Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Tài liệu Cao huyết áp pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.02 KB, 10 trang )

Cao huyết áp
Giới thiệu về cao huyết áp
Sự tăng huyết áp tâm thu hay huyết áp tâm trương làm tăng nguy cơ bệnh tim, bệnh thận,
làm nặng thêm bệnh lý mạch máu, tổn thương mắt, đột quị (tổn thương não).
Những biến chứng của cao huyết áp thường tác động đến cơ quan đích vì tổn thương
những cơ quan này là kết quả cuối cùng của tình trạng áp lực máu cao kéo dài.
Do đó, chẩn đoán huyết áp cao ở một cá nhân rất quan trọng để cố gắng giữ huyết áp mức
bình thường, và bằng cách đó, ngăn ngừa các biến chứng.
Huyết áp được đo như thế nào?
Áp lực máu được đo bằng dụng cụ nhỏ, gọn gọi là huyết áp kế. Huyết áp kế cơ bản bao
gồm 1 bơm khí, 1 đồng hồ đo áp lực, và 1 túi hơi. Dụng cụ này ghi nhận huyết áp bằng đơn vị
gọi là mmHg (milimet thuỷ ngân)
Túi hơi được bao lấy cánh tay và bơm phồng lên đến 1 áp lực có thể cản trở dòng máu ở
động mạch chính (ÐM cánh tay) đi qua cánh tay. Sau đó, xả áp lực trong túi hơi và trên ÐM
giảm dần. Khi áp lực giảm dần, nhân viên y tế sẽ nghe bằng ống nghe ngay trên ÐM ở khuỷu
tay. Áp lực mà nhân viên y tế nghe mạch lần đầu là huyết áp tâm thu. Khi áp lực túi hơi giảm
hơn nữa,áp lực tại đó mạch ngưng là huyết áp tâm trương.
Huyết áp bình thường
Mặc dù các công ty bảo hiểm, hoàn toàn có lý khi xem huyết áp cao >= 140/90mmHg
nhưng mức độ này không thích hợp với tất cả cá nhân. Thực ra, nhiều chuyên gia về cao huyết
áp thấy rằng áp lực máu là 1 con số thay đổi, từ ngưỡng thấp đến cao. Là biến số hàm ý không có
1 giới hạn chính xác, rõ ràng để phân chia huyết áp bình thường và huyết áp cao.
Ở vài người, trị số huyết áp thấp hơn 140/90 có thể vẫn phù hợp với ngưỡng bình thường.
Ví dụ, trong vài trường hợp như bệnh nhân bệnh thận mãn tính bị mất protein qua nước tiểu (tiểu
đạm ), huyết áp lý tưởng giữ ở trị số 125/75 hay thấp hơn. Mục đích của việc hạ huyết áp ở
những bệnh nhân này là làm chậm tiến triển suy thận. Bệnh nhân tiểu đường cũng vậy, huyết áp
nên giữ ở mức <=140/90.
Ngoài ra, người da đen là những người có nguy cơ biến chứng cao huyết áp, có thể giảm
nguy cơ này bằng cách hạ huyết áp tâm trương <=80mmHg.
Các loại cao huyết áp
Cao huyết áp tâm thu là gì?


Nên nhớ là huyết áp tâm thu là trị số áp huyết cao nhất và đại diện cho áp lực tại động
mạch khi tim co bóp và bơm máu vào tuần hoàn. Huyết áp tâm thu thường >140mmHg xem như
cao, đặc biệt kết hợp huyết áp tâm trương cao (> 90mmHg).
Tuy nhiên, cao huyết áp tâm thu đơn thuần được định nghĩa khi áp lực tâm thu
>160mmHg với áp lực tâm trương vẫn < 90mmHg. Rối loạn này trước hết tác động ở những
người già, và đặc trưng bởi áp lực mạch tăng. Áp lực mạch được định nghĩa là độ chênh lệch
giữa huyết áp tâm thu và tâm trương. Sự tăng áp suất tâm thu mà không tăng áp suất tâm trương,
như trong cao huyết áp tâm thu đơn thuần thì sẽ làm tăng áp lực mạch.
