Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Đề cương Cơ sở văn hóa Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.75 KB, 16 trang )

Câu 1.Trình bày các khái niệm: văn hóa học, văn minh,
văn vật, văn hiến. Phân biệt các khái niệm ấy với khái niệm
văn hóa.
- Khái niệm văn hóa: Trên cơ sở phân tích các định nghĩa văn hố;
PGS; TSKH Trần Ngọc Thêm đã đưa ra một định nghĩa về văn hoá nh ư sau:
“Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh th ần do con
người sáng tạo và tích luỹ qua q trình hoạt động th ực tiễn trong sự
tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội c ủa mình”. Đ ịnh
nghĩa này đã nêu bật 4 đặc trưng quan trọng của văn hố: Tính h ệ th ống;
tính giá trị; tính lịch sử; tính nhân sinh.
-

Văn hố học là một ngành khoa học được hình thành trên vùng tiếp
giáp của các tri thức xã hội, nhân văn về con người và xã h ội, nh ằm
nghiên cứu văn hố như một chỉnh thể tồn vẹn và như một chức
năng đặc biệt. Ngành Văn hóa học trang bị những kiến thức cơ bản
giúp sinh viên tiếp cận công việc đạt hiệu quả như mong muốn. Như
vậy văn hóa học là ngành khoa học nghiên cứu về văn hóa.

-

Khái niệm văn minh: là trình độ phát triển nhất định của văn hoá về
phương diện vật chất; đặc trưng cho một khu vực rộng lớn; một
thời đại; hoặc cả nhân loại. Hoặc là, văn minh được dùng để
chỉ trình độ phát triển về vật chất và tinh thần của nhân
loại đến một thời kỳ lịch sử nào đó. Như vậy, văn minh khác
với văn hoá ở ba điểm:
+ Thứ nhất; trong khi văn hố có bề dày của q kh ứ thì văn minh ch ỉ
là một lát cắt đồng đại.
+Thứ hai; trong khi văn hoá bao gồm cả văn hố vật chất lẫn tinh
thần thì văn minh chỉ thiên về khía cạnh vật chất; kĩ thuật.


+Thứ ba; trong khi văn hố mang tính dân tộc rõ rệt thì văn minh
thường mang tính siêu dân tộc- quốc tế. Ví dụ nền văn minh tin h ọc
hay văn minh hậu công nghiệp và văn hoá Việt Nam; văn hoá Nh ật
Bản; văn hoá Trung Quốc… Mặc dù giữa văn hoá và văn minh có m ột
điểm gặp gỡ nhau, giống nhau đó là do con người sáng tạo ra.

-

Khái niệm văn vật (vật = vật chất): Truyền thống văn hoá tốt đẹp
biểu hiện ở nhiều nhân tài trong lịch sử và nhiều di tích lịch s ử. “Hà
Nội nghìn năm văn vật”. Có thể hiểu văn vật cịn là khái niệm hẹp để
chỉ những cơng trình hiện vật có giá trị nghệ thuật và lịch sử; khái
niệm văn vật cũng thể hiện sâu sắc tính dân tộc và tính lịch s ử. Khái
niệm văn hiến; văn vật thường gắn với phương Đông nông nghiệp
trong khi khái niệm văn minh thường gắn với phương Tây đô th ị.


-

Văn hiến (hiến = hiền tài) : truyền thống văn hoá lâu đời và tốt đẹp.
GS. Đào Duy Anh khi giải thích từ văn hiến khẳng định: “là sách v ở”
và nhân vật tốt trong một đời. Nói cách khác văn là văn hoá; hi ến là
hiền tài; như vậy văn hiến thiên về những giá trị tinh th ần do nh ững
người có tài đức chuyển tải; thể hiện tính dân tộc; tính lịch sử rõ rệt.
Như vậy văn hóa là tồn bộ những giá trị vật chất và tinh thần của
một dân tộc, một quốc gia hay một châu lục có bề dày của q kh ứ
cịn văn minh chỉ là một lát cắt đồng đại và thiên về khía c ạnh v ật
chất, kĩ thuật. Văn vật cũng thiên về khía cạnh vật ch ất, cịn văn
hiến lại thiên về giá trị tinh thần.


Câu 3. Văn hóa ăn, mặc, ở, đi lại của người Việt. (Lối sống của
người Việt)

Bài làm 1( Bài dài)
Cuộc sống của con người gắn bó và lệ thuộc vào mơi trường tự nhiên. Con
người ngồi việc tận dụng mơi trường tự nhiên, cịn phải ứng phó với nó. Việc
ăn là tận dụng mơi trường tự nhiên, cịn mặc, ở là ứng phó với thời tiết; đi lại là
ứng phó với khoảng cách.
a. Văn hoá ẩm thực
- Quan niệm về ăn và dấu ấn nông nghiệp trong cơ cấu bữa ăn.
+ Việt Nam là một nước nơng nghiệp, với tính thiết thực nên ăn rất quan trọng
(có thực mới vực được đạo; Trời đánh còn tránh miếng ăn). Mọi hành động của
người Việt đều lấy ăn làm đầu (ăn chơi, ăn mặc, ăn cắp...)
+ Cơ cấu bữa ăn của người Việt bộc lộ dấu ấn của truyền thống văn hố
nơng
nghiệp lúa nước: đó là cơ cấu thiên về thực vật, trong đó lúa gạo đứng đầu
bảng (bữa ăn gọi là bữa cơm). Sau lúa gạo đến rau quả, trong đó đặc thù là
rau muống và dưa cà, ngồi ra cịn có các loại gia vị. Thứ ba là các loại thuỷ
sản, sản phẩm của vùng sơng nước, từ các lồi thuỷ sản mà chế tạo ra một
loại đồ chấm đặc biệt là nước mắm và mắm các loại (trong bữa cơm bao giờ
cũng có bát nước mắm). Ở vị trí cuối cùng là thịt (gà, vịt, trâu,bị, chó...).
+ Đồ uống - hút truyền thống thì có trầu cau, thuốc lào, rượu, nước chè,
vối...
- Tính tổng hợp trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt được thể hiện:
+Trong cách chế biến đồ ăn: món ăn thường có đủ ngũ chất (bột, nước,
khống,
đạm, béo) đảm bảo dinh dưỡng; đủ ngũ vị (chua, cay, ngọt, mặn, đắng); đẹp
hài hoà của ngũ sắc (trắng, xanh, vàng, đỏ, đen).
+ Trong cách ăn: mâm cơm của ngưòi Việt bao giờ cũng có nhiều món, tác



