công nhận 2 di sản thiên
nhiên thế giới, 5 di sản văn hóa thế giới, 8 kiệt tác di sản truyền khẩu và
phi vật thể của nhân loại.
1.2.3.

Hạn chế

Mặc dù ngoại giao văn hóa đã đạt được những thành tựu nhất định
trong những năm qua nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, hiệu quả chưa cao.
Cụ thể là, nội dung và hình thức của các hoạt động chưa tương xứng với
yêu cầu cụ thể của từng loại đối tượng và địa bàn; các sản phẩm văn hóa
cịn ít và chất lượng chưa cao; nguồn nhân lực cho cơng tác ngoại giao
văn hóa cịn hạn chế cả về số lượng và chất lượng; cơ sở vật chất, kỹ
thuật phục vụ cơng tác ngoại giao văn hóa cịn thiếu và lạc hậu; công
tác phối hợp giữa các ngành và cơ quan tham gia vào hoạt động ngoại
giao văn hóa chưa thực sự chặt chẽ. Nhìn chung, các sản phẩm văn hóa
của Việt Nam đem giới thiệu ra các nước chưa thật sự sâu sắc; những
sản phẩm giới thiệu văn hóa Việt Nam ra nước ngồi như sách, báo,
CD... cịn nghèo nàn về nội dung, đơn điệu về hình thức, các phương
tiện truyền tải văn hóa cũng chưa đạt hiệu quả cao.


1.3. Cơng tác ngoại giao văn hố của Việt Nam cụ thể qua Lễ hội

Việt Nam tại Nhật Bản – Vietnam Festival 2019
1.3.2. Lễ hội Việt Nam tại Nhật Bản – Vietnam Festival 2019:

Lễ hội Việt Nam 2019 diễn ra từ 8-9/6/2019, tại công viên Yoyogi,
Tokyo, là điểm hẹn tăng cường sự giao lưu, kết nối giữa cộng đồng
người Việt tại Nhật và những người Nhật Bản yêu thích Việt Nam; nhằm
trao đổi văn hoá Việt Nam – Nhật Bản, mang tính biểu tượng song
phương giữa hai nước. Đây là sự kiện trao đổi, giao lưu văn hoá, nghệ
thuật, ẩm thực,… chính thức duy nhất được tổ chức ở nước ngồi của
Việt Nam.
Lễ hội với quy mơ lớn, gồm 120 gian hàng đa dạng gồm: ẩm thực
truyền thống, âm nhạc và nghệ thuật truyền thống của Việt Nam; trong


đó có khoảng 60 gian hàng thuộc các cơng ty, tổ chức của Việt Nam tại
Nhật Bản. Sự kiện đón khoảng 180.000 khách tham gia.

Đến với Lễ hội Việt Nam 2019, khách tham quan có cơ hội được
thưởng thức các món ăn đặc sắc của Việt Nam, các chương trình văn
hóa, âm nhạc, biểu diễn nghệ thuật đậm đà bản sắc dân tộc. Thông qua
các hoạt động giao lưu ẩm thực, văn hóa, ẩm nhạc, lễ hội mang đến
những hình ảnh sinh động, chân thực về đất nước, con người Việt Nam
ngày nay. Các nghệ sỹ Nhật Bản, các ca sỹ đến từ Việt Nam đang được
khán giả mến mộ như ca sỹ Uyên Linh, Phạm Quỳnh Anh và nhóm nhạc
Microwave... có các tiết mục gửi đến lễ hội.


Lễ hội sẽ được tổ chức từ 10-20 giờ các ngày 8, 9/6/2019. Lễ hội
Việt Nam tại Nhật Bản được tổ chức lần đầu tiên vào năm 2008 trong
khuôn khổ các hoạt động kỷ niệm 35 năm hai nước chính thức thiết lập

quan hệ ngoại giao. Qua năm 2018 kỷ niệm 45 năm, đến nay lễ hội đã
bước sang năm thứ 11, trở hành hoạt động giao lưu thường niên của hai
nước.

Lễ hội nhằm mục đích mang hình ảnh sinh động về đất nước, con
người Việt Nam ra quốc tế, góp phần tăng cường tình đồn kết và hữu
nghị, sự hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân hai nước và hợp tác, phát triển
giữa hai nước trên nhiều lĩnh vực.