Ngày xưa xem như vô hại nhưng bây giờ tăng áp lực mạch là một vấn đề sức khoẻ tương
lai. Nói cách khác, áp lực mạch cao xem như dấu hiệu báo trước quan trọng chỉ ra tổn thương ở
cơ quan đích một cách tiềm ẩn. Vì vậy, cao huyết áp tâm thu đơn thuần làm tăng nguy cơ 2-4 lần
lớn tim, nhồi máu cơ tim, đột quị (tổn thương não) và chết vì bệnh tim hay đột quị. Những
nghiên cứu lâm sàng ở bệnh nhân bị cao huyết áp tâm thu đơn thuần cho thấy giảm huyết áp tâm
thu ít nhất 20mmHg xuống <160mmHg sẽ giảm được những nguy cơ trên.
Cao huyết áp áo choàng trắng là gì?
Trị số áp huyết cao đơn độc ở phòng khám có thể là giả vì sự tăng này chỉ mang tính tạm
thời. Có lẽ, hiện tượng này do sự lo lắng của bệnh nhân có liên quan đến stress khi thăm khám.
Thật vậy, đề nghị được thực hiện thấy 1 trong 4 người có huyết áp cao nhẹ có thể có huyết áp
bình thường ngoài phòng khám.
Loại cao huyết áp chỉ được ghi nhận tăng tại phòng khám được gọi là cao huyết áp áo
choàng trắng. Dĩ nhiên, tên gọi áo choàng trắng tượng trưng cho thầy thuốc, gây lo lắng cho
người bệnh, và ngẫu nhiên tăng áp huyết. Một chẩn đoán cao huyết áp áo choàng trắng có thể
ngầm hiểu là không quan trọng và nguy hiểm.
Tuy nhiên, cần thận trọng trong lời giải thích ngây ngô của cao huyết áp áo choàng trắng.
Huyết áp tăng do stress hay lo lắng do khám BS không phải luôn luôn là vô hại. Những stress
khác trong cuộc sống người bệnh cũng có thể gây tăng huyết áp mà không được ghi đo.
Vì vậy, monitor đo áp huyết tại nhà hay ở nhà thuốc có thể giúp đánh giá tần suất và độ
ổn định của trị số huyết áp cao. Ngoài ra, những test thích hợp để tìm biến chứng của cao huyết
áp có thể giúp đánh giá ý nghĩa của những trị số huyết áp khác nhau.
Cao huyết áp giới hạn là gì?

C.H.A giới hạn được định nghĩa là tình trạng đôi khi cao huyết áp nhẹ >140/90mmHg,
đôi lúc lại thấp hơn. Ở người lớn tuổi, huyết áp tâm thu cao hơn một chút, khoảng 140 đến
160mmHg, xem như là huyết áp giới hạn, miễn là huyết áp tâm trương < 90mmHg. Như trong
trường hợp cao huyết áp áo choàng trắng, bệnh nhân với huyết áp giới hạn cần lấy huyết áp trong
nhiều điều kiện khác nhau và tổn thương cơ quan đích của họ được đánh giá để biết khi nào tình
trạng cao huyết áp của họ có ý nghĩa.
Hãy nhớ là những người cao huyết áp giới hạn có xu hướng, khi họ già thì huyết áp họ
ngày càng cao và duy trì liên tục. Do đó họ thật sự có nguy cơ cao bệnh tim mạch. Bởi vậy ngay
lúc ban đầu khi cao huyết áp chưa có ý nghĩa thì ở những người cao huyết áp giới hạn can được
tiếp tục theo dõi và tầm soát những biến chứng của cao huyết áp.
Nếu suốt thời gian theo dõi bệnh nhân cao huyết áp giới hạn, huyết áp của họ ở mức ổn
định cao >140/90mmHg, thì chỉ định thuốc hạ áp thường bắt đầu. Tuy nhiên, nếu huyết áp tâm
trương còn ở giới hạn (thường < 90mmHg và ổn định >85) thì điều trị có thể thực hiện ở vài tình
huống (Xem điều trị cao huyết áp).
Nguyên nhân cao huyết áp ?
