Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

tiểu luận tổ chức hành chính nhà núowc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.03 KB, 36 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nền kinh tế thị trường (và nói chung mọi nền kinh tế) đều có 2 mặt: tích
cực và tiêu cực. Cạnh tranh là chất xúc tác có tác dụng kích thích tính năng động
sáng tạo, huy động tối đa tiềm lực trí tuệ của con người, cộng đồng và xã hội. Song
cạnh tranh cũng làm xuất hiện những thứ không lành mạnh như chủ nghĩa cá nhân
cực đoan, tính cơ hội và nói chung là thói ích kỷ, sự xấu xa vốn là mặt trái trong
bản năng của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhận xét: “mỗi con người đều
có cái thiện và cái ác ở trong lòng”. Mâu thuẫn và xung đột xã hội cũng từ đây mà
ra. Mọi mâu thuẫn xã hội đều có nguồn gốc từ mâu thuẫn giữa các cá nhân, nhóm,
cộng đồng, tầng lớp, giai cấp, quốc gia mà ra. Theo “Từ điển sơ lược xã hội học”,
xung đột xã hội là giai đoạn phát triển cao nhất của mâu thuẫn trong hệ thống các
quan hệ giữa con người, các tập đoàn xã hội, các thiết chế xã hội, xã hội nói chung;
được đặc trưng bằng sự đẩy mạnh các khuynh hướng và lợi ích đối lập nhau giữa
các cộng đồng xã hội và các cá nhân với nhau.
Nhiều mâu thuẫn và xung đột hơm nay cịn là sự tích tụ của mâu thuẫn và
xung đột trước đây, là kết quả của việc xử lý các mâu thuẫn và xung đột trước đây.
Xung đột xã hội là một hiện tượng đã tồn tại lâu dài trong lịch sử và sẽ còn tồn tại
cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Xung đột xã hội một mặt là hiện tượng
khách quan, tất yếu, mặt khác là kết quả của hoạt động có chủ đích của con người.
Do đó, vấn đề là phải thấy được q trình vận động và sự đấu tranh của 2 mặt thiện
ác, giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái đúng và cái sai và quan trọng hơn là phải làm
cho cái tốt, cái đúng được thắng thế, được phát huy, được đơm hoa kết trái.
Q trình phát triển ln có sự chuyển đổi các giá trị đạo đức và mối quan
hệ giữa đạo đức và pháp luật và điều này đòi hỏi phải giải quyết đúng đắn mối quan
hệ giữa đạo đức và pháp luật trong quản lý phát triển xã hội. Hê - ghen nói: “đạo
đức là hình thái cao nhất trong sự phát triển của ý niệm pháp lý”. Do đó, khi nói
đến kiểm sốt, xử lý mâu thuẫn, xung đột xã hội thì khơng thể khơng bàn đến mối
quan hệ gắn bó hữu cơ giữa đạo đức và pháp luật. Ở đây xuất hiện 2 câu hỏi (1) đạo
đức bàn ở đây là đạo đức nào và (2) pháp luật là phục vụ ai. Để kiểm soát, xử lý
mâu thuẫn, xung đột xã hội nhất thiết phải có các bộ công cụ mà trước hết là các


chuẩn mực và quy phạm; cần có hệ thống kiểm sốt, xử lý mâu thuẫn, xung đột xã
hội vận hành với các thiết chế phù hợp và con người đủ năng lực (thể lực, trí lực và
tâm lực). Việc giải quyết mâu thuẫn và xung đột xã hội có thể thúc đẩy hoặc kìm
hãm xã hội vận động theo hướng phát triển hơn. Đối với chúng ta, đương nhiên là
xây dựng đạo đức và pháp luật trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và
quan hệ giữa đạo đức và pháp luật là trong phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN.


Khoảng 10 năm trở lại đây, ở Việt Nam, hàng loạt vụ xung đột lợi ích của
cán bộ, cơng chức, viên chức đã được phanh phui và xử lý. Đó là chuyện lạm dụng
chức vụ, quyền hạn để bổ nhiệm người nhà, cả họ làm “quan”; chuyện “nâng đỡ
không trong sáng”; chuyện lãnh đạo, cán bộ các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước
móc ngoặc với cá nhân, tổ chức ở khu vực ngồi nhà nước hình thành các nhóm lợi
ích “sân trước, sân sau” gây thiệt hại cho Nhà nước… Hay phổ biến hơn, chuyện
cán bộ, công chức, viên chức nhũng nhiễu doanh nghiệp, người dân thay vì thực
hiện đúng bổn phận là “cơng bộc” của dân. Do đó, việc luật hóa “xung đột lợi ích”
là rất cấp thiết và kịp thời.
Vì những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Kiểm sốt xung đột lợi ích trong
hoạt động cơng vụ nhằm phòng ngừa tham nhũng ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài
nghiên cứu kết thúc môn học Tổ chức và Nhân sự Hành chính Nhà nước.
Trong q trình nghiên cứu, thu thập tài liệu và viết tiểu luận khơng tránh
khỏi thiếu sót do kiến thức cịn có nhiều hạn chế, và cách thu thập tài liệu cũng như
khả năng lập luận các luận điểm chưa thực sự khoa học. Kính mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của quý thầy cô phụ trách bộ môn và các bạn cùng lớp để tác giả
hoàn thành bài tiểu luận đạt kết quả tốt nhất
Xin chân thành cảm ơn !
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
- Ngân hàng thế giới, Kiểm sốt xung đột lợi ích trong khu vực công – Quy
định và thực tiễn ở Việt Nam, 2015

- Hồng Văn Ln, Quản trị xung đột lợi ích – các lý thuyết và vấn đề đặt ra
ở Việt Nam hiện nay, />năm 2015
- Vũ Công Giao, Đỗ Thu Huyền: “Kinh nghiệm quốc tế về phòng ngừa,
quản lý xung đột lợi ích của thế giới”, Tạp chí Nội chính, số 31 tháng 3/2016.
- Tham nhũng từ góc nhìn của người dân, doanh nghiệp và cán bộ, công
chức, viên chức (nghiên cứu của Thanh tra Chính phủ và Ngân hàng Thế giới), Nxb
CTQG, H.2012.
- Kiểm sốt xung đột lợi ích theo quy định của Luật Phòng, chống tham
nhũng, Sở Tư pháp Hà Tĩnh, 2019.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề cơ bản nhất của lợi ích nhóm và xung đột lợi ích
nhóm, từ đó đưa ra luận điểm, phân tích thực trạng và đưa ra giải pháp chống tham
nhũng hiện nay của Việt Nam.


4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Hoạt động công vụ trong cơ quan tổ chức, nhân sự hành chính Nhà nước.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Nhận diện rõ bản chất của xung đột lợi ích, xác định rõ nội hàm và sự cần
thiết của việc kiểm sốt xung đột lợi ích, có thể nhận thấy những vai trị to lớn của
nó trong phịng ngừa tham nhũng. Cần phải khẳng định rằng bản thân xung đột lợi
ích khơng phải là tham nhũng tuy nhiên nếu khơng được nhận dạng và kiểm soát
đúng cách, xung đột lợi ích sẽ là cơ hội cho tham nhũng nảy sinh. Ngay cả trong
trường hợp không xảy ra tham nhũng, xung đột lợi ích khơng được kiểm sốt tốt
cũng làm suy giảm lịng tin của cơng chúng đối với bộ máy cơng quyền. Vì vậy,
kiểm sốt xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ trở thành yêu cầu khách quan ở
mọi nền dân chủ.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc kiểm sốt xung đột lợi ích, nhiều
quốc gia đã có những quy định hết sức cụ thể để kiểm sốt xung đột lợi ích. Mục
tiêu của việc kiểm sốt xung đột lợi ích là bảo vệ tính liêm chính của chính quyền,

bảo vệ lịng tin của cơng chúng, góp phần phòng ngừa tham nhũng. Ở các nền dân
chủ hiện đại, xung đột lợi ích trong khu vực cơng được đề cập và nghiên cứu tương
đối toàn diện, được nhận dạng và quản lý một cách bài bản, có hệ thống. Xung đột
lợi ích được nhìn nhận và giải quyết một cách chủ động thông qua việc cá nhân
công chức kê khai các mối quan hệ có nguy cơ xảy ra xung đột lợi ích theo những
hướng dẫn chi tiết, cụ thể của cơ quan nhà nước. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền
tiếp tục hỗ trợ bằng việc rà soát và liên tục kiểm soát về các mối quan hệ có nguy
cơ xảy ra xung đột lợi ích của công chức, đặc biệt là những công chức ở cấp cao,
các nhà lãnh đạo. Khi phát hiện có xung đột lợi ích, cơ quan có thẩm quyền cũng
đưa ra những hướng dẫn hết sức cụ thể để cá nhân công chức có hành động phù
hợp.


NỘI DUNG
CHƯƠNG I
Những vấn đề cơ bản về xung đột lợi ích
trong hoạt động cơng vụ
1.1. Khái niệm xung đột lợi ích và kiểm sốt xung đột lợi ích trong hoạt
động cơng vụ
1.1.1. Khái niệm xung đột lợi ích
Theo định nghĩa của từ điển: Xung đột là đụng chạm, mâu thuẫn sâu sắc với
nhau. Lợi ích là điều cần thiết và có lợi cho mình. Như vậy, xung đột lợi ích là tình
huống đụng chạm, mâu thuẫn sâu sắc giữa các lợi ích. Có thể hiểu là trong tình
huống xung đột, các lợi ích sẽ làm tổn hại lẫn nhau, đạt được lợi ích này thì khơng
đạt lợi ích kia hoặc ngược lại. Trong tư duy biện chứng, xung đột nói chung và
xung đột lợi ích nói riêng được đề cập ở khía cạnh đấu tranh của các mặt đối
lập. Triết học Mác xít cho rằng các mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh lẫn
nhau. Hơn nữa, đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối. Tiếp cận sự vật, hiện
tượng dưới góc độ đấu tranh của các mặt đối lập (xung đột) như vậy được xem
là truyền thống biện chứng.

