Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

PHÂN TÍCH THÀNH TỰU VỀ KINH TẾ SAU 30 NĂM ĐỔI MỚI CỦA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.44 KB, 46 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
Khoa Quản trị kinh doanh
----------------🙣🙣🙣---------------

BÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề tài:
PHÂN TÍCH THÀNH TỰU VỀ KINH TẾ SAU 30 NĂM ĐỔI MỚI CỦA VIỆT
NAM

Nhóm thực hiện: Nhóm
1 Lớp:
GVHD:

Hà Nội, 2021


LỜI MỞ ĐẦU
Vào những năm 1975 – 2018, Đảng đã lãnh đạo cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội và tiến hành công cuộc đổi mới đất nước. Đây là một q trình khó khăn và vất vả khi
mà nước ta mới bước ra từ trong bức tranh hoang tàn của chiến tranh, kinh tế kiệt quệ,
đời sống nhân dân khó khăn, chưa thống nhất được đường lối, phương cách để tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Giúp hiểu được đường lối, Cương lĩnh, những tri thức có hệ thống về
quá trình phát triển đường lối và lãnh đạo của Đảng đưa cả nước quá đô ̣ lên chủ nghĩa
xã hội và tiến hành công cuộc đổi mới từ sau ngày thống nhất đất nước năm 1975 đến
nay. Đặc biệt là trong vấn đề kinh tế.
Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, nhóm đã thực hiện tìm hiểu để tài:
“ Phân tích thành tựu kinh tế sau 30 năm đổi mới của Việt Nam từ năm 1986 đến nay”.
Mục tiêu của đề tài:
-


Tìm hiểu hồn cảnh của nước ta trước 30 năm đổi mới như thế nào?

-

Đâu là những chính sách, chủ trương được sử dụng trong 30 năm đổi mới đất nước?

-

Đánh giá kết quả đạt được và những hạn chế về thành tựu kinh tế sau 30 năm

đổi mới, đưa ra một số đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề đó ?
Phương pháp nghiên cứu: Nhóm thực hiện đề tài dựa trên phương pháp nghiên cứu
định tính. Trong đó, nhóm thu thập các giáo trình, bài viết, bài báo, tạp chí, báo cáo v.v.
có liên quan đến nội dung nghiên cứu từ nhiều nguồn khác nhau. Từ đó sàng lọc, phân
tích và tổng hợp lại trong bài của mình.
Những nội dung chính (khơng gồm Phần mở đầu) trong bài gồm có 3 phần:
Phần 1: Cơ sở lý thuyết.
Phần 2: Các chính sách kinh tế trong 30 năm đổi mới.
Phần 3: Phân tích thành tựu kinh tế trong 30 năm đổi mới của Việt Nam.
Phần 4: Đánh giá mặt tích cực, hạn chế của các chính sách trong 30 năm đổi mới.


MỤC LỤC
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT.......................................................................................................3
PHẦN 2: CÁC CHÍNH SÁCH KINH TẾ TRONG 30 NĂM ĐỔI MỚI...................................6
2.1. Hoàn cảnh....................................................................................................................................6
2.1.1. Hoàn cảnh trong nước........................................................................................................6
2.1.1.1. Hoạt động trong 10 năm thực hiện đường lối thời kỳ trước đổi mới từ năm 1975 đến
năm 1985..................................................................................................................................... 6
2.1.1.2. Mười năm thực hiện đường lối thời kỳ trước đổi mới từ năm 1975 – 1985..................8

2.1.2. Hồn cảnh trên thế giới......................................................................................................9
2.2. Các chính sách trong 30 năm đổi mới...................................................................................10
2.2.1.Các chính sách trong giai đoạn từ năm 1986 đến 1996....................................................10
2.2.1.1. Các chính sách trong giai đoạn từ năm 1986 đến 1990................................................10
2.2.1.2. Các chính sách trong giai đoạn từ năm 1990 đến 1996................................................16
2.2.2.Các chính sách trong giai đoạn từ năm 1996 đến nay...................................................... 19
2.2.2.1. Các chính sách trong giai đoạn từ năm 1996 đến 2000:...............................................19
2.2.2.2 Các chính sách trong giai đoạn 2000-2005....................................................................20
2.2.2.3. Các chính sách trong giai đoạn từ năm 2006 đến 2010................................................22
2.2.2.4. Các chính sách trong giai đoạn từ năm 2011 đến 2015................................................ 25
2.2.2.5. Các chính sách trong giai đoạn 2015 đến nay.............................................................. 28
PHẦN 3: PHÂN TÍCH THÀNH TỰU KINH TẾ TRONG 30 NĂM ĐỔI MỚI CỦA VIỆT
NAM...................................................................................................................................................29
3.1. Thành tựu trong giai đoạn từ năm 1986 – 1996...................................................................29
3.1.1. Thành tựu trong giai đoạn từ năm 1986 – 1990.............................................................. 29
3.1.2. Thành tựu trong giai đoạn từ năm 1990 – 1996.............................................................. 30
3.2. Thành tựu trong giai đoạn từ năm 1996 đến 2005..................................................................31
3.2.1.Thành tựu trong giai đoạn từ năm 1996-2000.................................................................. 31
3.2.2. Thành tựu trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2005:..........................................................33
3.2.3. Thành tựu trong giai đoạn từ năm 2006 đến 2010...........................................................34
3.2.4. Thành tựu trong giai đoạn từ năm 2011 đến 2015...........................................................35
3.2.5. Thành tựu trong giai đoạn từ năm 2016 đến nay.............................................................37
PHẦN 4: ĐÁNH GIÁ MẶT TÍCH CỰC, HẠN CHẾ CỦA CÁC CHÍNH SÁCH TRONG 30
NĂM ĐỔI MỚI................................................................................................................................38
4.1. Đánh giá.....................................................................................................................................38
4.1.1. Tích cực........................................................................................................................... 38
4.1.2. Hạn chế............................................................................................................................ 39
LỜI KẾT...........................................................................................................................................41