Hai dạng áp lực máu cao được mô tả: cao huyết áp nguyên phát và thứ phát. Cao huyết áp
nguyên phát phổ biến hơn chiếm 95% dân số bị huyết áp cao. Nguyên nhân cao huyết áp nguyên
phát chưa rõ. Trong cao huyết áp thứ phát, chiếm 5% trường hợp, huyết áp cao do bất thường
đặc hiệu ở một trong những cơ quan, hệ thống cơ thể (Cao huyết áp thứ phát được bàn luận rõ
hơn trong những phần dưới đây).
Cao huyết áp nguyên phát xuất hiện ở khoảng 75 triệu người Mỹ, xin lưu ý nguyên nhân
cơ bản vẫn chưa biết. Tuy nhiên nhiều hiệp hội vẫn chấp nhận người cao huyết áp nguyên phát.
Ví dụ như trong nhóm hay tập hợp những người có mức tiêu thụ muối cao, vượt quá 5.8
gram/ngày.
Thật ra, việc dùng muối có thể là một yếu tố quan trọng liên quan đến cao huyết áp
nguyên phát trong một số tình huống khác nhau. Vì vậy, dùng muối quá mức có lẽ liên quan đến
cao huyết áp, kết hợp với tuổi cao, da màu, béo phì, di truyền và suy thận.
Yếu tố di truyền được cho là đóng vai trò nổi bật trong sự tiến triển cao huyết áp vô căn.
Tuy nhiên, gen qui định cao huyết áp vẫn chưa được nhận dạng (Gen là phần nhỏ của nhiễm sắc
thể sản xuất ra protein qui định đặc điểm cá thể). Những nghiên cứu gần đây về gen tập trung

vào yếu tố di truyền ảnh hưởng đến hệ Renin-Angiotensin-Aldosterone. Hệ này giúp điều hòa áp
lực máu bằng cách điều chỉnh cân bằng muối và độ co giãn mạch máu.
Khoảng 30% trường hợp cao huyết áp nguyên phát được quy cho yếu tố di truyền. Ví dụ,
ở Mỹ, tỉ lệ mới mắc bệnh cao hơn ở người da đen so với người da trắng và Châu Á. Ở những
người có ba hoặc mẹ bi cao huyết áp, nguy cơ cao huyết áp gấp 2 lần so với người bình thường.
Hiếm hơn, vài rối loạn gen bất thường tác động đến hormone của tuyến thượng thân gây ra cao
huyết áp. Cao huyết áp do rối loạn di truyền này, ngày nay xem như cao huyết áp thứ phát.
Như đã lưu ý ở trên, nguyên nhân cơ bản của cao huyết áp nguyên phát chưa rõ. Tuy
nhiên, người ta tìm thấy đa số người cao huyết áp nguyên phát thường có bất thường đặc hiệu tại
động mạch. Nghĩa là họ có kháng lực mạch tăng (độ cứng hay độ đàn hồi kém) ở mạch máu nhỏ
xa tim (động mạch ngoại biên). Những mạch máu ngoại biên này chưa Oxy và chất dinh dưỡng
cung cấp cho tất cả các mô cơ thể. Các tiểu động mạch nối với hệ thống tĩnh mạch, mang máu
trở về tim và phổi, bởi mao mạch ở mô.
Nguyên nhân làm cho mạch máu ngoại biên cứng lên chưa rõ. Nhưng, kháng lực ngoại
biên tăng cao cũng được nhận thấy ở những người cao huyết áp nguyên phát liên quan đến yếu tố
di truyền, béo phì, ít tập thể dục, dùng nhiều muối và người già.
Làm thế nào mà rượu, thuốc lá và café có thể ảnh hưởng đến huyết áp?
Những người uống rượu quá nhiều (trên 2 lần /ngày ) có tần suất cao huyết áp tăng 1.5-2
lần. Mối liên quan giữa rượu và huyết áp cao đặc biệt chú ý khi dùng rượu >5lần/ngày. Ngoài ra,
còn kết hợp hiện tượng tăng liều. Nói cách khác, càng tiêu thụ nhiều rượu, càng liên quan chặt
chẽ với cao huyết áp hơn.