Dưới góc độ luật học,“Xung đột lợi ích được hiểu là sự vi phạm, xâm phạm
hoặc làm tổn hại lẫn nhau giữa các lợi ích trong một quan hệ nhất định”. Đây là
quan niệm phổ biến trong tiếp cận luật học. Mặc dù có những sắc thái cụ thể khác
nhau song các nhà nghiên cứu luật đều cho rằng xung đột lợi ích là sự vi phạm,
xâm phạm của lợi ích này đối với lợi ích khác.
Phụ thuộc vào chủ thể của lợi ích, có thể phân chia xung đột lợi ích thành
nhiều cấp độ khác nhau như xung đột giữa các lợi ích của cùng một cá nhân, xung
đột lợi ích giữa các cá nhân, xung đột giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, xung
đột lợi ích giữa tập thể với tập thể. Tập thể ở đây có thể là nhóm người, tổ chức hay
cao hơn nữa là nhà nước. Trong các cấp độ xung đột lợi ích nói trên, xung đột giữa
các lợi ích của cùng một cá nhân là loại xung đột lợi ích đặc biệt nhất về mặt chủ
thể và thường được nhắc đến với tính cách là tình huống xung đột giữa các lợi ích
cá nhân của người đó với những lợi ích cơng mà người đó phải bảo vệ. Xung đột
lợi ích ở cấp độ này chính là xung đột lợi ích cần được kiểm sốt để phịng, chống
tham nhũng.
Nghiên cứu xung đột lợi ích từ phương diện triết học ta nhận thấy nhu cầu,
lợi ích của con người là khơng có điểm dừng hay khơng bao giờ được hồn tồn
thỏa mãn, do đó con người ln có khát vọng, động cơ thôi thúc hoạt động không
ngừng. C. Mác từng khẳng định khi nhu cầu đầu tiên được thỏa mãn sẽ đưa tới


những nhu cầu mới và coi sự sản sinh ra những nhu cầu mới này là nguồn gốc của
các hành vi lịch sử của con người. Hơn nữa, theo C.Mác, các chủ thể, nhất là chủ
thể cá nhân ln có tâm lý ích kỷ, chỉ nghĩ đến và thực hiện lợi ích của mình mà
khơng nghĩ đến lợi ích của chủ thể khác. Tính khơng biết đến mức độ như là bản
tính của lợi ích đã dẫn đến tính bản năng vơ pháp luật của chủ thể lợi ích10. Thuộc
tính cố hữu này tạo nên tính khách quan của sự cạnh tranh, đấu tranh của các lợi ích
trong một quan hệ nhất định hay nói cách khác là cơ sở khách quan của xung đột
lợi ích trong xã hội. Với bản tính đó, trong hoạt động thực tiễn, các chủ thể khơng
ngừng tìm kiếm các cơ hội, điều kiện, các lợi thế, thậm chí, các mánh khóe (C.

Mác) để thực hiện và biện hộ cho lợi ích của mình.
Khi nhà nước ra đời, quyền lực công được trao cho một số ít người. Với
tính cách là những con người xã hội ln tìm cách thực hiện và biện hộ cho lợi ích
của mình, những con người cụ thể đó ln có xu thế sử dụng quyền lực cơng cho
những lợi ích cá nhân của mình. Ngay từ thời xa xưa khi nhà nước mới hình thành
xã hội dường như đã đương nhiên chấp nhận việc vua chúa làm lợi cho bản thân và
gia đình của họ. Dần dần, xã hội ngày càng phát triển cùng với sự hình thành và
phát triển của nền dân chủ đã tạo ra cái nhìn đúng đắn về bản chất của quyền lực
công. Quyền lực công không phải do chúa trời tạo ra và ban phát cho cá nhân ai đó,
mà chính là quyền lực của cộng đồng được giao phó cho những người đại diện.
Trong nhà nước dân chủ thì nhà nước là chủ thể được lựa chọn để nắm giữ quyền
lực công. Qua nhiều kênh ủy thác, quyền lực được thực thi bởi những cá nhân cụ
thể. Khi thực hiện quyền lực công này, cá nhân được kỳ vọng phải thực hiện nó
theo cách khách quan và vô tư nhất, chịu sự chi phối tồn diện và duy nhất bởi lợi
ích của cộng đồng. Lợi ích của cộng đồng, hay nói khác đi là lợi ích cơng, chính là
động cơ, động lực thúc đẩy hoạt động của cá nhân. Tuy nhiên, như đã phân tích ở
trên, con người ln có xu hướng hành động để bảo vệ lợi ích cá nhân của mình do
đó khi ở trong một hồn cảnh phải chọn lựa giữa lợi ích cơng và lợi ích cá nhân thì
xu thế chung sẽ là phải bảo đảm cho lợi ích cá nhân trước. Có thể khẳng định rằng
khi đã bị lợi ích cá nhân chi phối thì cá nhân được trao quyền lực cơng khơng cịn
vơ tư và khách quan nữa. Khi đó, trong con mắt của cơng chúng, khơng có gì có thể
bảo đảm chắc chắn rằng cá nhân đó sẽ hành xử theo cách khách quan và cơng bằng
nhất.
Khi tất cả cơng chức có lợi ích hợp pháp như cơng dân, xung đột lợi ích là
khơng thể né tránh hoặc bị cấm mà nó cần được xác định rõ ràng và kiểm soát phù
hợp. Từ trước tới nay, việc định nghĩa thuật ngữ xung đột lợi ích đã là chủ đề của
nhiều phương pháp khác nhau, cũng không có một định nghĩa mang tính chất tồn
cầu về xung đột lợi ích. Trong một nghiên cứu vào năm 2005, Tổ chức hợp tác và
phát triển kinh tế (OECD) đã đưa ra định nghĩa xung đột lợi ích như sau: “Một
xung đột lợi ích bao gồm xung đột giữa cơng vụ và lợi ích cá nhân của cơng chức,

trong đó lợi ích từ năng lực cá nhân của cơng chức có thể ảnh hưởng khơng đúng


đến việc thực hiện những nhiệm vụ và trách nhiệm chính thức của họ”. Định nghĩa
này đã xác định rõ sự vật xung đột là lợi ích cá nhân của cơng chức và trách nhiệm
chính thức của họ. “Ảnh hưởng không đúng’ được hiểu là những ảnh hưởng theo
chiều hướng tiêu cực, làm cho việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, cơng chức
khơng cịn bảo đảm tính khách quan, vô tư.
Gần đây nhất, trong một nghiên cứu về kiểm sốt xung đột lợi ích, Ngân
hàng Thế giới (World Bank) cũng đưa ra định nghĩa về xung đột lợi ích. Theo
đó, “xung đột hay mâu thuẫn lợi ích là tình huống trong đó một cán bộ, cơng chức,
trong thẩm quyền chính thức của mình, đưa ra hoặc phải đưa ra các quyết định
hoặc có những hành động có thể tác động tới lợi ích cá nhân của họ”. Định nghĩa
này đã chỉ ra đặc điểm của xung đột lợi ích là tình huống mà khơng phải hành vi,
đồng thời đã cụ thể hóa lợi ích cơng trong xung đột là quyết định hoặc hành động
trong thẩm quyền của cán bộ, công chức. Tuy nhiên, định nghĩa này chưa xác định
rõ tính chất của tác động của lợi ích cá nhân tới lợi ích cơng phải bảo vệ.
Một số nhà lập pháp của Việt Nam bước đầu đưa ra quan niệm“Xung đột
lợi ích là tình huống mà trong đó lợi ích của người có chức vụ, quyền hạn hoặc
người thân thích của họ tác động hoặc sẽ tác động không đúng đến việc thực hiện
nhiệm vụ, công vụ”. Định nghĩa này tương tự định nghĩa của Ngân hàng thế
giới, tuy nhiên, có sử dụng thêm thuật ngữ “người thân thích” có thể sẽ gây khó
khăn cho việc giải thích thuật ngữ pháp lý.
Từ nhận thức về bản chất của xung đột lợi ích, kế thừa những điểm hợp lý
trong các quan niệm nêu trên, có thể quan niệm: “xung đột lợi ích là tình huống
trong đó lợi ích cá nhân của cán bộ, cơng chức có thể ảnh hưởng khơng thích hợp
đến việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, cơng chức đó”. Lợi ích cá
nhân bao gồm mọi lợi ích vật chất và phi vật chất của cán bộ, công chức. Bổn phận,
nhiệm vụ của cán bộ, công chức là tất cả những việc công chức phải làm trong
phạm vi chức trách, nhiệm vụ của mình, bao gồm việc ra quyết định hoặc những

hành vi khác. “Ảnh hưởng khơng thích hợp” được hiểu là những ảnh hưởng theo
chiều hướng tiêu cực, làm cho việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cán bộ,
cơng chức khơng bảo đảm tính khách quan, vơ tư.
Xung đột lợi ích và tham nhũng là hai khái niệm khác nhau nhưng có mối
liên hệ vô cùng gần gũi với nhau. Theo quan niệm phổ biến hiện nay, tham nhũng
là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để
thu lợi. Như vậy, xung đột lợi ích và tham nhũng có một số điểm tương đồng và
khác biệt. Về chủ thể, xung đột lợi ích và tham nhũng có cùng chủ thể là cán bộ,
cơng chức. Về trạng thái, xung đột lợi ích là tình huống, tham nhũng là hành vi. Về
tính chất, xung đột lợi ích mang tính khách quan, tham nhũng là hành vi chủ quan
của cán bộ, cơng chức. Trong tình huống xung đột lợi ích, hành vi của cán bộ, cơng
chức bị coi là tham nhũng khi lựa chọn lợi ích cá nhân. Như vậy, có thể khẳng định,


xung đột lợi ích, nếu khơng được nhận diện và kiểm sốt đúng đắn, chính là tiền
đề, là điều kiện thuận lợi làm nảy sinh tham nhũng
Xem xét xung đột lợi ích địi hỏi phải xem xét hai vấn đề, thứ nhất cần xem
xét các loại lợi ích cá nhân của cán bộ, công chức, thứ hai cần xem xét khả năng
xung đột của những lợi ích cá nhân đó với chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, công
chức. Những lợi ích cá nhân có nguy cơ xung đột với chức trách, nhiệm vụ của cán
bộ, cơng chức có thể được phân thành các nhóm như sau: (i) tài sản; (ii) nghĩa vụ
pháp lý, các khoản nợ; (iii) quan hệ cá nhân; (iv) quan hệ gia đình; (v) lợi ích từ
hoạt động kinh doanh; (vi) công việc làm thêm; (vii) quà tặng. Một khảo sát của
OECD về xung đột lợi ích thực hiện ở 30 quốc gia trên thế giới cho thấy các nguồn
xung đột lợi ích nổi trội là q tặng, lợi ích từ hoạt động kinh doanh, cơng việc làm
thêm. Trong đó cơng việc làm thêm từ khu vực tư nhân là yếu tố trọng tâm. Các
quốc gia trên thế giới đều nhận thức được sự nguy hiểm của khuynh hướng cá nhân
trong quá trình ra quyết định công. Trước đây, những lo ngại này chủ yếu tập trung
vào các nguy cơ truyền thống như các mối quan hệ gia đình của cơng chức, q
tặng cho cơng chức. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, cùng với sự hợp tác ngày

