Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

TƯƠNG TÁC TÂM LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG đại HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (631.87 KB, 98 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA TÂM LÝ HỌC

NGUYỄN THỊ TUYẾT NHUNG

TƯƠNG TÁC TÂM LÝ
TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

Hồ Chí Minh, 2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA TÂM LÝ HỌC

NGUYỄN THỊ TUYẾT NHUNG

TƯƠNG TÁC TÂM LÝ
TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. KIỀU THỊ THANH TRÀ



TP. Hồ Chí Minh, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Người nghiên cứu xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc
lập của riêng người nghiên cứu. Các số liệu sử dụng phân tích trong đề tài có nguồn
gốc rõ ràng, đã cơng bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong đề tài do
người nghiên cứu tự tìm hiểu, phân tích khách quan. Các kết quả này chưa từng được
công bố trong bất kỳ đề tài nghiên cứu nào khác.
Tác giả


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Mục lục
Danh mục các kí hiệu, chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU

1

1. Lý do chọn đề tài

1

2. Mục đích nghiên cứu

2


3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu

2

4. Giả thuyết nghiên cứu

2

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

3

6. Giới hạn đề tài

3

7. Phương pháp nghiên cứu

3

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TƯƠNG TÁC TÂM LÝ TRONG HOẠT
ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN

4

1.1 Tổng quan các cơng trình nghiên cứu về tương tác tâm lý trong hoạt động học tập
của sinh viên

4


1.2. Một số khái niệm cơ bản

16

1.3. Một số đặc điểm tâm lý của thanh niên sinh viên

36

1.4. Tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của thanh niên sinh viên

43

Tiểu kết chương 1

48

Chương 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG TƯƠNG TÁC TÂM LÝ
TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ
PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

49

2.1 Thể thức nghiên cứu

49

2.2. Kết quả nghiên cứu sự tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên
trường Đại học Sư phạm TP. HCM

58



Tiểu kết chương 2

78

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

79

Kết luận

79

Kiến nghị

80

TÀI LIỆU THAM KHẢO

82

PHỤ LỤC

85


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT


Chữ viết tắt

Nội dung

1

ĐLC

Độ lệch chuẩn

2

ĐTB

Điểm trung bình

3

TP. HCM

Thành phố Hồ Chí Minh


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
STT

Tên bảng

Số trang


1

Bảng 1.1. Đối chiếu khác biệt giữa Học và Hoạt động học
(tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm)

33

2

Bảng 2.1. Đặc điểm khách thể nghiên cứu

49

3

Bảng 2.2. Phân tích hệ số tin cậy

51

4

Bảng 2.3. Mức độ biểu hiện sự tương tác tâm lý trong hoạt
động học tập của sinh trường đại học Sư phạm TP. HCM

57

5

Bảng 2.4. Mức độ biểu hiện sự tương tác tâm lý trong hoạt

động học tập của sinh trường đại học Sư phạm TP. HCM

58

6

Bảng 2.5. Biểu hiện nổi bật ở sự tương tác tâm lý trong hoạt
động học tập của sinh viên trường đại học Sư phạm TP.
HCM

60

7

Bảng 2.6. Mức độ biểu hiện ở mặt nhu cầu ở sự tương tác
tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường đại học
Sư phạm TP. HCM

62

8

Bảng 2.7. Biểu hiện nổi bật ở mặt nhu cầu trong hoạt động
học tập của sinh viên với sinh viên trường đại học Sư phạm
TP. HCM

63

9


Bảng 2.8. Mức độ biểu hiện ở mặt tương hợp và ảnh hưởng
tâm lý ở sự tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của
sinh viên trường đại học Sư phạm TP. HCM

64

10

Bảng 2.9. Biểu hiện nổi bật ở mặt tương hợp và ảnh hưởng
tâm lý ở sự tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của
sinh viên trường đại học Sư phạm TP. HCM

65

11

Bảng 2.10. Mức độ biểu hiện ở mặt tần số tương tác ở sự
tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên
trường đại học Sư phạm TP. HCM

67


12

Bảng 2.11. Biểu hiện nổi bật ở mặt tần số tương tác ở sự
tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên
trường đại học Sư phạm TP. HCM

68


13

Bảng 2.12. Mức độ biểu hiện ở sự thay đổi nhận thức, thái
độ, hành vi ở sự tương tác tâm lý trong hoạt động học tập
của sinh viên trường đại học Sư phạm TP. HCM

70

14

2.13. Biểu hiện nổi bật ở sự thay đổi nhận thức, thái độ,
hành vi ở sự tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của
sinh viên với sinh viên trường đại học Sư phạm TP. HCM

71

15

Bảng 2.14. Mức độ tương tác tâm lý trên lớp học giữa sinh
viên và sinh viên qua các biểu hiện tương tác

71

16

Bảng 2.15. Tương quan giữa các biểu hiện tương tác tâm lý
trong hoạt động học tập của sinh viên trường đại học Sư
phạm TP. HCM


73

17

Bảng 2.16. So sánh tương tác tâm lý trong hoạt động học
tập của sinh viên theo năm học

75

18

Bảng 2.17. So sánh tương tác tâm lý trong hoạt động học
tập của sinh viên theo giới tính

76

19

Bảng 2.18. So sánh tương tác tâm lý trong hoạt động học
tập của sinh viên theo khối ngành