2



PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Gần ba mươi năm qua, nhất là 10 năm gần đây, nhận thức về Đảng và cơng tác xây
dựng Đảng có nhiều đổi mới.
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Đảng ta khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp cơng nhân,
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc
Việt Nam. Đến Đại hội X và XI, Đảng ta khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội
tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của dân tộc”. Khẳng định như vậy thể hiện bước tiến về nhận thức lý luận của
Đảng ta về bản chất của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991) đã khẳng định nền tảng tư tưởng
của Đảng là lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng. Đến Đại
hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Đảng khẳng định rõ hơn, đầy đủ hơn: “Tư tưởng Hồ
Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta”. Đây là bước phát triển quan trọng trong nhận thức
và tư duy lý luận của Đảng ta.
Trong gần 30 năm qua, đã có bước tiến trong nhận thức về làm rõ những luận điểm
nào của C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin trước kia đã đúng, bây giờ và về sau vẫn
đúng; những luận điểm nào trước kia đúng, nhưng điều kiện lịch sử hiện nay đã thay đổi,
không còn phù hợp, cần phải bổ sung, phát triển hoặc thay đổi; những luận điểm nào
ngay khi sinh thời, các ông đã phát hiện thấy không đầy đủ hoặc thừa nhận là sai và đã
sửa đổi, nhưng chúng ta không thấy hết; những luận điểm nào của các ông mà chúng ta
đã hiểu không đầy đủ, hoặc hiểu sai do nghiên cứu không thấu đáo hoặc hiểu theo cách
hiểu không đúng của người khác, đảng khác. Từ đó, Đảng ta đã xác định phải vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ động nghiên
cứu, tiếp thu có chọn lọc các lý thuyết phát triển, các trào lưu lý luận và các thành tựu
khoa học xã hội của thế giới.

Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống chính trị. Đảng
phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân,


chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; tơn trọng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Các tổ chức của Đảng
và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật.
Qua gần 30 năm đổi mới, Đảng ta luôn khẳng định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then
chốt, sự nghiệp sống cịn trong tồn bộ sự nghiệp cách mạng. Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá đô ̣ lên chủ nghĩa xã hôi năm 1991 và Cương lĩnh (bổ sung, phát
triển năm 2011) đều khẳng định: Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, coi
đây là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng, bảo đảm cho Đảng ta luôn luôn ngang tầm
nhiệm vụ cách mạng, xứng đáng là Đảng cầm quyền. Việc đổi mới, chỉnh đốn Đảng phải
góp phần tăng cường bản chất giai cấp cơng nhân và tính tiên phong, nâng cao năng lực
và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng,
tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có tầm cao trí
tuệ và phương thức lãnh đạo khoa học, gắn bó mật thiết với nhân dân.
Nhận thức đúng trong xây dựng Đảng về chính trị. Trước hết, phải kiên định đường
lối đổi mới, chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vơ ngun
tắc. Từ đó, nhận thức rõ vai trò của tham mưu, nghiên cứu, tư vấn khoa học và trách
nhiệm chính trị của người đứng đầu cấp ủy trong lĩnh vực xây dựng và triển khai thực
hiện các nghị quyết, quyết định của Đảng.
Nhận thức rõ hơn công tác xây dựng Đảng về tư tưởng. Xác định rõ cơng tác tư
tưởng là nhiệm vụ của tồn Đảng, của tất cả đảng viên, trước hết là cấp ủy các cấp và
đồng chí bí thư cấp ủy, của cả hệ thống chính trị với sự tham gia đóng góp của nhân dân,
trong đó lực lượng nịng cốt là đội ngũ chun trách làm cơng tác tư tưởng, lý luận, báo
chí của Đảng.
Nhận thức trong công tác xây dựng Đảng về tổ chức, cán bộ có bước tiến mới. Đội
ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và cán bộ cấp cơ sở được thường

xuyên chăm lo xây dựng. Công tác cán bộ được đổi mới gắn với đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ
theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và
người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị.


