Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Đường lối đối ngoại của đảng, nhà nước việt nam trong tình hình mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.7 KB, 17 trang )

1
MỞ ĐẦU
Thế giới trong thế kỷ 21 tiếp tục chứng kiến nhiều biến đổi phức tạp và
khó lường. Tồn cầu hóa tiếp tục phát triển sâu rộng và tác động tới tất cả các
nước. Các quốc gia lớn nhỏ đang tham gia ngày càng tích cực vào q trình hội
nhập quốc tế. Hịa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi
bức xúc của các quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, các cuộc
chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ
trang, hoạt động can thiệp lật độ, khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi với tính chất
và hình thức ngày càng đa dạng, phức tạp.
Thế kỷ 21 đang mở ra những cơ hội to lớn nhưng cũng chứa đựng nhiều
thách thức. Sau hơn ba mươi năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, thế và
lực nước ta đã lớn mạnh hơn nhiều. Chúng ta có lợi thế tình hình chính trị - xã
hội ổn định. Mơi trường hịa bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế và những xu thế
tích cực trên thế giới tiếp tục tạo điều kiện để Việt Nam phát huy nội lực và lợi
thế so sánh, tranh thủ ngoại lực. Tuy nhiên chúng ta cũng đang phải đối mặt với
những thách thức rất lớn như tụt hậu về kinh tế, chệch hướng xã hội chủ nghĩa,
nạn tham nhũng và tệ quan liêu, diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch…
Nhưng để vươn tới mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu nước mạnh,
Đảng và Nhà nước Việt Nam vẫn kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc
tế với phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả
các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển”.

Đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là hệ thống quan điểm về
mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp, phương châm chỉ đạo hoạt động
của nước ta với bên ngồi nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc chân chính,


2
đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì mục tiêu


của thời đại là hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Qua 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, với những thành tựu đạt được
trong hoạt động đối ngoại, chúng ta đã giành những thành tựu to lớn có ý nghĩa
lịch sử, quan hệ quốc tế có những thay đổi sâu sắc: Chúng ta đã thiết lập quan hệ
với 185 nước trong tổng số 193 nước của Liên hợp quốc; tham gia vào 70 tổ
chức quốc tế, khu vực; thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 15 đối
tác trên thế giới, 10 đối tác toàn diện, hợp tác nhiều mặt với bạn bè khác tạo ra
sự tin cậy gắn bó chặt chẽ tranh thủ được nguồn lực để phát triển đất nước, đồng
thời cũng tranh thủ được sự ủng hộ, hỗ trợ của bạn bè quốc tế trong cuộc đấu
tranh bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của đất nước… Những thành tựu này
đã cho thấy tư duy của Đảng trên lĩnh vực đối ngoại đã từng bước đổi mới đáp
ứng yêu cầu trong nước và xu thế quốc tế góp phần rạo ra thế và lực mới cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình hoạch định đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới, Đảng và
Nhà nước ta luôn kiên định lập trường, quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, coi đây là cơ sở lý luận và là vấn đề có tính ngun tắc. Đại
hội XII của Đảng đã đặt ra yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ
động hội nhập quốc tế, giữ vững mơi trường hịa bình và tạo điều thuận lợi để
phát triển đất nước. Đảng ta xác định đây là một trong những giải pháp quan
trọng để phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020; đồng thời là sự thể hiện
nhận thức, đánh giá của Đảng ta về vai trị to lớn của cơng tác đối ngoại trong
tình hình mới.
Xuất phát từ ý nghĩa đó, em lựa chọn đề tài “Nội dung cơ bản trong
đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong tình hình mới” làm
bài viết thu hoạch của mơn học Quan hệ quốc tế.