động vào các giác quan. Cái ngon của bữa ăn là sự tổng hợp của nhiều yếu
tố: thức ăn, thời tiết, chỗ ngồi, người ăn cùng, khơng khí bữa ăn.
- Tính cộng đồng và tính mực thước trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt,
thể hiện:
+ Cùng ăn và trong lúc ăn rất thích chuyện trị (thú uống rượu cần). Trong
bữa ăn cần có văn hố cao (ăn trơng nồi). Vì ăn chung nên mọi người đều
phụ thuộc lẫn nhau nên phải ý tứ khi ngồi và mực thước khi ăn.
+ Qua nồi cơm và chén nước mắm mà trong bữa ăn ai cũng dùng. Nồi cơm
là tinh hoa của đất, nước mắm là tinh hoa của nước (là cái khởi đầu và trung
tâm trong ngũ hành).
- Tính linh hoạt trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt, thể hiện:
+ Trong cách ăn: có bao nhiêu món ăn và bao nhiêu người ăn là có bấy
nhiêu cách tổng hợp khác nhau.
+ Trong dụng cụ ăn: đó là đơi đũa - đó là sự mơ phỏng động tác của con
chim nhặt hạt, xuất phát từ thói quen ăn những thứ khơng thể nào dùng tay
bốc hoặc mó tay vào, nơi có sẵn tre làm vật liệu. Tập quán này đã hình
thành nên triết lý: tính cặp đơi, tính tập thể
- Tính biện chứng trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt, thể hiện ở sự
đặc biệt chú trọng đến quan hệ âm dương của thức ăn, của cơ thể và của con
người với tự nhiên.
+ Để tạo nên những món ăn có sự cân bằng âm dương. Người Việt phân chia
thức ăn theo ngũ hành: hàn (lạnh - thuỷ), nhiệt (nóng - hoả), ơn (ấm - mộc),
lương (mát - kim), bình (trung tính - thổ). Người Việt tuân thủ nghiêm ngặt luật
âm dương bù trừ và chuyển hoá khi chế biến. Tập qn dùng gia vị ngồi việc
kích thích dịch vị cịn có tác dụng điều hồ âm dương (gừng đi với bí đao, rau
cải, cá...).
+ Để tạo nên sự quân bình âm dương trong cơ thể, người Việt sử dụng thức ăn
như những vị thuốc điều chỉnh sự mất quân bình âm dương trong cơ thể. Ví dụ:
sốt cảm lạnh ăn cháo tía tơ, gừng; sốt cảm nắng thì ăn cháo hành.

+ Để đảm bảo quân bình âm dương giữa con người với mơi trường, người Việt
có thói quen ăn uống theo vùng khí hậu, theo mùa. Ăn theo mùa là tận dụng môi
trường tự nhiên phục vụ cho con người, hồ mình vào tự nhiên, tạo nên sự cân
bằng giữa con người với tự nhiên.
+ Tính biện chứng trong ăn uống không chỉ thể hiện ở việc ăn phải đúng
mùa mà phải biết chọn đúng bộ phận có giá trị (chuối sau, cau trước); đúng
trạng thái có giá trị (tơm nấu sống, bống để ươn); đúng thời điểm có giá trị.
Thời điểm có giá trị là lúc thức ăn đang trong quá trình âm dương cân
bằng vì vậy rất giàu chất dinh dưỡng.
b. Văn hoá mặc
- Quan niệm về mặc và dấu ấn nông nghiệp trong chất liệu may mặc của
người Việt
+ Đối với người Việt, quan trọng sau ăn là mặc. Mặc khơng chỉ là sự ứng
phó với mơi trường tự nhiên mà nó cịn có ý nghĩa xã hội rất quan trọng
(quen sợ dạ, lạ sợ quần áo). Mặc là cái không thể thiếu được trong mục đích
trang điểm, làm đẹp của con người (người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân, chân
tốt về hài, tai tốt về hoa). Ăn mặc giúp cho con người khắc phục những


nhược điểm về cơ thể, tuổi tác (cau già khéo bổ thì non, nạ dịng trang điểm
lại giịn hơn xưa).
Mỗi dân tộc có kiểu ăn mặc và trang sức riêng, vì vậy, cái mặc trở thành
biểu
tượng của văn hố dân tộc. Cái riêng trong cách ăn mặc của người Việt thể
hiện trong chất liệu may mặc
+ Chất liệu may mặc: có nguồn gốc từ thực vật là sản phẩm của nghề trồng
trọt, cũng là những chất liệu mỏng, nhẹ, thoáng, rất phù hợp với xứ nóng.
Đó là tơ tằm, từ tơ tằm người Việt đã dệt ra nhiều loại khác nhau (Lụa, gấm,
đũi, nái, lĩnh...). Bên cạnh đó cịn có vải dệt bằng sợi tơ đay, gai, bông.
- Trang phục qua các thời đại và tính linh hoạt trong cách ăn mặc: trang phục


thể chia ra làm nhiều loại; theo giới tính; theo mục đích; theo chức năng.
Cách thức trang phục của người Việt qua các thời đại bị chi phối bởi hai
yếu tố: khí hậu và cơng việc sản xuất nơng nghiệp.
+ Đồ mặc phía dưới của phụ nữ là váy (từ thời kỳ Hùng Vương) là đồ mặc
có thể ứng phó rất hiệu quả với khí hậu nóng bức và phù hợp với công việc
đồng áng. Đồ mặc của đàn ông ban đầu là chiếc khố (Thời Nguyễn lính khố
xanh - địa phương, lính khố đỏ - quân thường trực, lính khố vàng - phục vụ
vua). Khi quần thâm nhập vào Việt Nam thì nam giới tiếp thu sớm nhất,
nhưng đã cải biến linh hoạt thành quần lá toạ. Đây là một sáng tạo linh
hoạt phù hợp với khí hậu nóng bức, mặc mát như váy của phụ nữ, thích
hợp với lao động đồng áng đa dạng. Ngày lễ hội, dùng quần ống sớ, có màu
trắng, đũng cao, ống hẹp.
+ Đồ mặc phía trên của phụ nữ ổn định qua các thời đại là cái yếm. Yếm do
phụ
nữ thường tự cắt may, nhuộm lấy, có nhiều màu: nâu để đi làm ở nông
thôn, trắng để đi làm ở thành thị, hồng, đào, thắm vào những ngày lễ hội.
Đàn ông khi lao động thường cởi trần. Cách ăn mặc này trở thành chuẩn
mực của cái đẹp (Đàn ơng đóng khố đuôi lươn, đàn bà yếm thắm hở lườn mới
xinh). Khi lao động hoặc trong những hoạt động bình thường, nam nữ
thường mặc áo ngắn có 2 túi phía dưới, có thể xẻ tà, hoặc khơng.
+ Màu sắc ưa thích là màu âm tính phù hợp với truyền thống ưa tế nhị, kín
đáo.
Miền Bắc là màu nâu, gụ của đất; miền Nam là màu đen - màu của bùn, xứ
Huế ưa màu trang nhã phù hợp với phong cách đế đơ. Trong lễ hội, phụ nữ
mặc bên ngồi áo dài thâm hoặc nâu, bên trong mới là các lớp áo cánh
nhiều màu. Mấy chục năm gần đây, do ảnh hưởng của phương Tây, chiếc
áo dài cổ truyền đã
được cải tiến thành chiếc áo dài tân thời vừa tăng cường phô trương cái đẹp
cơ thể một cách trực tiếp kiểu phương Tây, vừa kế tục và phát triển cao độ

