Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC TRONG GIA ĐÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.02 KB, 9 trang )

VAI TRỊ CỦA GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC TRONG GIA ĐÌNH
 Hà Thị Bắc
TĨM TẮT
Giáo dục đạo đức trong gia đình có vai trị quan trọng đối với sự hình thành, phát
triển và hoàn thiện nhân cách của mỗi cá nhân. Trong giáo dục đạo đức của gia
đình thì việc giáo dục đạo đức cho trẻ em luôn được quan tâm đặc biệt bởi gia đình
là mơi trường giáo dục đầu tiên và có vai trị quyết định đến sự hình thành và phát
triển nhân cách của trẻ em – lứa tuổi chưa trưởng thành, còn non nớt cả về thể chất
và tinh thần. Giáo dục đạo đức trong gia đình được coi là nền tảng cho giáo dục
đạo đức của nhà trường và xã hội vì đó là sự tác động một cách kiên trì, thường
xun, tồn diện và sâu sắc của những người lớn trong gia đình, đặc biệt là của cha
mẹ đối với trẻ em và luôn để lại dấu ấn đậm nét nhất trong suốt cuộc đời mỗi
người. Trong phạm vi của bài viết này, tác giả chỉ tập trung làm rõ vai trò của giáo
dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình ở Việt Nam hiện nay.
Từ khố: giáo dục đạo đức, gia đình, nhân cách cá nhân, giáo dục đạo đức gia
đình ở Việt Nam
1. Giáo dục đạo đức trong gia đình
Gia đình là một thiết chế giáo dục đặc biệt, bởi đó là thiết chế giáo dục dựa trên quan hệ
huyết thống, tình cảm thiêng liêng và có chú ý đến tính cá biệt của từng đối tượng giáo dục.
Giáo dục gia đình là hoạt động giáo dục được diễn ra trong phạm vi gia đình, đó là “sự tác
động có hệ thống, có mục đích của những người lớn trong gia đình và tồn bộ nếp sống của
gia đình tới đứa trẻ”. Giáo dục gia đình được bắt đầu từ thời thơ ấu đến giai đoạn trưởng
thành và cả khi đã về già, đó là q trình giáo dục diễn ra xun suốt trong cuộc đời của mỗi

 TS., Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội.
 Nguyễn Khắc Viện (1994), Từ điển xã hội học, NXB Thế giới, Hà Nội, tr. 233.


con người. Các nhà tâm lí học và giáo dục học đều cho rằng, trong những năm đầu của cuộc
đời, hệ thần kinh của trẻ em là mềm mại hơn cả và thường thường trong quãng thời gian đó
rất dễ hình thành những nét cơ bản của cá tính và hồn thiện những thói quen nhất định. Sau


đó những phẩm chất đã được hình thành từ thơ ấu sẽ tiếp tục phát triển. A.X. Ma-ca-ren-cơ
từng khẳng định: “Những gì mà bố mẹ đã làm cho con trước lúc nó 5 tuổi – đó là 90% kết
quả của tất cả quá trình giáo dục” . Trẻ em là lứa tuổi chưa trưởng thành, cịn non nớt về thể
chất và trí tuệ, dễ bị tổn thương, cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ về
mặt pháp lý. Về vị thế xã hội, trẻ em là một nhóm thành viên xã hội ngày càng có khả năng
hội nhập xã hội với tư cách là chủ thể tích cực, có ý thức và là người chủ của gia đình và dân
tộc trong tương lai.
Giáo dục đạo đức cho mọi người nói chung và trẻ em nói riêng là một trong những vấn đề thu
hút sự quan tâm ngày càng tăng của toàn xã hội. Trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, khi
đời sống kinh tế - xã hội ln có những biến động phức tạp, khi con người ngày càng phụ thuộc
và chi phối lẫn nhau, đòi hỏi phải hợp tác với nhau nhiều hơn thì việc giáo dục đạo đức lại càng
trở nên cần thiết hơn. Nhất là đối với trẻ em – đối tượng dễ bị tác động bởi các yếu tố tiêu cực
nảy sinh trong gia đình và xã hội. Giáo dục đạo đức cho trẻ em là tạo ra lá chắn để bảo vệ các em
và giúp các em bảo vệ chính mình khỏi những ảnh hưởng tiêu cực của sự biến đổi kinh tế - xã
hội. Bên cạnh đó, giáo dục đạo đức còn giúp trẻ em phát triển lành mạnh về mặt đạo đức, có
cách ứng xử đúng đắn trong các mối quan hệ của cá nhân với bản thân, với những người xung
quanh, với công việc, với xã hội, với Tổ quốc, với môi trường tự nhiên, với cộng đồng quốc tế,
v.v.. Kết quả của quá trình giáo dục đạo đức là các em có được các phẩm chất đạo đức tốt đẹp và
bền vững, có được bản lĩnh đạo đức để ứng xử trong các mối quan hệ đạo đức . Giáo dục đạo
đức trong gia đình cần được hiểu, một mặt là hoạt động giáo dục lẫn nhau giữa các thành viên