3
NỘI DUNG
1. Một số vấn đề lý luận về chính sách đối ngoại

Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, chính sách là những chuẩn tắc cụ thể
để thực hiện đường lối, nhiệm vụ trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh
vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách phụ
thuộc vào đường lối, nhiệm vụ, tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Như
vậy, có thể hiểu chính sách là những biện pháp cụ thể được đề ra trong những
lĩnh vực cụ thể, được thể hiện trong một thời gian nhất định, nhằm thực hiện
từng bước, tiến tới thực hiện thắng lợi mục tiêu cuối cùng trên từng lĩnh vực của
chủ thề quyền lực chính trị (các đảng phái, nhà nước…)
Như vậy, chính sách đối ngoại của một nhà nước là tổng thể các quan
điểm xác định mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và phương châm chỉ đạo các
hoạt động đối ngoại mà quốc gia đó thể hiện trong quan hệ với các nhà nước và
các chủ thể khác trong quan hệ quốc tế nhằm mục đích thực hiện các lợi ích
quốc gia dân tộc và của giai cấp cầm quyền trong từng giai đoạn lịch sử.
Việc hoạch định và thực thi chính sách đối ngoại là một địi hỏi tất yếu khi
quốc gia là một bộ phận của cộng đồng quốc tế, có quan hệ với các chủ thể khác
của hệ thống quan hệ quốc tế.
1.1. Cơ sở lý luận
Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta được xây dựng và thực thi
trên cơ sở di sản lý luận quan trọng, đó là Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về quan hệ quốc tế và tư duy ngoại giao truyền thống của dân tộc ta.
Ngay trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, Mác – Awngghen đã dự
báo về xu thế tồn cầu hóa do sự phát triển của lực lượng sản xuất quy định.
Trước xu thế ấy, khơng một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển nếu đứng
biệt lập, mà mỗi quốc gia, dân tộc phải trở thành một bộ phận của cộng đồng
quốc tế. Do đó, sự phụ thuộc lẫn nhau, sự giao lưu, quan hệ với nhau vừa là một
nhu cầu tất yếu của các quốc gia, lại vừa là một quy luật phát triển của thời đại.
Việc tiếp thu những thành tựu của nhân loại, chỉ có thể thực hiện thông qua mở


4

rộng quan hệ đối ngoại và được chỉ đạo bởi đường lối, chính sách đối ngoại
đúng đắn.
Thời kỳ Lê nin lãnh đạo nước Nga, Lênin đã đưa ra những tư tưởng đối
ngoại đúng đắn và sáng tạo nhằm đảm bảo cho nước Nga Xơ Viết đứng vững và
phát triển. Có thể khái quát tư tưởng này ở bốn điểm chính
Một là, đề cao quyền dân tộc tự quyết. Lênin khẳng định tất cả các quốc
gia dù lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo đều có quyền bình đẳng ngang nhau trên tất
cả các lĩnh vực, mỗi quốc gia mỗi dân tộc đều có quyền tự quyết định vận mệnh
của mình, tự do lựa chọn chế độ chính trị - xã hội cho mình mà khơng có một
khn mẫu nào, một lực lượng nào có thể bắt buộc phải thực hiện theo. Điều
này thể hiện chính sách cùng tồn tại hịa bình giữa các dân tộc, là cơ sở đề cao
dân tộc trên thế giới đấu tranh cho một thế giới hòa bình, bình đẳng, chống lại
những mưu toan, can thiệp và áp đặt của các nước tư bản đế quốc đối với các
nước khác.
Hai là, tư tưởng cùng tồn tại hòa bình giữa các nước có chế độ xã hội khác
nhau. Theo Lê nin, một nền hịa bình bền vững cho thế giới phải được thiết lập
trên cơ sở môi trường quốc tế hịa bình. Trong tư tưởng của mình, một nền hịa
bình bền vững giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau khơng chỉ là những
hiệp định hịa bình giữa các nước, mà cịn là mối quan hệ hợp tác làm ăn, gắn bó
lợi ích với nhau thơng qua việc thúc đẩy hợp tác liên kết mọi mặt.
Thứ ba, trong tư tưởng của mình, Lênin cho rằng Chủ nghĩa xã hội phải
biết tiếp thu những thành tựu của văn minh nhân loại, được tạo ra trong Chủ
nghĩa tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lê nin đề cao thành tựu khoa học, kỹ
thuật của Chủ nghĩa tư bản và xem việc tiếp thu những thành tựu đó là mục tiêu
quan trọng của “chính sách kinh tế mới”. Thậm chí, Lê nin cịn quả quyết sẵn
sàng “đánh đổi một trăm người cộng sản tồi để lấy một chuyên gia tư bản”.
“Chính sách kinh tế mới” được Lê non ví von một cách hình ảnh rằng đó là
nhằm để cho tư sản cày xới trên mảnh đất của Chủ nghĩa xã hội, từ đó những
người cộng sản sẽ gieo trồng những hạt giống của Chủ nghĩa xã hội.