Mặc dù hút thuốc làm tăng nguy cơ biến chứng mạch máu (ví dụ bệnh tim và đột quị) ở
người đã bị huyết áp cao, mà nó còn làm huyết áp cao hơn nữa. Do đó, hút thuốc nhiều lần có thể
tăng huyết áp tạm thời ngay lập tức 5-10mmHg. Tuy nhiên, những người hút thuốc đều đặn lại
có huyết áp thấp hơn người không hút thuốc. Nguyên nhân là do nicotine trong thuốc lá làm
giảm ngon miệng dẫn đến giảm cân và làm huyết áp thấp hơn.
Trong 1 nghiên cứu, dùng chất caffeine 5 cốc/ngày có thể làm tăng nhẹ huyết áp ở người
lớn tuổi đã bị huyết áp cao nhưng lại không tăng ở người có huyết áp bình thường. Hơn nữa, kết
hợp giữa hút thuốc và uống cafe ở người có huyết áp cao có thể làm tăng huyết áp hơn là chỉ
uống café đơn thuần. Vì vậy, hạn chế dùng café và thuốc lá ở người bị cao huyết áp sẽ có lợi

trong việc điều chỉnh huyết áp cao của họ.
Nguyên nhân của cao huyết áp thứ phát?
Như đã lưu ý trước, 5% người huyết áp cao được cho là thứ phát. Nghĩa là huyết áp của
những người này cao thứ phát sau một rối loạn cụ thể tại một cơ quan hay mạch máu, ví dụ thận,
tuyến thượng thận, hay động mạch chủ.
Cao huyết áp do thận
Bệnh lý tại thận có thể gây cao huyết áp thứ phát. Loại cao huyết áp thứ phát này được
gọi là cao huyết áp thận vì nó do tổn thương tại thận gây ra. Một nguyên nhân quan trọng của
cao huyết áp thận là hẹp động mạch thận. Ở người trẻ, thường là phụ nữ, hẹp thường dày mạch
máu nuôi thận (tăng sản sợi). Ở người già, hẹp thường do xơ vữa mạch máu làm tiểu cầu tụ lại
gây tắc mạch.
Làm thế nào mà hẹp động mạch thận gây cao huyết áp ? Ðầu tiên, động mạch thận bị hẹp
làm giảm tuần hoàn máu đến thận. Hiện tượng thiếu máu này kích thích thận sản xuất hormone,
renin và angiotensin. Những hormone này cùng với aldosterone từ tuyến thượng thận gây co thắt
và tăng kháng lực mạch ngoại biên khắp cơ thể, và như đã nói, làm tăng huyết áp.
Cao huyết áp thận thường được nghi ngờ đầu tiên khi huyết áp cao xuât hiện ở người trẻ
hay huyết áp cao mới xuất hiện ở người lớn tuổi hơn. Tầm soát hẹp động mạch thận bao gồm
chụp cản quang, siêu âm và MRI (chụp cộng hưởng từ) động mạch thận. Mục đích của những
test này là xem có giảm lưu lượng máu đến thận không. Nếu test này bất thường hay bác sĩ nghĩ
nhiều đến hẹp động mạch thận thì chụp động mạch thận can thực hiện. Chụp động mạch thận là
xét nghiệm cuối cùng thật sự quan sát được động mạch thận hẹp.
Hẹp động mạch thận có thể điều trị bằng cách tái tạo mạch bằng bóng. Trong thủ thuật
này, người thực hiện, nhờ siêu âm, luồng 1 ống (catheter) nhỏ dài vào động mạch thận. Tại đó,
động mạch thận sẽ được nong rộng ra bằng cách bơm phồng bong bóng ngay chỗ hẹp.Thủ thuật
này cải thiện được lưu lượng máu và hạ huyết áp.Ngoài ra nó còn bảo tồn chức năng thận bị suy
yếu do thiếu máu. Hiếm khi phẫu thuật can thiết để mở rộng chỗ hẹp động mạch thận.
Bất cứ loại suy thận mãn nào cũng có thể gây cao huyết áp với cách tương tự trong hẹp
động mạch thận. Ðiều quan trọng cần nhớ là không phải chỉ bệnh thận gây cao huyết áp mà cao
huyết áp cũng có thể gây bệnh thận. Vì vậy, tất cả bệnh nhân huyết áp cao can được đánh giá
bệnh thận để có thể điều trị đúng đắn.


