Khóa luận tốt nghiệp Đại học
GVHD: TS. Lê Văn Túc
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành công trình nghiên c ứu khoa học này là sự nỗ lực của cá
nhân và sự giúp đỡ của nhiều người . Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ
BGH Trường ĐHSP Hà Nội 2, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh,Trường ĐHSP Hà Nội đã tạo điều kiện, giúp đỡ cho Tôi trong quá trình
thu thập tư liệu.
Xin chân thành cảm ơn BCN Khoa Lịch Sử, cùng các Thầy, Cô giáo
trong khoa đã tận tình giúp đỡ, góp ý. Và đặc biệt xin chân thành cảm ơn Ts.
Lê Văn Túc, Giảng viên trường ĐHSP Hà Nội 2, trong suốt thời gian qua đã
giúp đỡ rất nhiều để Tôi hoàn thành đề tài khóa luận này một cách hoàn
chỉnh, cảm ơn tất cả các bạn trong tập thể lớp K34- CN Lịch sử đã có những
đóng góp quý báu giúp tôi hoàn thành công trình nghiên cứu khoa học này.
Với khả năng và trình độ còn hạn chế của một sinh viên chuẩn bị ra
trường nên trong quá trình thực hiện đề tài này, Tôi không tránh khỏi thiếu
sót, hạn chế trong khi nghiên cứu. Tôi rất mong các thầy cô và bạn bè đồng
nghiệp đóng góp ý kiến để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, ngày 3 tháng 5 năm 2012
Sinh viên
Lê Hữu Dũng
Lê Hữu Dũng
1
K34A – CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
GVHD: TS. Lê Văn Túc
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu khoa học này là do tôi tự
nghiên cứu, mọi thông tin, thông số đều được thẩm định qua tư liệu gốc và đã
thông qua Thầy giáo hướng dẫn.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này!
Hà Nội, ngày 3 tháng 5 năm 2012
Sinh viên
Lê Hữu Dũng
Lê Hữu Dũng
2
K34A – CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
GVHD: TS. Lê Văn Túc
MỤC LỤC
Trang
Phần 1: Mở đầu ........................................................................................... 5
1.Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 5
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài .......................................................................... 7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài ................................................... 8
4. Nhiệm vụ của đề tài khóa luận. ................................................................. 9
5. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ........................ 9
6 .Đóng góp của đề tài................................................................................. 10
7. Bố cục khóa luận ..................................................................................... 10
Phần 2: NỘI DUNG .................................................................................. 11
CHƢƠNG 1: ĐƢỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN 1996. ............................................................. 11
1.1.Bối cảnh lịch sử ..................................................................................... 11
1.1.1 Bối cảnh quốc tế. ................................................................................ 11
1.1.2 .Bối cảnh trong nước.......................................................................... 12
1.2. Đường lối và hoạt động đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam từ Đại
hội VI (12-1986) đến Đại hội VIII (6-1996). .............................................. 13
1.2.1.Đổi mới tư duy và hoạt động đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam
thời kì 1986-1989. ....................................................................................... 13
1.2.2. Những thay đổi lớn về mặt đối ngoại của Đảng thời kì 1989-1991. 19
1.2.3. Đảng ta thực hiện đường lối đối ngoại thời kì 1991-1996 với phương
châm “độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế”.... 23
1.2.3.1. Tình hình trong nước và quốc tế. ................................................... 23
1.2.3.2. Đường lối đối ngoại rộng mở của Đảng thông qua cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kì quá độ đi lên CNXH(4-1991)......................... 24
Lê Hữu Dũng
3
K34A – CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
GVHD: TS. Lê Văn Túc
1.3. Một số thành tựu đạt được và hạn chế, thách thức và cơ hội trong việc
thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng trong 10 năm đổi mới (1986-1996).32
1.3.1. Một số thành tựu đạt được trong 10 năm thực hiện đường lối đối
ngoại (1986-1996). ...................................................................................... 32
1.3.2. Một số tồn tại, hạn chế khó khăn và thách thức. .............................. 33
CHƢƠNG 2: ĐƢỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM THỜI KỲ (1996- 2006) ....................................................... 39
2.1. Tình hình thế giới, khu vực và trong nước. ......................................... 39
2.2. Nội dung và quá trình thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng thời kì
1996-2006.................................................................................................... 40
2.2.1. Nội dung đường lối, chính sách đối ngoại thông qua các Nghị quyết
và Đại hội Đảng. ......................................................................................... 40
2.2.2. Thực tiễn trong hoạt động đối ngoại thời kỳ 1996- 2006 ......................... 50
CHƢƠNG 3: NHỮNG THÀNH TỰU VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
RÚT RA TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐƢỜNG LỐI ĐỐI
NGOẠI CỦA ĐẢNG THỜI KỲ (1986-2006). ........................................ 56
3.1. Những thành tựu đạt được trong 20 năm Đảng và Nhà nước Việt Nam
thực hiện đường lối đối ngoại từ 1986- 2006. ............................................ 56
3.2. Bài học kinh nghiệm ............................................................................ 62
KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................ 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 71
MỞ ĐẦU
Lê Hữu Dũng
4
K34A – CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
GVHD: TS. Lê Văn Túc
1. Lý do chọn đề tài
Trải qua mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã
phải trải qua nhiều cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ, đã đánh thắng nhiều
đạo quân xâm lược hùng mạnh hơn ta gấp nhiều lần để giành lại và giữ vững
nền độc lập của mình và sự thống nhất của Tổ quốc. Trong cuộc đấu tranh ấy,
mặt trận đấu tranh ngoại giao đã được vận dụng vô cùng sáng tạo. Lịch sử hào
hùng của dân tộc đã ghi lại biết bao chiến công hiển hách, lòng yêu nước
nồng nàn, tinh thần đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm đã trở thành truyền
thống vô cùng quý báu của dân tộc ta.
Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân ta ngày hôm
nay chúng ta không thể không kể đến vai trò đặc biệt quan trọng của mặt trận
đấu tranh ngoại giao. Cùng với những hoạt động đấu tranh trên mặt trận quân
sự, những hoạt động trên mặt trận ngoại giao tạo thành sức mạnh tổng hợp
góp phần vào những thắng lợi to lớn của cách mạng.
Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng ta xem ngoại giao là một mặt trận, một nhân tố tạo nên sức mạnh của
dân tộc và chiến lược đấu tranh ngoại giao là một bộ phận trong chiến lược
chung của cách mạng, đó là sức mạnh của tinh thần đại đoàn kết dân tộc với
sức mạnh thời đại và sự kết hợp các nhân tố của cách mạng.