phong cách tế nhị, kínđáo cổ truyền (dương ở trong âm). Chiếc áo dài vừa
đáp ứng được nhu cầu của thời đại, vừa duy trì được bản sắc dân tộc, vì
vậy nó đã trở thành biểu tượng cho y phục truyền thống của dân tộc. Đàn
ông vào dịp hội hè cũng mặc áo dài nhưng là áo the đen.
+ Trang phục khác cịn có thắt lưng mục đích giữ cho đồ mặc dưới khỏi


tuột. Trên đầu đội khăn, đàn bà vấn tóc bằng một mảnh vải dài - đi gà.
Có thể phủ ra ngồi chiếc khăn vng, chít hình mỏ quạ. Đàn ơng để tóc dài
búi tó củ hành. Khi làm vấn khăn đầu rìu, lúc sang trọng đội khăn xếp.
Trên khăn hoặc thay cho khăn là nón có quai giữ, đàn ơng sau này đội mũ.
Đồ trang sức có vịng các loại, nhuộm răng đen, xăm mình.
c. Văn hố đi lại:
Thể hiện qua điều kiện địa lý và cách thức sản xuất.
- Xã hội Việt Nam cổ truyền, do bản chất nông nghiệp sống định cư nên con
người ít có nhu cầu di chuyển, có đi thì đi gần hơn đi xa. Điều đó lý giải tại sao
ở Việt Nam trước đây, giao thông đường bộ kém phát triển. Phương tiện đi lại và
vận chuyển ngồi sức trâu, bị, voi, thì phổ biến là đơi chân, quan lại thì đi lại
bằng cáng, kiệu. Thời Nguyễn mới có hệ thống ngựa trạm. Cơng văn từ Huế vào
Gia Định mất 4 ngày. Các đô thị có xe tay do người kéo, sau này kết hợp với xe
đạp thành xích lơ
- Việt Nam là vùng sông nước với rất nhiều hệ thống kênh rạch, sông ngịi,
bờ
biển nên bên cạnh đó có một phương tiện rất phổ biến là đường thuỷ (Sách
Lĩnh Nam chích quái: người Việt lặn giỏi,bơi tài, thạo thuỷ chiến, giỏi dùng
thuyền. Người phương Tây mơ tả: xứ này khơng có đường cái lớn, lại chằng
chịt ruộng đồng. Muốn đi đến Huế hay bất cứ nơi nào đều phải đi bằng
đường biển hay đường sông). Không phải ngẫu nhiên mà các đô thị Việt
Nam trong lịch sử đều là các cảng sông biển như Phố Hiến, Vân Đồn, Hội
An.... Thuyền Rồng là biểu tượng của quyền uy

- Sơng ngịi tạo điều kiện thuận lợi cho đường thuỷ nhưng lại gây khó khăn
cho
đường bộ, vì vậy đã xuất hiện cầu di động bằng tre, gỗ (cầu phao). Hình
ảnh sơng nước ăn sâu vào tâm khảm người Việt đến mức mọi mặt sinh hoạt
đều lấy con thuyền và sơng nước làm chuẩn mực. Ví dụ: tiết kiệm (Buôn
tàu buôn bè không bằng ăn dè hà tiện); ý chí (Chớ thấy sóng cả mà rã tay
chèo); kinh nghiệm sống (ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau)
d. Văn hoá ở và kiến trúc:
Đối với cư dân nơng nghiệp, ngơi nhà là tổ ấm để đối phó với sự thay đổi của
khí hậu, là yếu tố để đảm bảo cho con người có cuộc sống định cư ổn định (Nhà
- gia đình, nhà nước, nhà văn...).
Những đặc điểm trong ngôi nhà của người Việt:
- Ngôi nhà gắn liền với môi trường sông nước: nhà thuyền, nhà bè, nhà sàn có
mái cong như hình con thuyền.
- Về cấu trúc: nhà cao cửa rộng. Kiến trúc của VN là kiến trúc mở để tạo khơng
gian thống mát, giao hồ với tự nhiên. Cao bao gồm 2 yêu cầu: nền nhà cao để
ứng phó với lụt lội; mái cao so với sàn nhà nhằm tạo khơng gian thống rộng để
ứng phó với nắng nóng. Cửa rộng nhưng khơng cao để tránh nắng chiếu xiên
khoai và tránh mưa hắt, người ta còn làm các tấm giại che cửa. Cửa rộng để đón
gió mát nhưng cũng để tránh gió độc. Đâu hồi nhà thường để trống một khoảng


hình tam giác để cho hơi nóng và khói bếp trong nhà thoát ra. Đây là một thứ
cửa sổ trên cao, cùng với các cửa ở dưới tạo thành một hệ thống thơng gió hồn
chỉnh. Cửa rộng để đón gió mát nhưng cũng để tránh gió độc, gió mạnh tạo nên
sự kín đáo cho cả ngơi nhà
- Chọn hướng nhà, hướng đất là sự tận dụng tối đa môi trường tự nhiên để
ứng phó với nó. Chọn nhà hướng nam vì VN gần biển, trong khu vực gió
mùa, chỉ có hướng Nam là tối ưu, vừa tránh được nóng từ phía Tây, bão từ
phía Đơng và lạnh từ phía Bắc, lại tận dụng được cái mát vào mùa nóng.

Bếp đặt ở bên trái (phía Đơng) nhìn về hướng Tây vì đặt ở vị trí đó sẽ tránh
được hướng gió thổi từ biển (đông và nam), nếu đặt ngược lại sẽ bị ngọn lửa
thổi vào vách gây hoả hoạn..
Tuy vậy, việc chọn hướng nhà tuỳ thuộc vào thế đất (phong thuỷ - hướng
gió và mặt nước trước nhà). Thuật phong thuỷ dựa trên âm dương ngũ
hành (VN có cụ Nguyễn Đức Huyên đời Lê người làng Tả Ao - Nghi Xuân Hà Tĩnh). Ngồi ra phải chọn hàng xóm láng giềng, vị trí giao thơng thuận
lợi.
Những đặc điểm trong kiến trúc ngôi nhà của người Việt:
- Cách thức kiến trúc: rất động và linh hoạt, thể hiện ở kết cấu khung chịu
lực theo không gian 3 chiều: chiều đứng trọng lực của ngôi nhà phân bố đều
vào các cột và các tảng đá kê chân cột, chiều ngang các cột nối với nhau bằng
các kẻ tạo nên vì kèo, theo chiều dọc các vì kèo nối với nhau bằng các xà. Tất cả
các chi tiết được nối với nhau bằng mộng. Để thống nhất qui cách người ta dùng
thước Tầm hay còn gọi là sào mực (là một thân tre nứa bổ đơi, trong đó vạch
những ký hiệu xác định khoảng cách, khoảng cách này được tính theo đốt gốc
ngón tay út hoặc gang tay của chủ nhà thành ra nhà nào thước ấy. Thước tầm trở
thành vật xác định quyền sở hữu ngơi nhà của chủ nhân, vì vậy, khi làm nhà
xong phải làm lễ cài sào
- Hình thức kiến trúc: ngôi nhà là tấm gương phản ánh đặc điểm của
truyền thống văn hố dân tộc. Trước hết là mơi trường sông nước thể hiện
qua cách làm nhà sàn với vách nghiêng và mái cong hình thuyền. Tính cộng
đồng qua các hàng rào thấp giữa các nhà. Bàn thờ. Coi trọng số lẻ: cổng
tam quan, bậc tam cấp, nhà dân thì 3 gian, 5 gian; kiến trúc lớn thì tam tồ;
tồ thành 3 vịng. Số bậc cầu thang, gian nhà bao giờ cũng là số lẻ (động người sống); còn nhà cho người chết cầu thang bao giờ cũng là bậc chẵn
Bài làm 2 ( Bài ngắn)
Cuộc sống của con người gắn bó và lệ thuộc vào mơi trường tự nhiên.
Con người ngồi việc tận dụng mơi trường tự nhiên, cịn phải ứng phó với nó.
Việc ăn là tận dụng mơi trường tự nhiên, cịn mặc, ở là ứng phó với thời tiết; đi
lại là ứng phó với khoảng cách.
a. Văn hóa ẩm thực của người Việt Nam:

- Quan niệm về ăn và dấu ấn nông nghiệp trong cơ cấu bữa ăn.
+ Việt Nam là một nước nông nghiệp, với tính thiết thực nên ăn rất quan trọng (có


thực mới vực được đạo; Trời đánh còn tránh miếng ăn). Mọi hành động của người
Việt đều lấy ăn làm đầu (ăn chơi, ăn mặc, ăn cắp...)

+ Cơ cấu bữa ăn: cơm, rau, cá. Tính chất sơng n ước và th ực vật, t ận d ụng
tự nhiên, lương thực chính trong bữa ăn là cơm.
+ Đồ uống: Nước uống thông dụng là nước chè xanh, chè trà, n ước v ối
+ Tính tổng hợp: Trong cách chế biến thức ăn, trong cách ăn, cân bằng âm
dương, đủ các vị cay- đắng, chua- chát, mặn- ngọt.
+ Tính linh hoạt: Ăn uống theo mùa, theo vùng miền. Ăn u ống đ ể đi ều hịa,
cân bằng giữa cơ thể với mơi trường. Dụng cụ ăn: đũa. Đó là sự mơ phỏng
động tác của con chim nhặt hạt, xuất phát từ thói quen ăn những thứ không
thể nào dùng tay bốc hoặc mó tay vào, nơi có sẵn tre làm vật liệu. Tập qn
này đã hình thành nên triết lý: tính cặp đơi, tính tập thể

+ Tính cộng đồng: Bữa ăn của người Việt là ăn chung. Trong b ữa ăn ng ười
Việt thích trị chuyện.
+ Tính mực thước, lễ nghi: Ý tứ, nhường nhịn, coi trọng l ễ nghi
b. Văn hóa trang phục:
- Kiểu trang phục truyền thống:
+Trang phục của phụ nữ: váy, yếm, áo cánh, khăn chít đầu, th ắt
lưng...Trong các dịp lễ hội, phụ nữ mặc áo dài hoặc áo “m ớ bảy m ớ ba”.
+Trang phục nam giới thường ngày: áo cánh, quần lá tọa. Trang phục l ễ
tết, lễ hội: quần ống sớ, áo dài the đen.
- Đặc điểm văn hóa trang phục:
+ Chất liệu may mặc: tận dụng các chất liệu tự nhiên (t ơ tằm, tơ chuối, s ợi
bơng, đay, gai…).

+ Coi trọng tính bền chắc
+ Ưa các gam màu tối: nâu, đen phù hợp với công việc lao động “chân l ấm
tay bùn”. Chất liệu và màu sắc: tận dụng và thích nghi với tự nhiên.
– Thích trang phục kín đáo, giản dị , có ý thức về việc làm đẹp
c. Văn hóa ở:


Tận dụng và thích nghi với tự nhiên .
- Dấu ấn của xứ sở thực vật: Vật liệu làm nhà: tận dụng các loại vật li ệu t ự
nhiên như gỗ, tre, nứa, rơm rạ, lá cọ, lá mía, ngói. Nhà ở thân thiệnv ới môi
trường: cây xanh bao bọc, chở che.
- Dấu ấn sơng nước: Thích làm nhà gần sơng, suối, ven kênh rạch, nhà sàn,
nhà mái cong hình thuyền, dùng thuyền làm nhà ở.
- Ứng xử với xã hội: Kiến trúc nhà ở của người Việt mang tính cộng đồng,
không gian mở. Ngôi nhà truyền thống của người Việt phản ánh lối sống,
cách tư duy, ứng xử với môi trường tự nhiên và xã h ội, là sự th ẩm th ấu
trong đó tâm hồn người Việt.
d. Văn hóa đi lại:
- Phương tiện đi lại thời xưa đến thời nay: chân, ngựa, kiệu, xe ng ựa,
thuyền bè, xe đạp, xe máy, ô tô, máy bay, tàu th ủy…
– Giao thông đường thủy chiếm ưu thế trong các loại hình đường giao
thơng thời xưa.
– Giao thơng đường bộ thuở xưa kém phát triển, dấu ấn sông n ước đã chi
phối các hoạt động vật chất, thẩm thấu vào chiều sâu tâm th ức, tư duy,
trong cách nghĩ, cách nói của người Việt. Đến th ời nay giao thông đ ường b ộ
và đường hàng không phát triển nhanh, rất thuận tiện cho người tham gia
giao thông.
Như vậy chúng ta có thể thấy các hoạt động vật chất của con người
bao gồm: sản xuất vật chất, ăn, mặc, ở, đi lại, tr ước hết là đ ể đáp ứng nhu
cầu tồn tại, nhưng qua đó cũng thể hiện sự ứng xử của con người v ới môi

trường tự nhiên và xã hội đặc trưng văn hóa.

Câu 4. Văn hóa gia đình và văn hóa làng của người Việt
Bài làm 1
1. Văn hóa gia đình
Có nhiều định nghĩa về văn hóa và văn hóa gia đình, đi ều này xu ất
phát từ sự đa dạng trong cách hiểu về văn hóa. Có thể thấy văn hóa gia
đình là một hệ thống giá trị văn hóa được tích hợp từ các giá tr ị văn hóa
truyền thống và hiện đại của một dân tộc, thể hiện nhận th ức, thái độ,
hành vi của các thành viên trong việc thực hiện các ch ức năng của gia đình


và ứng xử trong các mối quan hệ cá nhân – gia đình – xã hội nhằm xây d ựng
gia đình.
Các thành tố của gia đình khơng tồn tại một cách cô l ập mà liên k ết
với nhau tạo thành một hệ thống thực hiện các chức năng của văn hóa gia
đình. Các chức năng cơ bản bao gồm:
+ Truyền tải văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác.
+ Duy trì sự cân bằng của đời sống gia đình.
+ Bảo đảm sự tiếp nối văn hóa, chống sự đứt đoạn văn hóa.
+ Giữ gìn và phát triển bản sắc văn hóa và chức năng hình thành các
giá trị văn hóa mới.
Văn hóa gia đình Việt Nam truyền thống được hình thành t ừ cơ s ở
kết hợp giữa nền văn hóa bản địa nảy sinh từ xã h ội sản xu ất nông nghi ệp
lúa nước với hệ thống tư tưởng Nho giáo Trung Quốc, với triết lý đạo Ph ật
về gia đình. Xã hội phát triển, sự tiếp xúc văn hóa càng tăng lên. Gia đình
Việt Nam khơng chỉ tiến xúc với mơ hình gia đình Nho giáo, mà cịn ti ếp xúc
với văn hóa của các nước phương Tây. Văn hóa gia đình truy ền th ống có
nhiều mặt tích cực cần được phát huy trong xã hội hiện đại. Ví dụ, chuy ện
tình nghĩa vợ chồng là một giá trị cao đạo đức rất cao đẹp của người x ưa.