Nhận thức ngày càng rõ về xây dựng tiềm lực trí tuệ của Đảng; rèn luyện năng lực,
tư duy chính trị của cán bộ, đảng viên. Ngay từ khi đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất
nước, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Đảng ta đã đặt vấn đề xây dựng
tiềm lực trí tuệ của Đảng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng là “Đại hội
của trí tuệ - đổi mới - dân chủ - kỷ cương - đoàn kết”. Quan điểm xây dựng tiềm lực trí
tuệ của Đảng nêu trên đã được Đảng ta tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa hơn tại các Đại
hội VIII, IX và X của Đảng. Như vậy, việc xây dựng tiềm lực trí tuệ của Đảng đã ln
được Đảng ta đặt ở vị trí hàng đầu trong cơng tác xây dựng Đảng.
Cũng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã chỉ rõ: đổi mới tư duy
chính trị khơng có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lý luận về chủ nghĩa xã hội mà
chúng ta đã đạt được hay phủ nhận những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội; phủ nhận đường lối chính trị đúng đắn đã được xác định; trái lại, đó chính
là sự bổ sung và phát triển những thành tựu ấy. Với quan điểm này, Đảng đã đẩy mạnh
công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn trên tinh thần dân chủ, cởi mở, tranh luận
thẳng thắn, tự phê bình và phê bình để tìm ra cái mới đúng đắn thay thế cái cũ sai lầm
hoặc khơng cịn phù hợp.
Nhận thức rõ hơn về xây dựng và củng cố niềm tin đối với sự lãnh đạo của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng việc xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân
đối với con đường cách mạng, đối với sự lãnh đạo của Đảng; chuyển hóa niềm tin ấy
thành những phong trào thi đua yêu nước rộng rãi, góp phần tạo nên thế và lực mới cho
đất nước trong những giai đoạn phát triển tiếp theo.
Các cấp ủy, tổ chức đảng được xác định phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, thực
hiện tốt hơn nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng. Bổ sung
chức năng giám sát và xác định rõ hơn, cụ thể hơn nội dung kiểm tra, giám sát, trong đó

chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu.
Trải qua gần 30 năm đổi mới, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đến Đại hội
VIII, IX và X, nhận thức của Đảng về phương thức lãnh đạo của Đảng đã từng bước phát
triển, cụ thể hơn, rõ hơn về phương thức lãnh đạo đối với các tổ chức trong hệ thống
chính trị, nhất là lãnh đạo Nhà nước. Đến Đại hội XI, trong Cương lĩnh (bổ sung, phát
triển năm 2011), Đảng ta xác định: “Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định


hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng cơng tác tuyên truyền, thuyết phục, vận
động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên”.
Nhận thức dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng
pháp luật, được pháp luật bảo đảm. Đảng đã bổ sung nội dung dân chủ vào hệ mục tiêu
của đổi mới: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; phát huy dân chủ
trong sinh hoạt đảng đồng thời với giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng. Thực hiện đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ. Chống quan liêu, bè phái, cục bộ, địa phương, lối làm việc
vô nguyên tắc, vi phạm kỷ luật, vi phạm dân chủ.
PHẦN 2: CÁC CHÍNH SÁCH KINH TẾ TRONG 30 NĂM ĐỔI MỚI
2.1. Hoàn cảnh
2.1.1. Hoàn cảnh trong nước
2.1.1.1. Hoạt động trong 10 năm thực hiện đường lối thời kỳ trước đổi mới từ năm
1975 đến năm 1985


Nước ta hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước và bước đầu xây dựng

chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Từ đầu năm 1975, nước ta đã bước sang một kỷ
nguyên mới: Tổ quốc hoàn toàn độc lập, thống nhất, bước vào giai đoạn quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Nhiệm vụ bước đầu hiện nay là Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa ở
miền Bắc và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hịa miền Nam Việt Nam ở miền Nam
phải thống nhất hai chính quyền.

Chủ trương của Đảng được thể hiện qua Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa III (8 – 1975) và Chỉ thị số 228 của Bộ Chính trị (1976). Đầu tiên, Hội
nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng chủ trương: Hoàn thành thống nhất
nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; miền
Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa; miền Nam phải đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa
và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Và chỉ thị số 228 của Bộ Chính trị (1976): Ngày 3-11976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 228-CT/TW nêu rõ tầm quan trọng
của cuộc Tổng tuyển cử và giao trách nhiệm cho các cấp ủy lãnh đạo cuộc bầu cử. Thực
hiện chủ trương đó, dưới sự chỉ đạo của Đảng, ngày 25-4-1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu
Quốc hội chung của nước Việt Nam thống nhất được tiến hành. Hơn 23 triệu cử tri, đạt tỉ
lệ 98,77% tổng số cử tri đi bầu, đã bầu ra 492 đại biểu gồm đủ các thành phần công nhân,


nơng dân, trí thức, các lực lượng vũ trang, các đại biểu tầng lớp thanh niên, phụ nữ,
đại biểu các dân tộc ít người và các tơn giáo... trên cả nước.
Kết quả đạt được là đất nước ta đã thống nhất về mặt chính quyền, Đảng và các tổ
chức chính trị - xã hội. Nó đã tạo sức mạnh tồn diện cho đất nước khi bước vào thời
kỳ quá độ lên CNXH.


Đại hội đại biểu lần thứ IV của Đảng đưa ra đường lối cụ thể:
Về cách mạng thì tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nêu 3 đặc điểm

lớn của cách mạng Việt Nam. : “Một là, nước ta đang ở trong quá trình từ một xã hội mà
nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Hai là, Tổ quốc ta đã hịa bình, độc lập, thống nhất, cả
nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với nhiều thuận lợi rất lớn, song cũng cịn nhiều khó khăn
do hậu quả của chiến tranh và tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới gây ra. Ba là, cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiến hành trong hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, song cuộc
đấu tranh “ai thắng ai” giữa thế lực cách mạng và thế lực phản cách mạng trên thế giới

còn gay go, quyết liệt.
Về xây dựng đất nước thì xác định đường lối xây dựng phát triển kinh tế. Đẩy mạnh
cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa bằng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp
lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, xây dựng cơ cấu kinh tế côngnông nghiệp; kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương, kết hợp phát triển lực
lượng sản xuất; tăng cường quan hệ kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa anh em đồng
thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác; xác định phương hướng, nhiệm vụ của
kế hoạch 5 năm 1976 – 1980: Xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc .


Năm 1976 – 1981: Tiến hành xây dựng đất nước và bảo vệ tổ quốc.
Hội nghị Trung ương 6 (8-1979) được là bước đột phá đầu tiên đổi mới kinh tế của

Đảng với chủ trương khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản lý kinh tế, trong
cải tạo xã hội chủ nghĩa, phá bỏ những rào cản để cho “sản xuất bung ra”.
Bảo vệ tổ quốc : Thứ nhất, tập đồn Pơn Pốt tăng cường chống phá, giết hại nhân
dân Việt Nam,tấn công xâm lược tại tuyến biên giới Tây Nam. Từ ngày 26-12-1978,
quân tình nguyện Việt Nam phối hợp chặt chẽ cùng quân dân Campuchia tổng tiến cơng,
đến ngày 7-1-1979 giải phóng Phnơm Pênh, xóa bỏ tập đồn diệt chủng Pơn Pốt. Ngày
18-2-1979, Việt Nam và Campuchia ký Hiệp ước hịa bình, hữu nghị và hợp tác. Thứ hai,
năm 1974, Trung Quốc dùng vũ lực chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam việc rút


chuyên gia, cắt viện trợ cho Việt Nam, liên tiếp lấn chiếm dẫn đến xung đột trên tuyến
biên giới phía Bắc Việt Nam từ năm 1978. Ngày 5-3-1979, Chủ tịch Tơn Đức Thắng ra
lệnh Tổng động viên tồn quốc. Ngày 5-3-1979, Trung Quốc tuyên bố rút quân và đến
ngày 18-3-1979 quân Trung Quốc đã rút hết quân về nước. Từ ngày 18-4-1979 về sau,
Việt Nam và Trung Quốc đã đàm phán, từng bước giải quyết những tranh chấp về biên
giới lãnh thổ và các vấn đề khác, khơi phục hồ bình, quan hệ hữu nghị truyền thống giữa
nhân dân hai nước.



Đại hội đại biểu lần thứ V:
Đã có bước phát triển nhận thức mới, tìm tịi đổi mới trong bước quá độ lên chủ

nghĩa xã hội, trước hết là về mặt kinh tế. Đường lối chung là hoàn toàn đúng đắn; khuyết
điểm là trong khâu tổ chức thực hiện, nên đã khơng có được những sửa chữa đúng mức
và cần thiết.
2.1.1.2. Mười năm thực hiện đường lối thời kỳ trước đổi mới từ năm 1975 – 1985


Thành tựu:
Nhìn lại sau 10 năm, đất nước ta đã thống nhất đất nước về mặt nhà nước, quân,

dân, dân tộc quy về một khối. Kỳ họp hội nghị được diễn ra thành công, đất nước ta lấy
tên là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc kỳ nền đỏ sao vàng 5 cánh, Thủ
đô là Hà Nội, Quốc ca là bài Tiến quân ca, Quốc huy mang dòng chữ Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, Thành phố Sài Gòn đổi tên là Thành phố Hồ Chí Minh. Quốc hội đã
bầu Chủ tịch nước; Phó Chủ tịch nước; Chủ tịch Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ nước
Cộng hịa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội đã và thành lập Ủy ban dự thảo Hiến
pháp mới. Trên cơ sở đó, các tổ chức chính trị xã hội được thống nhất cả nước với tên
gọi như: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đồn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh. Thành
cơng đó chính là nền tảng để thống nhất nước nhà trên những lĩnh vực khác
Đạt được những thành tựu quan trọng trong chủ nghĩa xã hội, nước ta bước vào thời
kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây được xác định là giai đoạn khó khăn, phải chiến
đấu lâu dài để đi lên chủ nghĩa xã hội
Chiến thắng trong hai cuộc chiến tranh biên giới và đã khắc phục được hậu quả một
phần chiến tranh. Thứ nhất, Việt Nam và Campuchia ký Hiệp ước hịa bình, hữu nghị và
hợp tác. Thứ hai, từ ngày 18-4-1979 về sau, Việt Nam và Trung Quốc đã đàm phán, từng
bước giải quyết những tranh chấp về biên giới lãnh thổ và các vấn đề khác, khơi phục hồ
bình, quan hệ hữu nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước.



Việt Nam không ngừng tăng cường các hoạt động đối ngoại, tham gia các hiệp định
kinh tế thế giới phải kể đến như:
-

Ngày 15-9-1976, Việt Nam tiếp nhận ghế thành viên chính thức Quỹ tiền tệ quốc

tế (IMF).
-

Ngày 21-9-1976, tiếp nhận ghế thành viên chính thức Ngân hàng thế giới (WB).

-

Ngày 23-9-1976, gia nhập Ngân hàng phát triển châu Á (ADB).

-

Ngày 29-6-1978, Việt Nam gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (khối SEV).

-

Ngày 31-11-1978, Việt Nam ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác tồn diện với Liên

Xơ.
-

..........