Lịch sử ngoại giao Việt Nam đã được thời gian chứng minh nó đã có bề
dày của lịch sử và truyền thống ngoại giao đã trở thành một phần của lịch sử
đấu tranh dân tộc. Nền ngoại giao Việt Nam thời hiện đại ra đời cùng với nhà
nước dân chủ công nông đầu tiên ở Việt Nam, ở Đông Nam Á, đã thấm nhuần
tư tưởng của Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác- Lênin. Tư tưởng ngoại giao Hồ
Chí Minh đã trở thành hệ thống các quan điểm về đường lối, chiến lược, sách
lược ngoại giao. Những hoạt động của Người luôn hướng vào việc thực hiện
Lê Hữu Dũng
5
K34A – CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
GVHD: TS. Lê Văn Túc
có hiệu quả mục tiêu chung của cách mạng nước ta, cũng như từng giai đoạn
cụ thể của cách mạng Việt Nam. Mục tiêu chung của cách mạng Việt Nam và
đó cũng là mong muốn trọn cuộc đời của Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc,
giải phóng xã hội, giải phóng con người nhằm xây dựng một nước Việt Nam
hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Những tư tưởng này của Người đã được Đảng ta vận dụng sáng tạo
trong quá trình cách mạng, vì vậy ngay từ khi mới ra đời nền ngoại giao đầy
sức chiến đấu góp phần bảo vệ chính quyền non trẻ trong bối cảnh thù trong,
giặc ngoài, duy trì hòa hoãn nhằm tranh thủ thời gian củng cố lực lượng,
chuẩn bị mọi điều kiện để chiến đấu trường kì khi hòa bình không thể cứu vãn
được nữa. Ngoại giao Việt Nam đã trở thành một mặt trận cách mạng trong 2
cuộc kháng chiến trường kì và gian khổ, góp phần cùng dân tộc làm nên
những thắng lợi vẻ vang, đưa đến ngày toàn thắng 30-4-1975, thống nhất đất
nước.
Bước sang thời kì đổi mới sau nhiều năm bị bao vây, cô lập về chính
trị, cấm vận về kinh tế nhưng vào những năm 1986-2006 với chính sách đúng
đắn, ngoại giao Việt Nam đã phá vỡ thế bao vây cô lập, mở cửa hội nhập với
khu vực và thế giới.
Thời kì 1986-1996, trong điều kiện tình hình thế giới diễn biến nhanh
và phức tạp, tình hình trong nước trì trệ và khủng hoảng nặng nề về kinh tếxã hội, ngoại giao Việt Nam càng trở nên mềm dẻo hơn, chuyển sang một
chặng đường mới đầy khó khăn và thách thức to lớn. Thời kì này Đảng ta xác
định chủ trương bình thường hóa mối quan hệ giữa các nước trong khối xã
hội chủ nghĩa, bình thường hóa quan hệ Việt – Trung, từng bước bình thường
hóa quan hệ Việt- Mỹ, phá thế bao vây cô lập, thực hiện đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế.
Lê Hữu Dũng
6
K34A – CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
GVHD: TS. Lê Văn Túc
Thời kì 1996- 2006 tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự
chủ, đa đạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế thông qua các nghị quyết
trung ương Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam Đại hội lần
thứ VIII, lần thứ IX,…
Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt thời kì
1986-2006 là một bộ phận trong đường lối đổi mới toàn diện để xây dựng đất
nước, nó luôn góp phần quyết định bảo vệ và phát huy thành quả cách mạng,
bảo đảm giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, xây dựng và phát
triển đất nước, ra đời yêu cầu bức thiết của công cuộc đổi mới với xu thế quan
hệ quốc tế của thời đại mới, chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa
đúng đắn, kịp thời đáp ứng yêu cầu của cách mạng. Chính sách đối ngoại đổi
mới đã đem lại những thành tựu mới đưa đất nước tiến mạnh tiến vững chắc
lên chủ nghĩa xã hội.
Vì vậy đường lối đối ngoại của Đảng luôn là vấn đề được quan tâm
nhất, bức thiết nhất. Muốn có một đất nước vững mạnh không chỉ là kinh tế,
chính trị, mà còn trên mặt trận ngoại giao giữ một vị trí vô cùng quan trọng
cho sự phát triển của Việt Nam trên chiến trường quốc tế. Cho nên đường lối
đối ngoại của Đảng trong thời kì đổi mới đã được Tôi chọn làm đề tài khóa
luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu vấn đề đường lối đối ngoại của Đảng ta trong thời kì
đổi mới 1986-2006 đã được nhiều tác giả, các nhà nghiên cứu, các hội thảo
khoa học đã bàn luận như: Bùi Trung Thành : “chính sách đối ngoại của
Đảng thời kỳ đổi mới (1986-1996)- luận án thạc sĩ khoa học lịch sử- Hà Nội
1994. Tuy nhiên đó chỉ là nhưng vấn đề nghiên còn nhỏ hẹp. Bên cạnh đó, còn
có một số luận án, luận văn đã bảo vệ đề cập đến chủ đề này như: Vũ Quang
Vinh: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hoạt động đối ngoại (1986 - 2000),
Lê Hữu Dũng
7
K34A – CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
GVHD: TS. Lê Văn Túc
Luận án tiến sĩ lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2001; Vũ
Đình Công: Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986- 1995),
Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997; v.v...
Tất cả các công trình nghiên cứu trên đề cập đến một số khía cạnh
đường lối đối ngoại của Đảng ta từ nhiều cách tiếp cận khác nhau. Và hoạt
động đối ngoại của Đảng xuyên suốt thời kì 1986-2006 là vấn đề chưa được
khai thác sâu đề tài này “ Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam
thời kì đổi mới(1986-2006) sẽ đi sâu khai thác để thấy rõ sự sáng suốt tài tình
của Đảng trong vấn đề ngoại giao quốc tế.
Vì vậy tôi chọn đề tài: " Đƣờng lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt
Nam thời kì đổi mới (1986- 2006) " làm khóa luận tốt nghiệp, chuyên ngành
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài này nhằm nghiên cứu hoạt động đối ngoại của Đảng trong thời kì
đổi mới (1986-2006), những thành tựu đã đạt được và những bài học quý giá
đối với ngoại giao Việt Nam. Từ việc hệ thống, khái quát, phân tích những
chủ trương, chính sách, làm rõ sự độc lập, sáng tạo của Đảng trong việc hoạch
định đường lối đối ngoại đổi mới.