5
Bốn là, trong chính sách đối ngoại mở cửa, Lê nin đặc biệt coi trọng mối
quan hệ hợp tác làm ăn với các nước tư bản phát triển, các trung tâm khoa học
kỹ thuật tiên tiến của thế giới như Mỹ, Đức, Pháp,… Đó là những quốc gia tư
bản giàu mạnh, có nhiều lợi thế để thu hút các nguồn lực phục vụ cho sự phát
triển của đất nước.
Khi nói về tư tưởng đối ngoại của Lê nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận
định chính sách này “đã mở ra thời đại của một chính sách ngoại giao mới,
chính sách hịa bình và hữu nghị giữa các dân tộc”. Là một nhà mác-xít chân
chính, Bác Hồ đã tiếp thu phát triển, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê nin cả
trong lý luận và hành động, trong đó có tư tưởng về đối ngoại và quan hệ quốc
tế, kết hợp với truyền thống văn hóa, truyền thống ngoại giao của dân tộc Việt
Nam để tạo nên tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh - ánh sáng ấy soi đường và
đảm bảo cho mọi thắng lợi của ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Tư
tưởng ấy thể hiện ở những điểm nổi bật sau:
Thứ nhất, ngoại giao luôn phải quán triệt tư duy biện chứng. Nắm chắc
tình hình, phân tích, dự báo kịp thời cả thời cơ, thách thức, ngoại giao tấn công,
chủ động, linh hoạt trên cơ sở biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng, biết
biến hóa.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng “thêm bạn, bớt thù”, chủ
động, tích cực mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị với tất cả các nước trên cơ sở
độc lập tự chủ, tôn trọng lẫn nhau và cùng chung sống hịa bình.
Thứ ba, tư tưởng đối ngoại của Hồ Chủ tịch đặc biệt coi trọng quan hệ
thân thiết hữu nghị, hợp tác giữa các nước láng giềng, các nước trong khu vực.
Người luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho việc này, đặc biệt với các nước có
chung đường biên giới như Lào, Campuchia.
Thứ tư, coi trọng và quan tâm xử lý đúng đắn quan hệ với các nước lớn là
một chủ trương lớn trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh với nhạy cảm chính
trị sâu sắc, Hồ Chí Minh khơn khéo trong xử lý quan hệ với các nước lớn. Người

lưu ý chúng ta phải có bản lĩnh, giữ tư thế đất nước và phẩm giá con người Việt


6
Nam, không chịu lệ thuộc nhưng phải giữ được thể hiện nước lớn cho họ, tránh
rơi vào thế đối đầu, phải biết khai thác điểm đồng và hạn chế tối đa bất đồng để
giữ gìn và phát triển quan hệ với họ. Vì vậy, xây dựng quan hệ hài hịa với các
nước lớn là bài học lớn mà chúng ta phải lưu tâm.
Thứ năm, Hồ Chí Minh sớm có chủ trương mở cửa kinh tế để thu hút các
nguồn lực từ bên ngoài, nhất là từ các nước phát triển để xây dựng bảo vệ tổ
quốc. Người phân biệt giữa thành tựu các nước Chủ nghĩa tư bản với bản chất
của giai cấp bóc lột, đánh giá cao mọi thành tựu mà Chủ nghĩa tư bản đạt được
và khẳng định, các nước Xã hội chủ nghĩa, nhất là các nước nghèo phải biết mở
rộng hợp tác để khai thác các nguồn lực quốc tế, phát huy tốt nhất lợi thế so sánh
của đất nước trên tinh thần hợp tác bình đẳng cùng có lợi nhằm phục vụ sự
nghiệp phát triển của mỗi quốc gia.
Qua những chỉ dẫn trên đây cho thấy tư tưởng Hồ Chí Minh về mở rộng
quan hệ quốc tế theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa và hội nhập quốc tế đã
rất rõ ràng và đầy đủ. Những tư tưởng đó đang hiện hữu trong đường lối đối
ngoại đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn trực tiếp nhất của đường lối, chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước Việt Nam từ đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đến nay là
tình hình trong nước và mục tiêu, nhiệm vụ của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc trong thời kỳ mới.
Vào thập niên 80 của thế kỷ 20, đất nước ta đứng trước rất nhiều khó
khăn, phức tạp, kinh tế trì trệ, đất nước chậm phát triển và bị các thế lực thù địch
bao vây, cơ lập về chính trị, cấm vận ngặt nghèo về kinh tế. Việc đưa đất nước
thốt khỏi khó khăn, thách thức, đó là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Trên cơ sở nhìn thẳng vào sự thật,