Quan khách xếp hàng dài chờ đợi trước các gian hàng ẩm thực

Khách tham quan lễ hội cịn được tìm hiểu về các nét văn hoá truyền
thống đặc sắc của Việt Nam


Lễ hội mỗi năm là dịp để giới thiệu và trải nghiệm một "Việt Nam
hơm nay", sống động như chính tại Việt Nam, với các sản phẩm thủ
công mỹ nghệ và loại hình nghệ thuật biểu diễn tiêu biểu cho văn hóa
truyền thống Việt Nam như "áo dài" hay "múa rối nước", vốn đã được
cơng chúng Nhật Bản đón nhận và đánh giá cao lâu nay. Những tiết mục
biểu diễn của các nghệ sĩ mới đang được yêu chuộng ở cả hai nước,
hàng loạt món ăn ngon và bổ dưỡng của Việt Nam lại phù hợp với khẩu
vị của người Nhật, cùng những trưng bày của ngành du lịch về các di
sản thế giới hay những khu nghỉ mát đỉnh cao tại Việt Nam... đem lại
cho những người tham gia những điều thú vị mới về Việt Nam.

Viet Nam Festival in Tokyo 2019 tiếp tục là nơi giao lưu và giới
thiệu về nền văn hóa đa dạng của Việt Nam, thông qua ẩm thực, thủ



công mỹ nghệ, âm nhạc và du lịch, nhằm mang đến cho du khách nhiều
trải nghiệm phong phú về Việt Nam.
Lễ hội diễn ra vô cùng náo nhiệt. Du khách ngay lập tức bị ấn
tượng bởi quy mô cũng như số lượng người bán hàng, nấu ăn và giải trí.
Ở khắp nơi, mọi người đi lại xung quanh, mặc áo phơng hình quốc kỳ
Việt Nam, và đội nón lá, tên gọi theo Tiếng Việt để chỉ một loại mũ hình
nón nổi tiếng ở đất nước này. Các màn trình diễn đa dạng và khơng chỉ
giới hạn trên sân khấu chính.

Tất nhiên, đồ ăn là điều khơng thể bỏ qua. Có hàng dãy quầy hàng
Việt Nam bán những món ăn thơm ngon, tỏa hương thơm thoang thoảng
trong khơng khí. Bên cạnh món phở có mặt ở vơ số quầy hàng, cũng có
rất nhiều nơi bán bánh mì, tên gọi theo Tiếng Việt để chỉ một loại bánh
mì dài có nhân ở giữa giống sandwich, gồm thịt nướng và được gói
trong giấy báo Việt Nam. Cũng có nhiều món ăn vùng miền khác ít nổi


tiếng hơn. Tơi tình cờ thấy món mì cao lầu, một món ăn chỉ có ở miền
trung Việt Nam; đó là một bát mì thơm phức với thịt lợn, rau xanh và
tương ớt. Bia Việt Nam cũng được bán rất nhiều, đặc biệt là bia Sài Gòn
và thương hiệu bia 333 nổi tiếng.

Theo lịch trình sự kiện, những người biểu diễn sẽ tiếp nối nhau thể
hiện tiết mục. Năm 2013 có rất nhiều ca sỹ và vũ cơng, một ban nhạc
jazz hiện đại biểu diễn một vài loại nhạc cụ truyền thống của Việt Nam,
một ban nhạc rock và một nghệ sỹ uốn dẻo dường như khơng có xương.


Ngồi ra cịn có các cuộc triển lãm văn hóa thú vị tại lễ hội. Có

hai chiếc lều, bên trong trưng bày những bức tranh tuyệt đẹp cho thấy
sự đa dạng của cảnh sắc thiên nhiên Việt Nam và những chiếc lều trưng
bày đồ tạo tác và đồ thủ công liên quan đến lịch sử. Có thể nhìn thấy
một nỗ lực rõ rệt trong việc giáo dục người dân về nền văn hóa phong
phú và đa dạng của Việt Nam.


Những dãy quầy hàng bán rất nhiều sản phẩm, từ quần áo, đồ
trang sức cho đến nhạc cụ. Cũng có những gian hàng sẵn sàng chỉ dẫn
và bán các gói kỳ nghỉ.
1.3.3.