Hạn chế:
Việt Nam vừa phát triển kinh tế vừa tìm tịi con đường xây dựng CNXH đạt được

những thành tựu trong công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc nhưng khó khăn
cũng chống chất. Thứ nhất, đất nước ta thời kỳ bấy giờ là một đất nước nông nghiệp
nghèo nàn, lạc hậu, trải qua thời kỳ chiến tranh triền miên. Nhân dân nghèo đói, dân trí
thấp. Cuối năm 1979, một số địa phương miền Bắc xuất hiện hiện tượng “xé rào”,...Ở
miền Nam thì việc thí điểm hợp tác xã diễn ra khó khăn, phức tạp. Những khó khăn trên
có nguồn gốc sâu xa từ nền kinh tế thấp kém, thiên tai nặng nề liên tiếp xảy ra, chiến
tranh biên giới và chính sách cấm vận, bao vây, cơ lập của Mỹ và các thế lực thù địch.
Thứ hai, Chính phủ vẫn đang tìm con đường xây dựng CNXH nên khơng tránh khỏi
những sai lầm do nóng vội, chủ quan.
 Nguyên nhân:
Do tư tưởng nóng vội muốn lên CNXH trong một thời gian ngắn xuất phát từ
nguyên nhân cơ bản “bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn,
nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan”.
Do nền kinh tế còn yếu kém, hậu quả do trải qua chiến tranh cịn nặng nề, các chính
sách cầm vận từ nước ngồi. Chính vì điều này, đời sống nhân dân khó khăn cơm cịn
chưa đủ ăn, khó đạt được các chỉ tiêu mà Đại hội đề ra.
2.1.2. Hoàn cảnh trên thế giới
Từ thập niên 70 của thế kỷ XX, sự tiến bộ nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ đã thúc đẩy lực lượng sản xuất thế giới phát triển mạnh; Nhật Bản và


Tây Âu vươn lên trở thành hai trung tâm lớn của kinh tế thế giới; xu thế chạy đua phát
triển kinh tế đã dẫn đến cục diện hịa hỗn giữa các nước lớn. Cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các
quốc gia, dân tộc. Tháng 2-1976, các nước ASEAN ký Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở

Đông Nam Á (Hiệp ước Bali), mở ra cục diện hịa bình, hợp tác trong khu vực
Bắt đầu từ những năm 1980, mối quan hệ giữa các nước trên thế giới chuyển từ đối
đầu sang đối thoại. Các nước Trung Quốc, Liên Xô, Đông Âu đều đã đang vào những
hoạt động cải cách kinh tế để khắc phục những kiếm khuyết trong mơ hình CNXH.
2.2. Các chính sách trong 30 năm đổi mới
2.2.1.Các chính sách trong giai đoạn từ năm 1986 đến 1996
2.2.1.1. Các chính sách trong giai đoạn từ năm 1986 đến 1990
Nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng sa sút nghiêm trọng trong thời điểm diễn ra
Đại hội VI năm 1986. Đảng nghiêm khắc đánh giá những ngun nhân dẫn đến tình trạng
đó, đặc biệt là những nguyên nhân chủ quan, duy ý chí, chưa nắm vững và vận dụng
đúng quy luật khách quan. Một bài học sâu sắc được Đảng rút ra tại Đại hội VI là: “Đảng
phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo những quy luật khách
quan… Tiêu chuẩn đánh giá sự vận dụng đúng đắn các quy luật thơng qua chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước là sản xuất phát triển, lưu thơng thơng suốt, đời sống
vật chất và văn hố của nhân dân từng bước được ổn định và nâng cao, con người mới xã
hội chủ nghĩa ngày càng hình thành rõ nét, xã hội ngày càng lành mạnh, chế độ xã hội
chủ nghĩa được củng cố”.
Sau nhiều năm cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo phương hướng xã hội chủ
nghĩa hố tồn bộ quan hệ sản xuất đã dẫn tới tình trạng sản xuất bị đình đốn, nền kinh tế
phát triển chậm. Thực tiễn đó đã minh chứng một điều là cần phải mở ra một phương
hướng mới để đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đó cũng đã chứng minh việc tiến lên chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là một quá trình lâu dài, phức tạp và phải trải qua nhiều
bước đường khác nhau. Đó là cả một q trình tìm tịi, sáng tạo, cần phải rút kinh nghiệm
từ thực tiễn để vạch ra những bước đi tiếp theo, phải tránh sự dập khuân, máy móc. Lênin
đã chỉ ra rằng “chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xi hẳn
và bất khả xâm phạm, trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho mơn
khoa học mà người xã hội chủ nghĩa phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không
muốn trở thành lạc hậu với cuộc sống.



Trên tinh thần đó, và xuất phát từ tình hình thực tiễn đất nước, tại Đại hội VI Đảng
đã đề ra chủ trương thực hiện đường lối đổi mới đất nước, trước hết là đổi mới tư duy.
Đổi mới tư duy khơng có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lý luận đã đạt được, phủ
nhận những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ nhận đường
lối đúng đắn đã được xác định, trái lại, chính là bổ sung và phát triển những thành tựu
ấy”.
Đảng nhận thấy rõ nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất trong
thời gian qua (trước Đại hội VI) là do những sai lầm, thiếu sót trong việc bố trí cơ cấu
kinh tế, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong cơ chế quản lý kinh tế. Chính vì vậy
mà tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tế đề ra lần này là nhằm giải
phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và
sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi
với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Trong chủ trương xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, Đảng xác
định rõ: xây dựng quan hệ sản xuất mới cả ba mặt, làm cho nó thật sự mang bản chất xã
hội chủ nghĩa, gắn với mỗi bước phát triển của lực lượng sản xuất, là công việc to lớn,
không thể làm xong trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, khác với những năm trước đây,
là những năm mà trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thực sự thừa
nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối
dài, từ Đại hội VI trở đi nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành
phần. Các thành phần kinh tế đó là:
-

Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể, cùng

với bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần đó.
-

Các thành phần kinh tế khác gồm: kinh tế tiểu sản xuất hàng hố (thợ thủ cơng,


nơng dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản tư
nhân, kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, mà hình thức cao là công tư hợp
doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây
Nguyên và các vùng khác.
Đảng khẳng định: chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xuất phát từ đặc trưng
nói trên mà đề ra những chủ trương và biện pháp đúng đắn.