xuất phát từ nhận thức đúng đắn về xu thế vận động của tình hình quốc tế, cũng
như thực trạng, yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn mới. Đại hội
VI của Đảng (12/1986) đã quyết định đổi mới toàn diện đất nước mà trước hết là


7
đổi mới về tư duy lý luận về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.

I. THÀNH TỰU TRONG ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT
NAM
Đường lối đối ngoại là một bộ phận của đường lối lãnh đạo chung của
Đảng ta, ở mỗi giai đoạn cách mạng có mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể và
góp phần phục vụ đường lối đối nội. Qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội: Kinh tế tăng trưởng khá, chính trị ổn định, quốc phịng - an ninh
được tăng cường, văn hóa - xã hội có bước phát triển mới; đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân được cải thiện; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng, đi
vào chiều sâu, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Quan hệ đối ngoại của Đảng không ngừng được mở rộng và tăng cường với các
chính đảng ở các nước khác nhau trên thế giới theo hướng đa phương và đa dạng
hóa các quan hệ. Cơng tác đối ngoại của Đảng cùng ngoại giao Nhà nước và đối
ngoại nhân dân kết hợp hài hòa đã tạo nên những thắng lợi to lớn trên mặt trận
ngoại giao, góp phần phát triển đất nước trong những năm qua. Kiên định mục
tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam XHCN giàu
mạnh”trong đó nổi bật là các thành tựu sau:
Thứ nhất, Việt Nam đã giữ vững được mơi trường hịa bình, ổn định,
thuận lợi cho phát triển, đưa các mối quan hệ đối ngoại quan trọng đi vào chiều
sâu, thực chất, hiệu quả. Hoàn thành việc xây dựng khuôn khổ quan hệ đối tác
với hầu hết các nước có ảnh hưởng lớn ở khu vực và trên thế giới như Trung



8
Quốc, Hoa Kỳ, Nga, Nhật, các nước EU, các nước cùng trong Cộng đồng
ASEAN… đi vào khuôn khổ ổn định, đồng thời mang lại ngày càng nhiều lợi
ích về kinh tế, thương mại, đầu tư, chính trị, quốc phịng, an ninh, văn hóa.
Thứ hai, cơng tác đối ngoại đã đóng góp tích cực vào việc thực hiện các
mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội. Việt Nam chủ động, tích cực trong việc đàm
phán và ký kết các Hiệp định Thương mại tự do (FTA), hội nhập sâu và toàn
diện hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Giai đoạn 2013–2015 là giai đoạn
cao điểm trong đàm phán, ký kết các FTA của Việt Nam. Ta đã hoàn thành ba
FTA song phương với các đối tác quan trọng của Việt Nam, bao gồm FTA với
Hàn Quốc (5/2015), FTA với Liên minh Kinh tế Á-Âu (5/2015) và FTA với Liên
minh châu Âu (12/2015). Đối với Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), Việt Nam
đã tích cực triển khai các biện pháp ưu tiên nhằm thực hiện Kế hoạch tổng thể
xây dựng AEC. Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia thành viên
có tỷ lệ thực hiện cao nhất các biện pháp trong Lộ trình AEC.
Tháng 10/2015, ta đã cùng các nước thành viên kết thúc đàm phán Hiệp định
Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP). Ta cũng tiếp tục đàm phán hiệp
định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) nhằm đạt được một thoả thuận kinh
tế toàn diện, phù hợp với điều kiện của Việt Nam và các nước ASEAN.
Ở cấp độ toàn cầu, tại Hội nghị Bộ trưởng Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) tháng 12/2013, Việt Nam đã cùng với các thành viên WTO thơng qua
“Gói cam kết thương mại Bali”, khai thông bế tắc trong đàm phán trong khuôn
khổ WTO đã kéo dài nhiều năm. Những hoạt động kinh tế đối ngoại này đã
đóng góp tích cực vào việc mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tăng
cường thu hút đầu tư, hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), thu hút khách du lịch,
đấu tranh chống những hành động gian lận thương mại, áp đặt các rào cản
thương mại làm tổn hại tới lợi ích chính đáng của doanh nghiệp và nhà nước ta.
Thứ ba, công tác đối ngoại đã góp phần quan trọng vào nhiệm vụ giữ

vững chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, bảo vệ an ninh Tổ quốc. Công tác biên giới
với Trung Quốc, Lào, Campuchia đều có tiến triển. Với Trung Quốc, hai bên đã