Hoạt động ngoại giao văn hoá của Việt Nam thông qua Lễ

hội Việt Nam tại Nhật Bản – Vietnam Festival 2019.
Lễ hội Việt Nam tại Nhật Bản – Vietnam Festival 2019 là lễ kỷ
niệm trao đổi văn hóa mang tính biểu tượng song phương giữa Việt
Nam và Nhật Bản và là sự kiện trao đổi chính thức duy nhất được tổ
chức ở nước ngồi của chính phủ Việt Nam. Nhiều tiết mục nghệ thuật,
văn hóa ẩm thực, và âm nhạc của Việt Nam sẽ được giới thiệu.
Đây là lần thứ 11 kể từ lễ hội đầu tiên vào năm 2008, với mong muốn


có được sự trao đổi sâu sắc văn hóa giữa 2 nước. Nhật Bản là quốc gia
rất thành công với các hoạt động ngoại giao văn hóa, tạo dựng và phát
huy ảnh hưởng của Nhật Bản ra khắp thế giới thay cho sức mạnh quân
sự, nổi bật là thành tựu đưa nước Nhật ra thế giới với hình ảnh quốc gia
của hoa anh đào, núi Phú Sĩ và truyền thống văn hóa lâu đời. Để làm
được điều đó, Nhật Bản đã rất coi trọng đầu tư vào việc triển khai các
hoạt động ngoại giao văn hóa. Ngoại giao văn hóa Nhật Bản được thực

hiện dự trên ba trụ cột chính là truyền bá, hấp thụ và cộng sinh: mang
văn hóa tự thân truyền bá ra ngồi, hấp thu văn hóa ngoại quốc ưu tú
trong giao lưu và cộng sinh ra cái mới. Vì vậy việc tham gia quá trình
ngoại giao văn hoá tại Nhật Bản đã giúp cho Việt Nam những cơ hội và
thách thức mới trong việc phát triển cơng tác ngoại giao văn hố.
Lễ hội được xem là sự kiện trao đổi được ủy quyền duy nhất, với sự
tham gia đông đảo của công dân cả 2 nước.
Năm nay là năm kỷ niệm của năm quan hệ hợp tác Mekong. Vì vậy, Việt
Nam cũng đồng thời mong muốn thúc đẩy mối quan hệ với các nước
trong khu vực Mekong. Tuy nhiên, sức lan tỏa của một nền văn hóa
khơng chỉ phụ thuộc vào các phương tiện giúp nó khuếch tán; mà quan
trọng hơn cả là còn phụ thuộc vào tỷ trọng văn minh (các giá trị duy lý,
nhân văn, sang tạo và lợi ích) mà nền văn hóa đó chuyển tải vào trong
các sản phẩm của nó khi đưa ra bên ngoài.
Lễ hội hướng đến mục tiêu là một sự kiện giao lưu Việt - Nhật
tồn diện; thơng qua đó giới thiệu về truyền thống, văn hóa, du lịch,
hàng hoá, khoa học kỹ thuật, giao lưu thể thao, mở rộng mạng lưới kinh
doanh qua các buổi tọa đàm và hội thảo.
Với khẩu hiệu “Cùng nắm chặt tay nhau”, chương trình là dự án hợp tác


lớn đối với ngành du lịch hai nước với các chủ đề "hợp tác song
phương", "cùng tồn tại và phát triển", "xây dựng cho tương lai".
Trong đó, cốt lõi của chương trình là hướng đến việc thắt chặt tình hữu
nghị Việt - Nhật qua các hoạt động như “Ẩm thực và Nơng nghiệp”,
“Văn hóa-Nghệ thuật-Giải trí”, “Đào tạo nhân lực, giao lưu thể thao”,
“Làm thủ công mỹ nghệ”, “Du lịch”…v.v…
Đại sứ Vũ Hồng Nam đánh giá Lễ hội Việt Nam tại Nhật Bản
những năm qua đã góp phần tăng cường tình đồn kết và hữu nghị, sự
hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân hai nước và hợp tác, phát triển giữa hai

nước trên nhiều lĩnh vực. Đại sứ Vũ Hồng Nam tin tưởng những người
tham dự lễ hội sẽ có được những trải nghiệm đáng nhớ và hiểu hơn về
Việt Nam, đất nước có cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, nền văn hóa
phong phú, đa dạng và con người Việt Nam cởi mở, thân thiện.
Đại diện về phía Nhật Bản, Hạ nghị sĩ, Tổng Thư ký Ban Tổ chức
Aoyagi Yoichiro cũng nêu bật ý nghĩa của sự kiện đối với việc tăng
cường giao lưu giữa nhân dân hai nước. Ông cho biết Lễ hội Việt Nam
được tổ chức các năm qua đều rất thành cơng và được Chính phủ Việt
Nam đánh giá cao.