 E.I. Xéc-miaj-cơ (Phạm Khắc Chương dịch) (1991), 142 tình huống giáo dục gia
đình, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 10.
 Nguyễn Dục Quang (2010), Báo cáo tổng kết đề tài khoa học và công nghệ cấp
viện: Tìm hiểu về giáo dục đạo đức học sinh của một vài nước trên thế giới, Viện
Khoa học giáo dục Việt Nam, Hà Nội, tr. 16.


trong gia đình, giữa gia đình với cộng đồng xã hội khác; mặt khác, đó cịn là q trình tự giáo
dục, tự rèn luyện và tu dưỡng các phẩm chất đạo đức của mỗi cá nhân.

Như vậy, có thể hiểu giáo dục đạo đức trong gia đình là sự tác động có hệ thống, có mục
đích của những người lớn trong gia đình, đặc biệt là cha mẹ nhằm chuyển hóa những
nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội thành những phẩm chất đạo đức, nhân cách cho trẻ,
hình thành ở trẻ thái độ đúng đắn trong giao tiếp, ý thức tự giác, tự nguyện thực hiện các
chuẩn mực đạo đức của xã hội, thói quen chấp hành các quy định của pháp luật.
Trong giáo dục gia đình thì sự tác động có hệ thống, có mục đích của cha mẹ đối với trẻ ở giai
đoạn ấu thơ sẽ quyết định đến phẩm chất, tính cách của trẻ ở các giai đoạn sau. Bởi vậy, trẻ em
sinh ra và lớn lên trong gia đình nào thì chịu ảnh hưởng của phong cách giáo dục, lối sống, văn
hoá và đạo đức của gia đình đó. Nói đến giáo dục đạo đức trong gia đình trước hết là nói đến mối
quan hệ giáo dục giữa cha mẹ và con cái nhằm chuyển hóa những nguyên tắc, chuẩn mực đạo
đức của xã hội thành phẩm chất và nhân cách của trẻ. Theo G.Bandzeladze, “chuẩn mực đạo
đức là “đức tính và tình cảm đạo đức được diễn đạt bằng một mệnh đề, một phán đốn hoặc một
thuật ngữ”. Ở đó, tình cảm đạo đức và đức tính chính là nhu cầu của con người hành động phù
hợp với chuẩn mực đạo đức”. Các chuẩn mực đạo đức này được cộng đồng lựa chọn, thừa
nhận và chấp nhận, trở thành kinh nghiệm tập thể của cộng đồng và có thể được lưu truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ví dụ, lịng u q hương đất nước; sự kính trọng và hiếu
thảo với ơng bà, cha mẹ; tinh thần đoàn kết và nhân ái; tình yêu lao động, v.v.. là những
chuẩn mực đạo đức quan trọng hình thành nên nhân cách của con người.
Nguyên tắc đạo đức cũng chính là những chuẩn mực đạo đức nhưng có tính chất khái qt
hơn và hợp nhất nhiều chuẩn mực cụ thể. Có trường hợp một chuẩn mực nào đó khơng được
nhìn nhận là ngun tắc đạo đức do tính chất tương đối cụ thể của nó, nhưng chuẩn mực này
vẫn bao hàm một loạt yêu cầu cụ thể hơn. “Chẳng hạn, chuẩn mực “chân thành” bào hàm sự
ngay thẳng, lịng tơn trọng sự thật, tính thật thà, v.v. và tương ứng với những đức tính nói
trên là thái độ căm ghét sự dối trá, thói đạo đức giả, thói xu nịnh, lèo lá, v.v..” . Giáo dục đạo
đức trong gia đình khơng chỉ thể hiện trách nhiệm, nghĩa vụ, sự yêu thương, gắn bó ruột thịt