Việc thừa nhận nền kinh tế cơ cấu nhiều thành phần thể hiện sự nhận thức mới của
Đảng ta về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Lênin đã từng khẳng định: “Về lý luận,
không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có một
thời kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ đó khơng thể khơng bao gồm những đặc điểm và đặc
trưng của cả hai kết cấu kinh tế xã hội ấy”. Ở một đoạn khác, Lê nin giải thích rõ hơn:
Vậy thì, danh từ q độ có nghĩa là gì? vận dụng vào kinh tế có phải có nghĩa là trong
chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của cả chủ nghĩa tư
bản lẫn chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có. Tuy chúng ta quá độ
lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa với tính cách là một chế
độ xã hội, nhưng chúng ta vẫn có thể sử dụng những thành tựu mà chủ nghĩa tư bản
đã đạt được. Do vậy, sự tồn tại của những thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một điều hiển nhiên, nó nằm trong quy luật của sự phát
triển nói chung, của sự phát triển xã hội nói riêng.
Từ thực tiễn đất nước sau thập kỷ đầu tiên cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Đảng ta rút ra kết luận: “lực lượng sản xuất bị kìm hãm khơng chỉ trong trường hợp quan
hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển khơng đồng bộ, có những yếu
tố đi quá xa so vớ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tình hình thực tế của nước
ta địi hỏi phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp đến cao, từ
quy mô nhỏ, đến quy mô lớn. Trong mỗi bước đi quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa, phải
đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo ra lực lượng sản xuất mới, trên cơ sở
đó tiếp tục đưa quan hệ sản xuất mới tiến lên hình thức và quy mơ mới thích hợp để thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển”.

Trong những năm trước Đại hội VI, Đảng đã có những biện pháp nóng vội, muốn
xố bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản
tư nhân thành quốc doanh, có xu hướng muốn tổ chức ngay các hợp tác xã quy mơ lớn,
khơng tính đến khả năng trang bị kỹ thuật, trình độ quản lý và năng lực cán bộ trước sự
phát triển của thực tiễn, Đảng ta đã nhận thấy rõ những sai lầm do áp đặt chủ quan gây
ra. Sự phát triển của lực lượng sản xuất địi hỏi phải có những quan hệ phù hợp với nó.
“Những quan hệ sản xuất lạc hậu” hay “những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất” ắt sẽ kìm hãm sự phát triển của nó. Thực ra kinh nghiệm này đã
được Lênin rút ra từ thực tiễn xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô. Người đã dũng cảm
chỉ ra rằng: “chúng ta đã thất bại trong cái ý định dùng phương pháp “xung phong”,


nghĩa là dùng con đường ngắn nhất, nhanh nhất, trực tiếp nhất để thực hiện việc sản xuất
và phân phối theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa”.
Từ đó, Lênin đã quyết định chuyển sang thực hiện chính sách kinh tế mới (NEP).
Nội dung cơ bản của NEP có thể trình bày ngắn gọn như sau: thay chế độ trưng thu lương
thực thừa bằng thuế lương thực, cho phép tự do buôn bán, chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Như vậy, NEP đã đặt ra một vấn đề có thể nói là hết sức mới mẻ đối với chủ nghĩa Mác –
vấn đề về khả năng và sự cần thiết phải sử dụng các biện pháp “quá độ gián tiếp” với
nhiều nấc thang trung gian. Trước hết điều đó có liên quan đến nền sản xuất hàng hoá
nhỏ ở một nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà tuyệt đại đa số là nơng dân. Lênin viết,
“khơng nghi ngờ gì nữa, ở một nước trong đó những người sản xuất tiểu nơng chiếm
tuyệt đại đa số dân cư, chỉ có thể thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa bằng một loạt
những biện pháp q độ đặc biệt, hồn tồn khơng cần thiết ở những nước tư bản phát
triển…”. Đây đều là những kinh nghiệm quý báu cho sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
Việc thừa nhận nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần cũng có nghĩa là ngồi chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất, cho phép những cá nhân được phép sử dụng vốn để sản
xuất, kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. Sự điều chỉnh này đã góp phần giải phóng
mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước, phát huy
được tính năng động, chủ động, sáng tạo của người lao động do nó gắn liền với lợi ích cá

nhân của họ – một động lực khơng nhỏ đối với sự phát triển xã hội. Hơn nữa, sự điều
chỉnh này còn phát huy được tiềm năng tuy phân tán nhưng rất quan trọng trong nhân
dân, bao hàm cả về sức lao động, kỹ thuật, tiền vốn, khả năng tự tạo việc làm…
Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng, nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng là một
nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, để tiến hành vững chắc
công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát huy tác dụng tích cực của cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần, “điều quan trọng nhất là củng cố và phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa, trước
hết là làm cho kinh tế quốc doanh thật sự giữ vai trò chủ đạo, chi phối được các thành
phần kinh tế khác”. Nghĩa là, công hữu về tư liệu sản xuất phải là hình thức sở hữu chính,
chủ yếu, căn bản ở nước ta.
Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Cơ chế
quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp trong những năm trước đây (trước Đại hội đã
không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế


việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng
suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn phân phối lưu thông và làm nảy sinh nhiều hiện
tượng tiêu cực trong xã hội. Chính vì vậy mà Đảng ta tiếp tục chủ trương việc triển khai
thực hiện một cách triệt để việc đổi mới cơ chế quản lý đã được đề ra tại Đại hội V. Cơ
chế mới về quản lý kinh tế mới chính là “cơ chế kế hoạch hố theo phương thức hạch
toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”.
Tính kế hoạch là đặc trưng số một của cơ chế quản lý kinh tế, ngay từ buổi đầu của
thời kỳ quá độ, Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế quốc dân theo một kế
hoạch thống nhất. Để tăng cường vai trị của tính kế hoạch trong nền kinh tế quốc dân,
Đảng chủ trương đổi mới kế hoạch hoá: “kế hoạch kinh tế quốc dân trong những năm tới
phải bảo đảm thực hiện phương hướng sắp xếp lại nền kinh tế, bố trí đúng cơ cấu sản
xuất, cơ cấu đầu tư theo chương trình mục tiêu. Các cân đối kế hoạch được xây dựng từ
cơ sở và tổng hợp từ dưới lên với sự hướng dẫn và điều hoà của Trung ương. Kết hợp kế
hoạch hoá theo ngành và kế hoạch hoá trên địa bàn lãnh thổ”. Các đơn vị kinh tế cơ sở
với quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, chủ động tiếp cận nhu cầu thị trường, khai thác

mọi khả năng để phát triển sản xuất, kinh doanh nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của
kế hoạch Nhà nước.
Trong 5 năm đầu tiên thực hiện đường lối đổi mới, cơng tác kế hoạch hố đã có
những bước tiến lớn có tác dụng tích cực đến q trình sản xuất của các cơ sở thuộc các
thành phần kinh tế khác nhau. Cơng tác kế hoạch hố đã chuyển từ kế hoạch pháp lệnh
sang kế hoạch định hướng là chủ yếu. Do đó, đã tạo được tính độc lập, tự chủ của các cơ
sở sản xuất, kinh doanh.
Khác với cơ chế quản lý hành chính tập trung quan liêu bao cấp, cơ chế quản lý mới
này đặc biệt chú ý và sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá – tiền tệ: “Việc sử dụng quan
hệ hàng hoá – tiền tệ đòi hỏi sản xuất phải gắn với thị trường, mọi hoạt động kinh tế phải
so sánh chi phí với hiệu quả, các tổ chức và đơn vị kinh tế tự bù đắp chi phí và có lãi để
tái sản xuất mở rộng”.
Cơ cế quản lý mới này có tác dụng rất lớn đối với quá trình sản xuất và lưu thơng
hàng hố. Cuộc cải cách giá, chuyển từ hệ thống định giá hành chính sang cơ chế thị
trường đã góp phần khơng nhỏ vào việc điều hồ cung cầu và giảm bớt chênh lệch về giá
hàng hoá giữa các vùng trong nước nhờ giá cả phản ánh đúng giá trị và quan hệ cung cầu,


do đó đã thúc đẩy nền kinh tế hàng hố phát triển. Sau 5 năm thực hiện cơ chế mới,
“hàng hoá trên thị trường, nhất là hàng tiêu dùng dồi dào, đa dạng và lưu thông tương đối
thuận lợi”.
Tuy nhiên, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế cũng có tác động khơng nhỏ tới các
thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là ảnh hưởng tới các hợp tác xã thuộc lĩnh
vực sản xuất tiểu thủ cơng nghiệp, xuất hiện hiện tượng tư nhân hố các hợp tác xã. Tới
năm 1991, khoảng 20% hợp tác xã, trong đó có những đơn vị chỉ là kinh tế tập thể về
hình thức, cá thể hoặc chyển sang hoạt động dưới dạng tư nhân, ngay cả kinh tế nhà nước
cũng vậy, mới chỉ gần một phần ba các xí nghiệp quốc doanh vươn lên trong kinh doanh
và thích ứng được với cơ chế mới. Trong khi đó, cơ chế quản lý mới do mới hình thành
nên cịn nhiều hạn chế, cịn thiếu nhiều luật lệ, chính sách đảm bảo sản xuất, kinh doanh
đúng hướng, chậm tổng kết để đề ra chương trình tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế có hệ