76


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
K. Marx từng nói: “Con người là tổng hòa các mối quan hệ”. Con người sống
trong xã hội ln có sự tương tác với cá nhân, với nhóm, hình thành các mối quan hệ
xã hội, mối quan hệ liên nhân cách thông qua sự tương tác lẫn nhau. Thật vậy, con
người sống trong xã hội không thể thiếu đi sự tương tác với người khác. Sự tương tác

xã hội là điều kiện không thể thiếu để một nhân cách hình thành và phát triển.
Ở bất cứ nơi đâu, con người đều cần sự tương tác với người khác. Trường học
cũng không ngoại lệ. Sự tương tác trong phạm vi trường học có những tính chất đặc
thù nhất định. Nhờ vào sự tương tác mà hoạt động dạy và hoạt động học mới được
diễn ra và đạt được mục đích.
Hiện nay ở hầu hết các trường đại học, việc học tập theo học chế tín chỉ được
nhân rộng, đây là phương pháp học tập tiên tiến với những ưu điểm nổi trội như tính
mềm dẻo, tính chủ động cao của người học, đáp ứng nhu cầu học tập của người học.
Tuy nhiên cũng phát sinh nhiều vấn đề như quản lý mục tiêu đào tạo, quản lý hoạt
động của giảng viên, hoạt động học tập của sinh viên,... Đối với vấn đề về quản lý
hoạt động học tập của sinh viên, việc phải theo dõi và có những cách thức hỗ trợ sinh
viên giúp cho việc tương tác tốt hơn nhằm đạt hiệu quả đào tạo là một vấn đề cấp
thiết.
Ngày nay, giáo dục đào tạo được chú trọng không phải về số lượng mà về chất
lượng. Trong khi đó, thời gian học tập của sinh viên khơng nhiều. Việc học theo học
chế tín chỉ khiến cho sinh viên tiếp xúc với nhiều cá nhân, nhiều nhóm khác nhau,
một mặt giúp sinh viên có thể giao lưu với nhiều nhóm bạn nhưng chính điều này lại
hạn chế sự tương tác của sinh viên đối với nhau và đối với nhóm bạn cũ. Việc hình
thành nên sự tương tác khi phải thay đổi quá nhiều nhóm bạn có thể gây cản trở nhất
định đến sự hình thành các mối quan hệ bạn bè, đặc biệt là đối với những cá nhân hạn
chế về khả năng thích nghi, giao tiếp,... Cùng với yêu cầu và mục đích của việc học
tập theo học chế tín chỉ khi địi hỏi tính chủ động cao của người học, việc tương tác
tâm lý càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Khi việc tương tác trong hoạt đọng học

1


tập của sinh viên được nghiên cứu để biết rõ thực trạng cũng như có những cách thức
tác động cải thiện nó phù hợp thì mới góp phần nâng cao hiệu quả đào tạo.
Hiện nay, đã có những nghiên cứu liên quan đến vấn đề tương tác của sinh

viên. Tuy nhiên, sự tương tác mới chỉ dừng lại trong hoạt động dạy là chủ yếu, việc
nghiên cứu về vấn đề tương tác giữa sinh viên với sinh viên vẫn là một mảng đề tài
bị bỏ ngỏ, hiện nay có rất ít cơng trình nghiên cứu về vấn đề này. Vì thế, người nghiên
cứu chọn đề tài “Tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại
học Sư phạm TP. HCM” nhằm nghiên cứu sự tương tác tâm lý giữa sinh viên và sinh
viên trong môi trường đại học.
2. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát thực trạng tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên
trường Đại học Sư phạm TP. HCM.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Sư
phạm TP. HCM.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM.
4. Giả thuyết nghiên cứu
- Tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Sư
phạm TP. HCM ở mức trung bình trở lên;
- Tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Sư
phạm TP.HCM biểu hiện ở tần số tương tác là cao nhất;
- Khơng có sự khác biệt ý nghĩa khi so sánh tương tác tâm lý trong hoạt động
học tập của sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM theo các tham số nghiên
cứu.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu

2


5.1. Nghiên cứu lý luận
- Tìm hiểu các cơng trình nghiên cứu trước đây về tương tác tâm lý giữa sinh

viên với sinh viên trong hoạt động học tập
- Làm rõ khái niệm: tương tác, tương tác tâm lý, hoạt động học tập.
5.2. Nghiên cứu thực tiễn
- Khảo sát thực trạng tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên
sư phạm trường Đại học Sư phạm TP. HCM trên các mặt: sự tương hợp tâm lý; sự
tương hợp, ảnh hưởng tâm lý; tần số tương tác và sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành
vi giữa sinh viên với sinh viên.
6. Giới hạn đề tài
6.1. Về đối tượng nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu tương tác tâm lý trong hoạt động học tập giữa sinh viên
với sinh viên, không nghiên cứu tương tác tâm lý giữa sinh viên với các lực lượng
khác trong nhà trường.
Đề tài chỉ nghiên cứu tương tác tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên
xét trên một số khía cạnh: nhu cầu tương tác; sự tương hợp và ảnh hưởng tâm lý; tần
số tương tác và sự thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi.
6.2. Về khách thể nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: 300 sinh viên trường Đại học Sư phạm TP. HCM.
7. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: đọc sách, báo, tạp chí, phân tích, tổng hợp,
khái quát hóa tài liệu.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: phương pháp quan sát; phương pháp điều
tra bằng bảng hỏi; phương pháp toán thống kê.

3


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TƯƠNG TÁC TÂM LÝ TRONG
HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
1.1 Tổng quan các cơng trình nghiên cứu về tương tác tâm lý trong hoạt động
học tập của sinh viên

1.1.1. Trên thế giới
1.1.1.1. Mối quan hệ liên nhân cách - Mối quan hệ xã hội - Tương tác tâm lý
- Mối quan hệ liên nhân cách
Lên quan đến mối quan hệ liên nhân cách, trên thế giới đã có những nghiên
cứu về nó. B.G. Ananhev đưa ra vấn đề thuộc nguyên tắc về tính chất hoạt động các
mối quan hệ của nhân cách với thế giới và ông phân bố kiểu mẫu của nhân cách theo
quá trình phát triển trong quá trình sống. Ông đã hoàn thiện và vượt qua một cách
triệt để từ vấn đề về cấu trúc các yếu tố tâm lý trong nhân cách đến vấn đề về cách tổ
chức nhân cách của các mối quan hệ với thế giới, chú ý tới q trình tiến triển của các
thuộc tính cuối cùng. Tuy nhiên, việc thử thực hiện tiếp cận mang tính hệ thống đến
việc nghiên cứu nhân cách đã mâu thuẫn với phương thức tĩnh tại của các kết cấu
phân tích từng đoạn trong cuộc sống của dạng xã hội tâm lý trong tâm lý học xã hội
(Dẫn theo Cao Thị Nga, 2016).
Robert C. Liden và Sandy J. Wayne (2000) đã có nghiên cứu “Nghiên cứu về
vai trị trung gian của sự trao quyền tâm lý đối với mối quan hệ giữa việc làm, mối
quan hệ liên cá nhân và kết quả làm việc”. Mục đích của cuộc điều tra là xây dựng
và thử nghiệm một mơ hình trao quyền cho phép kết hợp đặc điểm công việc và các
mối quan hệ trao đổi xã hội trong việc giải thích các kết quả cơng việc (Robert &
Sandy, 2000).
Các nhà nghiên cứu đã xác định mối quan hệ giữa các cá nhân với các đồng
nghiệp như là một yếu tố quan trọng trong hành vi làm việc, có ảnh hưởng tích cực
đến kết quả cơng việc. Những kết quả này chỉ ra rằng mặc dù thái độ về bản thân cơng
trình có thể bị chi phối bởi các nhận thức về đặc điểm công việc (khi chúng hoạt động
thông qua trao quyền), nhưng các mối quan hệ giữa các cá nhân có ý nghĩa quan trọng
đối với việc tổ chức và thực hiện cơng việc, trong đó sự hỗ trợ và hướng dẫn mà người
4