Hoạt động đối ngoại của Đảng thời kì 1986-2006 có vai trò vô cùng
quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Đó là thời kì đất nước bước vào
công cuộc đổi mới toàn diện, thay đổi đất nước và tích cực, chủ động hội
nhập quốc tế, đa dạng hóa, đa phương hóa, trở thành bạn với tất cả các quốc
gia trên thế giới.
- Đánh giá những thành tựu và hạn chế khi thực hiện đường lối đối
ngoại của Đảng trong những năm 1986 - 2006; bước đầu nêu ra những kinh
nghiệm của công tác đối ngoại nhằm phục vụ công tác đối ngoại hiện nay.
Lê Hữu Dũng
8
K34A – CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
GVHD: TS. Lê Văn Túc
4. Nhiệm vụ của đề tài khóa luận.
- Phân tích biến động của tình hình thế giới, trong nước từ năm 1986
đến năm 2006.
- Nêu lên chủ trương, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng; làm rõ
sự đúng đắn, sáng tạo của đường lối đó; các phương pháp, cách thức thực
hiện đường lối đối ngoại của Đảng những năm 1986 - 2006.
- Thành tựu và một số kinh nghiệm của Đảng trong lãnh đạo thực hiện
đường lối đối ngoại những năm 1986 - 2006.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
- Dựa vào lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đường lối đối ngoại.
+ Các Văn kiện của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư về đường lối đối ngoại.
+Những cuốn sách về mặt trận ngoại giao 1945-2000, Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo hoạt động đối ngoại (1986-2000)- TS.Vũ Quang Vinh.
+Luận án thạc sĩ lịch sử, Hà Nội, 1997.Vũ Công Lưu: “ Chính sách đối
ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ 1986-1995”.
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; kết hợp chặt chẽ phương pháp
lịch sử với các phương pháp lôgíc, tổng hợp, phân tích, so sánh.
6 .Đóng góp của đề tài
- Tái hiện trên những nét chính yếu quá trình hoạch định và lãnh đạo
thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng từ 1986 - 2006.
- Hệ thống tư liệu bước đầu, góp phần tổng kết đường lối đối ngoại của
Đảng trong 20 năm đổi mới.
- Bước đầu rút ra một số kinh nghiệm cho công tác đối ngoại trong giai
đoạn hiện nay.
Lê Hữu Dũng
9
K34A – CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
GVHD: TS. Lê Văn Túc
Từ kết quả nghiên cứu của đề tài này tôi hy vọng sẽ giúp cho thế hệ trẻ
hiểu được đường lối ngoại giao của Đảng trong suốt thời kì đổi mới, đi lên
xây dựng Chủ nghĩa xã hội và đăt niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, đi theo
đường lối của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ đó biết cách ứng xử trong đời sống
xã hội, ứng xử với tinh thần đoàn kết quốc tế, từ đó càng thêm tự hào về lịch
sử hào hùng của dân tộc.
7. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, mục lục, khóa
luận gồm có ba chương như sau:
Chương 1: Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1986
đến 1996.
Chương 2: Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1996
đến 2006.
Chương 3: Những thành tựu và bài học kinh nghiệm rút ra trong quá
trình thực hiện đường lối đối ngoại thời kỳ (1986- 2006)
Lê Hữu Dũng
10
K34A – CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
GVHD: TS. Lê Văn Túc
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: ĐƢỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN 1996
1.1. Bối cảnh lịch sử
1.1.1. Bối cảnh quốc tế
Đầu năm 1975 cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã giành được
thắng lợi hoàn toàn, cả nước Việt Nam độc lập thống nhất, cùng thực hiện hai
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tình hình mới tạo nên những cơ hội
và thách thức mới.
Một là, từ cuối những năm 70, lực lượng quân sự trên thế giới có sự
thay đổi, Liên Xô ngày càng lớn mạnh đã tạo được thế cân bằng vũ khí chiến
lược với Mỹ. Trong nội bộ hệ thống chủ nghĩa đế quốc có sự thay đổi cơ
bản.Tây Âu và Nhật Bản những trung tâm kinh tế mới nổi lên cạnh tranh với
Mỹ. Sau thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Lào, Cămpuchia. Hệ thống
XHCN trên thế giới được mở rộng.
Hai là, hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội đã trở thành
xu thế của thời đại, là mũi tiến công trực diện vào chủ nghĩa đế quốc làm suy
yếu một bộ phận trong sợi dây chuyền của CNTB. Những năm 1976-1986 Mỹ
và hệ thống tư bản chủ nghĩa bị rơi vào khủng hoảng kinh tế, bị lạm phát và
suy thoái.
Ba là, CNTB đứng đầu là Mỹ sau 7 năm tiến hành hòa hoãn ĐôngTây, từ năm 1978 Mỹ thúc đẩy chạy đua vũ trang gây căng thẳng với Liên
Xô và các nước XHCN, thực hiện chiến lược “ Diễn biến hòa bình”. Trước
hết Mỹ lợi dụng triệt để sự bất đồng trong hệ thống XHCN, tiến hành bao
vây, cấm vận, cô lập hòng làm suy yếu Việt Nam và ủng hộ, nuôi dưỡng các
Lê Hữu Dũng
11
K34A – CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
GVHD: TS. Lê Văn Túc
thế lực thù địch trong nước tiến hành bạo động gây ra cuộc chiến tranh biên
giới Tây nam Việt Nam.
1.1.2 .Bối cảnh trong nước
Trong khi bối cảnh quốc tế tác động trực tiếp đến Việt Nam, cục diện
mới cũng tạo ra cho Việt Nam những thuận lợi và khó khăn đòi hỏi phải giải
quyết kịp thời. Việt Nam lúc này có những thuận lợi cơ bản là:
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu Nước đã giành được thắng lợi trọn
vẹn, đem lại quyền làm chủ đất nước cho nhân dân, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, Nhà nước, tư tưởng Hồ Chí Minh, cả nước chung tay khắc phục hậu
quả chiến tranh, cả nước đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Đất nước hòa
bình, độc lập thống nhất, lại tiếp thêm sức mạnh cho toàn dân tộc cùng xây
dựng cơ sở vật chất đó là những thuận lợi cho việc quá độ đi lên CNXH trong
phạm vi cả nước.