CHƯƠNG 2: GÓP Ý, ĐỀ XUẤT GIÚP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
NGOẠI GIAO VĂN HOÁ SAU LỄ HỘI VIỆT NAM TẠI NHẬT
BẢN – VIETNAM FESTIVAL 2019
2.1. Nhận xét, đánh giá về kết quả, hạn chế của hoạt động ngoại giao
văn hoá qua Lễ hội Việt Nam tại Nhật Bản – Vietnam Festival 2019.
2.1.1. Nhận xét:
Lễ hội Việt Nam tại Nhật Bản đã thu hút được kha khá sự chú ý
đến từ bạn bè quốc tế đặc biệt là bạn bè nước bạn Nhật Bản, đồng thời
có sự góp mặt từ đồng bào Việt Nam hiện đang sinh sống và làm việc
tại Nhật Bản.
Lễ hội truyền tải tốt thông điệp của Việt Nam, làm tốt vai trị trao
đổi văn hóa giữa hai nước Việt Nam và Nhật Bản, gây được tiếng vang
lớn đồng thời có sức ảnh hưởng đến quan hệ song phương Việt - Nhật.
2.1.2. Hạn chế:
Sự kiện diễn ra hết sức thành cơng, song vẫn cịn nhiều hạn chế.
Sự kiện có sức lan tỏa lớn tại nước bạn Nhật Bản nhưng chưa có nhiều
sức lan tỏa ra khu vực và thế giới đồng thời cũng chưa để lại nhiều ấn
tượng trong lịng cơng chúng Việt Nam. Đồng thời, mức độ lan tỏa của
sự kiện chưa được sâu sa đến nhiều quốc gia nước bạn trong khu vực, vì

vậy hiệu quả ngoại giao văn hố cịn hạn chế, chưa phát huy được tối đa
những yêu cầu ngoại giao văn hoá mà Đảng và Nhà nước mong muốn.
Xét trường hợp Việt Nam hiện nay, sức mạnh cứng chưa đủ mạnh,
mà sức mạnh mềm cũng đang yếu, khả năng tác động quốc tế chưa
nhiều, sức hấp dẫn về văn hóa cũng chưa đáng kể. Một cách quảng bá


văn hóa được nhiều nước hiện nay làm rất tốt là quảng bá hình ảnh đất
nước qua phim ảnh, âm nhạc, ẩm thực… nhưng Việt Nam lại chưa tận
dụng tốt điều này. Tuy nhiên, văn hóa là một lợi thế của Việt Nam,
chúng ta hồn tồn có thể tăng cường và phát huy sức mạnh mềm của
mình, bắt đầu từ văn hóa.
2.2. Những đề xuất nhằm cải thiện hiệu quả ngoại giao văn hoá
Để cải thiện hiệu quả ngoại giao văn hố, cần mở rộng quy mơ ảnh
hưởng của sự kiện, đồng thời tạo tiếng vang lớn hơn trong khu vực và
trên thế giới, hơn nữa cần thu hút thêm sự chú ý đến từ đồng bào trong
nước.
Có nhiều chương trình đặc sắc hơn, thu hút và tạo tiếng vang trong
khu vực.
Việc xây dựng các chương trình đối ngoại cơng chúng được tính
tốn kỹ lưỡng hơn, hướng đến các khu vực và quốc gia cụ thể, cũng
như đến những nhóm đối tượng cụ thể. Nội dung và hình thức thơng
tin được đối ngoại hóa và đối tượng hóa cao.
Tăng cường mức độ phủ sóng trên các phương tiện truyền thơng
đại chúng. Ở sự kiện này mức độ phủ sóng trên các phương tiện truyền
thông đại chúng chưa cao, gây hạn chế trong việc mở rộng phạm vi ảnh
hưởng của sự kiện.


KẾT LUẬN

Trong xu thế hội nhập với thế giới ngày càng sâu rộng và thời đại
tồn cầu hóa hiện nay, cùng với ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh
tế, ngoại giao văn hóa được xác định là một trong ba trụ cột của ngoại
giao hiện đại. Ngoại giao văn hóa được ví như “quyền lực mềm” vừa có
khả năng lan tỏa bền bỉ, vừa có tác dụng thẩm thấu lâu dài.
Để có thể đạt được các thành cơng trong ngoại giao văn hóa, mỗi
nước cần sử dụng hiệu quả các cơng cụ đó là truyền thơng đại chúng và
văn hóa đại chúng, tuy nhiên đối với mỗi quốc gia, việc làm thế nào để
đáp ứng được mục tiêu một cách hiệu quả lại không hề đơn giản.
Việt Nam cần phân tích các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội một
cách kỹ lưỡng để có thể áp dụng hiệu quả các kinh nghiệm quốc tế về
ngoại giao văn hóa, để xây dựng một hình ảnh Việt Nam đẹp đẽ và vị
thế lớn mạnh trong mắt bạn bè quốc tế.


×