Người ta lấy nhau trước hết là vì cái tình nhưng sống v ới nhau r ồi sinh ra
cái nghĩa. Có cái nghĩa thì vợ chồng mới sống với nhau được, m ới c ảm
thông và chia sẻ với nhau mọi chuyện, vượt qua khó khăn và cám d ỗ trong
cuộc sống.
Tuy nhiên, nhiều những giá trị của gia đình truyền th ống khơng cịn
phù hợp thì cần phải thay đổi để chống sự trì trệ văn hóa. Ví dụ, ngày x ưa
cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy trong hôn nhân; hay ch ữ hiếu là con cái không
được rời xa bố mẹ, phải ở quây quần trong một nhà, nghe theo bố mẹ bât
kể đúng sai, hiếu là phải có con trai để nối dõi tông đ ường…Nh ưng ngày
ngay, hôn nhân là do con cái tự tìm hiểu và quy ết định và ch ữ hiếu đ ược
vận dụng sáng tạo hơn, không nặng nề như xưa mà chủ yếu là ở việc bi ết
ơn cha mẹ, sự kính trọng và tình yêu thương chăm sóc, phụng dưỡng cha
mẹ.
Ngày nay, thế giới đang bước vào giai đoạn hội nhập quốc tế sâu
rộng trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, lối sống… Xu thế tồn
cầu hóa là một hiện tượng mang tính tất yếu khách quan, nó xuất phát t ừ
chính nhu cầu phát triển của nhân loại. Trong bối cảnh đó, văn hóa Vi ệt
Nam nói chung và văn hóa gia đình Việt Nam nói riêng tất yếu sẽ có sự giao
lưu, hội nhập với văn hóa quốc tế. Quá trình giao lưu, hội nh ập ấy chúng ta
khơng chỉ tiếp nhận mà đồng thời cũng đóng góp nh ững giá trị văn hóa gia
đình Việt Nam làm phong phú, đa dạng giá trị văn hóa nhân loại.


2. Văn hoá làng.
Trong truyền thống và bản sắc văn hố dân tộc, có rất nhiều thành tố
văn hố như: văn hóa biển, văn hố cung đình, văn hố Tây Ngun… Nhưng
văn hố làng là một thành tố có vị trí đặc biệt quan trọng, được đánh giá “là
cái gốc của văn hố dân tộc”. Khơng phải chỉ có ở Việt Nam mới có làng,
nhưng văn hố làng là một đặc điểm độc đáo của văn hoá truyền thốngViệt
Nam.

2.1.Văn hoá vật chất.
a. Làng nghề truyền thống.
Ở các làng quê Việt Nam có rất nhiều làng nghề truyền thống như: làng
gốm Phù Lãng, làng gò giát đồng Đại Bái, làng đúc đồng Đề Cầu, làng ép dầu
Đại Bình, làng tranh Đơng Hồ, làng giấy gió Phong Khê, làng rèn Đa Hội… Mỗi
làng nghề đều có bí quyết cơng nghệ và quy ước truyền nghề riêng. Nếu
trước đây gốm Thổ Hà thường để mộc thì gốm Phù Lãng được phủ một lớp
men có màu da lươn hoặc quy trình và kỹ thuật làm tranh của làng Đông Hồ
cũng không giống với cách làm tranh của các nghệ nhân Hàng Trống (Hà Nội)
… Có thể nói rằng nghề thủ cơng thể hiện một phương diện của truyền
thống văn hố làng. Gĩư gìn và phát huy nghề thủ cơng truyền thống cổ
truyền là góp phần giữ gìn truyền thống văn hố dân tộc.
Ngày nay có nhiều làng nghề, do nắm được nhu cầu và thị hiếu của
khách hàng, do áp dụng khoa học kỹ thuật nên làng nghề đã khơng những tồn
tại mà cịn phát triển, trở thành những làng giàu có như làng gốm Phù Lãng,
làng làm đồng Đại Bái… Như vậy, làng nghề thủ công truyền thống phát triển
đã tạo ra việc làm cho người dân; góp phần giữ gìn truyền thống văn hoá
làng.
b. Văn hoá ẩm thực.
Từ bao đời nay cư dân các làng xã đã biết tận dụng những sản vật sẵn
có của địa phương để chế biến thành các món ăn phục vụ cho bữa ăn hàng
ngày. Ngồi các món ăn bình thường, nhiều làng cịn có các món ăn đặc sắc,
góp phần tạo nên sắc thái văn hố thiêng liêng của làng mình: bánh xu xê
Đình Bảng, chả chó làng Dền, cỗ làng Cựu Tự, tơm chua Đồng Hới, bánh đậu
xanh Hải Dương,… Những món ăn này, ngày nay dân làng vẫn duy trì, có món
ăn được khách nước ngồi rất ưa chuộng.
Ta có thể thấy các món ăn thường là những món ăn bình dị nhưng rất
đậm đà phong vị làng quê Việt Nam, ngon miệng lại giàu chất dinh dưỡng.
c. Chợ quê.
Nhắc đến làng quê không thể không nhắc đến cái chợ. Chợ là nơi lưu

giữ tổng thể những nét văn hoá cũng như tục lệ của người dân nơi đó.
Chợ q khơng chỉ dừng lại ở việc trao đổi mua bán hàng hố, đây cịn
là những nét văn hoá làng được thể hiện qua đời sống hàng ngày của người
dân quê. Thông qua hoạt động mua bán, trao đổi thông tin mà chợ trở thành
nơi các phong tục văn hố khác nhau tìm đến tiếng nói chung. Một phần đời
sống của người dân quê được khắc hoạ và thể hiện qua cái chợ làng. Những


chuyện hàng ngày của mỗi gia đình, mỗi người đều được thông tin qua cái
chợ. Người làng đi chợ cũng là dịp để họ gặp nhau, hỏi thăm nhau.
Chợ quê đóng vai trị quan trọng trong việc hình thành và phát triển văn
hố làng. Nó khơng chỉ tồn tại như một sự vật được tái hiện hàng ngày mà
còn là một nét văn hoá được truyền từ đời này sang đời khác.
2.2. Văn hố tinh thần.
a. Tín ngưỡng.
* Thờ cúng tổ tiên.
Thờ cúng tổ tiên xuất phát từ lòng hiếu nghĩa “ơn sinh thành, công
dưỡng dục” của cha mẹ, ông bà lúc còn sống cũng như quan niệm khi họ chết
là về với tổ tiên nơi chín suối nhưng ơng bà cha mẹ vẫn thường xuyên đi về
thăm nom, phù hộ cho con cháu. Bởi thế, việc thờ cúng cha mẹ, tổ tiên có ý
nghĩa đặc biệt thiêng liêng. Ngồi việc cúng giỗ thì việc thờ cúng tổ tiên cịn
được thực hiện đều đặn vào các ngày mồng 1, ngày rằm, dịp lễ Tết và bất kỳ
khi nào trong nhà có việc dựng vợ gả chồng, sinh con, làm nhà… đều thắp
hương tưởng nhớ đến ông bà, tổ tiên cầu mong phù hộ mọi việc đều tốt đẹp.
*Thờ Thành Hoàng làng.
Thờ Thành Hồng làng là thờ những người có cơng khai khẩn và có
những đóng góp to lớn cho làng. Thờ Thành Hoàng làng được coi là biểu
tượng khởi nguyên của làng với những nghi lễ trọng thể nhất.
* Thờ các vị thần khác.
Ngoài thờ Thành Hoàng làng, một số nơi dân làng còn tổ chức thờ các vị