Về đối ngoại, uy tín của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được nâng cao trên trường quốc tế. Đến ngày 19-8-1976, Việt Nam đã có
quan hệ ngoại giao với 97 nước trên thế giới, nhiều tổ chức quốc tế đã dặt
quan hệ ngoại giao với Việt Nam, sẵn sàng giúp Việt Nam khắc phục hậu quả
của chiến tranh, ổn định sản xuất và đời sống.
Thuận lợi to lớn, những khó khăn cũng hết sức nặng nề. Hậu quả của
30 năm chiến tranh đã tàn phá nền kinh tế Việt Nam vốn đã nghèo nàn, lạc
hậu. Ở miền Nam hậu quả chiến tranh còn nặng nề hơn khi phải chịu sự tàn
phá trực tiếp của đế quốc Mỹ và tay sai.
Những thuận lợi và khó khăn trên đã đặt nhiệm vụ phải giữ vững và
phát triển những thành quả cách mạng đã đạt được, khôi phục và phát triển
kinh tế, chống lại các thế lực thù địch, rút kinh nghiệm để xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH trong đó nhiệm vụ đặt ra cho hoạt động đối
Lê Hữu Dũng
12
K34A – CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
GVHD: TS. Lê Văn Túc
ngoại thời kỳ này là: “ phải phá vỡ thế bao vây cô lập về chính trị, cấm vận về
kinh tế của đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch”(1).[7,tr 16].
1.2.Đƣờng lối và hoạt động đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam từ
Đại hội VI (12-1986) đến Đại hội VIII (6-1996).
1.2.1.Đổi mới tư duy và hoạt động đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam
thời kì 1986-1989
Để góp phần đề ra chính sách đối ngoại trong Đại hội VI của Đảng
ngay từ ngày 6-12-986, Bộ Chính trị đẽ đề ra nghị quyết số 32 về tình hình
thế giới và chính sách đối ngoại của Đảng ta. Nghị quyết đã khẳng định
những cố gắng về mặt đối ngoại của Việt Nam từ năm 1975 đến nay đã tăng
cường sự hợp tác toàn diện với các nước trong cộng đồng XHCN, góp phần
vào cuộc đấu tranh duy trì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và XHCN.
Nghị quyết cũng nhấn mạnh xu thế của thời đại đang tiến đến một thế
giới hòa bình, hợp tác, cùng phát triển trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền
mỗi quốc gia.Tuy vậy, đế quốc Mỹ vẫn chưa từ bỏ âm mưu bá chủ thế giới,
ráo riết chạy đua vũ trang. Tiến hành các vụ thử nghiệm hạt nhân, Mỹ đang
cùng các thế lực phản động chống Việt Nam tìm mọi cách để khống chế, tiêu
diệt 3 nước Đông Dương.
Nghị quyết xác định chính sách đối ngoại của Đảng và nhà nước Việt
Nam là ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại, góp
phần giữ vững hòa bình ở Đông Dương và Đông Nam Á và trên toàn thế giới,
củng cố quan hệ với Lào và Cămpuchia, tăng cường quan hệ hữu nghị hợp tác
toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng động các dân tộc trên thế giới,
xây dựng khu vực Đông Nam Á trở thành khu vực hòa bình, ổn định và hợp
tác cùng phát triển.
Sau mấy năm chuẩn bị công phu, Đại hội VI của Đảng được tiến hành
từ ngày 5 đến ngày 18-12-1986 tại Hà Nội.
Lê Hữu Dũng
13
K34A – CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
GVHD: TS. Lê Văn Túc
Đại hội VI (12-1986) đã giải quyết nhu cầu lịch sử đặt ra từ sau cuộc
kháng chiến chống Mỹ kết thúc mà Đại hội IV và Đại hội V còn chưa được
giải quyết được về cơ bản. Đó là tìm ra con đường để Việt Nam thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế- xã hội và tiến lên CNXH phù hợp với Việt Nam.
Đại hội VI cũng xác định nhiệm vụ đối ngoại “ ra sức kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại” Trong điều kiện mới là một quyết định đúng.
Một nhận thức mới của Đại hội VI và là quyết định đúng đắn của Đảng và
nhà nước Việt Nam.
Đại hội cũng đặt ra nhiệm vụ đối ngoại của Việt Nam là tranh thủ tối đa
các điều kiện quốc tế thuận lợi để thực hiện những mục tiêu tổng quát của
cách mạng Việt Nam. Trước hết trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn
phải giải quyết những vấn đề cấp bách như ổn định tình hình kinh tế- xã hội
và tạo ra những tiền đề cần thiết cho chặng đường tiếp theo. Đồng thời cũng
vạch ra phương hướng, giải pháp đối với từng đối tác cụ thể cho phù hợp với
sự thay đổi của nó trong xu thế phát triển chung của thế giới.
Đối với Liên Xô và các nước XHCN, Việt Nam coi Liên Xô là đối tác
quan trọng nên: “Tăng cường đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô luôn
là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam,
Liên Xô đóng một vai trò quan trọng trong hệ thống XHCN thế giới, luôn có
ảnh hưởng sâu sắc, giữ vai trò quyết định lớn trong cục diện thế giới. Sự giúp
đỡ của Liên Xô đối với Việt Nam là rất lớn lao”. [7,tr 51]
Việt Nam khẳng định tiếp tục tăng cường quan hệ hữu nghị hợp tác với
các nước thành viên Hội đồng tương trợ kinh tế và mở rộng quan hệ với các
nước XHCN khác hợp tác từ hình thức viện trợ kinh tế kỹ thuật tiến tới hợp
tác toàn diện trên mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng. Các nước
Lê Hữu Dũng
14
K34A – CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
GVHD: TS. Lê Văn Túc
cùng tham gia ký kết các hiệp định song phương, đa phương, để Việt Nam
đứng vững trên đôi chân của mình mà tiến lên. Từ cuối những năm 1970,
1980 để khắc phục tình trạng trì trệ khủng hoảng của các nước XHCN, nhiều
nước XHCN đã tiến hành cải tổ, cải cách như Liên Xô, Nam Tư, Hunggari…
tiếp đó Trung Quốc cũng tiến hành cải cách (12-1986), Liên Xô (1986), tình
hình thế giới thay đổi Việt Nam cũng tiến hành đổi mới.
Cuộc cách mạng Khoa học kĩ thuật và công nghệ hiện đại mở ra con
đường phát triển nhanh của nền kinh tế thế giới.
Nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội của các nước trong cộng đồng
quốc tế đang trong quá trình quốc tế hoá, toàn cầu hóa sâu sắc. Trước tình
hình đó, các nước lớn nhỏ đều phải điều chỉnh chiến lược với ưu tiên hàng
đầu là phát triển kinh tế. Hòa bình, độc lập, hợp tác để phát triển trở thành
nguyện vọng chung của các dân tộc trên thế giới. Tình hình ấy đã ảnh hưởng
lớn đến chính sách đối ngoại của Việt Nam. Trước mắt Việt Nam có thể lợi
dụng những thành tựu mới của khoa học kĩ thuật hiện đại để sớm khắc phục
cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội, đi vào đối thoại và cải thiện quan hệ với
Trung Quốc, các nước trong tổ chức ASEAN và một số nước khác nhằm phá
vỡ thế bị bao vây, cấm vận.
Đối với phong trào giải phóng dân tộc, thái độ trước sau như một của
Đảng và Nhà nước Việt Nam là ủng hộ phong trào. Sau khi Việt Nam giành
được độc lập, thống nhất đất nước, nhiều nước vốn là thuộc địa của chủ nghĩa
đế quốc đã vùng lên giành độc lập về chính trị. Ủng hộ phong trào giải phóng
dân tộc khẳng định quan điểm, lập trường của Việt Nam về mong muốn có
một thế giới hòa bình, không có sự phân biệt chủng tộc, cấm vận bất cứ một
nước nào.
Với Trung Quốc, nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc vốn có
quan hệ từ lâu đời, đã từng đoàn kết, giúp đỡ nhau trong đấu tranh chống Chủ
Lê Hữu Dũng
15
K34A – CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
GVHD: TS. Lê Văn Túc
nghĩa đế quốc, giành độc lập, tự do và xây dựng đất nước. Lợi ích chung của
cả hai nước đó là hòa bình, độc lập và phát triển kinh tế. Chính phủ và nhân
dân Việt Nam, trước sau như một, quý trọng và nhất định làm hết sức mình để
khôi phục tình hữu nghị nhằm sớm bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam
và Trung Quốc. Lập trường cơ bản của Việt Nam là lấy lợi ích cơ bản và lâu
dài của hai nước làm trọng. Việt Nam cho rằng: “ Việt Nam sẵn sàng đàm
phán với Trung Quốc bất cứ lúc nào, bất cứ cấp nào, bất cứ ở đâu nhằm bình
thường hóa quan hệ giữa hai nước, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa
bình ở Đông- Nam Á và trên thế giới.”(1) [7,tr 105].
Quan hệ Việt- Trung được xác định ở Đại hội VI cụ thể hơn hai kỳ Đại
hội trước. Sự thay đổi đó phù hợp với xu thế của thời đại và tình hình khu vực
cũng như nguyện vọng của nhân dân mỗi nước.
Đối với các nước trong hệ thống TBCN ( Thủy Điển, Nhật, Pháp,
Ôxtraylia, Phần Lan) và các nước phương Tây khác, Đảng và Nhà nước Việt
Nam chủ trương mở rộng quan hệ trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi. Việt
Nam chủ trương: “ ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh anh dũng của giai cấp
công nhân và nhân dân ở các nước TBCN, chống sự áp bức, bóc lột của
CNTB lũng loạn, chống chạy đua vũ trang hạt nhân, vì hòa bình dân chủ.
Ủng hộ chính sách đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng dân chủ và tiến bộ của
Đảng Cộng sản và công nhân anh em”(2) [7,tr 107].
.
Đối với Mỹ, Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương: “Tiếp tục bàn
bạc với Mỹ để giải quyết các vấn đề nhân đạo do chiến tranh để lại và sẵn
sàng cải thiện quan hệ với Mỹ vì lợi ích của hòa bình, ổn định ở Đông Nam
Á”(3)[Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đâị biểu toàn quốc lần thứ
VI. Trang 109].
Lê Hữu Dũng
16
K34A – CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
GVHD: TS. Lê Văn Túc
Đối với các nước có hệ thống chính trị khác, Việt Nam: “ chủ trương
luôn ủng hộ chính sách cùng tồn tại hòa bình giữa các nước có hệ thống
chính trị và xã hội khác nhau, loại trừ chiến tranh xâm lược và mọi hình thức
của chủ nghĩa khủng bố, nhất là chủ nghĩa khủng bố Nhà nước mà đế quốc
Mỹ coi là chính sách của họ”.(4) [ Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại
hội đâị biểu toàn quốc lần thứ VI. Trang 112].
Đại hội VI (12-1986) đó là đường lối đổi mới toàn diện đất nước tạo ra
sức sống mới cho đất nước và đã giành được những thành tựu quan trọng
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam đã tích lũy được một số kinh
nghiệm qua đổi mới từng phần, đất nước có truyền thống đoàn kết, yêu nước,
kiên cường, bất khuất gắn bó máu thịt giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Đại hội VI cũng đã tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc
đổi mới, phá vỡ thế bao vây, cô lập trên trường quốc tế, làm thất bại âm mưu
“Diễn biến hòa bình” của Chủ nghĩa đế quốc đối với Việt Nam, góp phần tích
cực vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội
của nhân dân thế giới trở thành nhu cầu cấp thiết.
Sau Đại hội VI, tình hình thế giới và trong nước diễn biến nhanh và
phức tạp. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại tạo ra xu thế hòa
hoãn để phát triển kinh tế, tác động tích cực đến công cuộc đổi mới xây dưng
và phát triển đất nước Việt Nam có thể tranh thủ những điều kiện mới của
khoa học công nghệ hiện đại để sớm khắc phục cuộc khủng hoảng kinh tế- xã
hội, đối thoại để cải thiện quan hệ với các nước trong khu vực.
Cũng lúc đó cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội ngày càng trầm trọng,
trong ba năm 1986- 1988 đã tác động tiêu cục đến tình hình kinh tế- xã hội
của Việt Nam như các mặt của đời sống xã hội, sản lượng lương thực, ngân
sách nhà nước, chất lượng giáo dục và hiệu quả của các ngành văn hóa, y tế
giảm sút. Hiệu lực quản lý của Nhà nước sút kém, kỷ cương và pháp luật bị vi
Lê Hữu Dũng
17
K34A – CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
GVHD: TS. Lê Văn Túc
phạm. Đạo đức xã hội suy giảm, tệ nạn xã hội tăng, trật tự an ninh xã hội lỏng
lẻo, dòng người di tản sang nước ngoài tăng, gây khó khăn về kinh tế- xã hội
cho đất nước xáo động nhân tâm, là cái cớ cho bọn đế quốc, phản động và
nhiều phần tử bất mãn ở trong nước lợi dụng chống Việt Nam dưới chiêu bài
“dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do”.