càng gia tăng giữa khu vực công và khu vực tư, nguy cơ xung đột lợi ích trở nên
phức tạp và đa dạng hơn rất nhiều. Ví dụ: cơng chức có thể có được lợi ích từ hoạt
động kinh doanh thơng qua hình thức hùn vốn làm ăn, đầu tư chung, thơng qua các
hợp đồng với chính phủ; cơng chức cũng có thể có những mối liên kết với các tổ
chức (công chức là thành viên ban lãnh đạo tổ chức phi lợi nhuận có sử dụng nguồn
quỹ do cơ quan của cơng chức đó cấp); cơng chức cũng có thể rời khỏi chính phủ
để làm việc cho một công ty tư nhân hoạt động trong lĩnh vực quản lý của mình
trước đây hoặc ngược lại.
Những lợi ích nêu trên đều có khả năng xung đột với chức trách, nhiệm vụ
của cán bộ, công chức khi đặt trong tình huống cụ thể. Do vậy, tùy vào từng quốc
gia trên thế giới, việc kiểm sốt xung đột lợi ích hướng vào kiểm soát một số hoặc
tất cả các lợi ích nói trên, xem xét nó trong mối quan hệ với việc thực hiện chức
trách, nhiệm vụ của công chức để phát hiện xung đột lợi ích.
Xung đột lợi ích nhấn mạnh đến khả năng lợi ích cá nhân có thể ảnh hưởng
đến việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ, khả năng đó có trở thành hiện thực hay
khơng lại là vấn đề khác. Căn cứ vào các mức độ khác nhau về khả năng ảnh hưởng
của lợi ích cá nhân tới việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ, có thể phân chia xung
đột lợi ích thành hai loại: (i) xung đột lợi ích tiểm ẩn: là tình huống trong đó có thể
dự đốn được khả năng ảnh hưởng của lợi ích cá nhân đến việc thực hiện chức
trách, nhiệm vụ của cán bộ, công chức, (ii) xung đột lợi ích hiện hữu hay xung đột
lợi ích thực tế: là tình huống trong đó có thể thấy rõ khả năng ảnh hưởng của lợi ích
cá nhân đến việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, cơng chức. Tình
huống sau đây sẽ làm rõ sự khác nhau giữa hai loại xung đột lợi ích này.


Việc phân loại xung đột lợi ích có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định
phương thức kiểm soát xung đột lợi ích hiệu quả.
Về bản chất, xung đột diễn ra trong tâm trí. Nó làm suy yếu, hao mịn, phá
vỡ quyết định sáng suốt của cá nhân tới mức họ khơng cịn khả năng hành động
đúng với vai trị và trách nhiệm. Rõ ràng, khơng ai có thể nhìn vào tâm trí của

người khác để xem xét lợi ích cá nhân thực tế đã ảnh hưởng tới hành động của họ
như thế nào. Do đó, việc kiểm sốt xung đột lợi ích khơng tập trung vào kiểm sốt
trạng thái của chủ thể mà tập trung kiểm sốt các tình huống có thể trở thành căn
nguyên của xung đột. Xung đột lợi ích tạo ra những điều kiện thuận lợi cho tham
nhũng. Tuy nhiên, xung đột lợi ích là khơng thể né tránh hoặc bị cấm, xung đột lợi
ích cần được kiểm sốt theo cách thích hợp.
1.1.2. Khái niệm về kiểm sốt xung đột lợi ích trong hoạt động cơng vụ
Theo Từ điển Tiếng Việt, “kiểm soát là xem xét để phát hiện sai sót, giữ cho
mọi việc diễn ra đúng đắn”. Theo nghĩa từ ngữ, có thể suy ra kiểm sốt xung đột lợi
ích là việc xem xét để phát hiện xung đột lợi ích, giữ cho xung đột lợi ích khơng bị
lợi dụng để thực hiện hành vi sai trái. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng cần phải mở
rộng hơn nội hàm khái niệm kiểm sốt. Theo đó, kiểm sốt xung đột lợi ích khơng
chỉ gồm việc phát hiện và xử lý xung đột lợi ích mà cịn bao hàm cả việc phịng
ngừa xung đột lợi ích. Phịng ngừa xung đột lợi ích có ý nghĩa rất quan trọng. Thực
tế ở nhiều nước cho thấy kiểm soát xung đột lợi ích hiệu quả địi hỏi phải tập trung
vào việc xác định khả năng lợi ích cá nhân có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện
nhiệm vụ công để phòng ngừa hơn là việc phát hiện hành vi sai phạm. Từ nhận
định trên, có thể đưa ra quan niệm “kiểm sốt xung đột lợi ích là việc phịng ngừa,
phát hiện và xử lý xung đột lợi ích” . Như vậy, có thể xác định kiểm sốt xung đột
lợi ích gồm ba nội dung chủ yếu: (i) phòng ngừa xung đột lợi ích, (ii) phát hiện
xung đột lợi ích, (iii) xử lý xung đột lợi ích.
1.2.1. Lý luận pháp luật về kiểm sốt xung đột lợi ích trong hoạt động
cơng vụ
Theo Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin thì pháp luật là “Hệ thống các quy
tắc xử sự do nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận) để thể hiện và thực hiện ý chí
của giai cấp thống trị trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, nhằm tạo ra trật tự
và ổn định trong xã hội. Pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để các nhà nước quản
lý, thiết lập kỷ cương, tạo ra một xã hội trật tự, ổn định và phát triển”1.
Trong một nghiên cứu vào năm 2005, Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
(OECD) đã đưa ra định nghĩa xung đột lợi ích như sau: “Một xung đột lợi ích bao

gồm xung đột giữa cơng vụ và lợi ích cá nhân của cơng chức, trong đó lợi ích từ
năng lực cá nhân của cơng chức có thể ảnh hưởng khơng đúng đến việc thực hiện
những nhiệm vụ và trách nhiệm chính thức của họ”2.


Trên thực tiễn, để kiểm sốt xung đột lợi ích đạt hiệu quả, thì Nhà nước
phải ban hành các quy định pháp luật để nhận diện, phòng ngừa và xử lý các tình
huống xung đột lợi ích, nhằm phát hiện, ngăn chặn, giải quyết các tình huống xung
đột lợi ích. Đồng thời, pháp luật xác định rõ tình huống nào là xung đột lợi ích,
thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp và trình tự, thủ
tục, chế tài xử lý hành vi vi phạm quy định về kiểm sốt xung đột lợi ích trong hoạt
động cơng vụ.
Trong các văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam, chưa có khái niệm
pháp luật về kiểm sốt xung đột lợi ích trong hoạt động cơng vụ. Từ lý luận nêu
trên và thực tiễn cơng tác kiểm sốt xung đột lợi ích trong hoạt động cơng vụ có thể
hiểu pháp luật về kiểm sốt xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ là “Hệ thống
các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà nước ban hành hoặc thừa
nhận để điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong việc nhận diện, phòng
ngừa, phát hiện và trình tự, thủ tục, chế tài xử lý xung đột lợi ích trong hoạt động
cơng vụ”.
Trong thực tiễn cuộc sống xã hội hiện nay, pháp luật về kiểm soát xung đột
lợi ích trong hoạt động cơng vụ là cơ sở pháp lý góp phần quan trọng trong cơng
tác phịng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, tình huống xung đột lợi ích có xu hướng
ngày càng đa dạng, biến đổi khơng ngừng, do đó, pháp luật về kiểm sốt xung đột
lợi ích trong hoạt động cơng vụ cũng cần có những thay đổi để kịp thời điều chỉnh
các tình huống này.
Nói cách khác, việc hồn thiện pháp luật về kiểm sốt xung đột lợi ích trong
hoạt động cơng vụ là u cầu tất yếu, đòi hỏi phải được tiến hành thường xuyên,
liên tục, đồng thời phải được thực hiện dựa trên những tiêu chí và u cầu nhất
định.

Hồn thiện pháp luật về kiểm sốt xung đột lợi ích trong hoạt động cơng vụ
là “Q trình hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác nhau song dựa
trên những vấn đề mang tính nguyên tắc chung, nhằm làm cho các quy định của
pháp luật về kiểm soát xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ ngày càng công
khai, minh bạch, toàn diện, thống nhất, đồng bộ, khả thi phù hợp với thực tiễn kiểm
sốt xung đột lợi ích trong hoạt động cơng vụ của đất nước”.
Để hồn thiện pháp luật về kiểm sốt xung đột lợi ích trong hoạt động công
vụ, cơ quan chức năng nhà nước phải nhận diện được các tình huống xung đột lợi
ích, đánh giá được thực trạng pháp luật thông qua việc hệ thống hóa các quy định
pháp luật có liên quan cũng như hiệu quả áp dụng các quy định đó trên thực tế.
Nhìn từ góc độ lý luận và thực tiễn, pháp luật về kiểm sốt xung đột lợi ích
trong hoạt động cơng vụ có vai trị rất quan trọng trong việc đưa các chủ trương,
chính sách và pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống, cụ thể như sau:


Thứ nhất, pháp luật về kiểm soát xung đột lợi ích trong hoạt động cơng vụ
góp phần thể chế hóa các chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước
Nhà nước thể chế hóa các chủ trương, đường lối của đảng về kiểm sốt
xung đột lợi ích trong hoạt động cơng vụ thành pháp luật để việc kiểm sốt xung
đột lợi ích trong hoạt động cơng vụ trở thành các quy tắc xử sự có tính bắt buộc với
mọi cá nhân, tổ chức có liên quan và được thực hiện một cách thống nhất trên quy
mơ tồn xã hội. Qua đó, góp phần kiềm chế, giám sát, hạn chế sự lạm dụng quyền
lực của những người có chức vụ, quyền hạn và tham nhũng trong bộ máy Nhà nước
do đảng thiết lập và lãnh đạo, từ đó bảo vệ uy tín của đảng và giữ gìn sự ổn định
của chế độ chính trị mà trong đó đảng đóng vai trị nịng cốt.
Mặt khác, pháp luật về kiểm sốt xung đột lợi ích trong hoạt động cơng vụ
là phương tiện quan trọng để đảng giám sát các chủ trương, chính sách của mình về
kiểm sốt quyền lực và phịng, chống tham nhũng. Trên cơ sở quá trình triển khai
thực hiện pháp luật về kiểm sốt xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ, Nhà
nước sẽ tiếp nhận các ý kiến phản hồi từ người dân để có sự sửa đổi, bổ sung pháp