 G. Bandzeladze (1985), Đạo đức học, Tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 92.
 G. Bandzeladze (1985), Đạo đức học, Tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 95.



của cha mẹ đối với con cái mà còn gửi gắm những nguyện vọng của cha mẹ vào phẩm chất,
nhân cách của con cái sau này. Sự yêu thương, chăm sóc, dạy dỗ của cha mẹ chính là yếu tố
đầu tiên giúp trẻ thích nghi dần với đời sống xã hội, đồng thời thông qua các hoạt động xã
hội trẻ sẽ tiếp tục bổ sung và hoàn thiện nhân cách của mình.

2. Vai trị của giáo dục đạo đức trong gia đình
Giáo dục đạo đức trong gia đình có ảnh hưởng trực tiếp, thường xuyên và lâu dài đối với
sự tồn tại, phát triển của mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời. Giáo dục đạo đức trong gia đình
đặt cơ sở hết sức quan trọng cho sự hình thành nhân cách gốc của trẻ em, thúc đẩy sự phát
triển nhân cách ở tuổi thanh niên, củng cố, giữ gìn nhân cách con người ở tuổi trưởng thành
và khi về già. Ngay từ khi lọt lịng, trẻ đã được chăm sóc, ni dạy trong mơi trường gia
đình, vì vậy, hoạt động tổ chức đời sống gia đình, các mối quan hệ ứng xử của ông bà, cha
mẹ, anh chị em, v.v. có ảnh hưởng trực tiếp đến tình cảm đạo đức của trẻ. Nhà giáo dục Xô
Viết nổi tiếng V.A.Xu-khôm-lin-xki từng khẳng định: “Ý nghĩa cơ bản và mục đích của cuộc
sống gia đình - đó là việc giáo dục con cái. Gia đình cùng với những mối quan hệ giữa con
cái và bố mẹ là trường học đầu tiên giáo dục trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ và thể chất cho con
cái”. Những hoạt động giao lưu diễn ra trong đời sống gia đình được coi là mơi trường giáo
dục đầu tiên và quan trọng nhất đến sự hình thành các phẩm chất đạo đức ban đầu của trẻ. Có
thể thấy, vai trò của giáo dục đạo đức trong gia đình được thể hiện thơng một số nội dung
chủ yếu sau:
Thứ nhất, giáo dục đạo đức trong gia đình góp phần quyết định sự hình thành, phát triển các
phẩm chất đạo đức và nhân cách của trẻ em. Giáo dục đạo đức cho trẻ em là trách nhiệm của cả
gia đình, nhà trường và xã hội nhằm hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách của trẻ em.
Tuy nhiên, trong ba thiết chế giáo dục nêu trên, gia đình luôn được coi là môi trường giáo dục
đầu tiên và có vai trị quyết định đến sự hình thành và phát triển nhân cách gốc của trẻ. Nhân
cách là một sản phẩm của lịch sử phát triển xã hội loài người, nó được hình thành và phát triển
trong q trình sống - hoạt động - giáo dục và tự giáo dục của con người. Đó là kết quả của quá

 E.I. Xéc-miaj-cơ (Phạm Khắc Chương dịch) (1991), 142 tình huống giáo dục gia
đình, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 16.