Lợi dụng tình hình khó khăn của kinh tế- xã hội các thế lực thù địch đã
tăng cường hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam, nhằm cản trở và làm
lệch hướng XHCN của công cuộc đổi mới. Đế quốc Mỹ tiếp tục siết chặt cấm
vận Việt Nam và dùng sức ép buộc các nước phản động chống Việt Nam.
Trước tình hình trên tháng 8- 1988 Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa VI đã thông qua nghị quyết 13 về nhiệm vụ và chính sách
đối ngoại trong tình hình mới.
Đây là mốc quan trọng trong việc đổi mới tu duy đối ngoại theo hướng
đổi mới. Với nội dung “giữ vững hòa bình phát triển kinh tế”. Nghị quyết
cũng nhấn mạnh nhiệm vụ ngoại giao phục vụ ổn định chính trị, ưu tiên phát
triển kinh tế là hàng đầu, đồng thời bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết nêu rõ các
chủ trương góp phần giải quyết vấn đề Cămpuchia, bình thường hóa quan hệ
với Trung Quốc, cải thiện quan hệ với ASEAN, mở rộng quan hệ với các
nước Tây, Bắc Âu và Nhật, từng bước bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Có
thể coi nghị quyết 13 là: “cơ sở để phát triển và nâng cao thành đường lối độc
lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa ngày nay”.(1) [ Đảng Cộng sản Việt
Nam: nghị quyết Hội nghị lần thứ 13 Ban chấp hành Trung ương Đảng(khóa
VI) Nxb Sự thật. H.2001,trang 4-5]
Như vậy, Đại hội VI (12-1986) đã quyết định đổi mới tu duy trên mọi
lĩnh vực của đời sống trước hết đổi mới tư duy về còn đường xây dựng Chủ
nghĩa xã hội. Đó là kết quả của những kinh nghiệm rút ra từ những thành tựu
cũng như những sai lầm trong 10 năm trước đó, sửa chữa những nhận thức
Lê Hữu Dũng
18
K34A – CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
GVHD: TS. Lê Văn Túc
duy ý chí về CNXH, khẳng định những chân lý đã được lịch sử hàng ngàn
năm trải nghiệm, đổi mới tư duy cho phù hợp với những bước phát triển mới
của xã hội loài người về vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
1.2.2. Những thay đổi lớn về mặt đối ngoại của Đảng thời kì 1989-1991
Tình hình thế giới cuối năm 1989 diễn biến nhanh và phức tạp. Đặc biệt
là sự biến động của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu. Các nước XHCN
bị khủng hoảng nghiêm trọng nhất từ trước tới nay. Ở một số nước, các lực
lượng chống CNXH đã nắm được chính quyền đưa đất nước đi theo con
đường TBCN. Đảng Cộng sản và công nhân trở thành thiểu số đối lập, có
đảng tan rã nhanh, có đảng bị phân liệt, có đảng chuyển sang khuynh hướng
xã hội dân chủ như Ba Lan, Hunggari, Tiệp Khắc và Cộng hòa dân chủ Đức.
Các nước đều rối ren về chính trị- xã hội đã tạo cơ hội cho các lực lượng
chống Chủ nghĩa xã hội nổi dậy hoạt động như Liên Xô, Anbani, Nam Tư…
Trước sự biến động lớn ở Liên Xô, các nước XHCN Đông Âu và Trung
Quốc, các thế lực thù địch ráo riết hoạt động, nuôi hy vọng gây nên những vụ
lộn xộn chính trị, xã hội để phối hợp với các hoạt động phá hoại khác nhằm
lật đổ nền XHCN ở Việt Nam.
Trước tình hình kinh tế- xã hội gặp nhiều khó khăn như vậy, trong 2
ngày 16 và 17-6-1989, Bộ Chính trị đã bàn một số vấn đề kinh tế cấp bách và
tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại mở rộng và chủ trương điều chỉnh
chiến lược quốc phòng. Vào tháng 7 và trong tháng 8-1989 Đoàn đại biểu
Chính phủ Việt Nam đã tham gia và đóng góp tích cực vào hội nghị quốc tế
lần thứ nhất về vấn đề Cămpuchia tại Pari. Hội nghị quốc tế lần này đã đạt
được những điểm tương đồng cơ bản, đặt cơ sở cho “một giải pháp toàn bộ về
cuộc xung đột bi thảm ở Cămpuchia” như Hội nghị tuyên bố.
Từ ngày 21 đến ngày 26-9-1989 Việt Nam đã rút quân tình nguyện còn
lại ở Cămpuchia cùng toàn bộ vũ khí, phương tiện theo ba đường bộ, sông,
Lê Hữu Dũng
19
K34A – CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
GVHD: TS. Lê Văn Túc
biển dưới sự quan sát của các tổ chức và phóng viên quốc tế. Cămpuchia đã
đánh giá việc rút quân tình nguyện của Việt Nam về nước đó là một sự kiện
có ý nghĩa lịch sử và là một đòn nặng đánh vào các thế lực thù địch luôn
xuyên tạc.
Việt Nam cũng từng bước chủ động thúc đẩy bình thường hóa quan hệ
với Trung Quốc, cải thiện một bước quan hệ với Thái Lan, củng cố quan hệ
hữu nghị với Inđônêxia….
Trong những tháng cuối năm 1989 đầu năm 1990, trong lúc công cuộc
đổi mới của Việt Nam đang chuyển biến tích cực thì tình hình các nước
XHCN Đông Âu và Liên Xô rất nghiêm trọng. Hàng loạt các nước XHCN ở
Đông Âu bị sụp đổ: Hunggari, Tiệp Khắc, Cộng hòa dân chủ Đức, Rummani,
Bungari, rồi sự li khai của Litsva khỏi Liên Xô và một số nước Cộng hòa
thuộc Liên Xô cũ cũng đòi li khai.
Sự sụp đổ của các nước XHCN ở Đông Âu và sự sụp đổ rệu rã của Liên
Xô đã tác động mạnh đến Việt Nam làm nhiều đảng viên và nhân dân lo lắng
cho vận mệnh của Đảng và CNXH ở Việt Nam. Trong nội bộ Đảng, kể cả
một vài cán bộ cấp cao nảy sinh khuynh hướng đa nguyên, đa đảng.