luật về kiểm soát xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ cho phù hợp với thực
tiễn cuộc sống xã hội.
Thứ hai, pháp luật về kiểm sốt xung đột lợi ích trong hoạt động cơng vụ
góp phần tạo lập cơ sở pháp lý quan trọng để kiểm sốt xung đột lợi ích trong hoạt
động cơng vụ
Pháp luật về kiểm sốt xung đột lợi ích trong hoạt động cộng vụ sẽ quy định
một cách cụ thể về trình tự, thủ tục, thẩm quyền, cơ cấu tổ chức của các cơ quan
chức năng trong việc phát hiện, xử lý hành vi vi phạm quy định về phòng chống
xung đột lợi ích. Đồng thời, là biện pháp bảo vệ những người tích cực tham gia vào
cơng tác phịng, chống xung đột lợi ích, xử lý những trường hợp bao che, thiếu tích
cực trong phịng, chống xung đột lợi ích trong hoạt động cơng vụ góp phần quan
trọng vào cơng tác phòng, chống tham nhũng.
Trên cơ sở quy định pháp luật, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan
hiểu rõ thẩm quyền, trách nhiệm của mình trong việc ra quyết định trong hoạt động
công vụ, nhất là trong các tình huống có thể có xung đột lợi ích. Là cơ sở để người
dân, các tổ chức xã hội và cơ quan báo chí có thể tham gia phịng, chống xung đột
lợi ích trong hoạt động của bộ máy nhà nước một cách chủ động, tích cực và hiệu
quả, thông qua nhiều cách thức khác nhau, hoặc thực hiện quyền giám sát đối với
các hoạt động của các cơ quan nhà nước nhằm phát hiện các hành vi vi phạm các
quy định về xung đột lợi ích.
Thứ ba, pháp luật về kiểm sốt xung đột lợi ích trong hoạt động cơng vụ
góp phần thúc đẩy sự cơng khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong hoạt động
của bộ máy nhà nước, từ đó tăng cường niềm tin của người dân vào sự liêm chính
của cơ quan nhà nước


Xét về lý thuyết, nếu thực hiện tốt việc công khai, minh bạch và nâng cao
trách nhiệm giải trình thì xung đột lợi ích trong hoạt động cơng vụ sẽ được kiểm
sốt tốt. Bởi vì, cơng khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình tạo điều kiện để các cơ
quan nhà nước khác và người dân cũng như toàn xã hội tham gia giám sát việc tuân

thủ pháp luật về lĩnh vực này. Đồng thời, thực hiện tốt công khai, minh bạch và
trách nhiệm giải trình sẽ giúp ngăn ngừa, phát hiện và xử lý những vi phạm pháp
luật về kiểm sốt xung đột lợi ích trong hoạt động cơng vụ.
Bên cạnh đó, pháp luật về kiểm sốt xung đột lợi ích trong hoạt động công
vụ cũng quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cán bộ khi có yêu cầu hoặc
theo quy định phải giải trình với cơ quan cấp trên, với các cơ quan có liên quan và
với công luận về các vấn đề mà cơ quan, tổ chức, cán bộ phụ trách. Qua đó, làm
cho người dân tin vào sự cơng tâm, liêm chính của cơ quan nhà nước và cán bộ,
công chức, viên chức làm việc tại các cơ quan hành chính Nhà nước.
Thứ tư, pháp luật về kiểm sốt xung đột lợi ích trong hoạt động cơng vụ góp
phần kiểm sốt quyền lực nhà nước và phịng, chống tham nhũng
Qua nghiên cứu q trình hình thành và phát triển của Nhà nước đã chứng
minh rằng: quyền lực nhà nước ln có xu hướng bị lạm dụng bởi những người
nắm giữ nó. Về mặt bản chất, sự lạm dụng quyền lực nhà nước chính là hành vi
tham nhũng. Để kiểm soát quyền lực nhà nước và phòng, chống tham nhũng, cần
áp dụng đồng thời nhiều biện pháp, trong đó có việc ngăn ngừa và xử lý xung đột
lợi ích trong hoạt động cơng vụ.
Kiểm sốt xung đột lợi ích trong hoạt động cơng vụ chính là xoá bỏ những
rủi ro tiềm tàng dẫn tới lạm dụng quyền lực nhà nước và tham nhũng, bởi khi xung
đột lợi ích khơng bị kiểm sốt, thì người có chức vụ, quyền hạn có thể sử dụng
quyền lực của mình để ban hành quyết định hoặc chi phối, ảnh hưởng đến việc ban
hành quyết định một cách tuỳ tiện, làm tổn hại đến lợi ích cơng. Đây chính là lý do
mà trong các văn bản pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước và phịng, chống
tham nhũng thường có các quy định về xố bỏ xung đột lợi ích trong hoạt động
cơng vụ.
Thơng thường, các quy định đó thể hiện dưới dạng nghĩa vụ của cán bộ,
công chức, viên chức phải cơng khai hóa các mối quan hệ liên quan khi thực thi
công vụ, phải chịu sự giám sát của cơ quan có thẩm quyền cũng như các chế tài
pháp lý tương ứng nếu không tuân thủ nghĩa vụ.
3. Mối quan hệ giữa xung đột lợi ích và tham nhũng

Xét về lý thuyết thì xung đột lợi ích và tham nhũng là hai khái niệm khác
nhau, nhưng có liên quan tới nhau. Theo nghĩa hẹp và là khái niệm được pháp luật
Việt Nam quy định (tại Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018), tham nhũng là
hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ


lợi và xung đột lợi ích là tình huống mà trong đó lợi ích của người có chức vụ,
quyền hạn hoặc người thân thích của họ tác động hoặc sẽ tác động không đúng đến
việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ.
Về chủ thể, xung đột lợi ích và tham nhũng có cùng chủ thể là người có
chức vụ hoặc quyền hạn (cả khu vực công và khu vực tư). Về trạng thái, xung đột
lợi ích là tình huống cịn tham nhũng là hành vi. Về tính chất, xung đột lợi ích
mang tính khách quan, tham nhũng là hành vi chủ quan của người có chức vụ hoặc
quyền hạn. Trong tình huống xung đột lợi ích, hành vi của người có chức vụ, quyền
hạn bị coi là tham nhũng khi lựa chọn lợi ích cá nhân.
Ngày 9.11, Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam phối hợp với Thanh tra Chính
phủ cơng bố nghiên cứu, khảo sát “Kiểm soát xung đột lợi ích trong khu vực công:
Quy định và thực tiễn ở Việt Nam”.
Như vậy, có thể khẳng định, xung đột lợi ích là một trong những khởi
nguồn của tham nhũng. Nếu “xung đột lợi ích” khơng được kiểm sốt thì dễ dẫn
đến hành vi tham nhũng. Có thể tham khảo một số tình huống như sau:
Trường hợp thứ nhất: Xung đột lợi ích xuất hiện khi cá nhân sử dụng vị thế
quyền lực công mà họ đang nắm giữ/đại diện để thúc đẩy lợi ích cá nhân của họ
hoặc lợi ích của một bên khác mà họ được giao (vì quan hệ hoặc hối lộ). Ví dụ như:
Cơ quan cảnh sát giao thông được giữ tiền phạt lái xe lái quá tốc độ có thể dẫn tới
việc đặt giới hạn tốc độ quá thấp để tăng khả năng lái xe vi phạm (cụ thể như trên
tuyến Quốc lộ 1 đoạn qua 02 tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận có đoạn giới hạn tốc
độ xe ôtô là 40 km/h). Hoặc con trai lãnh đạo của Sở Xây dựng A có cổ phần ở
một cơng ty xây dựng. Vì quan hệ cá nhân mà Tỉnh A giao các “gói thầu” xây cầu
cho cơng ty này. Khi đó, các cây cầu được xây có thể có chi phí cao và chất lượng

thấp vì cơng ty của “người nhà” lãnh đạo không cần làm hiệu quả nhất vẫn “trúng
thầu”.
Trường hợp thứ hai: Xung đột lợi ích xuất hiện khi người có chức vụ,
quyền hạn hoặc được giao thực hiện một nhiệm vụ công vụ trong các cơ quan Nhà
nước hoặc các tổ chức có sử dụng ngân sách Nhà nước để nhận hối lộ và cố ý làm
sai, nhưng hành vi này rất tinh vi và lọt qua sự kiểm soát của các cơ quan chức
năng. Ví dụ như: Sở Kế hoạch và Đầu tư B (gọi tắt cơ quan B) được giao nhiệm vụ
phân bổ nguồn lực theo một tiến trình cạnh tranh, dựa trên sự xứng đáng của các
bên mong muốn sử dụng nguồn lực này. Tuy nhiên, một bên (ví dụ cá nhân hoặc
cơng ty A) gây ảnh hưởng đến q trình ra quyết định của cơ quan B bằng cách đưa
hối lộ hoặc sử dụng quan hệ thân quen mang lại lợi ích cho cá nhân thành viên của
cơ quan B. Khi cá nhân thành viên cơ quan B nhận “quà” họ đã đại diện một cách
không công bằng cho bên tặng quà (bên A). Khi đó họ bỏ qua những nguyên tắc
đánh giá, phân bổ dựa vào sự xứng đáng, hiệu quả, công bằng để trao “hợp đồng”
cho bên hối lộ.