trình truyền đạt, lĩnh hội các kinh nghiệm sống của cá thể trong môi trường xã hội và môi trường
xã hội đầu tiên và quyết định đến sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em chính là gia
đình. Trước khi con người có những hiểu biết về mình, về xã hội thì đã được định hướng và chỉ
dạy từ gia đình. Những bước đi chập chững đầu đời, người đầu tiên chỉ dạy cho trẻ cách đi đứng,
ăn mặc, nói năng đó là cha mẹ. Vì vậy, giáo dục của gia đình như thế nào thường sẽ hình thành nên
nhân cách của đứa trẻ như thế ấy. Quan niệm, thái độ, lối sống, cách ứng xử, hành vi đạo đức, tính
cách, năng lực, cơng việc, sự nghiệp, v.v.. của cha mẹ là tấm gương đạo đức đối với con cái trong
mỗi gia đình. Giáo dục gia đình chủ yếu được thực hiện bằng tình cảm và mang tính cụ thể, nhằm
vào mỗi cá nhân cụ thể, thúc đẩy sự phát triển phẩm chất đạo đức và nhân cách của từng người.
Giáo dục đạo đức trong gia đình cịn mang tính cá biệt cao, do đối tượng là những cá thể đặc thù,
riêng biệt. Đối với mỗi cá nhân cụ thể đó thì phải có phương pháp, cách thức và nội dung giáo dục
riêng, cụ thể, cá biệt phù hợp với đặc điểm cá tính và tâm sinh lý của trẻ. Do đó, giáo dục đạo đức
trong gia đình thường có ưu thế hơn so với giáo dục đạo đức trong nhà trường và xã hội. Mục tiêu
của giáo dục đạo đức trong gia đình là tạo ra những con người hiếu thảo, có đạo đức trong sáng, có
suy nghĩ lành mạnh, hướng tới những giá trị nhân văn, nhân đạo đích thực v.v.. Nói cách khác, giáo
dục đạo đức trong gia đình góp phần tạo ra những con người chân chính, có đời sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có năng lực trí tuệ cao, có lối sống lành mạnh, đạo đức trong sáng, hết mình vì mọi
người, vì quê hương, đất nước. Quá trình giáo dục đạo đức được diễn ra trong suốt quá trình sống
của con người, từ khi đứa trẻ mới sinh ra cho đến lúc trưởng thành và cả đến khi đã lập gia đình.
Tuy nhiên, sự giáo dục của gia đình từ thời thơ ấu có vai trị quyết định sự hình thành phẩm chất và
nhân cách của trẻ. Sự định hướng giá trị đạo đức của cha mẹ trong gia đình sẽ giúp trẻ hình thành
những chuẩn mực đạo đức và khuôn mẫu ứng xử cần thiết trong cuộc sống.

Thứ hai, giáo dục đạo đức trong gia đình góp phần hình thành niềm tin và lý tưởng đạo
đức cho trẻ em. Hệ thống chuẩn mực đạo đức có vai trị định hướng giá trị, điều chỉnh hành
vi và củng cố niềm tin đạo đức đối với cá nhân trong ứng xử hàng ngày, trong tồn bộ lối
sống của trẻ. Thơng qua giáo dục đạo đức trong gia đình, các bậc cha mẹ có thể làm cho trẻ
nhận thức được ý nghĩa và lợi ích của các chuẩn mực đạo đức để hình thành ý thức đạo đức

cho trẻ. Khi ý thức đạo đức được hình thành sẽ thơi thúc trẻ trẻ tự nguyện, tự giác chấp hành
những chuẩn mực đạo đức như những giá trị chân thực và tiến bộ của con người. Không
giống như giáo dục đạo đức trong nhà trường, trẻ được học đạo đức có thiên hướng lý trí thì
ở gia đình lại khơng mang tính thuyết giảng mà thông qua hành vi ứng xử, qua những tác