9
ký Hiệp định quy chế tàu thuyền đi lại tại khu vực tự do đi lại ở cửa sông Bắc
Luân và Hiệp định khai thác và bảo vệ tài nguyên du lịch khu vực thác Bản
Giốc. Chúng ta đã chủ động và tích cực duy trì đàm phán về vùng biển ngoài
cửa Vịnh Bắc Bộ. Với Lào, hai bên hoàn thành dự án tăng dày tôn tạo hệ thống
mốc giới, đạt được nhiều thỏa thuận trong việc phát triển đường biên giới hịa
bình, hữu nghị. Với Campuchia, hai bên đã hợp tác tốt giữ gìn an ninh, trật tự và
giải quyết ổn thỏa các vấn đề phát sinh ở khu vực biên giới; tiếp tục công tác
phân giới cắm mốc trên đất liền. Chúng ta đã tranh thủ được công luận quốc tế
lên tiếng ủng hộ lập trường chính nghĩa của Việt Nam, bác bỏ các yêu sách vô
lý, phản đối các hành động đơn phương thay đổi nguyên trạng, vi phạm luật
pháp quốc tế, nhằm duy trì hịa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải và
hàng không ở Biển Đông và khu vực. Công tác đối ngoại đã phối hợp chặt chẽ
với công tác bảo vệ pháp luật trong việc đẩy lùi và vô hiệu hóa các âm mưu và
hành động chống phá Đảng và Nhà nước ta trong các vấn đề dân chủ, nhân
quyền, tơn giáo.
Thứ tư, Việt Nam đóng góp nhiều sáng kiến quan trọng tại các diễn đàn đa
phương có tầm ảnh hưởng lớn như ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, ASEM, hợp
tác tiểu vùng Mekong… Vị thế của đất nước được nâng lên đáng kể với việc
chúng ta đăng cai thành công Đại hội đồng Liên minh nghị viện thế giới (IPU)
lần thứ 132, đóng góp tích cực cho Liên hợp quốc trong việc xây dựng và thơng
qua Chương trình nghị sự 2030 về phát triển bền vững, được các nước tin cậy
bầu với số phiếu cao vào Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 20142016, Ủy ban kinh tế - xã hội Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2016-2018, Ủy ban di sản
thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 2013-2017, lần đầu tiên tham gia lực lượng gìn
giữ hịa bình Liên hợp quốc (PKO).
Qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng

có ý nghĩa lịch sử trên các lĩnh vực của đời sống xã hội: Kinh tế tăng trưởng
khá, chính trị ổn định, quốc phịng - an ninh được tăng cường, văn hóa - xã hội
có bước phát triển mới; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện.


10
Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng, đi vào chiều sâu, vị thế và uy tín của Việt
Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Công tác đối ngoại đạt được những
thành tựu kể trên là nhờ đường lối đúng đắn của Đảng, sự chỉ đạo sát sao của
Lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Là kết quả của sức mạnh đoàn kết dân tộc, sự phối
hợp chặt chẽ của các bộ, ban, ngành và địa phương.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA
ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRONG TÌNH HÌNH MỚI
Kế thừa quan điểm chỉ đạo về đối ngoại của các kỳ Đại hội trước đây, Đại
hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra chủ trương có tính bước ngoặt
về đường lối đối ngoại trong điều kiện mới, thể hiện trên một số nội dung sau:
Trước hết, Đảng ta đã gắn nhận định về tình hình thế giới, khu vực và
thực tiễn của thời đại để xác định mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ đối ngoại trong
những năm tới. Trong 5 năm tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ cịn nhiều diễn
biến rất phức tạp, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức.
Hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Khu
vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đơng Nam Á đã trở thành
một cộng đồng, là trung tâm phát triển năng động nhưng cũng là khu vực cạnh
tranh chiến lược giữa một số nước lớn. Đây cũng là khu vực có nhiều nhân tố
bất ổn định, tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trên Biển Đơng cịn diễn ra
gay gắt. Các nước lớn đang điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa
cạnh tranh đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, tác động mạnh đến tình hình thế giới và
khu vực. Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy
tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao; tuy nhiên vẫn cịn nhiều khó
khăn, thách thức. Nhận thức của Đảng ta về tình hình thế giới, tình hình khu vực