Trường hợp thứ ba: Đang diễn ra rất phổ biến, đó là hiện tượng lợi dụng
chính sách cổ phần hóa để trục lợi hoặc tạo sự ảnh hưởng để trục lợi. Ví dụ như:
Chuyện cơng ty cổ phần hóa khơng tặng quà mà bị người nhà lãnh đạo gọi điện ghi
mua cổ phần nhưng khơng đóng tiền, nếu khơng ghi cổ phần thì q trình cổ phần
hóa cũng đổ bể, khơng thực hiện được. Việc này cịn nghiêm trọng hơn việc nhận
quà, hay “trong chuyện đấu thầu thì quan chức lập ra công ty sân sau do vợ con,
người thân lãnh đạo, khi tổ chức đấu thầu ông tới dự và khơng cần phải nói gì, đơn
vị tổ chức phải tự biết mà chấm thầu cho cơng ty đó nếu khơng muốn gặp rắc rối”.
Qua ví dụ này, có thể thấy mối quan hệ giữa xung đột lợi ích và tham nhũng xảy ra
trong các quan hệ kinh tế, chính trị - xã hội diễn biến rất phức tạp.
Theo nghiên cứu, khảo sát “Kiểm sốt xung đột lợi ích trong khu vực công:
Quy định và thực tiễn ở Việt Nam” do Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam phối hợp
với Thanh tra Chính phủ được cơng bố ngày 09/11/2016 tại Hà Nội đã chỉ rõ: Gần

70% số doanh nghiệp và cán bộ cơng chức có biết rõ việc tặng, nhận quà cho rằng
mục đích tặng quà chủ yếu là giúp giải quyết công việc. Cán bộ công chức và
doanh nghiệp đều cảm nhận chung là tặng quà đã trở thành “trào lưu”, “thơng lệ”,
thậm chí “luật chơi”. Nhiều doanh nghiệp tặng quà để không bị “phân biệt đối xử”
trong khi cán bộ công chức tặng quà cho cấp trên để “thể hiện sự biết điều”. Và để
thắng thầu trong một dự án, có tới 38% doanh nghiệp cho rằng do chạy chọt và
50% doanh nghiệp cho rằng do ưu ái cho người thân. Đối với việc tuyển dụng, bổ
nhiệm cán bộ, có khoảng 20% cán bộ cơng chức cho rằng yếu tố “con cháu và có
quan hệ với lãnh đạo” là quan trọng, song có tới 35% cán bộ cơng chức biết rõ
trường hợp lãnh đạo tuyển dụng người thân. “Có cán bộ cơng chức cịn khẳng định
tại cơ quan mình chỉ tuyển 10 người nhưng đã có tới 100 người con em trong
ngành “gửi gắm” từ cấp vụ trở lên, chưa kể ngoài ngành đã tạo nên sức ép kinh
khủng”.
Nhìn một cách tổng quan, xung đột lợi ích hiện nay được thể hiện dưới 04
hình thức chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, là giữa người có chức trách ra quyết định và đối tượng chịu ảnh
hưởng từ quyết định đó có liên hệ với nhau thơng qua việc tặng và nhận quà tặng.
Người ra quyết định nhận quà tặng bằng hiện vật hoặc phi hiện vật từ đối tượng
chịu ảnh hưởng của quyết định. Xung đột giữa lợi ích xuất hiện, do lợi ích cá nhân
của việc nhận quà tặng với lợi ích cơng khi ra quyết định, dẫn đến khả năng người
có trách nhiệm sẽ ra các quyết định có lợi cho đối tượng đã tặng quà.
Thứ hai, là giữa người có chức trách ra quyết định và đối tượng chịu ảnh
hưởng từ quyết định đó có cùng lợi ích. Nếu đối tượng chịu ảnh hưởng của quyết
định được hưởng lợi thì người ra quyết định cũng được chia sẻ lợi ích. Trường hợp
này cịn được gọi là nhóm lợi ích. Xung đột lợi ích xảy ra, do xung đột giữa lợi ích
cá nhân của nhóm với lợi ích cơng khi người có chức trách ra quyết định. Tình


huống này dẫn đến khả năng người được trao quyền ra quyết định có lợi cho doanh
nghiệp “sân sau”, từ đó gián tiếp cũng tạo ra lợi ích cho mình.

Thứ ba, là người nắm giữ những chức trách nhất định, có khả năng khai
thác các thơng tin có được từ vị trí cơng tác để thực hiện các hành vi thu lợi cá
nhân. Xung đột lợi ích xảy ra giữa lợi ích chung của việc bảo mật thơng tin với lợi
ích cá nhân của người nắm giữ thơng tin.
Thứ tư, là người được trao quyền quyết định và các đối tượng có khả năng
chịu ảnh hưởng của quyết định có mối quan hệ thân thuộc. Trong trường hợp này,
xung đột lợi ích xảy ra giữa lợi ích cơng với lợi ích riêng của người thân. Quyết
định của người được trao quyền khơng đem lại lợi ích riêng cho chính người ra
quyết định, nhưng đem lại lợi ích riêng cho người thân của họ.
1.1.4. Vai trị của kiểm sốt xung đột lợi ích trong phịng, chống tham
nhũng
Có thể khái qt vai trị của việc kiểm sốt xung đột lợi ích trong phòng,
chống tham nhũng ở một số điểm như sau:
Thứ nhất, kiểm sốt xung đột lợi ích giúp loại bỏ nguy cơ tham nhũng từ
xa
Kiểm sốt xung đột lợi ích bắt đầu trước hết từ việc phịng ngừa xung đột
lợi ích, đó là việc loại bỏ ngay từ đầu những nguy cơ có thể dẫn đến xung đột lợi
ích, từ đó giúp loại bỏ nguy cơ tham nhũng từ xa. Loại nguy cơ này xuất phát
những lợi ích cá nhân mà bản chất tự thân của nó đã xung đột với việc thực hiện
chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, công chức (ví dụ, đã là cơng chức thì khơng thể
đồng thời là chủ doanh nghiệp tư nhân), cũng có thể là nguy cơ từ việc thiếu công
khai, minh bạch, thiếu cơ chế kiểm sốt quyền lực. Phịng ngừa xung đột lợi ích có
thể được thực hiện theo hai phương thức: (i) cán bộ, cơng chức chủ động phịng
ngừa; (ii) cơ quan nhà nước phịng ngừa. Cơng cụ phịng ngừa xung đột lợi ích
chính là quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, quy định bảo đảm tính khách
quan của việc phân công và thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức. Nội dung
quy tắc ứng xử về phịng ngừa xung đột lợi ích thực chất là đưa ra những hạn chế
nhất định đối với lợi ích cá nhân của cán bộ, cơng chức. Có thể nêu ra một số hạn
chế căn bản như sau:
Thứ nhất, hạn chế liên quan đến tài sản và thu nhập: cán bộ, công chức

không được thành lập, tham gia thành lập hoặc quản lý điều hành các loại hình kinh
tế tư nhân. Đa số các quốc gia trên thế giới đều có quy định cấm cán bộ, công chức
tham gia hoạt động kinh doanh (Cộng hòa Séc, Hoa Kỳ, Vương quốc Anh)
Thứ hai, hạn chế liên quan đến công việc làm thêm trong khi đang làm việc
hoặc sau khi đã nghỉ hưu: cán bộ, công chức không được làm thêm công việc trong
lĩnh vực mình quản lý (cả khi đã nghỉ hưu), không được làm tư vấn cho tổ chức, cá


nhân về lĩnh vực mình quản lý. Đa số các quốc gia quy định cấm công chức làm
thêm khi đương chức. Một số quốc gia kiểm soát chặt chẽ việc công chức chuyển
ra làm trong khu vực tư nhân (Pháp), theo đó cơng chức buộc phải tham khảo ý
kiến của các ủy ban trước khi chuyển ra làm trong khu vực tư nhân vì bất cứ lý do
gì. Tây Ban Nha quy định thủ tục chặt chẽ liên quan đến việc làm của công chức
sau khi nghỉ hưu.
Thứ ba, hạn chế liên quan đến người thân: cán bộ, công chức khơng được
tham gia vào các hành động, quyết định có liên quan đến người thân của mình.
Phạm vi “người thân” được mở rộng tùy theo từng quốc gia trên thế giới. Ở Trung
Quốc, “người thân” là người có quan hệ vợ, chồng, quan hệ huyết thống, họ hàng
trong vòng 3 đời hoặc quan hệ thân thiết giữa các công chức. E-xtơ-ni-a thì sử dụng
khái niệm “người có liên quan”, theo đó bổ sung cả trường hợp pháp nhân mà cán
bộ, công chức là thành viên trong bộ phận quản lý hoặc kiểm sốt, người sống cùng
hộ gia đình v.v..
Thứ tư, hạn chế liên quan đến quà tặng: cán bộ, công chức khơng được
phép nhận q tặng của người có liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ.
Về vấn đề này, đa số các quốc gia trên thế giới quy định cấm cán bộ, công chức
nhận quà tặng. Xinh-ga-po quy định cán bộ, công chức nhất định phải từ chối
q tặng, trường hợp khơng thể được thì phải chuyển lại quà tặng cho người đứng
đầu sau đó có thể mua lại nếu thích. Một số quốc gia có quy định linh hoạt hơn,
theo đó cơng chức có thể nhận quà từ một mức giá trị nhất định nào đó trở xuống,
những món q vượt q giá trị đó thì phải báo cáo để Chính phủ xử lý (Cờ-rốttia)

Kiểm sốt xung đột lợi ích tiếp tục được thực hiện thơng qua việc phát hiện
và xử lý xung đột lợi ích. Phát hiện xung đột lợi ích là việc tìm ra những tình
huống xung đột lợi ích tiềm ẩn hoặc thực tế. Việc phát hiện xung đột lợi ích được
thực hiện theo ba phương thức: (i) các bộ, công chức chủ động phát hiện; (ii) cơ
quan nhà nước phát hiện và (iii) xã hội tham gia phát hiện. Công cụ chủ yếu để phát
hiện xung đột lợi ích chính là quy định về cơng khai, minh bạch những lợi ích cá
nhân có nguy cơ xung đột với chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, công chức, công
khai việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ và những quy định về quyền khiếu nại, tố
cáo của cá nhân, tổ chức. Ở các quốc gia trên thế giới, việc công khai, minh bạch
những lợi ích cá nhân có nguy cơ xung đột với việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ
thường được thực hiện thông qua công khai, minh bạch tài sản, thu nhập. Nội dung
công khai minh, bạch tài sản thu nhập thường bao gồm cả công việc làm thêm và
các loại quà tặng. Công khai tài sản, thu nhập giúp cung cấp những thông tin về các
nguồn thu nhập, địa vị thành viên hội đồng quản trị doanh nghiệp, quyền sở hữu cổ
phần và những lợi ích tài chính khác của cán bộ, cơng chức. Cơng khai tài sản, thu
nhập tự nó khơng loại bỏ xung đột lợi ích nhưng có thể giúp phát hiện những xung
đột lợi ích ở dạng tiềm tàng hay thực tế.


Xử lý xung đột lợi ích là việc loại bỏ một trong các bên lợi ích trong tình
huống xung đột hoặc kiểm sốt chặt chẽ tình huống xung đột đó. Xử lý xung đột lợi
ích phải tuân thủ nguyên tắc ưu tiên bảo vệ lợi ích cơng. Xử lý xung đột lợi ích
được thực hiện theo hai phương thức: (i) cán bộ, công chức chủ động xử lý khi phát
hiện mình đang ở trong tình huống xung đột lợi ích bằng cách từ bỏ lợi ích cá nhân
hoặc từ chối thực hiện nhiệm vụ, trường hợp không thể thực hiện được thì báo cáo
với cơ quan có thẩm quyền để giám sát chặt chẽ việc thực hiện nhiệm vụ; (ii) cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xử lý tình huống xung đột lợi ích bằng cách phân
cơng người khác thực hiện nhiệm vụ, trường hợp không thể thực hiện được thì phải
giám sát chặt chẽ việc thực hiện nhiệm vụ đó. Cách thức xử lý xung đột lợi ích đối
với cán bộ, công chức thường được đưa vào quy tắc ứng xử.