thần khác: thờ thần tự nhiên (trời, đất, sông, núi); thờ Thổ cơng; thờ Táo
qn…Ở những làng nơng nghiệp thì cư dân thường thờ thần Nông.
Song song với việc thờ thần là việc sùng bái các hiện tượng tự nhiên.
Người dân còn có tục đặt lư hương ở các gốc cây đa, cây bồ đề cũng như cây
cao bóng mát xung quanh đình (chùa, miếu, đền,…). Họ cịn tơn thờ các con
vật có liên quan đến cơng việc làm ăn như: ở các làng biển có tục thờ cúng cá
voi (cá Ơng); ở các làng miền núi thờ thần Núi và ông Khái (cọp).
Qua việc đó chúng ta thấy được việc thờ cúng ở các làng chủ yếu đề
cao lịng kính trọng thiêng liêng của con người trong các hiện tượng của cuộc
sống một cách sâu sắc hơn.
b. Các cơng trình kiến trúc, kiến trúc điêu khắc cộng đồng làng xã.
Cùng với q trình hình thành làng xã đã có những cơng trình kiến trúc
phục vụ cho nhu cầu tín ngưỡng và tôn giáo của công đồng cư dân. Ở mỗi làng
quê Việt Nam đều có một cái đình, một ngơi đền, ngơi chùa thờ Phật và các vị
thần khác.
Đình làng là trung tâm sinh hoạt cộng đồng bàn việc làng (chức năng
hành chính); tổ chức lễ hội, sinh hoạt văn hố (chức năng văn hóa) và cũng là
nơi thờ Thành Hồng làng hay tiền khai canh của làng (chức năng tâm lý). Các
cơng trình đình làng đều có kiến trúc khá lớn, thường xây dựng ở vị trí có
cảnh quan sơn thuỷ hữu tình, ngoại mục thể hiện ược vị thế và ý chí thăng
trưởng. Chùa là kiến trúc thứ 2 sau đình làng…
Ví dụ: Ví dụ đình Diềm (Viêm Xá), đình chùa Đồng Kỵ, đình chùa Hồi
Quan, đình Đình Bảng…với hàng ngàn tấm bia, cây hương, câu đối, hoành phi


mang giá trị tư liệu về lịch sử, phong tục, địa lý…rất quý mà chúng đã được
làng lưu giữ từ đời này sang đời khác.
c. Phong tục tập quán làng xã.
Trong đời sống cộng đồng làng xã Việt Nam, có lẽ khơng có một nơi nào
là khơng có lễ hội (hội làng). Lễ hội là hình ảnh thu nhỏ nét văn hố làng

người Việt nói chung và từng làng từng xóm nói riêng.
Hội làng ở các làng quê Việt Nam thường được tổ chức vào mùa xuân.
Phần lễ ở trong đình (đền, chùa) trang trọng và tơn nghiêm là vậy,
ngược lại ở bên ngồi thì phần hội thật là vui nhộn, sơi n ổi. Phần hội là
phần có nội dung phong phú, có sức hấp dẫn và thể hiện rất rõ bản sắc văn
hoá làng. Phần hội mỗi làng một khác nhau: nơi tổ chức thi nấu cơm (Đình
Bảng), nơi tổ chức thi pháo (Đồng Kỵ), nơi tổ chức bơi chải (Vọng Nguyên),
nơi thi dệt vải (Đại Mão), nơi tổ chức thi hát quan họ (Viêm Xá)… và các trò
chơi khác như: đánh đu, đánh vật, đánh cờ người, bắt trạch trong chum…
Hiện nay các làng Việt hầu hết người ta còn giữ được nội dung của lễ hội
xưa.
Như vậy thơng qua các hình thức lễ hội đó, đời sống sinh hoạt cũng trở
nên phong phú, góp phần phong phú văn hố của làng. Nếu văn hố làng là
hình thức thì hội làng chính là nội dung tái hiện lại nét văn hoá truyền thống
của làng. Từ hội làng ta có thể thấy bản sắc văn hố của làng và chính văn
hố làng tạo nên bản sắc văn hố Việt Nam.
d. Văn hoá dân gian.
Người Việt ở các làng trong quá trình lao động sản xuất ra của cải vật
chất đã sáng tạo ra những giá trị văn hoá tinh thần rất phong phú và đặc sắc,
mang đậm màu sắc dân gian truyền thống của từng làng quê. Làng Việt
chính là nơi lưu giữ được các sinh hoạt văn hoá dân gian truyền thống. Đó là
làng tuồng Tấn Bào, làng tuồng Đa Hội (Tiên Sơn), làng múa rối nước Đồng
Ngư (Thuận Thành), các làng quan họ, hát trống quân, hát đối trên đình,
đền, chùa và dưới thuyền, tối có “chiếu chèo” hoặc giao lưu văn nghệ, th ơ
ca
e. Luật tục cổ truyền.
Ra đời cùng với sự phát triển của làng xã, Hương ước, Khốn ước,
Hương lệ, Lệ làng có vai trị to lớn trong đời sống xã h ội. Có th ể nói đó là
“cương lĩnh và nếp sống” của từng cộng đồng dân cư, là sợi dây c ố k ết các
tổ chức và thành viên trong làng, góp phần xác định và điều ch ỉnh các m ối

quan hệ giữa các thành viên trong làng với cộng đồng và các thành viên
trong cộng đồng với nhau.
Quan hệ xã hội giữa người dân trong làng được quy định b ởi nh ững
quy ước về việc cư xử giữa người với người trong làng xã. Nh ững đi ều
khoản này chiếm phần lớn trong các bản Hương ước. Nội dung ch ủ y ếu
của những điều khoản đó đề cao tinh thần đồn kết tương thân t ương ái,
gìn giữ quan hệ tốt đẹp, khơng làm gì xấu ảnh hưởng tới cả làng.
Ví dụ: Điều 71 Hương ước làng Quỳnh Đôi (Nghệ An) quy định: m ọi
người phải đến giúp đỡ người khác lợp nhà, đưa ma… mà không cần l ời
mời; Điều 83 lại ghi ai gặp người già mà khơng giúp sức mang vác thì b ị
phạt.