Trước tình hình đó, từ ngày 12 đến 27-3-1990 Hội nghị lần thứ 8 Ban
chấp hành TW Đảng (khóa VI) đã họp tại Hà Nội bàn về những vấn đề cấp
bách, giải đáp những yêu cầu nóng bỏng của tình hình quốc tế và trong nước.
Hội nghị nhận định đúng về tác động của cuộc khủng hoảng toàn diện và
nghiêm trọng của các nước XHCN đối với phong trào cách mạng thế giới,
nhưng chưa dự kiến được tình huống sụp đổ của CNXH ở Đông Âu và sự tan
rã của Liên Xô. Hội nghị nhận định: “ Nhìn chung, CNXH đang ở giai đoạn
khó khăn, thử thách gay go. Cuộc đấu tranh để bảo vệ và phát triển CNXH
đang diễn ra quyết liệt. Nhưng chúng ta tin tưởng rằng CNXH nhất định sẽ
vượt qua được thử thách từng bước khắc phục khó khăn, tiếp tục tiến lên” (1)
Lê Hữu Dũng
20
K34A – CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
GVHD: TS. Lê Văn Túc
[ Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành
Trung ương Đảng (khóa VI) Nxb Sự thật. H. 1990, tr 3-4.
Hội nghị đã xác định quan hệ giữa Việt Nam với Liên Xô và các nước
XHCN khác trong hoàn cảnh mới, thúc đẩy Đảng và nhân dân Việt Nam phải
tự lực vươn lên tự quyết các vấn đề của mình với tinh thần độc lập, tự chủ,
sáng tạo, khắc phục tư tưởng ỷ lại, chủ động hơn trong quan hệ quốc tế mở
rộng và đa dạng hóa quan hệ hợp tác, tham gia tích cực vào sự phân công lao
động quốc tế.
Đầu tháng 9-1990, để xúc tiến quá trình bình thường hóa quan hệ với
Trung Quốc, theo thỏa thuận của hai bên, Đoàn đại biểu cấp cao của Đảng và
Nhà nước Việt Nam do Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh dẫn đầu đã sang Trung
Quốc hội đàm với Đoàn đại biêu cấp cao Đảng và Nhà nước Trung Quốc do
Tổng bí thư Giang Trạch Dân dẫn đầu. Cuộc hội đàm Việt- Trung ở Thành
Đô (Tứ Xuyên) diễn ra trong bầu không khí đằm thắm và hiểu biết nhau hơn.
Thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Đối với vấn đề Cămpuchia: việc làm của Việt Nam là cơ sở để quan hệ
Việt Nam với Cămpuchia, một số nước láng giềng, một số nước trong khu
vực, một nước có truyền thống trên chiến hào đấu tranh giải phóng dân tộc,
ngày một phát triển theo tinh thần hữu nghị, hợp tác, bình đẳng và cùng có
lợi.
Giải quyết vấn đề Cămpuchia, Việt Nam còn tạo tiền đề phá vỡ sự cô
lập về chính trị, giúp cho những quốc gia, cá nhân trên thế giới, trong khu vực
hiểu đúng về Việt Nam, ngăn chặn dư luận không thiện chí, xuyên tạc sự thật
của các thế lực thù địch.
Giải quyết vấn đề Cămpuchia cũng tạo cơ sở để cải thiện quan hệ Việt
Nam- Trung Quốc, dần dần cải thiện quan hệ Việt Nam- Mỹ vốn là những cản
trở to lớn đến quan hệ Việt Nam và các nước khác trên thế giới.
Lê Hữu Dũng
21
K34A – CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
GVHD: TS. Lê Văn Túc
Đối với Mỹ: thời kỳ 1986-1991 quan hệ Việt- Mỹ diễn ra có những
bước chuyển theo sự đổi mới tư duy đối ngoại của Việt Nam. Dưới sự chỉ đạo
tư duy đối ngoại đổi mới theo Nghị quyết 13 Bộ chính trị, quan hệ Việt- Mỹ
được chú trọng cải thiện. Nghị quyết 13 Bộ chính trị cũng nhận định, Mỹ thất
bại cay đắng cuộc chiến tranh với Việt Nam và tìm mọi cách để xóa bỏ chế độ
XHCN ở Việt Nam nhưng không phải vì thế mà Việt Nam coi nhẹ quan hệ
với Mỹ. Mỹ là nước lớn, có tiềm lực, sau khi Liên Xô sụp đổ Mỹ vươn lên trở
thành siêu cường duy nhất. Việc nối lại quan hệ Với Mỹ đó là điều cần thiết
mà Nghị quyết 13 Bộ Chính trị đã nhận thức đúng đắn, sáng tạo phù hợp với
xu thế chung của thế giới.
Như vậy, thời kỳ 1989-1991 đường lối đối ngoại của Việt Nam ngày
càng được mở rộng và được điều chỉnh hợp lý với từng giai đoạn có sự biến
động của lịch sử trong nước và thế giới. Vai trò to lớn đó Đảng Cộng sản Việt
Nam đã tiến hành đổi mới toàn diện. Đất nước bước đầu đạt được những
thành tựu quạn trọng. Là một bộ phận của đường lối đổi mới, chính sách đối
ngoại của Đảng thời kỳ đầu đổi mới với việc đổi mới tư duy đối ngoại qua
Nghị quyết 13 Bộ chính trị đã góp phần tháo gỡ những khó khăn to lớn trong
việc giải quyết vấn đề Cămpuchia, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc,
từng bước bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Thực hiện đường lối độc lập, tự
chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, kết hợp ngoại giao chính trị
với ngoại giao kinh tế và các lĩnh vực khác, ngoại giao thời kỳ 1986-1991 này
đã góp phần to lớn trong việc phá vỡ thế bao vây, cô lập về chính trị, dỡ bỏ
rào cản cấm vận về kinh tế, mở rộng quan hệ với các nước trong cộng động
quốc tế, tạo tiền đề cho các bước tiếp theo.
1.2.3. Đảng ta thực hiện đường lối đối ngoại thời kì 1991-1996 với phương
châm “độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế”
1.2.3.1. Tình hình trong nước và quốc tế.
Lê Hữu Dũng
22
K34A – CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
GVHD: TS. Lê Văn Túc
Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII (
họp từ 17 đến 22-6-1991) trong bối cảnh đất nước và quốc tế có nhiều thay
đổi.