U tuyến thượng thận
Hai loại u tuyến thượng thận hiếm gặp thường ít gây cao huyết áp (Tuyến thượng thận
nằm ngay trên quả thận). Cả 2 dạng u trên đều sản xuất ra quá nhiều hormone gây huyết áp cao.
Các u này có thể được chẩn đoán bằng xét nghiệm máu, nước tiểu và chẩn đoán hình ảnh tuyến
thượng thận. Ngoài ra, phẫu thuật thường đòi hỏi để cắt bỏ khối u hay tuyến thượng thận, và
thường làm giảm được huyết áp.
Một trong những loại u thượng thận trên được gọi là cường Aldosterone nguyên phát vì
khối u sản xuất ra lượng lớn hormone aldosterone. Ngoài cao huyết áp, bệnh này bị mất Kali qua
nước tiểu, hậu quả là giảm Kali máu. Vì vậy, cường Aldosterone được nghĩ đến đầu tiên ở người
có cao huyết áp kèm Kali máu thấp (Cũng vậy, như đã lưu ý ở trên, vài trường hiếm rối loạn di
truyền ảnh hưởng hormone của thận gây cao huyết áp thứ phát).
Một type khác của u thượng thận gây cao huyết áp thứ phát là pheochromocytoma. Khối
u này sản xuất quá mức Catecholamines. Chẩn đoán pheochromocytoma được nghĩ đến ở những
người có những lúc cao huyết áp đột ngột và hồi quy, tình trạng này liên quan da đỏ ửng, nhịp
tim nhanh, và nhiều mồ hôi cộng với triệu chứng của huyết áp cao.
Hẹp động mạch chủ
Hẹp động mạch chủ là một rối loạn di truyền hiếm gặp và là một trong những nguyên
nhân thường gặp của cao huyết áp trẻ em. Bệnh này có đặc điểm là hẹp 1 đoạn động mạch chủ,
động mạch chính lớn xuất phát từ tim. Ðộng mạch chủ mang máu đến các động mạch nhỏ hơn
nuôi dưỡng các cơ quan bao gồm cả thận.
Ðoạn động mạch chủ hẹp thường bị ở chỗ trên động mạch thận, và làm giảm lượng máu
nuôi đến thận. Tình trạng thiếu máu này sẽ kích hoạt hệ Renin -Angiotensin-Aldosterone làm
tăng huyết áp. Ðiều trị thường là phẫu thuật sửa chữa đoạn hẹp. Ðôi khi thủ thuật tái tạo bằng
bóng (như đã mô tả trong phần hẹp động mạch thận) cũng được dùng để mở rộng chỗ hẹp.
Bệnh nhân cảm thấy như thế nào khi bị huyết áp cao ?
Huyết áp cao đơn giản thường không triệu chứng. Vì vậy cao huyết áp được mệnh danh
là "kẻ giết người thầm lặng ". Nói cách khác, bệnh này có thể diễn tiến thầm lặng, không triệu
chứng cho đến khi xuất hiện biến chứng chết người. Thật vậy, huyết áp cao không phức tạp có
thể tồn tại lặng lẽ nhiều năm thậm chí hàng chục năm. Ðiều này xảy ra khi không có triệu chứng

và chỉ được phát hiện qua tầm soát huyết áp định kỳ.

Tuy nhiên, vài người bi cao huyết áp không phức tạp có những triệu chứng kinh nghiệm
như: nhức đầu, chóng mặt, thở ngắn và nhìn mờ đi, ruồi bay trước mắt. Sự hiện diện các triệu
chứng này có thể chỉ điểm để người ta đi khám bác sĩ nhằm điều trị và dễ dàng trong việc sử
dụng thuốc.
Tuy nhiên, không phải là không thường xuyên, có người đến bác sĩ đầu tiên vì đã có tổn
thương ở cơ quan. Trong nhiều trường hợp, người ta đến khám, được đưa đến bác sĩ hay phòng
cấp cứu với suy tim, đột quỵ, suy thận hay giảm thị lực (do tổn thương phần sau của võng mạc).
Nhận thức cộng đồng cao hay tầm soát huyết áp thường xuyên có thể phát hiện những bệnh nhân
huyết áp cao không được chẩn đoán trước khi có biến chứng.