cũng luôn đổi mới và sát thực tiễn trong giai đoạn mới, đây là một trong những
cơ sở trực tiếp để Đảng ta đưa ra quyết sách về đường lối đối ngoại cho phù hợp
trong những năm tới. Đảng ta đã nhận định: “Nhận thức đúng về xu thế của thời
đại và cục diện thế giới, khu vực, Đảng, Nhà nước đã có định hướng chỉ đạo và


11
các chính sách đúng đắn, kịp thời trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc”[2,
tr.152].
Thứ hai, Đại hội XII của Đảng đã đặt ra yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt
động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, giữ vững mơi trường hịa bình và tạo
điều thuận lợi để phát triển đất nước. Đảng ta xác định đây là một trong những
giải pháp quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 – 2020; đồng thời
là sự thể hiện nhận thức, đánh giá của Đảng ta về vai trị to lớn của cơng tác đối
ngoại trong tình hình mới. Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục
đưa các mối quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu. Triển khai mạnh mẽ định hướng
chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Nâng cao hiệu quả hội nhập
kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, các hiệp định thương mại
tự do thế hệ mới trong một kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi
ích của đất nước. Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc
phịng và an ninh… Cơng tác đối ngoại được đẩy mạnh sẽ tạo mơi trường quốc
tế thuận lợi, hịa bình, thiết thực góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, về mục tiêu và nhiệm vụ của đối ngoại, Đảng ta đã xác định
trong văn kiện Đại hội XII: mục tiêu tối thượng là bảo đảm lợi ích quốc gia dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và
cùng có lợi. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình,
hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn là đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm của cộng đồng quốc tế nhằm “phục vụ mục tiêu giữ vững mơi trường hịa
bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước,

nâng cao đời sống nhân dân; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần
vào sự nghiệp hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế
giới”[2, tr.34-35]. Sự đúng đắn trong quan điểm chỉ đạo của Đảng thể hiện ở
việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại là bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc
là một trong những vấn đề quan trọng nhất “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc


12
gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng
và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa
bình, hợp tác và phát triển... Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động
đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa
các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước”[2, tr.153].
Hiện nay trên thế giới, tất cả các nước đều coi trọng lợi ích quốc gia khi
thực thi chính sách đối ngoại. Đối với nước ta, xác định đường lối đối ngoại mà
đặt lợi ích quốc gia - dân tộc là mục tiêu hàng đầu là vừa phù hợp với xu thế
chung, vừa là ý Đảng lòng Dân và tạo sự đồng thuận cao trong xã hội.
Thứ tư, Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định phương châm và định
hướng lớn của hoạt động đối ngoại là “Đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan
hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và
thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”[2, tr.35]. Đẩy mạnh và làm
sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác chiến lược và các nước
lớn có vai trị quan trọng đối với phát triển và an sinh của đất nước, đưa khuôn
khổ quan hệ đã xác lập vào thực chất. Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại
các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc. Chủ động, tích cực
tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh...[2, tr.35]. Triển khai
đồng bộ hoạt động đối ngoại, cả về chính trị, an ninh, quốc phịng, kinh tế, văn
hóa, xã hội. Nâng cao chất lượng công tác tham mưu về đối ngoại và hội nhập
quốc tế. Tăng cường công tác thông tin đối ngoại, hội nhập quốc tế, tạo đồng
thuận trong nước và tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế đáp ứng yêu cầu xây

dựng và bảo vệ đất nước.
Thứ năm, Đảng lãnh đạo thống nhất, Nhà nước quản lý tập trung đối với
các hoạt động đối ngoại tạo nên diện mạo đa dạng với nội dung và hình thức
phong phú của đối ngoại Việt Nam trong tình hình mới. “Bảo đảm sự lãnh đạo
thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động
đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước
và đối ngoại nhân dân; giữa ngoại chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao


13
văn hóa; giữa đối ngoại với quốc phịng, an ninh”[2, tr.156]. Trong mỗi kỳ Đại
hội, Đảng ta đều có nghị quyết lãnh đạo, định hướng để tạo nên sự nhất quán và
tiếp tục thực hiện hoạt động đối ngoại. Kết luận số 73 của Bộ Chính trị khóa XI
về “Tăng cường quan hệ đối ngoại của Đảng trong tình hình mới”, hoạt động đối
ngoại Đảng tiếp tục được triển khai chủ động, tích cực, đa dạng, đa tầng nấc từ
Trung ương đến địa phương, cả kênh song phương và đa phương... trong tình
hình mới, tập trung vào một số trọng tâm lớn: phát huy vai trị chính trị, ngoại
giao kênh Đảng, tiếp tục tạo nền tảng chính trị vững chắc cho sự phát triển bền
vững, đi vào chiều sâu, thực chất quan hệ giữa nước ta với nước khác, nhất là
các nước láng giềng có chung biên giới, các nước đối tác lớn đã góp phần nâng
cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại.
Thứ sáu, Đảng ta rất chú trọng hoạt động đối ngoại với các Đảng anh em,
góp phần định hướng, giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quan hệ giữa Việt
Nam với một số nước, nhất là các nước láng giềng. Trong thời điểm khó khăn,
quan hệ ngoại giao giữa Đảng ta với các Đảng anh em đã góp phần hiệu quả
tháo gỡ vướng mắc, khai thơng bế tắc, giữ nhịp cho quan hệ nhà nước và tổng
thể quan hệ chung phát triển ổn định, lành mạnh, đúng hướng. Trong đó, chủ
động mở rộng và tăng cường quan hệ đối ngoại Đảng, đưa các mối quan hệ đi
vào chiều sâu, hiệu quả, thiết thực. Chú trọng tới khâu đột phá là quan hệ với
các đảng cầm quyền, tham chính, và những đảng có vị trí và vai trị quan trọng

trong việc hình thành và triển khai chính sách của các nước đối với Việt Nam.
Đồng thời, thông qua kênh quan hệ Đảng, góp phần củng cố đồn kết nội khối,
phát huy vai trò trung tâm, dẫn dắt của ASEAN trong khu vực, đóng góp tích
cực vào q trình xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh. Chủ động, tích cực
tham gia có hiệu quả cao vào các hoạt động đa phương chính đảng, theo đó phát
huy mạnh mẽ vai trò của Đảng ta tại Hội nghị quốc tế các chính đảng châu Á
(ICAPP), các hội nghị, hội thảo của các chính đảng ở các khu vực, nhằm tranh
thủ sự ủng hộ của các chính đảng, các lực lượng chính trị đối với cơng cuộc bảo


14
vệ và xây dựng đất nước, bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, đồng thời góp phần vào
phong trào tiến bộ trên thế giới.
Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô (cũ) và Đông Âu sụp đổ,
phong trào cộng sản quốc tế khủng hoảng trầm trọng, cách mạng thế giới lâm
vào thối trào, thì chủ trương củng cố và tăng cường tình đồn kết, hợp tác với
các Đảng Cộng sản, cánh tả và phong trào cách mạng, tiến bộ trên thế giới, thể
hiện lập trường kiên định trước sau như một của Đảng ta cũng chính là tình cảm,
là nghĩa vụ và trách nhiệm của một Đảng mácxít trong điều kiện hiện nay. Trong
bối cảnh quốc tế toàn cầu hố, việc Đảng ta đồn kết, củng cố và tăng cường
quan hệ, trao đổi kinh nghiệm và hợp tác mọi mặt với các chính đảng này chính
là thực hiện chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân trong tình hình mới. Điều
này khơng chỉ vì lợi ích kinh tế đơn thuần mà cịn có ý nghĩa rất quan trọng về
mặt chính trị và an ninh cho chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đồng thời cũng góp
phần thúc đẩy phong trào cộng sản và cách mạng trên thế giới.
Việc khẳng định tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và các
đảng khác thể hiện tư duy đối ngoại linh hoạt, mềm dẻo, sáng tạo cần thiết của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền ở các nước
nhằm trao đổi kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý đất nước, góp phần thúc đẩy
quan hệ mọi mặt giữa nước ta với nước mà đảng đó cầm quyền đã góp phần