Từ Đại hội đại biển toàn quốc lần thứ VI của Đảng(12-1986) đường lối
đổi mới của Đảng do đại hội VI đề ra được ban chấp hành Trung ương Đảng
bổ sung, phát triển, cụ thể hóa nhiều nội dung quan trọng, đã đi vào cuộc sống
tạo ra sự chuyển biến rõ rệt trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Năng lực
sản xuất và tiềm năng của lực lượng sản xuất được giải phóng, khuyến khích
phát triển. Đời sống nhân dân dần được cải thiện và ổn định và niềm tin của
nhân dân vào công cuộc đổi mới ngày càng tăng lên. Mặc dù vậy Việt Nam
vẫn trong cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội. Sản xuất vẫn còn đình đốn, lạm
phát còn tăng cao(1991:67%). Nạn tham nhũng, bất công, tiêu cực vẫn còn
tràn lan. Đời sống của người lao động nhất là người làm công ăn lương và
một bộ phận nông dân vẫn tiếp tục giảm.
Đại hội VII được tổ chức thì tình hình thế giới cũng diễn biến phức tạp,
ảnh hưởng không tốt tới Đảng và Nhà nước Việt Nam. Sự sụp đổ của CNXH
ở các nước Đông Âu, sự tan rã của các tiểu bang ở Liên Xô, Những hoạt động
chống phá của các thế lực thù địch đối với hệ thống XHCN.
Quan hệ Việt- Trung mới được khởi động nhưng còn gặp nhiều trở ngại
như vấn đề chủ quyền biển Đông, vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa, vấn đề đòi
xóa bỏ cộng hòa Cămpuchia, đặt Cămpuchia dưới sự quản lý của Liên Hợp
Quốc, lấy vấn đề Cămpuchia làm điều kiện tiên quyết cho việc bình thường
hóa quan hệ Việt- Trung.
Năm 1990, chính sách ngoại giao của Mỹ có sự thay đổi, không ủng hộ
Chính phủ Liên Hợp quốc ba phái Cămpuchia, bắt đầu đàm phán với Việt
Nam về vấn đề Cămpuchia và bình thường hóa quan hệ với Việt Nam trên cơ
sở hợp tác. Theo đó Mỹ tiến hành bình thường hóa quan hệ với Việt Nam
Lê Hữu Dũng
23
K34A – CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
GVHD: TS. Lê Văn Túc
theo ba giai đoạn cùng với việc giải quyết vấn đề Cămpuchia. Đầu tiên khi
giải quyết vấn đề đình chiến lâu dài ở Cămpuchia, Mỹ sẽ bãi bỏ lệnh cấm vận
kinh tế khi tiến hành tổng tuyển cử ở Cămpuchia do Liên Hợp Quốc giám sát,
Mỹ sẽ bãi bỏ các biện pháp trừng phạt Việt Nam còn lại và quan hệ ngoại
giao toàn diện sẽ được thiết lập. Nhật Bản cũng cho rằng quan hệ kinh tế
Nhật- Việt cũng tùy thuộc vào vấn đề Cămpuchia.
1.2.3.2 Đường lối đối ngoại rộng mở của Đảng thông qua cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kì quá độ đi lên CNXH (4-1991).
Tình hình trong nước và quốc tế đặt ra cho Đại hội VII nhiệm vụ lịch
sử là tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao và đi vào chiều sâu của công cuộc đổi mới,
tìm thêm giải pháp đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, đồng
thời ngăn chặn ảnh hưởng xấu do việc CNXH ở Đông Âu sụp đổ và Liên Xô
tan rã từng phần, từ đó khẳng định phát triển đường lối đổi mới, hình thành
những đường nét cơ bản về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.
Đại hội đã tổng kết việc thực hiện nghị quyết Đại hội VI, đánh giá
thành tựu, khuyết điểm, phân tích nguyên nhân và bài học đổi mới. xác định
phương hướng, mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu của 5 năm 1991-1995. Đại hội
VII đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ qua độ đi lên
xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đã phân tích một cách toàn diện các quá trình chính trị- xã hội
trên thế giới ngày nay, cả mặt thuận lợi và khó khăn. Về Chủ nghĩa xã hội,
Đảng ta vừa khẳng định những thành tựu to lớn về mọi mặt của nó trong quá
trình hình thành và phát triển, đồng thời cũng nêu lên nguyên nhân chủ quan
bên trong của sự khủng hoảng là: “ Duy trì quá lâu những khuyết tật của mô
hình CNXH, chậm trễ trong cách mạng khoa học công nghệ” ngoài ra còn có:
“ Các thế lực đế quốc đang lợi dụng những sai lầm khó khăn đó đẩy mạnh
Lê Hữu Dũng
24
K34A – CN Lịch sử
Khóa luận tốt nghiệp Đại học
GVHD: TS. Lê Văn Túc
cuộc phản kích quyết liệt nhằm xóa bỏ các nước XHCN ”.(1) [Đảng Cộng sản
Việt Nam: Văn kiện Đại hội đâị biểu toàn quốc lần thứ VII. Trang 93].
Trong bối cảnh đầy khó khăn đó, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn vững
niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của CNXH: “ Lịch sử thế giới đang trải qua
những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH
vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử ”.(2) [Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Trang 102].
Đánh giá về CNTB, cương lĩnh không có cái nhìn giản đơn về sự tiêu
vong nhanh chóng của chúng mà đánh giá một cách khách quan những tiềm
năng còn có của CNTB nhờ ứng dụng khoa học công nghệ, cải tiến cơ cấu sản
xuất…Cương lĩnh còn khắc họa bức tranh toàn cảnh thế giới đó là cuộc đấu
tranh giai cấp và dân tộc gay go và phức tạp vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội.
Kế tục chính sách đối nội, mục tiêu, nhiệm vụ trong chính sách đội
ngoại gắn với mục tiêu của chính sách đối nội nêu trong cương lĩnh và chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội, về lâu dài là mục tiêu “ dân giàu ,
nước mạnh theo con đường XHCN. Để thực hiện được mục tiêu đó, mục tiêu
của chính sách đối ngoại là: : “ Tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi lên CNXH, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh
chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội”. Và quan điểm, đa dạng hóa, đa phương hóa đã tiếp tục được khẳng
định trong tình hình mới, đó là: “ Hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả
các nước không phân biệt chế độ chính trị- xã hội khác nhau trên cơ sở
những nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”.(3) [Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn
kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Trang 109].
Để thực hiện chính sách đối ngoại đổi mới, Việt Nam cần hợp tác nhiều
mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực
Lê Hữu Dũng
25
K34A – CN Lịch sử