Khoảng 1% dân số huyết áp cao được chẩn đoán là cao huyết áp nặng ngay lần đầu đến
khám (cao huyết áp ác tính). Những bệnh nhân này, huyết áp tâm trương vượt quá 140mmHg.
Người bệnh thường bị đau đầu nhiều, ói mửa, triệu chứng về thị giác, chóng mặt, đôi khi suy
thận. Cao huyết áp ác tính là 1 cấp cứu y khoa và đòi hỏi điều trị khẩn cấp nhằm ngăn chặn đột
quỵ (tổn thương não).
Như đã lưu ý, cao huyết áp mãn tính có thể dẫn đến lớn tim, suy thận, tổn thương não hay
thần kinh và thay đổi võng mạc. Kiểm tra mắt ở bệnh nhân cao huyết áp nặng có thể phát hiện ra
hẹp hay xuất huyết ở động mạch nhỏ tại võng mạc, phù gai thị. Từ kiểm tra này, bác sĩ có thể
phân độ nặng cao huyết áp dựa trên mức độ tổn thương võng mạc.
Như đã ghi nhận từ trước , những người cao huyết áp tăng độ cứng, hay kháng lực mạch
ngoại biên khắp các mô cơ thể. Kháng lực này tăng làm cho cơ tim làm việc nặng hơn để bơm
máu qua mạch máu đó. Tình trạng tăng hoạt động này làm cho tim quá tải dẫn đến rối loạn,
thường đầu tiên là lớn tim. Tim to có thể đánh giá bằng X-quang, điện tâm đồ hay chính xác nhất
là siêu âm tim. Siêu âm tim đặc biệt có lợi trong việc xác định độ dày tim trái. Tim lớn có lẽ là
dấu hiệu báo trước của suy tim, bệnh mạch vành hay rối loạn nhịp. Ðiều trị đúng đắn cao huyết
áp và biến chứng của nó có thể khắc phục được những bất thường trên.
Xét nghiệm máu và nước tiểu có lẽ hữu dụng trong việc dò tìm bất thường tại thận ở
người cao huyết áp (Nên nhớ là tổn thương ở thận có thể là nguyên nhân và cả hậu quả của cao
huyết áp). Ðịnh lượng Creatinine huyết thanh có thể khảo sát được chức năng thận. Nồng độ

Creatinine cao bất thường cho thấy có tổn thương chức năng thận.
Ngoài ra, sự xuất hiện proteine trong nước tiểu (tiểu đạm) có thể phản ánh tổn thương
thận mãn tính do cao huyết áp, ngay khi chức năng thận (qua creatinine máu ) vẫn bình thường.
Thật vậy, proteine trong nước tiểu báo hiệu nguy cơ suy giảm chức năng thận nếu huyết áp
không được điều chỉnh. Ngay cả lượng nhỏ proteine (microalbuminuria) cũng là dấu hiệu đe doạ
suy thận do huyết áp cao không kiểm soát. Những bệnh nhân da đen có huyết áp cao kiểm soát
kém có nguy cơ tổn thương cơ quan đích và thận cao hơn người da trắng.
Huyết áp cao không kiểm soát có thể dẫn đến tổn thương não hay thần kinh bởi cơn đột
quỵ. Ðột quỵ thường do xuất huyết hay huyết khối ở mạch máu nuôi não. Dấu hiệu và triệu
chứng của bệnh nhân (tìm thấy qua khám lâm sàng ) đánh giá tổn thương thần kinh. Một cơn đột
quỵ có thể gây ra suy yếu, ù tai, liệt tay hay chân hoặc khó phát ngôn hay thị giác. Nhiều cơn đột
quỵ nhỏ có thể gây mất trí nhớ. Phòng ngừa tốt nhất cho biến chứng này hay bất kỳ biến chứng
nào là kiểm soát tốt huyết áp.
Cách sống như thế nào có lợi cho điều trị cao huyết áp?