ta nhận được từ cấp trên và đồng nghiệp có ý nghĩa quan trọng (Robert & Sandy,
2000).

Kết quả của nghiên cứu cũng cho thấy các đồng nghiệp có những tác động tích
cực đến hiệu suất làm việc của một cá nhân. Trong một môi trường mà ảnh hưởng
của việc ra quyết định đã được chuyển từ các nhà quản lý chính thức sang các thành
viên trong nhóm làm việc, sự hỗ trợ và hướng dẫn từ đồng đội đã hỗ trợ các cá nhân
trong việc đạt được hiệu suất cao hơn. Điều thú vị là sự hỗ trợ và hướng dẫn của cấp
trên trực tiếp không liên quan đến việc thực hiện công việc (Robert & Sandy, 2000).
Như vậy, mối quan hệ liên nhân cách chủ yếu được tiếp cận trên 2 khía cạnh
chính: thứ nhất là nghiên cứu về bản chất các mối quan hệ liên nhân cách; thứ 2 là
gắn mối quan hệ liên nhân cách với các yếu tố khác để mô tả sự ảnh hưởng, tác động
qua lại giữa chúng.
- Mối quan hệ xã hội
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu liên quan đến mạng lưới mối quan hệ xã
hội. Nhà tâm lý học J. L. Moreno được coi là người có cơng đầu tiên phát minh ra
phương pháp phân tích mạng lưới quan hệ xã hội bằng việc đề xuất phương pháp và
kĩ thuật trắc lượng xã hội ngay từ tác phẩm “Ai sẽ là người sống sót” (Who Shall
Survive, 1934). Sau khi phương pháp trắc lượng xã hội ra đời, các nhà nghiên cứu đã
khơng ngừng phát triển các phương pháp phân tích mạng lưới quan hệ xã hội mới. Có
thể kể đến các lý thuyết tiêu biểu trong phân tích mạng lưới quan hệ xã hội như lý
thuyết “sức mạnh của liên kết yếu” của Granovetter, lý thuyết “lỗ hổng cấu trúc” của
Ronald Burt, lý thuyết “tính đồng dạng” của Miller McPherson, Lynn Smith-Lovin
và James M. Cook,... (Dẫn theo Nguyễn Quý Thanh & Cao Thị Bắc Hải, 2015).

5


Một số nghiên cứu khác liên quan đến mối quan hệ xã hội như:
Một số nghiên cứu khác về mối quan hệ xã hội như: nghiên cứu “Quan hệ xã
hội và sức khỏe” của James S. House, Karl R. Landis, Debra Umberso; “Mối quan
hệ và vai trị của nó trong việc sử dụng hệ thống quản lý tri thức”,...
Như vậy, quan hệ xã hội là một vấn đề được quan tâm nghiên cứu trên thế giới.

Mối quan hệ xã hội được tiếp cận bằng cách đề ra các phương pháp nghiên cứu, đồng
thời có những cơng trình nghiên cứu cụ thể về mối quan hệ xã hội, gắn nó với một
nhiệm vụ thực tiễn cần giải quyết.
Tương tác tâm lý
* Nghiên cứu tương tác ở một số lý thuyết
Thuyết hành vi nghiên cứu về tương tác của cá nhân với môi trường dưới dạng
sự tác động qua lại giữa các kích thích của tác nhân bên ngồi với phản ứng của cá
thể theo cơ chế S - R. Các nhà tâm lý học theo trường phái này hầu như không quan
tâm đến tâm lý, ý thức của chủ thể mà chỉ quan tâm đến hành vi tồn tại của con người.
Hành vi được xem là tổ hợp các phản ứng của cơ thể trước các kích thích của mơi
trường bên ngồi. Hành vi được quy gọn vào cặp đơi duy nhất: Kích thích (S) - Phản
ứng (R) để giải thích bản chất, cơ chế của sự phát triển tâm lý của con người và động
vật. Sự phát triển của tâm lý học hành vi đưa đến các nhánh hành vi khác nhau trong
lý thuyết hành vi (Cao Thị Nga, 2016, tr.7).
Đối với thuyết nhận thức, J. Piaget (1896 -1980) và các cộng sự của ông là
những người sáng lập ra thuyết tâm lý học nhận thức theo nguyên lý cân bằng hóa.
Cân bằng tâm lý chính là sự bù trừ do các hoạt động của chủ thể trả lời các kích thích
từ ngồi vào. Khi cơ thể có một nhu cầu nào đó, con người rơi vào trạng thái mất cân
bằng. Khi đó, chủ thể phải nỗ lực để tạo ra sự cân bằng mới. Trong đời sống tâm lý
cũng vậy, muốn làm cho trẻ nhận thức, tư duy, suy nghĩ tích cực thì phải đặt trẻ vào
trạng thái mất cân bằng hay cịn gọi là tình huống có vấn đề để trẻ giải quyết, tạo ra
sự cân bằng về nhận thức. Theo lý thuyết này, tương tác là quá trình điều chỉnh các
chức năng tâm lý của cá nhân theo cơ chế đồng hóa và điều ứng. Đồng hóa là q
trình chủ thể tiếp nhận kích thích từ khách thể vào cấu trúc hoạt động đã có (xử lý các

6


tác động bên ngoài nhằm đạt một mục tiêu nào đó). Điều ứng là q trình chủ thể đem
cấu trúc hoạt động đã được tạo ra trước đó thích ứng theo kích thích của khách thể.