động bằng tình cảm có sắc thái trực quan biểu cảm. Những lời phân tích, giảng giải tâm tình
của cha mẹ vừa rất thực tế lại có chiều sâu của tình cảm nên tác động trực tiếp và sâu sắc đến
nhận thức và hành vi của trẻ. Giáo dục đạo đức trong gia đình có những bài học “tình huống”
có giá trị thuyết phục cao vì nó gắn với thực tế, khơng rơi vào lý thuyết khơ khan.
Gia đình có vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức đạo đức, hình thành ý thức đạo
đức nhằm mục đích giúp trẻ thực hiện hành vi đạo đức một cách tự nguyện và tự giác. Hành vi
đạo đức của trẻ chính là kết quả, là nỗ lực của q trình giáo dục đạo đức được biểu hiện cụ thể
trong các quan hệ đạo đức. Để đảm bảo có hành vi đạo đức ngoài việc giáo dục cho trẻ các chuẩn
mực và nguyên tắc đạo đức cần phải hình thành ở trẻ niềm tin và lý tưởng đạo đức. Như vậy,
ngoài tri thức đạo đức, cịn có sự tin tưởng nào đó về lợi ích của các chuẩn mực đạo đức đối với
xã hội. Sự tin tưởng này chính là niềm tin đạo đức của cá nhân, đó là sự tin tưởng một cách sâu
sắc và vững chắc vào sự chiến thắng của cái thiện, tin tưởng vào tính chính nghĩa và tính chân lí
của các chuẩn mực đạo đức và sự tơn trọng triệt để các chuẩn mực đó. Niềm tin đạo đức là một
trong những yếu tố của hành vi đạo đức, là cơ sở làm bộc lộ những phẩm chất ý chí của đạo đức
như lịng dũng cảm, tính kiên quyết đấu tranh chống lại cái ác, đồng thời biết bảo vệ cái đúng,
cái thiện. Bên cạnh đó, việc hình thành niềm tin đạo đức cịn là cơ sở cho việc xây dựng lý tưởng
đạo đức, giúp trẻ tích cực phấn đấu rèn luyện để hướng đến những giá trị đạo đức cao cả của con
người, đó là những giá trị Chân - Thiện - Mỹ. Để giáo dục hành vi đạo đức, hình thành niềm tin,
lý tưởng đạo đức cha mẹ cần đặt trẻ vào các tình huống cụ thể để trẻ thử nghiệm những hiểu biết
của mình vào cuộc sống, trong sinh hoạt và tổ chức cuộc sống gia đình.
Thứ ba, giáo dục đạo đức trong gia đình góp phần bảo lưu các giá trị đạo đức và văn hóa
truyền thống của dân tộc. Giá trị đạo đức và văn hóa truyền thống của dân tộc có tác động mạnh
mẽ đến sự hình thành những kiểu mẫu hành vi, đến sự đánh giá và những tình cảm đạo đức trong
sáng của trẻ em. Hiệu quả của giáo dục với tính cách là một nhân tố phát triển nhân cách phụ

thuộc rất nhiều vào kỹ năng vận dụng những giá trị đạo đức, văn hóa truyền thống của dân tộc
vào hoàn cảnh xã hội mới để phục vụ xã hội và bản thân mỗi cá nhân. Do đó, đạo đức và văn hóa
của cá nhân là sự kết tinh những tinh hoa đạo đức, văn hóa của nhiều thời đại, nhiều thế hệ đã
qua. Mỗi cá nhân khi sinh ra đã được sống, được tiếp nhận một hệ giá trị, hệ chuẩn mực đạo đức
và văn hóa xã hội. Những giá trị, chuẩn mực này được phản ánh trong thế giới quan, hệ thống tri
thức xã hội, trong những chuẩn mực về pháp lý, đạo đức, thẩm mỹ, v.v.. Như vậy, nhân cách của