Lệ làng cịn có những điều khoản quy định hạn chế hiện t ượng kéo
bè kéo cánh, cậy quyền ỷ thế trong việc giải quyết các công vi ệc của làng,
chống vu cáo như: Khoán ước làng Dương Liễu (Hà Tây) ngăn cấm tệ c ờ
bạc và quy định rõ mức phạt tiền đối với từng loại cờ bạc…
Như vậy, Hương ước các làng có tác dụng rất lớn, chẳng những là công
cụ giữ các mối quan hệ xã hội mà còn mở đường cho những hành vi tốt đẹp,
điều chỉnh những hành vi sai trái, bảo tồn thuần phong mỹ tục. Với những
nội dung trên, Hương ước lệ làng là cơng cụ văn hố hữu hiệu mang tính cộng
đồng cao và tính nhân văn sâu sắc.
Tóm lại: thơng qua yếu tố văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần ta có
thể khẳng định văn hố làng chính là “cái gốc” của văn hoá dân tộc. Tổng thể
nền văn hóa dân tộc đều mang bản sắc văn hố vùng, miền. Mà cái t ạo nên
văn hố vùng miền chính là văn hoá làng, đơn vị tổ ch ức nh ỏ nh ất. Đánh
giá về vai trị của văn hố làng, cố học giả Trần Đình H ượu đã nh ận xét
“Tranh Đơng Hồ, hát quan họ khơng những có gốc làng mà cịn có quy mơ
làng. Ngay cả văn hố cung đình cũng chỉ là tập h ợp kỹ xảo c ủa các làng”.
Làng và văn hoá làng những di sản văn hoá cần được bảo vệ.


+ Đặc trưng của văn hóa làng :
– Tính cộng đồng: là sự liên kết, gắn bó chặc chẽ, giữa các gia đình, gia t ộc,
giữa các thành viên trong làng với nhau, là ứng xử trong m ối quan h ệ gi ữa
các thành viên trong làng với nhau.
– Tính tự trị: là sự ứng xử trong mối quan hệ giữa làng này v ới làng khác,
do tính cố kết cộng đồng cao khiến cho mỗi làng trở thành 1 đơn vị đ ộc
lập, khép kín, co cụm lại, trong khơng gian khá bi ệt l ập c ủa m ỗi làng t ạo
nên tính chất tự trị của làng.
+ Tác động của nó ( Hạn chế)
Tạo nên lối sống khép kín, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau khi khó khăn, ho ạn
nạn, cả làng có chung tập tục văn hóa, giữa các thành viên trong làng t ạo
nên tính cố kết chặc chẽ, bên cạnh những mặt tốt thì nó cịn đ ể l ại nhi ều
điều tiêu cực như tạo nên tư tưởng bè phái, dựa dẫm, ỷ lại, cào bằng, đ ố k ị,
thủ tiêu ý thức về người cá nhân. Tư tưởng tiểu nơng tư hữu, ích kỉ, bề
phái, địa phương cục bộ….
Bài làm 2
1. Văn hóa gia đình
Có nhiều định nghĩa về văn hóa và văn hóa gia đình, đi ều này xu ất
phát từ sự đa dạng trong cách hiểu về văn hóa. Có thể thấy văn hóa gia
đình là một hệ thống giá trị văn hóa được tích hợp từ các giá tr ị văn hóa


truyền thống và hiện đại của một dân tộc, thể hiện nhận th ức, thái độ,
hành vi của các thành viên trong việc thực hiện các ch ức năng của gia đình
và ứng xử trong các mối quan hệ cá nhân – gia đình – xã hội nhằm xây d ựng
gia đình.
Các thành tố của gia đình khơng tồn tại một cách cô l ập mà liên k ết
với nhau tạo thành một hệ thống thực hiện các chức năng của văn hóa gia
đình. Các chức năng cơ bản bao gồm:

+ Truyền tải văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác.
+ Duy trì sự cân bằng của đời sống gia đình.
+ Bảo đảm sự tiếp nối văn hóa, chống sự đứt đoạn văn hóa.
+ Giữ gìn và phát triển bản sắc văn hóa và chức năng hình thành các
giá trị văn hóa mới.
Văn hóa gia đình Việt Nam truyền thống được hình thành t ừ cơ s ở
kết hợp giữa nền văn hóa bản địa nảy sinh từ xã h ội sản xu ất nông nghi ệp
lúa nước với hệ thống tư tưởng Nho giáo Trung Quốc, với triết lý đạo Ph ật
về gia đình. Xã hội phát triển, sự tiếp xúc văn hóa càng tăng lên. Gia đình
Việt Nam khơng chỉ tiến xúc với mơ hình gia đình Nho giáo, mà cịn ti ếp xúc
với văn hóa của các nước phương Tây. Văn hóa gia đình truy ền th ống có
nhiều mặt tích cực cần được phát huy trong xã hội hiện đại. Ví dụ, chuy ện
tình nghĩa vợ chồng là một giá trị cao đạo đức rất cao đẹp của người x ưa.
Người ta lấy nhau trước hết là vì cái tình nhưng sống v ới nhau r ồi sinh ra
cái nghĩa. Có cái nghĩa thì vợ chồng mới sống với nhau được, m ới c ảm
thông và chia sẻ với nhau mọi chuyện, vượt qua khó khăn và cám d ỗ trong
cuộc sống.
Tuy nhiên, nhiều những giá trị của gia đình truyền th ống khơng cịn
phù hợp thì cần phải thay đổi để chống sự trì trệ văn hóa. Ví dụ, ngày x ưa
cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy trong hôn nhân; hay ch ữ hiếu là con cái không
được rời xa bố mẹ, phải ở quây quần trong một nhà, nghe theo bố mẹ bât
kể đúng sai, hiếu là phải có con trai để nối dõi tông đ ường…Nh ưng ngày
ngay, hôn nhân là do con cái tự tìm hiểu và quy ết định và ch ữ hiếu đ ược
vận dụng sáng tạo hơn, không nặng nề như xưa mà chủ yếu là ở việc bi ết
ơn cha mẹ, sự kính trọng và tình u thương chăm sóc, phụng dưỡng cha
mẹ.
Ngày nay, thế giới đang bước vào giai đoạn hội nhập quốc tế sâu
rộng trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, lối sống… Xu thế tồn
cầu hóa là một hiện tượng mang tính tất yếu khách quan, nó xuất phát t ừ
chính nhu cầu phát triển của nhân loại. Trong bối cảnh đó, văn hóa Vi ệt

Nam nói chung và văn hóa gia đình Việt Nam nói riêng tất yếu sẽ có sự giao
lưu, hội nhập với văn hóa quốc tế. Quá trình giao lưu, hội nh ập ấy chúng ta


khơng chỉ tiếp nhận mà đồng thời cũng đóng góp nh ững giá trị văn hóa gia
đình Việt Nam làm phong phú, đa dạng giá trị văn hóa nhân loại.