Trong các nghiên cứu của mình, J. Piaget cũng nhấn mạnh đến sự tương tác và chuyển
giao xã hội. Đặc biệt, trong nghiên cứu quá trình phát triển trí tuệ trẻ, học thuyết nhấn
mạnh cơ chế phát triển các cấu trúc nhận thức và trí tuệ của trẻ qua các giai đoạn lứa
tuổi là kết quả của sự tương tác giữa trẻ với thế giới đồ vật và xã hội (Cooley, 1902).
Trong quá trình nghiên cứu tâm lý con người, nhà tâm lý học nhân văn C.
Rogers (1902 – 1987) nhấn mạnh đến quá trình thiết lập, tạo lập mối tương giao. Ông
quan niệm, tương tác giữa các cá nhân sẽ thuận lợi, hiệu quả khi tạo được mối tương
giao. Mối tương giao với ông, nghĩa là khi ta tạo được điều kiện thuận lợi để người
tương tác có thể truyền thơng cho ta những tình cảm, thế giới nội tâm của họ; là khi
ta biết lắng nghe họ nói để hiểu họ, đồng cảm, chia sẻ được với họ,… thì ta càng đạt
tới hiệu quả của q trình tương tác. Lý thuyết của ơng được ứng dụng hiệu quả trong
tâm lý trị liệu cũng như hữu ích với mọi mối tương giao như cha mẹ - con cái; giảng
viên - sinh viên (Rogers, 1995).
Trong quá trình nghiên cứu về sự phát triển tâm lý con người, E. Erikson quan
niệm rằng, con người là sản phẩm của xã hội và cho rằng, con người trong quá trình
phát triển thường xuyên phải đối mặt với các khủng hoảng là do không thiết lập được
sự cân bằng trong quá trình tương tác giữa cá nhân với xã hội. Ơng nổi tiếng với
thuyết khủng hoảng tính đồng nhất; tám khủng hoảng cuộc sống. Trong nghiên cứu
của mình, ơng đã chia sự phát triển đời sống tâm lý con người thành 8 giai đoạn gắn
liền với quá trình tương tác của cá nhân với xã hội (Cao Thị Nga, 2016, tr.9).

7


* Tương tác trong nghiên cứu của các nhà tâm lý học xã hội, xã hội học
Các nhà Tâm lý học xã hội, xã hội học như: G. Mead, Ch. H. Cooley (1863 1929), G. H. Goffmen (1922 - 1982), Herber Blumer (1900 - 1987) lại nghiên cứu
tương tác trong mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân; cá nhân với nhóm xã hội. Điển
hình, Ch. H. Cooley đã quan tâm nghiên cứu sự hình thành hành vi cá nhân trong các
mối tương tác xã hội. Từ các quan sát và thực nghiệm về sự tương tác xã hội giữa các
cá nhân và giữa cá nhân với nhóm, Ch. H. Cooley đã hình thành lý thuyết tương tác

nổi tiếng: “Tơi soi gương” hay là “cái tơi nhìn trong gương”. Theo đó, sự hình thành
“cái tơi”, tức là ý thức bản ngã của mỗi người là kết quả của sự tri giác người khác,
đọc được nhận thức, thái độ của người khác trước các tác động của mình (Cooley,
1902), (Mead, 1934).
Geogre Herbert Mead, nhà tâm lý học hành vi xã hội người Mỹ là một trong
những người sáng lập ra thuyết “tương tác biểu trưng”. Ông đã xây dựng và phát triển
khái niệm “cái tôi”, “nhân cách”, “tương tác”, “biểu tượng” để nghiên cứu đặc điểm
và tính chất đặc thù của mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Theo hướng nghiên cứu
này G. Mead đã phát hiện ra vai trò của sự thấu hiểu hành vi của người khác và thơng
qua sự thấu hiểu đó, cá nhân thay đổi nhận thức, hành vi ứng xử cho phù hợp, từ đó
hình thành và phát triển ý thức bản ngã (cái tôi) thông qua sự tương tác xã hội với
người khác (Cao Thị Nga, 2016, tr.10).
Tương tác ở các nhà tâm lý học Liên Xô:
Lý thuyết này được khởi xướng bởi các nhà tâm lý học Liên xô trước đây mà
đại diện là L. X. Vưgotxki (1896–1934), A. N. Leonchiep (1903–1979), X. L.
Rubinstein (1889 - 1960), B. Ph. Lomov,... Lý thuyết này quan niệm con người là tồn
tại xã hội; khi xem xét hành vi tâm lý phải xét trong hoạt động, hoạt động là chìa khóa
để tìm hiểu, đánh giá, hình thành, phát triển tâm lý; ý thức được sản sinh trong quá
trình con người hoạt động, giao lưu với xã hội (Dẫn theo Lomov, 2001).
L. X. Vưgotxki - nhà tâm lý học vĩ đại với học thuyết lịch sử - văn hoá về các
chức năng tâm lý cấp cao ở người, đã chỉ ra, tương tác xã hội là quy luật tất yếu của
sự hình thành và phát triển các chức năng tâm lý, văn hóa của cá nhân. Trong đó, yếu

8


tố quan trọng là sự thấu hiểu nghĩa khách quan của hành động do người khác tác động
và từ đó hình thành ý chủ quan của mình. Cũng từ nghiên cứu của mình, ơng đã chỉ
ra khái niệm “vùng phát triển gần nhất”, tạo cơ sở khoa học vững chắc cho dạy học
tương tác, dạy học phát triển và dạy học tích cực (Cao Thị Nga, 2016, tr.10).