Thay đổi cách sống, ý nhắc đến thay đổi chế độ ăn và luyện tập. Thay đổi này làm hạ
huyết áp cũng như cải thiện được đáp ứng của bệnh nhân đối với thuốc. Chế độ ăn kiêng bao
gồm hạn chế muối và rượu và giảm cân nếu người bệnh bị béo phì. Hiệp hội tim mạch Mỹ
khuyến cáo rằng tiêu thụ muối <6gram/ngày đối với dân số chung và thấp hơn (<4 gram) đối với
những người cao huyết áp. Thực hiện chế độ ăn ít muối <4 gram tức là ta không nên thêm muối
vào thức ăn hay lúc nấu nướng. Cũng vậy, lượng muối trong thức ăn cần được ước lượng theo
nhãn mác của các thực phẩm mua sẵn.
Béo phì thường gặp ở bệnh nhân cao huyết áp và tính phổ biến của nó tăng dần theo tuổi.
Thật vậy, béo phì là yếu tố quyết định tăng tỉ lệ mới mắc cao huyết áp theo tuổi. Béo phì có thể
góp phần làm tăng huyết áp theo nhiều cách. Một cách là béo phì làm tăng cung lượng tim vì tim
phải bơm lượng máu nhiều hơn để cung cấp cho mô thừa. Cung lượng tim tăng này làm tăng
huyết áp. Cách khác, những người cao huyết áp béo phì có kháng lực ngoại biên cao hơn ở khắp
cơ thể.
Cuối cùng, béo phì có thể kết hợp với việc thận giữ muối. Giảm cân có thể giúp phục hồi
lại những vấn đề liên quan béo phì đồng thời cũng giảm áp. Người ta đánh giá là huyết áp có thể
giảm 0.32mmHg cho mỗi kilogram (2.2pounds) cân nặng giảm đi.

Vài người béo phì, đặc biệt là những người rất mập, có hội chứng ngưng thở lúc ngủ. Hội
chứng này có đặc điểm ngưng tạm thời nhịp thở bình thường trong lúc ngủ. Ngưng thở lúc ngủ
có thể góp phần phát triển huyết áp cao trong phân nhóm những người béo phì này. Ðiều này xảy
ra vì các giai đoạn của ngưng thở lặp lại làm thiếu Oxy. Rồi tình trạng thiếu Oxy này kích thích
thận phóng thích adrenalin và các thành phần liên quan. Cuối cùng, Adrenalin và các thành phần
này làm tăng huyết áp.

Một chương trình luyện tập thể lực đều đặn có thể làm hạ huyết áp trong tương lai xa. Ví
dụ hoạt động như chạy bộ, chạy xe đạp hay bơi lội trong 30-45 phút có thể làm giảm huyết áp
xuống 5-15mmHg. Ngoài ra có một mối liên hệ giữa lập luyện với mức độ huyết áp hạ thấp. Do
đó, bạn càng tập luyện, bạn càng hạ thấp huyết áp. Ðáp ứng có lợi của huyết áp đối với tập luyện
chỉ xảy ra với chương trình aerobic (sôi nổi và duy trì liên tục ). Vì thế bất cứ chương trình tập
luyện nào phải được đề nghị và đồng ý bởi bác sĩ điều trị.
Ðiều trị cao huyết áp bắt đầu như thế nào?
Huyết áp hằng định cao hơn 140/85mmHg được điều trị bằng thay đổi cách sống và
thuốc. Tuy nhiên, nếu huyết áp tâm trương giữ ở ngưỡng (thường <90mmHg nhưng >85mmHg)
thì trong vài trường hợp, điều trị nên bắt đầu. Những trường hợp này là huyết áp tâm trương giới
hạn kết hợp với tổn thương cơ quan đích, cao huyết áp tâm thu, hay những yếu tố nguy cơ bệnh
tim mạch như tuổi>65, da đen, hút thuốc, tăng lipid máu hay tiểu đường.
Bất kỳ nhóm thuốc nào cũng có thể sử dụng khởi đầu, ngoại trừ ức chế alpha. Thuốc ức
chế alpha chỉ được dùng kết hợp với thuốc hạ áp khác trong một chỉ định y khoa cụ thể (Xem
phần tiếp theo để biết rõ các thuốc hạ áp ).