b. Văn hóa làng:
Làng xã Việt Nam vốn bắt nguồn từ công xã nông thôn, ra đời vào
thời kỳ tan rã của công xã nguyên thuỷ, tức là vảo khoảng thiên niên kỷ thứ
nhất trước công nguyên. Từ thế kỷ thứ X trở đi, cùng với sự hưng thịnh của
chế độ phong kiến, các công xã nông thôn dần dần bị phong kiến hố và trở
thành các đơn vị hành chính cơ bản của chính quyền phong kiến với tên gọi
chung là xã, cũng có khi gọi là thơn hay làng.
Văn hóa làng có các đặc trưng sau:
- Thứ nhất, chủ nghĩa tập thể: Có thể nhận thấy rằng trong truyền
thống cộng đồng Việt Nam, ít thấy những quan hệ trực tiếp giữa cá nhân với
các cộng đồng lớn mà thường là quan hệ trách nhiệm giữa các cấp cộng
đồng. Một gia đình hay rộng ra là một gia tộc có trách nhiệm với xóm làng.
Bởi thế, một cá nhân bình thường chỉ có vai trị trong khn khổ gia đình họ
mà thơi, cịn ra đến cộng đồng lớn, cá nhân ln bị tan biến đi trong đó để
duy trì những quan hệ cộng đồng, cá nhân phải hồ mình tập thể và ngược
lại cơ chế quản lý làng xã phải được tổ chức sao cho đảm bảo được quyền
bình đẳng giữa các thành viên.
Biểu hiện rõ nét nhất của truyền thống này quyền được tham gia bầu chọn ra
người đại diện tham gia vào bộ máy quản lý của làng xã, được hỏi ý kiến
trước những quyết định hệ trọng của làng. Công cụ điều chỉnh hành vi của
các cá nhân trong cộng đồng chủ yếu là dư luận, những lời đồn đại, thái độ
khích lệ hoặc chê cười của dân làng. Trong những trường hợp đặc biệt, làng
áp dụng biện pháp phạt vạ hoặc một số hình thức bêu riếu, hạ nhục trước

tập thể. Như vậy là tập thể có vai trị rất quan trọng đối với q trình “lập
pháp” và “hành pháp” cũng như đối với “tư pháp” trong làng. Do tính cộng
đồng cao như vậy, nhiều học giả cho rằng cộng đồng làng xã Việt Nam đã
làm nảy sinh truyền thống dân chủ làng xã.
-Thứ hai, thể chế làng xã khó chấp nhận những cái mới và khơng có
năng lực tự biến đổi trước sự biến động của hoàn cảnh xã hội. Cái được gọi
là truyền thống dân chủ làng xã, về thực chất là tính chất cơng xã - thị tộc
cịn được lưu tồn từ thời nguyên thuỷ và cũng chỉ tồn tại ở giai đoạn đầu
của qúa trình hình thành làng xã. Cịn sau đó, làng xã vận hành theo những
nguyên tắc mặc định và cứng nhắc. Độ vênh giữa lệ làng “bất di bất dịch”
với đời sống vật chất và nội tâm của cá thể “luôn biến động” theo chiều
hướng ngày một giãn rộng, tới độ, để có thể duy trì sự tồn tại của mình, lệ
làng bóp nghẹt mọi tiềm năng sáng tạo, mọi ý thức về “cái tôi” của chủ thể
Nhân cách và tính đa dạng của nhân cách bị tan biến trong cộng đồng làng
xã. Trong không gian làng xã, thời gian lịch sử dường như ngưng đọng lại.
Bởi vậy, không nên đánh giá quá cao những yếu tố tương tự dân chủ của
làng xã, vì cùng với thời gian chúng đã chuyển hoá thành mặt đối lập.


-Thứ ba, tính tự quản thể hiện ở việc các thành viên giám sát lẫn nhau
trở thành một yêu cầu tự nhiên và là biện pháp quan trọng để duy trì kỷ
cương. Có thể thấy tính tự quản này vận hành như thế nào thông qua kết
cấu quản trị của làng xã. Bộ máy hành chính của làng xã gồm hai cơ quan:
cơ quan quyết nghị và cơ quan chấp hành. Cách thức tổ chức cũng như
thành lập thể hiện rõ tính tự trị của làng xã. Tất cả các dân đinh trong làng
xã đều có thể trực tiếp tham gia vào giải quyết các công việc của làng xã, kể
cả một số việc của Nhà nước.
Cơ quan quyết định của làng là Hội đồng kỳ mục (có nơi gọi là hội đồng kỳ
hào, hội đồng làng, hội đồng xã …), đây là một tập thể không hạn định về
mặt số lượng các thân hào danh tiếng trong xã, đã từng đỗ đạt như: cử

nhân, tú tài, tiến sĩ đã làm quan hoặc đang làm quan. Người được quyền
tham gia Hội đồng kỳ mục phải hội đủ các điều kiện đã quy định trong
Hương ước của làng.
Tính tự quản và làng xã còn thể hiện rất rõ trong mối quan hệ giữa làng xã
với
chính quyền trung ương. Về nguyên tắc, Vua hay triều đình khơng giao dịch
trực tiếp với dân trong làng xã. Do vậy, nhà nước quản lý làng xã (mà trên
thực tế là hầu như toàn bộ xã hội) phải thông qua đại diện của làng xã.
Song cũng phải thừa nhận rằng, tính tự quản của làng xã dễ dàng biến thái
thành tính tự trị. Lịch sử Việt Nam đã cho thấy làng xã tự quản theo lệ mà
khơng dựa vào luật của chính quyền trung ương, nên dẫn đến sự gián cách
giữa trung ương với địa phương và tạo cơ hội cho các hoạt động tùy tiện
của đội ngũ “quan trị viên” biến chất. Bước chuyển từ tự quản sang tự trị
đã đẻ ra tầng lớp cường hào nhiễu sách nhân dân. Những bi kịch khốn
quẫn của người nông dân trong cộng đồng làng xã tự trị đã khắc sâu trong
tác phẩm của nhiều văn sĩ thuộc trường phải hiện thực: Ngô Tất Tố, Nam
Cao …
-Thứ tư, chủ nghĩa cục bộ địa phương Đặc trưng này làm cho sự tiếp
nhận các quy định chung của nhà nước trở nên bê trễ hoặc chỉ mang tính
hình thức hoặc bị áp dụng và giải thích sai lệch về nội dung, tóm lại là bị
“uốn nắn” theo quan điểm địa phương chủ nghĩa: phép vua thua lệ làng.
Trong không gian làng xã, pháp luật bị đẩy xuống hàng thứ yếu và mọi vấn
đề phát sinh đều có thể quy về cái gọi là “giải quyết nội bộ”
Tóm lại: thơng qua yếu tố văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần ta có
thể khẳng định văn hố làng chính là “cái gốc” của văn hoá dân tộc. Tổng thể
nền văn hóa dân tộc đều mang bản sắc văn hố vùng, miền. Mà cái t ạo nên
văn hố vùng miền chính là văn hoá làng, đơn vị tổ ch ức nh ỏ nh ất. Đánh
giá về vai trị của văn hố làng, cố học giả Trần Đình H ượu đã nh ận xét
“Tranh Đơng Hồ, hát quan họ khơng những có gốc làng mà cịn có quy mơ
làng. Ngay cả văn hố cung đình cũng chỉ là tập h ợp kỹ xảo c ủa các làng”.

Làng và văn hoá làng những di sản văn hoá cần được bảo vệ.



×