B. Ph. Lomov cho rằng, tương tác là hình thái đặc trưng của sự tác động qua
lại giữa người này với người khác, trong quá trình tương tác diễn ra sự trình diễn thế
giới nội tâm giữa các chủ thể. Theo ông, cùng với hoạt động có đối tượng, tương tác
giữa chủ thể với chủ thể là phương thức tồn tại và biểu hiện lối sống của mỗi cá nhân
(Dẫn theo Lomov, 2001).
* Tương tác tâm lý trong hoạt động dạy - hoạt động học
Ngay từ thời cổ đại, Heraclitus (540 - 480 TCN) nhà hiền triết Hy Lạp cổ đại
đã đưa ra quan điểm: “Giáo dục, dạy học khơng phải là rót kiến thức vào đầu người
học như người ta rót chất lỏng vào chai, thông qua cái phiễu. Thực chất giáo dục là
thắp lên ngọn đuốc để soi sáng, để người học nhận ra những con đường, tự mình
chọn lấy cho mình một con đường, rồi tự bước đi trên con đường đã chọn, dưới ánh
sáng của ngọn đuốc ấy” (Cao Thị Nga, 2016, tr.11).
Từ những thập niên 70, nhất là những năm 90 trở lại đây, dạy học nhấn mạnh
mối tương tác giữa người học - người học (dạy học hợp tác) được nghiên cứu nhiều
và rất phổ biến. Có thể kể đến các tác giả với các cơng trình nghiên cứu theo hướng
này như E. Aronson, R. E. Slavin, J. Cooper, D. W. Johnson và R. T. Johnson.... E.
Aronson (Mỹ) với mơ hình lớp học Jigsaw đầu tiên (1978) đã có những đóng góp lớn
trong việc hồn thiện các hình thức dạy học hợp tác. Nhiều cơng trình nghiên cứu của
ơng cho thấy, thành tích cá nhân cũng như tập thể luôn cao hơn khi mọi người tương
tác với nhau. Với rất nhiều cơng trình nghiên cứu từ 1981 đến 1989 về dạy học hợp
tác D. W. Johnson, R. T. Johnson và các cộng sự của mình đã nhận thấy rằng dạy học
hợp tác có nhiều khả năng tạo nên thành cơng hơn các hình thức dạy học khác. Theo
D. W. Johnson và R. T. Johnson: học tập hợp tác là toàn bộ những hoạt động học tập
mà người học thực hiện cùng nhau trong các nhóm nhỏ với sự hướng dẫn của giáo
viên nhằm tối ưu hóa việc học của các thành viên trong nhóm. D. W. Johnson, R. T.

9


Johnson, R. E. Slavin cùng với nhiều nhà nghiên cứu khác đã phát triển dạy học hợp

tác thành một trong những phương pháp dạy học hiện đại nhất hiện nay (Cao Thị Nga,
2016, tr.11).
Tóm lại, vấn đề tương tác tâm lý đã được quan tâm từ rất lâu trên thế giới.
Tương tác tâm lý đã được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau, từ Tâm lý học cho đến
Xã hội học, từ hoạt động dạy cho đến hoạt động học. Đã có rất nhiều lý thuyết về
vấn đề tương tác tâm lý được đặt ra, mỗi người lại có những quan điểm khác nhau về
sự tương tác. Trong suốt quá trình nghiên cứu về sự tương tác tâm lý trong hoạt động
dạy - hoạt động học đã chỉ ra rằng, sự tương tác tâm lý ảnh hưởng rất lớn đến thành
tích học tập của học sinh. Vì thế cho nên, việc tìm hiểu thực trạng và đề ra những biện
pháp nâng cao sự tương tác tâm lý, đặc biệt là tương tác người học - người học là vấn
đề cấp thiết nếu muốn nâng cao chất lượng học tập.
1.1.1.2. Hoạt động học tập của sinh viên
Khổng Tử (551- 479 TCN) là bậc hiền tài, ơng đề cao vai trị của học sinh, rất
coi trọng tính tích cực nhận thức của người học. Người thầy ở vị trí khai mở, hướng
dẫn, cịn mọi vấn đề do người học tìm ra.
Socrate (469 - 399), triết gia người Hy Lạp, ông quy tụ được thanh niên và dạy
học bằng phương pháp đàm thoại, nâng cao vai trò của hoạt động học qua trao đổi,
góp ý. “Tơi biết tơi khơng biết gì cả”, ông cho thấy việc học là vô cùng, liên tục và
kéo dài. Sự nhận thức của con người qua việc nhận ra, hiểu biết và ý thức đều cho
thấy rằng còn người còn thiếu hiểu biết (Cao Thị Nga, 2016, tr.11).
Nhà sư phạm vĩ đại J. A. Comenxki (1592-1670), người sáng lập ra hình thức
tổ chức dạy - học lớp bài, đặt nền móng và chính thức tách Giáo dục học ra khỏi Triết
học để trở thành một ngành khoa học riêng biệt, khi bàn về vấn đề học đã đưa ra
những yêu cầu cải tổ nền giáo dục theo hướng phát huy tính tích cực, độc lập, sáng
tạo của người học. Theo ông, dạy học phải làm như thế nào để người học tự tìm tịi,
suy nghĩ để tự nắm bắt lấy bản chất của sự vật và hiện tượng (Dẫn theo Cao Thị Nga,
2016).

10



Hai nhà giáo dục Ấn Độ S. D. Sharma và Shakti R. Ahmed, trong tác phẩm
“Phương pháp dạy học ở trường đại học” đã trình bày hoạt động tự học trên lớp như
một hình thức dạy học có hiệu quả (Dẫn theo Cao Thị Nga, 2016).
Từ thời cổ đại, hoạt động học tập đã là vấn đề được quan tâm. Các nhà nghiên
cứu đã có những quan niệm khác nhau về vấn đề học và dạy học. Đồng thời họ còn
đưa ra các phương pháp khác nhau để nâng cao hiệu quả dạy và học. Nhìn chung đều
xuất phát từ quan điểm phát huy tính tích cực, chủ động từ người học, từ đó đưa ra
các phương pháp phù hợp.
1.1.2. Ở Việt Nam
1.1.2.1. Mối quan hệ liên nhân cách - Mối quan hệ xã hội - Tương tác tâm lý
- Mối quan hệ liên nhân cách
Năm 2002, tác giả Võ Thị Ngọc Châu đã có cơng trình “Nghiên cứu về kiểu
nhân cách, kiểu quan hệ liên nhân cách và ảnh hưởng của nó tới bầu khơng khí tập
thể sinh viên sư phạm”. Cơng trình nghiên cứu kiểu quan hệ liên nhân cách và kiểu
nhân cách ảnh hưởng như thế nào đến bầu khơng khí tâm lí của nhóm, từ đó ảnh
hưởng tới hiệu quả lao động của nhóm. Dựa trên cơ sở kết quả nghiên cứu của đề tài
nhằm xây các kiểu nhân cách và quan hệ liên nhân cách sao cho khi ở trong nhóm,
làm cho nhóm phát triển ở mức độ cao. Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu
như phương pháp quan sát, trò chuyện, phương pháp điều tra và phương pháp trắc
nghiệm. Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt giữa kiểu nhân cách giữa nam
và nữ sinh viên, sự khác biệt giữa sinh viên năm I và năm III, giữa khối ngành tự
nhiên và xã hội, bầu khơng khí tâm lý trong nhóm cũng có sự khác biệt tương tự (Võ
Thị Ngọc Châu, 2002).
Liên quan đến vấn đề liên nhân cách, tác giả Nguyễn Thúy Nga với cơng trình
“Xây dựng quan hệ liên nhân cách trong lớp học như là một con đường nâng cao
hiệu quả công tác giáo viên chủ nhiệm” năm 1993. Tác giả đề cập đến thực trạng
quan hệ liên nhân cách của học sinh trong lớp (lớp 6, 7 tại nội thành Hà Nội), công
tác của người giáo viên chủ nhiệm đối với việc xây dựng mối quan hệ liên nhân cách
và nêu ra những biện pháp cơ bản xây dựng mối quan hệ liên nhân cách tích cực giữa