con người được hình thành và phát triển trong mơi trường đạo đức và văn hóa của dân tộc một
cách gián tiếp thơng qua q trình giáo dục và tự giáo dục.
Trong các thiết chế lưu giữ giá trị đạo đức và văn hóa truyền thống thì gia đình là mơi trường
đầu tiên và có vai trị quan trọng trong việc bảo tồn, truyền thụ, chuyển giao các giá trị văn hóa,
đạo đức của dân tộc nên có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển nhân cách của mỗi người. Thơng
qua giáo dục đạo đức, gia đình đã góp phần bảo lưu và phát huy các giá trị đạo đức và văn hóa của
dân tộc một cách hiệu quả nhất trước những thách thức lớn của thời đại, đặc biệt là trong quá trình
hội nhập quốc tế hiện nay. Một dân tộc muốn phát triển bền vững trước hết phải dựa trên truyền
thống đạo đức, văn hóa tốt đẹp đồng thời phải giữ gìn và phát huy những giá trị đó cho thế hệ
tương lai. Trẻ em là người dễ bị tác động, ảnh hưởng bởi những lời nhận xét, đánh giá, những lối
sống, trào lưu sống bên ngoài, do vậy, giáo dục cho các em lối sống lành mạnh, tự giác thực hiện
các chuẩn mực đạo đức là cần thiết để các em có thể đứng vững và trưởng thành là một công dân
tốt của xã hội. Muốn làm được điều đó, cần phải chăm lo xây dựng gia đình lành mạnh để các giá
trị đạo đức được nuôi dưỡng và phát triển. Trẻ em khi được sống trong mơi trường văn hóa, lối
sống nhân văn, coi trọng đạo lý sẽ trưởng thành với một bộ lọc văn hóa hữu hiệu trước những cơn
bão táp của lối sống ngoại lai không phù hợp với truyền thống đạo đức và văn hóa của dân tộc.
Thứ tư, giáo dục đạo đức trong gia đình góp phần tạo ra thế hệ trẻ phát triển toàn diện cả
Đức và Tài. Cấu trúc của nhân cách bao gồm năng lực và phẩm chất được kết hợp hữu cơ trong
chỉnh thể mỗi con người. Đây là quan hệ giữa Đức và Tài - hai thành phần nòng cốt nhất của
nhân cách. Đạo đức quy tụ những phẩm chất cá nhân, xã hội, ý chí hay phong cách ứng xử của
con người. Còn tài hay tài năng là sự biểu hiện tập trung và nổi bật của những năng lực xã hội
hoá như: khả năng thích ứng, năng lực sáng tạo; khả năng thể hiện cái riêng, cái độc đáo, cái

bản lĩnh; khả năng hành động có mục đích, có điều khiển, chủ động tích cực, v.v.. Đạo đức và
năng lực, đức và tài không tách rời nhau mà gắn liền với nhau, biểu hiện, chi phối lẫn nhau. Chủ
tịch Hồ Chí Minh thường sử dụng cặp khái niệm “đức” và “tài” để đánh giá con người, định
hướng cho việc bồi dưỡng, giáo dục con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Cũng như sơng
thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo
được nhân dân”. Bên cạnh đó, trong khi nhấn mạnh vai trị của đạo đức, Hồ Chí Minh khơng
xem nhẹ tài năng. Đối với Người, đạo đức và tài năng là hai thành tố khơng thể thiếu của nhân

 Hồ Chí Minh (2009), Tồn tập, Tập 5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 252-253.


cách và có quan hệ biện chứng với nhau. Hồ Chí Minh khẳng định: “Có tài phải có đức. Có tài
khơng có đức, tham ơ hủ hóa có hại cho đất nước. Có đức khơng có tài như ơng bụt ngồi trong
chùa, khơng giúp ích gì được ai” . Như vậy, trong giáo dục khơng những phải có tri thức phổ
thơng mà cịn phải có đạo đức cách mạng. Đạo đức là cơ sở để con người phát huy tài năng làm
cho tài năng trở nên có ích cho xã hội. Ngược lại, tài năng làm cho đạo đức trở thành đạo đức
thực tế nghĩa là đạo đức được thể hiện, thực hiện trong hoạt động của con người, chứ khơng phải
là một thứ đạo đức sng khơng có tác dụng.
Giáo dục trẻ em phát triển toàn diện cả Đức và Tài là trách nhiệm của cả gia đình, nhà trường
và toàn xã hội. Trẻ em được sinh ra trong gia đình nhưng lại là một thành viên của xã hội, để
những thành viên này trở thành những công dân tốt của xã hội thì trẻ phải được quan tâm, chăm
sóc và giáo dục đặc biệt trước hết từ gia đình. Những thành tựu của khoa học hiện đại đã khẳng
định vai trị to lớn và khơng thể thay thế của giáo dục gia đình. Xét về bản chất, đứa trẻ sinh ra,
nếu tách khỏi mơi trường giáo dục thì không thể trở thành “con người”. Sự khẳng định vai trị của
giáo dục gia đình, cũng có nghĩa là thừa nhận và tơn vinh vai trị của cha mẹ trong việc giáo dục
trẻ em.
Đạo đức là cơ sở, nền tảng của nhân cách nhưng khi nhân cách được hình thành lại có tác dụng
thúc đẩy và hồn thiện đạo đức. Con người - chủ thể mang nhân cách đồng thời phải là con người chủ thể mang đạo đức và văn hóa đạo đức. Thực hiện tốt việc giáo dục đạo đức sẽ góp phần điều
chỉnh nhận thức, tình cảm và hành vi đạo đức của trẻ em và thực hiện mục tiêu chung của giáo dục