Thứ hai, kiểm sốt xung đột lợi ích giúp xây dựng và tăng cường liêm
chính trong hoạt động cơng vụ, từ đó giúp phịng ngừa tham nhũng.
“Liêm chính” được dịch từ thuật ngữ tiếng Anh “Intergrity”, có nguồn gốc
La tinh “integer” có nghĩa đen là “tồn bộ, trọn vẹn, khơng thể bị xâm phạm”. Theo
Từ điển Oxford, “Intergrity” có 2 nghĩa: “1. phẩm chất trung thực và có đạo đức; 2.
trạng thái nguyên vẹn và không bị chia cắt”. Cũng có thể tìm thấy định nghĩa về
“liêm chính” trong Từ điển Tiếng Việt theo từng tiếng riêng lẻ. Theo đó “liêm” là
“khơng tham lam, trong sạch”, “chính” là “ngay thẳng, đúng đắn, trái với tà”, “liêm
chính” là “trong sạch và ngay thẳng”. Tiếp cận theo nghĩa này, “liêm chính” có nội
hàm khá hẹp và cụ thể, thường gắn với chủ thể là cá nhân. Cũng có cách tiếp cận
“liêm chính” ở góc độ rộng hơn, theo đó, liêm chính được hiểu là “việc tuân thủ các
quy tắc, chuẩn mực chung”, trong hoạt động cơng vụ, liêm chính là việc tuân thủ
các quy tắc, chuẩn mực chung áp dụng cho hoạt động đó. Theo cách tiếp cận này,
liêm chính có thể được xem xét ở nhiều cấp độ như liêm chính của cá nhân, liêm
chính của tập thể, liêm chính của cơng chức lãnh đạo, liêm chính của cơng chức
thừa hành v.v…
Một thuật ngữ quen thuộc thường được dùng để chỉ việc tuân thủ các quy
tắc, chuẩn mực trong hoạt động cơng vụ đó là “đạo đức cơng vụ”. Có thể hiểu “đạo
đức công vụ” là những phép tắc, chuẩn mực trong việc thực thi công vụ, điều chỉnh
các mối quan hệ liên quan đến việc thực thi công vụ của công chức. Trong các
nghiên cứu và thảo luận gần đây, thuật ngữ “liêm chính” (theo cách tiếp cận rộng)
dường như được sử dụng để thay thế thuật ngữ “đạo đức công vụ” cho phù hợp hơn
với phong cách quản trị theo xu hướng hiện đại.
Nội dung các chuẩn mực về liêm chính được chia thành nhiều cấp độ, trong
đó có 3 cấp độ chủ yếu gồm: các nguyên tắc chung, chuẩn mực chung và chuẩn
mực cụ thể. Nguyên tắc chung là những quy tắc mang tính chất chỉ đạo, định
hướng. Ví dụ như tại Điều 3, Luật Cán bộ, công chức của Việt Nam quy định các
nguyên tắc trong thi hành công vụ gồm: “1. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. 2.



Bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. 3.
Công khai, minh bạch, đúng thẩm quyền và có sự kiểm tra, giám sát. 4. Bảo đảm
tính hệ thống, thống nhất, liên tục, thông suốt và hiệu quả”. Chuẩn mực chung điều
chỉnh hành vi của tất cả cán bộ, công chức và thường bao gồm các nội dung: chuẩn
mực về thực hiện đúng, đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn được giao; chuẩn mực trong
việc sử dụng tài sản công, chuẩn mực về trách nhiệm phịng ngừa xung đột lợi ích;
chuẩn mực trong các mối quan hệ với đồng nghiệp, với công chúng v.v… Chuẩn
mực cụ thể hướng tới từng nhóm cán bộ, cơng chức trong từng cơ quan, tổ chức và
thường gắn với những đặc điểm về nghề nghiệp của công chức. Đồng thời với việc
quy định những việc phải làm, nhiều quốc gia trên thế giới còn lựa chọn cách quy
định rõ những hành vi bị coi là vi phạm liêm chính. Những vi phạm này cũng được
xác định ở nhiều cấp độ, từ cấp độ vi phạm nội quy, quy chế cho đến vi phạm về
hành chính, hình sự.
Kiểm sốt xung đột lợi ích thơng qua xây dựng và thực hiện các quy định
về quy tắc ứng xử của cán bộ, cơng chức chính là góp phần tạo dựng và vun đắp
đạo đức liêm chính cho từng cán bộ, cơng chức, hướng đến xây dựng liêm chính
cho cả nền cơng vụ. Xét cho cùng, xây dựng được liêm chính trong nền cơng vụ
cũng chính là xây dựng được hệ thống miễn dịch của nền công vụ đối với tham
nhũng.
Thứ ba, kiểm sốt xung đột lợi ích giúp phát huy vai trị của xã hội trong
phịng, chống tham nhũng.
Hệ thống kiểm sốt xung đột lợi ích đầy đủ trong hoạt động cơng vụ khơng
chỉ địi hỏi sự tham gia của bản thân cán bộ, cơng chức, của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền mà còn cần đến sự tham gia chủ động, tích cực từ phía xã hội. Xã hội ở
đây cần được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các tổ chức, cá nhân không nằm
trong khu vực Nhà nước, có thể là các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, doanh nghiệp và người dân v.v.. Xã hội tham gia vào
kiểm sốt xung đột lợi ích chủ yếu thơng qua giám sát việc tuân thủ các quy định
về kiểm sốt xung đột lợi ích của cán bộ, cơng chức. Thông qua giám sát, các chủ
thể xã hội giúp phát hiện và thông tin với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về
tình huống xung đột lợi ích của cán bộ, cơng chức để cơ quan nhà nước có thẩm

quyền kịp thời xem xét và có biện pháp xử lý phù hợp.
Trong thực tế, việc tham gia của xã hội trong kiểm sốt xung đột lợi ích
được thể hiện dưới rất nhiều hình thức phong phú và đa dạng trong đó chủ yếu là
các phản ánh của báo chí, tố cáo, phản ánh của người dân về các biểu hiện tham
nhũng, tiêu cực. Có thể nói, kiểm sốt xung đột lợi ích chỉ đầy đủ, tồn diện khi có
sự tham gia của xã hội và ngược lại, vai trò của xã hội trong phòng, chống tham
nhũng cũng được phát huy tốt thông qua việc tham gia vào hệ thống kiểm sốt
xung đột lợi ích trong hoạt động cơng vụ.


Kiểm sốt xung đột lợi ích có vai trị đặc biệt quan trọng trong phòng,
chống tham nhũng, tuy nhiên, đây là cơng việc khó khăn, phức tạp và tương đối
nhạy cảm bởi nó đụng chạm đến lợi ích cá nhân của người chịu sự kiểm sốt. Hạn
chế lợi ích cá nhân của người chịu sự kiểm soát đến đâu cho hợp lý là vấn đề chính
trị, pháp lý phụ thuộc vào thể chế chính trị, truyền thống văn hóa và trình độ phát
triển của mỗi quốc gia. Cơng khai lợi ích cá nhân của người chịu sự kiểm soát cũng
là vấn đề gây tranh cãi, đặc biệt là ở các quốc gia có nền dân chủ cịn non trẻ. Kiểm
sốt xung đột lợi ích hiệu quả cần đến những bảo đảm nhất định về mặt chính trị,
nhận thức, pháp lý và việc tổ chức thực hiện. Bảo đảm về chính trị là sự thống nhất
ý chí và quyết tâm chính trị của nhà cầm quyền. Bảo đảm về mặt nhận thức là sự
nhận thức đúng đắn và đồng thuận trong tồn xã hội về sự cần thiết phải kiểm sốt
xung đột lợi ích trong hoạt động cơng vụ. Bảo đảm về mặt pháp lý là những quy
định của pháp luật về thẩm quyền, trách nhiệm của các chủ thể có liên quan trong
từng nội dung kiểm soát xung đột lợi ích. Bảo đảm vể tổ chức thực hiện bao gồm
việc tuyên truyền phổ biến về các quy định của pháp luật, giáo dục liêm chính cho
cán bộ, cơng chức là đối tượng chịu sự kiểm sốt, khuyến khích và tạo điều kiện
cho xã hội tham gia kiểm soát xung đột lợi ích trong hoạt động cơng vụ, tăng
cường hoạt động giám sát, phát hiện và xử lý vi phạm về xung đột lợi ích v.v..



CHƯƠNG II
Thực trạng và nguyên nhân về xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ.
Một số kinh nghiệm
2.1. Thực trạng về “xung đột lợi ích” trong hoạt động cơng vụ
Ở nước ta hiện nay, ngoài Luật PCTN và các văn bản quy định chi tiết,
hướng dẫn thi hành Luật PCTN thì cịn có một số luật khác cũng có những quy
định liên quan đến kiểm soát “xung đột lợi ích” như Luật cán bộ, công chức, Luật
viên chức, Luật doanh nghiệp, Luật đấu thầu… Tuy nhiên, do khơng có cơ chế phối
hợp đa ngành, liên ngành nên thực trạng “xung đột lợi ích” trong các cơ quan, tổ
chức, đơn vị vẫn là nội dung khó theo dõi, đánh giá một cách tồn diện. Mặc dù
vậy, cũng đã có một số hoạt động nghiên cứu có liên quan hoặc thơng qua phản ánh
của báo chí, truyền thơng đã cho thấy phần nào của thực trạng này:
Kết quả khảo sát bằng hình thức phỏng vấn trực tiếp (2) đối với 1.801 cán
bộ, công chức, viên chức về tầm quan trọng của một số tiêu chí trong cơng tác
tuyển dụng và đề bạt cán bộ trong cơ quan, đơn vị cho thấy, phần lớn số người trả
lời đã cho rằng năng lực và thành tích là hai yếu tố chính trong tuyển dụng và đề
bạt cán bộ. Nhưng, vẫn còn một tỷ lệ không nhỏ (từ 12,4%-15,9%) cán bộ, công
chức đồng ý rằng có quan hệ thân quen (gia đình, bạn bè…) là yếu tố quan trọng
trong tuyển dụng và đề bạt cơng chức (xem hình 1, 2 sau đây): Cũng trong khảo sát
nêu trên, khi hỏi ý kiến nhận định của 2.601 người dân, 1.801 cán bộ, công chức,
viên chức và 1.058 lãnh đạo doanh nghiệp về nguyên nhân dẫn đến tham nhũng
hiện nay thì kết quả cho thấy có một nguyên nhân rất quan trọng liên quan đến việc
kiểm soát “xung đột lợi ích”, đó là tình trạng “cán bộ nhận tiền, quà biếu liên quan
đến công vụ đã trở thành thói quen” với tỷ lệ đồng ý của 76% số người dân được
hỏi; 57% số cán bộ, công chức và 83% số lãnh đạo doanh nghiệp được hỏi.
Nghiên cứu của Viện Khoa học Thanh tra và Công ty T&C Consulting Một số vấn đề ẩn chứa nguy cơ tham nhũng trong lĩnh vực cấp và chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, sở hữu nhà năm 2010 đã chỉ ra rằng khi hộ gia đình thuê đơn vị
trung gian, tư vấn giúp họ đăng ký quyền sử dụng đất thì có 51% hộ gia đình trả
tiền th chính cán bộ địa chính trên địa bàn của mình.
Cũng báo cáo đó cho biết, 15,6% cán bộ địa chính thừa nhận rằng họ

giúp bên mơi giới cho dịch vụ “trọn gói” và 19% giúp cho “dịch vụ lấy nhanh”.
Vừa qua, một số cơ quan báo chí, truyền thơng nước ta cũng đã đề cập đến trường
hợp một vị cán bộ nguyên là Bộ trưởng tham gia Hội đồng quản trị của một doanh
nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực quản lý của Bộ đó. Sau đó, vị này đã phải rút
khỏi Hội đồng quản trị của Công ty.
Hiện nay, khung pháp lý chung về kiểm sốt xung đột lợi ích được quy định
trong một số luật, nghị định và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đặc biệt, là tại