11


học sinh trong lớp bằng các phương pháp nghiên cứu như trắc đạt xã hội, điều tra
bằng bảng hỏi và phương pháp thực nghiệm. Kết quả nghiên cứu thu được khi thực
hiện các biện pháp cải thiện mối quan hệ liên nhân cách là có sự cải thiện rõ như số
lượng nhóm phong phú hơn, các em thấy hài lịng với bầu khơng khí tâm lý trong lớp,
các em quan tâm và có trách nhiệm với nhau hơn (Nguyễn Thị Thúy Nga, 1993).
Cũng tiếp cận mối quan hệ liên nhân cách như các nghiên cứu trên thế giới,
nghiên cứu về mối quan hệ liên nhân cách tại Việt Nam cũng tiếp cận dưới góc độ
bản chất các mối quan hệ liên nhân cách và gắn mối quan hệ liên nhân cách với các
yếu tố khác để mô tả sự ảnh hưởng, tác động qua lại giữa chúng.
- Mối quan hệ xã hội
Năm 2014, Phạm Huy Cường với đề tài “Mạng lưới quan hệ xã hội với việc
làm của sinh viên tốt nghiệp”. Tác giả khảo sát trên 1073 sinh viên trường đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn nhằm mô tả cụ thể mối quan hệ giữa mạng lưới quan
hệ xã hội đến khía cạnh kinh tế và phi kinh tế trong kết quả tìm kiếm việc làm của
những sinh viên mới tốt nghiệp với tư cách là một nhóm lao động đặc thù trong thị
trường lao động. Kết quả nghiên cứu cho thấy các mối quan hệ xã hội và các nguồn
lực cá nhân có thể huy động từ đó có những mối quan hệ rõ rệt đến kết quả tìm kiếm
việc làm và các đặc điểm cơng việc của các ứng viên tham gia khảo sát. Phân tích sâu
hơn từng kiểu kết nối trong mạng lưới quan hệ xã hội đã được sử dụng cho thấy những
ảnh hưởng rõ rệt trong từng loại mối quan hệ xã hội. Các quan hệ với thầy cô, trường
học và bạn bè đồng nghiệp có ảnh hưởng tích cực giúp sinh viên tốt nghiệp sớm có
được việc làm hơn tìm kiếm thơng qua các mối quan hệ trong gia đình (Phạm Huy
Cường, 2014).
Năm 2012, Nguyễn Quý Thanh và Cao Thị Hải Bắc đã có nghiên cứu về
“Quan hệ xã hội và vốn xã hội: Nghiên cứu so sánh giữa Việt Nam và Hàn Quốc”
nhằm làm rõ mạng quan hệ xã hội của người Việt Nam và Hàn Quốc trên các khía

cạnh quy mơ mạng quan hệ xã hội, đặc tính mạng quan hệ xã hội và vốn xã hội trên
các khía cạnh hoạt động làm ăn kinh doanh, về lĩnh vực tìm kiếm việc làm và về lĩnh
vực chia sẻ tâm sự (Nguyễn Quý Thanh & Cao Thị Bắc Hải, 2012).

12


Năm 2015, Nguyễn Quý Thanh, Cao Thị Bắc Hải đã có cơng trình nghiên cứu
“Ngun lý đồng dạng: Nghiên cứu khám phá cơ chế định hình mạng lưới xã hội ở
Việt Nam”. Dựa trên cơ sở dữ liệu khảo sát 1430 đại diện hộ gia đình tại 5 tỉnh/thành
thuộc 3 miền Bắc, Trung và Nam Bộ. Nghiên cứu đã đưa ra một số khám phá định
lượng ban đầu về nguyên lý đồng dạng như một cơ chế hình thành mạng lưới quan
hệ xã hội của người Việt Nam. Theo đó, nguyên lý đồng dạng tương đối phổ biến với
nhiều người Việt Nam khi họ kết bạn. Có những bằng chứng thực nghiệm ban đầu
cho thấy, người Việt Nam quan tâm xây dựng quan hệ bạn thân với người tương đồng
về đặc tính giới, đồng học, đồng hương và ngang cấp/tương đương về vị trí cơng việc
(Nguyễn Q Thanh & Cao Thị Bắc Hải, 2015).
Cũng năm 2015, hai tác giả Nguyễn Quý Thanh và Cao Thị Bắc Hải tiếp tục
nghiên cứu về “Quy mô lõi mạng lưới quan hệ xã hội của người Việt Nam và một số
yếu tố ảnh hưởng”. Theo đó, mục đích nghiên cứu nhằm khảo sát quy mô mạng lưới
quan hệ xã hội, các yếu tố ảnh hưởng đến quy mô mạng quan hệ xã hội ở Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra: về quy mô lõi mạng quan hệ xã hội, người Việt có mạng
lưới quan hệ xã hội tương đối rộng, tức là số bạn thân khá nhiều nếu so với một số
kết quả của các quốc gia khác. Quy mô lõi mạng quan hệ xã hội của người Việt Nam
khác biệt theo các đặc điểm giới, vùng miền, tỉnh thành,... Rõ nét nhất là một số khác
biệt như nam giới thường có nhiều bạn thân hơn phụ nữ; những người sống ở miền
Bắc có nhiều bạn thân hơn các đồng bào sống ở miền Trung và miền Nam; những
người theo tín ngưỡng thờ cúng ông bà tổ tiên (xu hướng truyền thống) lại có quy mơ
mạng quan hệ xã hội rộng hơn những người khơng theo tín ngưỡng này,…; các yếu
tố gây ảnh hưởng nhiều nhất đến quy mô mạng quan hệ xã hội bao gồm yếu tố giới