quốc gia là đào tạo ra thế hệ trẻ Việt Nam phát triển toàn diện. Sự phát triển hài hòa trong đời sống
đạo đức, đời sống tinh thần của trẻ em sẽ là bệ phóng cho sự phát triển của tài năng. Tuy nhiên, bên
cạnh những nỗ lực và cố gắng của gia đình rất cần có sự hỗ trợ, phối hợp chặt chẽ của nhà trường và
xã hội trong việc giáo dục đạo đức cho trẻ em.

3. Kết luận
Giáo dục đạo đức trong gia đình có vai trị quan trọng đối với sự hình thành, phát triển
nhân cách, củng cố niềm tin, lý tưởng đạo đức, đồng thời bảo lưu các giá trị đạo đức và văn
hóa tốt đẹp của dân tộc. Tình yêu thương, sự quan tâm, chăm sóc, giáo dục con cái của cha
mẹ vừa là nội dung vừa là phương pháp giáo dục đạo đức trong gia đình góp phần nuôi
dưỡng tâm hồn, phát triển tài năng của trẻ. Trẻ em sẽ là nguồn nhân lực chủ yếu trong tương
lai, họ phải được giáo dục và rèn luyện về mọi mặt, mà trước hết là phải được giáo dục về

 Hồ Chí Minh (2009), Tồn tập, Tập 8, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 184.


đạo đức. Vì vậy, nâng cao vai trị của giáo dục đạo đức trong gia đình khơng chỉ là trách
nhiệm của các bậc làm cha mẹ đối với con cái của mình mà cịn thể hiện trách nhiệm của họ
đối với sự phát triển của xã hội. Nhận thức rõ vị trí và vai trị của gia đình trong giáo dục thế
hệ trẻ, Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đã khẳng định:
“Gia đình là tế bào của xã hội, là mơi trường quan trọng hình thành, ni dưỡng và giáo dục
nhân cách, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo
nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” . Như vậy, giáo dục đạo đức
cho trẻ em trong gia đình là một cơng việc hết sức lớn lao, nghiêm túc nhưng cũng là cơng
việc đầy khó khăn, gian khổ, địi hỏi cần có sự kiên trì, tập trung ý chí với đầy đủ sự quan
tâm và tình thương yêu con trẻ thực sự.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh (2009), Tồn tập, Tập 5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Nguyễn Khắc Viện (1994), Từ điển xã hội học, NXB Thế giới, Hà Nội.

3. E.I. Xéc-miaj-cơ (Phạm Khắc Chương dịch) (1991), 142 tình huống giáo dục gia đình,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
4. Nguyễn Dục Quang (2010), Báo cáo tổng kết đề tài khoa học và cơng nghệ cấp viện:
Tìm hiểu về giáo dục đạo đức học sinh của một vài nước trên thế giới, Viện Khoa học
giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
5. G. Bandzeladze (1985), Đạo đức học, Tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội.

 Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định Phê duyệt Chiến lược phát triển gia
đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, tr. 1.



×