nâng cao vị thế uy tín của Việt Nam trên các diễn đàn đa phương. Đương nhiên,
trong quan hệ với các đảng cầm quyền trên thế giới chúng ta cũng xác định rõ
các ngun tắc: độc lập tự chủ; bình đẳng; tơn trọng lẫn nhau, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau; cùng nhau thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác,
vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ; và Đảng ta không
quan hệ với các đảng, các tổ chức cực đoan.
Trong 30 năm đổi mới, nhất là trong 25 năm thực hiện Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), Đảng ta đã
không ngừng mở rộng và tăng cường quan hệ đa dạng với các chính đảng ở các
nước khác nhau trên thế giới, tích cực tham gia các diễn đàn, hội nghị, hội thảo


15
quốc tế của các Đảng Cộng sản và công nhân, các đảng cánh tả và các chính
đảng ở châu Á. Từ chỗ chỉ có quan hệ với các Đảng Cộng sản và công nhân, các
đảng cánh tả theo khuynh hướng cách mạng, giải phóng dân tộc là chủ yếu,
Đảng ta đã chủ động mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền, các đảng tham
chính. Đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có quan hệ ở các mức độ khác
nhau với trên 200 đảng ở 115 nước khắp các châu lục; trong đó có trên 100
Đảng Cộng sản và công nhân, hơn 40 đảng cầm quyền, gần 80 đảng đang tham
gia Quốc hội - Nghị viện các nước. Đồng thời, Đảng ta cũng thường xuyên tham
gia và tham gia có hiệu quả các diễn đàn đa phương chính đảng như: Cuộc gặp
quốc tế hàng năm của các Đảng Cộng sản và công nhân trên thế giới (IMCWP);
Hội nghị quốc tế các đảng chính trị châu Á (ICAPP); Diễn đàn Sao Paulo của
các đảng cánh tả....
Đây là kết quả của q trình cải biến cách mạng sâu sắc, tồn diện, triệt để,
khẳng định đường lối đổi mới của Đảng, trong đó có tư duy đối ngoại là hồn
tồn đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam và xu thế
phát triển của thời đại hiện nay. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam mở
rộng quan hệ với các đảng chính trị trên thế giới trong tình hình hiện nay là đúng

đắn, là cần thiết, nhằm tạo nên sự đồng thuận và cổ vũ cho đường lối đổi mới toàn
diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa giành thắng lợi.


16
KẾT LUẬN
Đường lối đối ngoại thời kỳ Đổi mới được Đảng ta khởi xướng từ năm
1986 và được bổ sung và hoàn chỉnh qua các kỳ đại hội. Đường lối đối ngoại đổi
mới của Đảng qua các kỳ Đại hội nhất là Đại hội XII đã thể hiện sự nhất quán,
sáng tạo và hệ thống với tầm cao mới.
Phát huy những thành tựu đã đạt được sau hơn 30 năm đổi mới toàn diện
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với kinh nghiệm lãnh đạo cách
mạng của Đảng sẽ phát huy sức mạnh tổng hợp để đưa sự nghiệp cách mạng
nước ta sang một bước ngoặt mới. Thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của
Đảng, trong thời gian tới hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế của nước ta sẽ
đạt được nhiều thành tựu to lớn, giữ vững mơi trường hịa bình và phát huy
ngoại lực sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để
thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại của Đảng, trong bối cảnh tình hình trong
nước và quốc tế tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, cần phải khẩn trương
quán triệt, cụ thể hóa đường lối thành chính sách, xây dựng và triển khai các kế
hoạch hành động cụ thể để thúc đẩy quan hệ với từng đối tác, trong từng lĩnh
vực; đồng thời, sẵn sàng các phương án đối phó với những diễn biến bất lợi của
tình hình. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, với đường lối đối ngoại thời kỳ
Đổi mới được thực tế kiểm nghiệm 30 năm qua và với nỗ lực của toàn Đảng,
toàn quân, toàn dân, chúng ta tin tưởng vững chắc rằng đối ngoại sẽ tiếp tục đạt
được những thành tựu mới, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa.


17

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Quan
hệ quốc tế, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: “Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XII”, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội - 2016



×