tính và tự đánh giá về sự thành công trong sự nghiệp/quyền lực và tự đánh giá về sự
thành cơng trong hơn nhân/gia đình. Theo đó, càng là nam giới và càng thành cơng
trong sự nghiệp/quyền lực thì quy mơ mạng quan hệ càng tăng. Ngược lại, càng thành
cơng trong hơn nhân/gia đình thì quy mô mạng quan hệ xã hội càng giảm (Dẫn theo
Nguyễn Quý Thanh & Cao Thị Bắc Hải, 2015).

13


Như vậy, mối quan hệ xã hội được nghiên cứu tại Việt Nam ở nhiều đối tượng
khác nhau, đặc biệt cịn có những cơng trình nghiên cứu so sánh với các nước khác
để thấy rõ một số đặc điểm đặc trưng trong mối quan hệ xã hội lõi tại Việt Nam. Tuy
nhiên, việc nghiên cứu mối quan hệ trên sinh viên còn hạn chế, đặc biệt là trong hoạt
động học tập của sinh viên.
- Tương tác tâm lý
Dưới góc độ Xã hội học, các tác giả Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng, trong tác
phẩm Xã hội học, đã đề cập đến vấn đề tương tác xã hội và giới thiệu nhiều cơng trình
nghiên cứu về vấn đề này trên thế giới. Theo các tác giả này thì tương tác xã hội có
thể được coi là q trình hành động đáp lại của một chủ thể này với một chủ thể khác
(Phạm Tất Dong & Lê Ngọc Hùng, 2001).
Dưới góc độ Tâm lý học, từ thập niên 90 của thế kỉ XX, tác giả Vũ Dũng đã
nghiên cứu vấn đề cơ sở tâm lý học của ê kíp lãnh đạo. Sau nhiều năm nghiên cứu,
tác giả đã xác định được hai thành tố cơ bản của một ê kíp lãnh đạo là sự tương hợp
tâm lý và sự phối hợp hành động giữa các thành viên của nhóm lãnh đạo, là tiêu chí
quan trọng để đánh giá sự tương tác giữa các thành viên trong nhóm. Các tác giả
Nguyễn Quang Uẩn, Trần Quốc Thành, Trần Hữu Luyến đều đề cập đến tương tác
dưới góc độ hoạt động cùng nhau, hoạt động giao tiếp giữa các cá nhân. Các tác giả
cho rằng ở một góc độ nhất định, giao tiếp cũng là tương tác (Nguyễn Quang Uẩn,
Trần Hữu Luyến, Trần Quốc Thành, 2003).
Một số nghiên cứu về sự tương tác khác như cơng trình nghiên cứu:

Một số tác giả khác như Phạm Quang Tiệp với “Dạy học dựa vào tương tác
trong đào tạo giáo viên Tiểu học trình độ đại học”; Đặng Thành Hưng với cơng trình
“Tương tác hoạt động thầy – trò trên lớp học”; Vũ Lệ Hoa với “Một số kĩ năng dạy
học tăng cường tương tác góp phần nâng cao hiệu quả dạy học môn học ở đại học”.
Đặc biệt tác giả Tạ Quang Tuấn với “Tổ chức dạy học dựa vào tương tác người học
- người học ở trường cao đẳng” (Phạm Quang Tiệp, 2013), (Vũ Lệ Hoa, 2007), (Tạ
Quang Tuấn, 2010).

14


“Dạy học dựa vào tương tác trong đào tạo giáo viên tiểu học trình độ đại học”
tác giả Phạm Quang Tiệp (2013): tác giả đã đề xuất 5 mơ hình dạy học dựa vào tương
tác và các kĩ thuật dạy học tương ứng, đây được xem là một bước cụ thể hóa chiến
lược dạy học dựa vào tương tác từ bình diện lí thuyết thành hiện thực. Trong mơ hình
này, người học thực hiện chủ yếu các tương tác với bạn học và nhất là tương tác nội
tâm để giải quyết vấn đề và nhiệm vụ học tập (Dẫn theo Phạm Quang Tiệp, 2013).
Nghiên cứu về sự tương tác tâm lý đã sớm được tiếp cận dưới nhiều góc độ
như xã hội học, tâm lý học và dưới nhiều khía cạnh khác nhau như giao tiếp, dạy
học,... và được tiếp cận ở nhiều độ tuổi khác nhau từ người trẻ cho tới người cao tuổi.
Tuy nhiên, vấn đề tương tác trong hoạt động học tập giữa sinh viên với sinh viên hiện
nay vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu.
1.1.2.2. Hoạt động học tập của sinh viên
Nhiều nhà giáo dục, nhà nghiên cứu như: Trần Kiểm, Phan Bích Ngọc, Đặng
Vũ Hoạt, Hà Thế Ngữ, Bùi Trọng Liễu, Hoàng Tụy, Nguyễn Trọng Bảo và Hà Thị
Đức,... đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về hoạt động học và tự học. Trong các cơng
trình nghiên cứu, các tác giả đã nghiên cứu sâu vào tổ chức hoạt động học, quản lý
hoạt động học nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo của người học nhằm nâng cao
chất lượng dạy và học của nhà trường.
Bên cạnh đó, có nhiều nhà nghiên cứu khác tiếp cận hoạt động học tập dưới

góc độ quản lý hoạt động học tập như: Nguyễn Văn Đức, Phạm Trung Thành,... Các
nghiên cứu hoạt động học tập theo bốn chức năng quản lý và quản lý theo các thành
tố của hoạt động học; nghiên cứu thực trạng quản lý của hiệu trưởng về một số hình
thức học tập,...
Hướng tiếp cận khác trong hoạt động học tập ở sinh viên là tiếp cận ở các khía
cạnh khác nhau của hoạt động học tập như nghiên cứu về ý chí trong hoạt động học
tập của tác giả Nguyễn Văn Lượt (2007) hay nghiên cứu sự thích ứng trong học tập
của tác giả Nguyễn Văn Trình (2015),...
Tác giả Nguyễn Thị Thúy Hạnh trong luận án tiến sĩ “Kỹ năng học tập hợp
tác của sinh viên sư phạm” đã ít nhiều đề cập đến tương tác khi cho rằng “Học tập