Khoản 3, Điều 73 của Hiến pháp 2013 có quy định “... Thành viên Ủy ban thường
vụ Quốc hội không thể đồng thời là thành viên Chính phủ”, có thể xem đây là nội
dung nhằm kiểm soát xung đột lợi ích thông qua quy định cấm các thành viên của
Ủy ban thường vụ Quốc hội đồng thời là thành viên Chính phủ.
Những đạo luật hiện hành quy định về xung đột lợi ích và kiểm sốt xung
đột lợi ích nói chung trong hoạt động cơng vụ có thể kể đến là: Luật Phịng, chống
tham nhũng 2018, Luật Cán bộ, cơng chức 2008, Luật Viên chức 2010, Luật Đấu
thầu 2013, Luật Thanh tra 2010, Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Kiểm toán 2014,
Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Trước đây pháp luật Việt Nam chưa có khái niệm về xung đột lợi íchtrên cơ
sở đó nhận diện xung đột lợi íchvà chưa có những quy định cụ thể về kiểm sốt
xung đột lợi ích. Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 lần đầu tiên nêu ra khái
niệm về xung đột lợi ích thể hiệnở khoản 9, Điều 3 “Xung đột lợi ích là tình huống
mà trong đó lợi ích của người có chức vụ, quyền hạn hoặc người thân thích của họ
tác động hoặc sẽ tác động không đúng đắn đến việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ”.
Khái niệm này cơ bản đã thống nhất với cách hiểu hiện nay trên bình diện quốc tế.
Cụ thể, khái niệm này đã bám sát khái niệm về xung đột lợi ích được nêu
trong Cơng ước về chống hối lộ cơng chức nước ngồi trong giao dịch quốc tế của
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organization for Economic Cooperation
and Development – OECD) đã được nhiều nước trên thế giới thừa nhận.
Trong những năm qua Việt Nam đã từng bước xây dựng được một hệ thống

quy địnhpháp luật liên quan đến kiểm soát xung đột lợi ích, mặc dù vẫn còn những
hạn chế nhất định, song cơ bản đã hình thành cơ sở pháp lý cho việc phòng ngừa,
phát hiện và xử lý xung đột lợi ích theo quy định của Cơng ước Liên Hiệp Quốc
phịng chống tham nhũng (United Nations Convention against Corruption –
UNCAC) và trong thực tế đã phát huy tác dụng là công cụ kiểm sốt xung đột lợi
ích trong hoạt động cơng vụ, góp phần phịng, chống tham nhũng, bảo đảm tính
khách quan, liêm chính trong hoạt động cơng vụ.
Khn khổ pháp luật hiện hành của Việt Nam đã quy định về các nhóm biện
pháp kiểm sốt xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ mà nhiều quốc gia đã và
đang áp dụng thành cơng, trong đó đặc biệt là hai nhóm quy định về cơng khai,
minh bạch tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn và quy định về hạn
chế lợi ích cá nhân của cán bộ, công chức, viên chức trong hoạt động công vụ.
Đối với các nhóm quy định về giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức
về chính sách phịng ngừa xung đột lợi ích cho cán bộ, công chức, viên chức và huy
động sự tham gia tích cực của khu vực tư nhân, truyền thông và các tổ chức xã hội
trong việc giám sát tuân thủ các quy định về xung đột lợi ích, mặc dù pháp luật Việt
Nam chưa có những văn bản và quy định riêng, song có thể tìm thấy những nội
dung này trong các quy định chung về giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức


về chính sách, pháp luật về phịng, chống tham nhũng, và về vai trò, trách nhiệm và
huy động sự tham gia của xã hội vào phòng, chống tham nhũng.
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, pháp luật về kiểm soát xung đột lợi ích
trong hoạt động cơng vụ ở Việt Nam hiện nay vẫn còn những hạn chế nhất định, đó
là:
1) Pháp luật về kiểm sốt xung đột lợi ích trong hoạt động cơng vụ cịn
thiếu tính tồn diện khi chưa dự liệu đầy đủ các tình huống để kiểm sốt xung đột
lợi ích trong hoạt động cơng vụ, như: thiếu quy định về cơng khai hoạt động của
người có chức vụ, quyền hạn; quy định về hạn chế lợi ích cá nhân của cán bộ, cơng
chức, viên chức cịn chưa đầy đủ; một số quy định về phát hiện, xử lý xung đột lợi

ích cịn bất cập, cụ thể.
2) Một số quy định pháp luật hiện hành về kiểm sốt xung đột lợi ích trong
hoạt động cơng vụ thiếu phù hợp, cịn chung chung và thiếu tính khả thi
3) Pháp luật về kiểm sốt xung đột lợi ích trong hoạt động cơng vụ cịn tản
mạn, thiếu các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết thi hành về phát hiện
và xử lý xung đột lợi ích trong hoạt động cơng vụ
Những hạn chế nêu trên đã góp phần làm giảm hiệu quả tổng thể của pháp
luật về kiểm sốt xung đột lợi ích trong hoạt động cơng vụ ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc kiểm sốt xung đột lợi
ích trong hoạt động cơng vụ
Pháp luật hiện hành chưa có quy định về công khai việc làm thêm, việc làm
sau khi nghỉ hưu của cán bộ, công chức, viên chức, trong khi xung đột lợi ích
thường thể hiện thơng qua những hoạt động này.
Pháp luật hiện hành đã có quy định về những hạn chế lợi ích cá nhân của
cán bộ, công chức, viên chức, như: về việc quà tặng, việc làm thêm, việc làm sau
khi nghỉ hưu, tuy nhiên chưa có quy định hạn chế hoặc kiểm sốt đối với các thành
viên mở rộng của gia đình và những người thân thích khác như bạn bè của cán bộ,
cơng chức, viên chức…
Trong khi đó, thực tế cho thấy những hành vi có lợi cho cán bộ, cơng chức,
viên chức thường được thực hiện bởi chính những thành viên trong gia đình cán bộ,
cơng chức, viên chức hoặc bạn bè thân tình của cán bộ, cơng chức, viên chức thơng
qua những doanh nghiệp “sân sau” hoặc qua việc biết trước thông tin. Sự thiếu hụt
này tạo cơ sở tồn tại cho một số dạng xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ của
cán bộ, công chức, viên chức.
Pháp luật hiện hành cũng chưa có quy định rõ ràng về trách nhiệm của cơ
quan nhà nước và xã hội trong việc phát hiện xung đột lợi ích. Chủ yếu việc xử lý
xung đột lợi ích được lồng ghép vào việc thi hành các quy định về phòng, chống


tham nhũng và được giao cho nhiều cơ quan, đơn vị thực hiện, hồn tồn khơng có

quy định nào chun sâu về vấn đề kiểm sốt xung đột lợi ích trong hoạt động cơng
vụ.
Quy định về kiểm sốt q tặng cịn hình thức, chưa làm rõ trách nhiệm của
cơ quan nhà nước trong việc tiếp nhận và xử lý kịp thời báo cáo về quà tặng của
cán bộ, công chức, viên chức; chưa có quy định rõ về chế tài xử lý vi phạm cho
hành vi này. Theo pháp luật hiện hành mới chỉ có yêu cầu cơ quan và đơn vị xử lý
việc tặng quà phải thông báo cho các cơ quan, đơn vị quản lý người tặng quà “để
xem xét và xử lý”, tuy nhiên chưa quy định quy trình xử lý cụ thể cho hành vi này.
Bên cạnh đó, quy định về minh bạch tài sản tuy khá bài bản nhưng hiện
chưa làm rõ những lợi ích cá nhân tài chính là nguy cơ xung đột lợi ích của cán bộ,
công chức, viên chức, cụ thể như: Tình trạng chân trong, chân ngồi của cán bộ,
cơng chức, viên chức; tình trạng “cị” đất đang diễn ra hàng ngày đối với cán bộ,
công chức, viên chức đang công tác trong các ngành như tài ngun mơi trường,
địa chính, thanh tra,…; tình trạng lợi dụng chức vụ, quyền hạn để gia đình, người
thân, quen làm ăn, kinh doanh,…
Một câu hỏi mà nhân dân đặt ra cho cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước
mà chưa có câu trả lời, đó là với mức lương hiện tại ở Việt Nam của cán bộ, cơng
chức, viên chức làm sao có nhiều tiền để mua nhiều đất, xây nhà lầu, mua xe hơi
hạng sang ?…
Quy định về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của người có chức vụ,
quyền hạn đã được củng cố đáng kể trong Luật phòng, chống tham nhũng năm
2018, là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc hạn chế lợi ích cá nhân của cán bộ,
cơng chức, viên chức, tuy nhiên quy định pháp luật vẫn còn sơ sài, chưa đủ mạnh
để hạn chế hành vi vi phạm của người có chức vụ, quyền hạn.
Bên cạnh đó, việc giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức và huy động
sự tham gia của xã hội vào việc giám sát xung đột lợi ích hiện vẫn chưa có quy
định riêng mà mới chỉ được lồng ghép trong các quy định chung về giáo dục, làm
cho hiệu quả của công tác tuyên truyền bị giảm đi rất nhiều.
So với nhiều quốc gia trên thế giới, pháp luật của Việt Nam về kiểm sốt
xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ cũng tương đối đầy đủ, song chất lượng

quy định giữa các nhóm cịn thiếu đồng đều.
Ví dụ như: trong khi nhóm quy định về cơng khai, minh bạch tài sản, thu
nhập của người có chức vụ, quyền hạn đã được củng cố đáng kể trong Luật Phòng,
chống tham nhũng năm 2018 và hiện đã khá hợp lý thì nhóm quy định về hạn chế
lợi ích cá nhân của cán bộ, công chức, viên chức trong hoạt động công vụ vẫn cịn
tương đối sơ sài. Cơng tác giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức về kiểm soát
xung đột lợi ích trong hoạt động cơng vụ có khá sơ sài, thiếu hiệu quả.