Trong vài tình huống đặc biệt, vài loại thuốc hạ áp thích hợp hơn những loại thuốc đầu
tay. Ví du, thuốc ức chế men chuyển (ACE ) và ức chế thụ thể (ARB) là thuốc được lựa chọn
cho bệnh nhân có suy tim, suy thận mãn (có tiểu đường hay không tiểu đường) hay nhồi máu cơ
tim, những bệnh làm giảm chức năng co bóp của cơ tim. Cũng vậy, ức chế bêta đôi khi thích hợp
điều trị ở bệnh nhân cao huyết áp có kèm nhịp nhanh lúc nghỉ hay nhồi máu cơ tim cấp.
Bệnh nhân cao huyết áp đôi khi tồn tại song song một bệnh thứ 2. Trong trường hợp này,
loại thuốc hạ áp đặc biệt hay các loại thuốc kết hợp có thể được chọn lựa trong điều trị ban đầu.
Mục đích điều trị trong những trường hợp này là điều trị cao huyết áp đồng thời cũng có lợi cho

bệnh thứ 2. Ví dụ, ức chế bêta có thể chữa trị lo lắng mãn tính hay đau đầu Migrain cũng như
cao huyết áp. Cũng vậy, ức chế ACE hay thuốc ARB có thể được dùng để điều trị một vài bệnh
lý tại cơ tim hay bệnh lý tại thận cũng tốt như trị cao huyết áp.
Trong vài tình huống khác, vài loại thuốc hạ áp khác không nên dùng. Ví dụ, thuốc non-
dihydropyridine, một dạng của nhóm ức chế kênh Calcium không nên dùng ở bệnh nhân có suy
tim hay rối loạn nhịp. Với ý định khác nữa, những loại thuốc này có thể hữu dụng trong điều trị
vài rối loạn nhịp khác. Cũng vậy, vài loại thuốc như clonidine và minoxidil rất mạnh, thường
được hạ 2-3 bậc khi điều trị. Nghĩa là chúng chỉ được dùng sau khi tất cả những thuốc đầu tay
khác thất bại. Cuối cùng, xem thêm phần dưới dành cho thai kỳ về thuốc hạ áp thích hợp và
không thích hợp cho phụ nữ có thai.
Khi nào dùng điều trị kết hợp?
Sử dụng phối hợp thuốc hạ áp không phải là không phổ biến. Ðôi khi sử dụng một lượng
nhỏ của một hay nhiều chất kết hợp có thể là giảm tối thiểu tác dụng phụ trong khi lại làm tăng
cường hiệu quả hạ áp. Ví dụ, thuốc lợi tiểu có thể dùng đơn độc nhưng thường sử dụng liều thấp
kết hợp với các thuốc hạ áp khác. Trong trường hợp này, thuốc lợi tiểu có ít tác dụng ngoại ý
nhưng lại tăng cường tác dụng hạ áp của thuốc khác. Thuốc lợi tiểu cũng được dùng kèm với
thuốc hạ áp khác trong trường hợp bệnh nhân cao huyết áp có giữ nước và phù.

Thuốc ức chế ACE hay ức chế thụ thể Angiotensin có lợi khi kết hợp với hầu hết các
thuốc hạ áp khác. Một cách phối hợp khác là ức chế bêta với ức chế alpha ở bệnh nhân cao huyết
áp có kèm phì đại tiền liệt tuyến để điều trị cùng lúc cả 2 bệnh. Tuy nhiên, cần thận trọng khi kết
hợp cả 2 loại thuốc làm giảm nhịp tim. Ví dụ, ức chế bêta với ức chế kênh Calcium non-
dihydropyridine (diltiazem và verapamil) phải hết sức cẩn thận. Bệnh nhân điều trị 2 nhóm thuốc
này cần được theo dõi monitor để tránh nhịp tim giảm quá mức.
Khi nào cần điều trị cấp cứu ?
Ở bệnh viện, thuốc tiêm tĩnh mạch có thể dùng điều trị cấp cứu cao huyết áp . Loại
thường dùng nhất là Sodium Nitroprusside (Nipride) và Labetalol (Normadyne). Như đã đề cập,
điều trị thuốc cấp cứu có thể dùng ở bệnh nhân cao huyết áp ác tính.
Ngoài ra, điều trị cấp cứu cũng cần thiết ở bệnh nhân cao huyết áp có suy tim sung huyết
cấp tính, phình tách động mạch chủ, đột quỵ và nhiễm độc thai nghén.





×