15


hợp tác là sự phối hợp, giúp đỡ lẫn nhau trong hoạt động học tập theo nhóm để hồn
thành mục đích học tập chung là lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo tương ứng và thúc
đẩy cao nhất hoạt động học tập của mỗi cá nhân”. Tác giả cũng chỉ ra rằng trong học
tập hợp tác để đạt hiệu quả phải có sự tương tác trực diện giữa các thành viên trong
nhóm. Nghĩa là, diễn ra tương tác liên nhân cách giữa các thành viên trong nhóm, có
sự tương tác tâm lý. Tác giả đã lý giải sự tương tác trong học tập hợp tác được biểu
hiện cụ thể qua việc giải thích cho nhau, kiểm tra mức độ hiểu bài lẫn nhau, thảo luận
về nội dung học tập, thậm chí ủng hộ, khích lệ, tạo điều kiện, giúp nhau phát triển.
Tuy nhiên, tác giả không đi vào làm rõ quá trình tương tác trong học tập hợp tác mà
chỉ đề cập tới tương tác với vai trò giúp làm rõ kĩ năng học tập hợp tác của sinh viên
(Dẫn theo Nguyễn Thị Thúy Hạnh, 2012).
Như vậy, hoạt động học tập được tiếp cận dưới góc độ của người quản lý,
người dạy đến người học. Ứng với mỗi góc độ sẽ có các hướng tiếp cận khác nhau.
Tuy nhiên, tương tác tâm lý trong hoạt động học tập ở sinh viên với sinh viên hầu như
chưa có một cơng trình nghiên cứu nào tiếp cận theo hướng này.
1.2. Một số khái niệm cơ bản

1.2.1. Tương tác
1.2.1.1. Khái niệm
Về thuật ngữ, có nhiều quan điểm khác nhau về sự tương tác:
Trong tiếng Anh, “Interaction” được hiểu là sự nối kết các hành động, sự hợp
tác, tác động lẫn nhau, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau (Interaction, 2018).
Trong tiếng Việt, có nhiều định nghĩa khác nhau về sự tương tác:
Theo Vũ Dũng, tương tác là sự tác động qua lại, tác động lẫn nhau (Vũ Dũng,
2008).
Trong đại từ điển tiếng Việt, tương tác được hiểu là sự tác động qua lại lẫn
nhau... có mối liên hệ trao đổi thơng tin với nhau (Nguyễn Thị Như Ý, 2000).
Theo Nguyễn Khắc Viện, tương tác là một khái niệm thuộc về ứng xử: “cái
này tác động lên cái kia, cái kia tác động trở lại cái này, hai cái ảnh hưởng lẫn nhau,
chứ không thể ảnh hưởng một chiều” (Nguyễn Khắc Viện, 2001).

16


Theo Vũ Dũng: “Tương tác là sự tác động qua lại, tác động lên nhau.” (Vũ
Dũng & Nguyễn Thị Mai Lan, 2013, tr.973).
Theo Phạm Tất Dong và Lê Ngọc Hùng cho rằng: “Tương tác có thể được coi
là q trình hành động và hành động đáp lại của một chủ thể này với một chủ thể
khác.” (Phạm Tất Dong & Lê Ngọc Hùng, 2001, tr.144-145).
Theo tài liệu tâm lý học xã hội, tương tác là sự tác động lẫn nhau của các cá
nhân nhằm thực hiện những hoạt động đồng thời với mục đích nào đó của nhóm (Vũ
Dũng, 2000, tr.48).
Như vậy, về nguyên nghĩa và ở mức khái quát nhất, tương tác là sự tác động
qua lại tương ứng lẫn nhau gây ảnh hưởng nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong
hiện thực khách quan.
1.2.1.2. Phân loại
Tương tác được nhắc đến trong nhiều ngành khoa học khác nhau như tương

tác vật lý, tương tác sinh học, tương tác xã hội, tương tác tâm - vật lý, tương tác tâm
lý,...
- Tương tác vật lý: Sự tác động giữa các lực, các năng lượng. Tương tác vật lý
được nhắc đến với rất nhiều dạng khác nhau như tương tác cơ bản, tương tác điện,
tương tác hấp dẫn, tương tác phân tử, tương tác trao đổi,...
- Tương tác sinh lý: Là sự tác động qua lại giữa các cơ thể hữu cơ. Trong tương
tác sinh lý diễn ra những biến đổi chức năng của một số cơ quan dưới tác động ảnh
hưởng của một hay nhiều cơ quan khác. Sự tác động qua lại của các cơ quan cũng
còn biểu hiện ra trong những trường hợp chúng hoạt động cùng nhau, đem đến cho
chủ thể một thông tin đầy đủ, nhiều chiều về thế giới khách quan mà trong cùng một
điều kiện hoạt động, một cơ quan không thể làm được.
- Tương tác tâm - vật lý: Là sự tác động qua lại giữa các hiện tượng tâm - vật
lý. Ngay từ thế kỷ XVII, dưới ảnh hưởng của cơ giới luận đã xuất hiện hai cách lý
giải về mối quan hệ tâm - vật lý. R. Descartes cho rằng, vật bên ngoài tác động lên ý
thức làm nảy sinh ra các hiện tượng tâm lý như cảm giác, tri giác. Quan điểm thứ hai
có tên gọi là: “Song hành tâm - vật lý”. Cái tâm lý và cái vật lý đồng thời diễn ra.
Theo nghiên cứu của các nhà tâm lý học Gestalt: M. Werthermer, W. Kohler và K.

17


×