2.3. Kinh nghiệm quốc tế về kiểm soát xung đột lợi ích trong hoạt động
cơng vụ.
2.3.1. Phương pháp tiếp cận về kiểm sốt xung đột lợi ích trong hoạt động
cơng vụ
Kiểm sốt xung đột lợi ích là khái niệm được nhắc đến ngày càng nhiều hơn
trong thời gian gần đây như là một đòi hỏi, mong muốn của dư luận xã hội về một
nền quản trị nhà nước minh bạch, phịng ngừa tham nhũng hiệu quả. Trên thế giới,
kiểm sốt xung đột lợi ích được nhắc đến như là một phương thức nhằm xây dựng
một nền công vụ tốt hơn cũng với các giá trị khác như đạo đức công vụ, trách
nhiệm giải trình, chế độ liêm chính…
Những năm gần đây, khi tham nhũng trở thành vấn nạn ngày càng nghiêm
trọng, gây tổn hại không chỉ đến sự phát triển mà trực tiếp uy hiếp đến sự tồn vong
của chế độ thì phịng, chống tham nhũng trở thành mối quan tâm hàng đầu của các
quốc gia. Cùng với đó, kiểm sốt xung đột lợi ích được coi là giải pháp phịng,
chống tham nhũng triệt để và có tác dụng lâu dài. Bởi lẽ, xung đột lợi ích có mối
quan hệ rất gần với tham nhũng và kiểm soát xung đột lợi ích hiệu quả là tiền đề,
cơ sở vững chắc để ngăn chặn và từng bước loại trừ tham nhũng. Với mục đích,
đem đến một góc nhìn tổng qt về xung đột lợi ích và kiểm sốt xung đột lợi ích
trên thế giới, góp phần hồn thiện cơ sở lý luận trong q trình xây dựng, hồn
thiện pháp luật về xung đột lợi ích nói riêng và phịng, chống tham nhũng nói
chung, bài viết này chia sẻ một số kinh nghiệm về nhận diện và kiểm sốt xung đột

lợi ích trong hoạt động công vụ của một số quốc gia và tổ chức quốc tế công trên
thế giới.
Xung đột lợi ích tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của
con người nên khơng thể loại bỏ xung đột lợi ích tuy nhiên, nếu kiểm sốt để loại
trừ nguy cơ nảy sinh cũng như giải quyết tốt những tình huống xung đột lợi ích nẩy
sinh sẽ ngăn ngừa hành vi tham nhũng và xây dựng một nền cơng vụ liêm
chính, khách quan. Do vậy, các quốc gia và các tổ chức công quốc tế đều hướng
đến việc xây dựng chính sách kiểm sốt xung đột lợi ích, các chính sách này tiếp
cận theo hai hướng chủ yếu sau:
Một là, kiểm sốt xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ dựa trên các
nguyên tắc (principles-based approach). Hướng tiếp cận này được Tổ chức Hợp tác
và Phát triển kinh tế (OECD) tổng hợp từ kinh nghiệm các nước, trong đó đặt ra
các nguyên tắc chung về hành vi ứng xử của công chức trong thực thi chức trách,
nhiệm vụ công, trên cơ sở tiếp cận rằng xung đột lợi ích trong hoạt động cơng vụ
chủ yếu nằm ở vấn đề đạo đức cá nhân hơn là vấn đề pháp lý. Những nước kiểm
sốt xung đột lợi ích trong hoạt động cơng vụ theo ngun tắc điển hình hiện nay
như: Anh, New Zealand… Ví dụ, ở Anh đã xây dựng “Bảy nguyên tắc” làm tiêu


chí đánh giá chuẩn mực của nền cơng vụ gồm: khơng vị kỷ (selflessness), liêm chính
(integrity), khách quan (objectivity), trách nhiệm giải trình (accountability), cơng
khai (openess), trung thực (honesty), và lãnh đạo gương mẫu (leadership). Canada
đã ban hành Luật về vận động hành lang (Lobbying Act) và Bộ Quy tắc ứng xử
dành cho người vận động hành lang (Lobbyists' Code of Conduct), nhằm phịng
ngừa xung đột lợi ích trong lĩnh vực nhạy cảm này.
Trong lĩnh vực hành pháp, Chính phủ Canada xây dựng một khung quy tắc
và hướng dẫn qua đó thiết lập các chuẩn mực rộng và rõ ràng dựa trên một bộ
nguyên tắc nhằm thúc đẩy liêm chính và đạt được sự minh bạch bằng cách chủ
động khuyến khích q trình ra quyết định cơng khai và có đạo đức. Khung quy tắc
và hướng dẫn này ra đời từ tháng 12/1973 và ban đầu chỉ được áp dụng ở phạm vi

hẹp với các Bộ trưởng, các chính trị gia (không phải là công chức), và những
người thuộc Nội các được bổ nhiệm thông qua các văn bản nội bộ, qua hơn 10 năm
sửa đổi, bổ sung nhiều lần và đến năm 1985, Thủ tướng Canada ban hành Bộ
luật phịng, chống xung đột lợi ích và vấn đề sau khi thôi việc dành cho những
người nắm giữ chức vụ/vị trí cơng. Bộ luật này đề ra các ngun tắc mà những
người giữ chức vụ công phải thực hiện như:
(i)Các chuẩn mực đạo đức: Những người giữ chức vụ công phải hành động
với sự trung thực và thực hiện những chuẩn mực đạo đức cao nhất để lòng tin của
người dân đối với sự liêm chính, khách quan và vơ tư của Chính phủ được duy trì
và nâng cao;
(ii)Sự giám sát của người dân: Những người giữ chức vụ công có nghĩa vụ
thực hiện nhiệm vụ chính thức của họ và sắp xếp các vấn đề cá nhân của họ dưới sự
giám sát chặt chẽ nhất của người dân;
(iii) Ra quyết định: Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ và trách nhiệm cơng,
cơng chức phải đưa ra quyết định vì lợi ích cơng và trên cơ sở lý lẽ đúng sai của
từng trường hợp;
(iv) Lợi ích cá nhân: Những người giữ chức vụ cơng khơng được có lợi ích
cá nhân mà gây ảnh hưởng đặc biệt hoặc đáng kể đến những hành động của Chính
phủ mà họ tham gia.
Tại Mỹ, Chính phủ đã ban hành Sắc Lệnh về các chuẩn mực ứng xử hành
chính dành cho cơng chức hành pháp với 14 nguyên tắc ứng xử đạo đức.
Hai là,kiểm soát xung đột lợi ích trong hoạt động cơng vụ dựa trên các quy
định (rules-based approach). Pháp luật có những quy định rõ giúp nhận diện các
tình huống cụ thể mà ứng xử của công chức được coi là không phù hợp với vị trí
cơng tác, nhiệm vụ cơng được giao. Các quy định pháp luật này được xây dựng dựa


trên những nguyên tắc nền tảng về chống xung đột lợi ích. Mỹ và Bồ Đào Nha là
hai quốc gia điển hình cho việc kiểm sốt xung đột lợi ích bằng các quy định pháp
luật.

Bồ Đào Nha xây dựng một khn khổ pháp lý tồn diện trong đó quy định
những hoạt động không phù hợp với cả nền công vụ nói chung và đối với một số vị
trí nhất định nói riêng. Bản thân các Quy định cơng vụ buộc các nhân viên hành
chính cơng phải cơng bằng, khơng thiên vị trong thực hiện nhiệm vụ công. Hệ
thống các quy định này được chia thành cấp độ khác nhau trong đó có văn bản luật
và trên luật (Hiến pháp và các đạo luật đặt ra những quy định cơ bản có tính
ngun tắc. Tiếp đến là các văn bản dưới luật đóng vai trị quan trọng trong xây
dựng và phát triển hệ thống phịng, chống xung đột lợi ích trong hoạt động công
vụ).
Ưu điểm của cách tiếp cận này là tính rõ ràng, tường minh, tránh được sự
giải thích sai hoặc cách hiểu mơ hồ về các tình huống xung đột lợi ích có thể nảy
sinh trong hoạt động cơng vụ. Tuy nhiên, phương thức kiểm sốt này có hạn chế là
bối cảnh kinh tế, chính trị và xã hội thường xuyên thay đổi nên xung đột lợi ích
cũng biến đổi theo hồn cảnh, do đó, các quy định pháp luật cũng cần được rà soát,
điều chỉnh lại để phù hợp với điều kiện chính trị - xã hội.
2.3.2. Kinh nghiệm về kiểm sốt xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ
Một là, xây dựng và đảm bảo thực hiện tính minh bạch và trách nhiệm giải
trình trong hoạt động công vụ
Công khai thu nhập, tài sản và các lợi ích của cơng chức trước cơng chúng
được đa số các nước thành viên OECD coi là công cụ hữu hiệu để phịng ngừa
xung đột lợi ích ở các quốc gia. Những lợi ích cá nhân phải kê khai thường xoay
quanh 5 nội dung chính: (i) tài sản (bao gồm động sản và bất động sản); (ii) các
khoản nợ; (iii)thu nhập ngoài (bất cứ thu nhập nào ngoài thu nhập hiện có từ lương
cơng chức); (iv) cơng việc bên ngồi (bao gồm cả những vị trí được trả lương hay
khơng trả lương ngồi vị trí hiện tại của cơng chức trong bộ máy nhà nước); và (v)
lịch sử công việc (tên của những đơn vị, tổ chức mà công chức đã từng có thời gian
cơng tác trước khi làm việc ở vị trí hiện tại).
Với New Zealand, hoạt động của Chính phủ cần được cơng khai để người
dân giám sát, với mục tiêu là các xung đột lợi ích cơng và tư, của các cán bộ/công
chức hoặc Bộ trưởng sẽ có nhiều khả năng được đưa ra ánh sáng. Do vậy, nền công

vụ của New Zealand được tổ chức và hoạt động thông qua một hệ thống quy định
minh bạch, liêm chính. Từ quy trình bổ nhiệm minh bạch (quy định bởi Luật khu
vực nhà nước) đến quyền tự do tiếp cận thông tin của người dân được quy


×