thống. Bên cạnh những tiến bộ, sự quản lý và điều hành vĩ mô của Nhà nước ở các cấp
cũng bộc lộ nhiều mặt non yếu. Từ đó dẫn đến tình trạng nhiều người có vốn lớn nhưng
vẫn chưa mạnh dạn đầu tư, nhất là vào lĩnh vực sản xuất, vì mơi trường kinh doanh chưa
bảo đảm và có phần chưa tin vào sự ổn định của chính sách.
Đồng thời với việc điều chỉnh cơ cấu thành phần kinh tế và quản lý kinh tế, Đảng
chủ trương tiếp tục điều chỉnh quan hệ phân phối sản phẩm lao động theo hướng mà Đại
hội V đã đề ra. Trong chủ trương lần này Đảng nhấn mạnh: “việc thực hiện đúng nguyên
tắc theo chế độ phân phối theo lao động đòi hỏi sửa đổi một cách căn bản chế độ tiền
lương theo hướng đảm bảo yêu cầu tái sản xuất sức lao động, khắc phục tính bình qn…
áp dụng các hình thức trả lương gắn chặt với kết quả lao động và hiệu quả kinh tế”. Quan
hệ phân phối này khơng những có tác dụng khắc phục được những mặt hạn chế trong
quan hệ phân phối trước đây, như tính ỷ lại, thụ động, dựa dẫm… của người lao động mà
nó cịn có tác dụng kích thích người lao động hăng say sản xuất. Do đó, quan hệ phân
phối này sẽ tác động tích cực tới việc tăng năng suất lao động, phát triển sản xuất. Đối
với những người lao động ngồi các cơ quan, xí nghiệp, Đảng và Nhà nước nhấn mạnh
tới việc tơn trọng lợi ích chính đáng của những người hoạt động sản xuất kinh doanh hợp
pháp, có ích cho xã hội.
Sau 5 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ta đã thu được những thành tựu
quan trọng, tình hình lương thực, thực phẩm có chuyển biến tốt. Từ chỗ thiếu ăn triền


miên, năm 1989 còn phải nhập hơn 45 vạn tấn gạo, nay chúng ta đã vươn lên đáp ứng
nhu cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu, góp phần quan trọng ổn định đời sống nhân
dân và cải thiện cán cân xuất nhập khẩu; hàng hoá thị trường, nhất là hàng tiêu dùng, dồi
dào, đa dạng, lưu thông thuận lợi.
Một thành tựu khác về đổi mới kinh tế là bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hố
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Tuy cịn có những hạn chế nhất định tồn tại trong các lĩnh vực khác nhau, nhưng
những thành tựu bước đầu này chính là những tiêu chuẩn để Đảng ta đánh giá sự vận
dụng đúng đắn các quy luật khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đảng

nhận định: công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng,
chứng tỏ đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra là đúng đắn, bước đi của công cuộc đổi
mới về cơ bản là phù hợp.
2.2.1.2. Các chính sách trong giai đoạn từ năm 1990 đến 1996
Tại Đại hội VII năm 1991, Đảng chủ trương tiếp tục đổi mới tồn diện và đồng bộ,
đưa cơng cuộc đổi mới đi vào chiều sâu với bước đi vững chắc. Trong lĩnh vực quan hệ
sản xuất, Đảng chủ trương tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và
đổi mới quản lý kinh tế. Phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế, vừa cạnh tranh,
vừa hợp tác, bổ sung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân.
Những điều chỉnh của Đảng về quan hệ sản xuất tại Đại hội VI đã tạo ra những hệ
quả tất yếu của nó, đó là một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã dần hình thành. Sự hình thành nền kinh tế
đó ở nước ta trước hết là do sự đổi mới các quan hệ sở hữu. Nếu như trước đây (trước
Đại Hội VI), nền kinh tế nước ta chủ yếu là sở hữu toàn dân và tập thể thì hiện nay ngồi
2 hình thức sở hữu đó cịn tồn tại nhiều thành phần sở hữu khác. Những năm trước thời
kỳ đổi mới, Đảng ta luôn nhấn mạnh bảo đảm sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất nhưng lại không chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, khơng chủ trương đa dạng hố các loại hình sở hữu, không chấp nhận cơ chế thị
trường… dẫn đến tình trạng lực lượng sản xuất bị kìm hãm khơng phát triển được, sản
xuất trì trệ, nền kinh tế sa sút. Với chủ trương thực hiện đường lối đổi mới đất nước được
đề ra tại Đại hội VI, quan niệm của Đảng ta về quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có sự thay đổi. Điều này đã được một


số nhà nghiên cứu chỉ rõ: “trong quan niệm hiện nay của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã
chứa đựng những tư tưởng đổi mới về quy luật của sự phù hợp khách quan giữa quan hệ
sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Cái có ý nghĩa quyết định trong
quy luật này là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Do vậy, trong sự phù hợp với
trình độ phát trển của lực lượng sản xuất, sự tồn tại của các thành phần sở hữu đa dạng ở
một nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa là hồn tồn có cơ sở”.

Việc thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và các hình thức sở hữu khác nhau
tất yếu phải có những thay đổi trong cơ chế quản lý kinh tế. Nếu như ở Đại hội VI Đảng
ta mới chủ trương thay cơ chế tập trung quan liêu bao cấp bằng cơ chế kế hoạch hoá theo
phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, thì tới nay, việc điều tiết nền kinh tế
đất nước cịn có sự tham gia của cơ chế thị trường. Trong cơ chế này, các đơn vị kinh tế
có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và
liên doanh tự nguyện. Thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa
chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Nhằm
tạo ra một môi trường kinh tế sôi động, Đảng chủ trương “kiên trì vận dụng cơ chế giá thị
trường đối với sản xuất hàng tiêu dùng, tư liệu sản xuất, tỷ giá hối đối, lãi suất tín
dụng”.
Sự vận hành của cơ chế thị trường chắc chắn sẽ tác động rất lớn tới vai trò quản lý
của Nhà nước đối với nền kinh tế. Đảng chỉ rõ: “Nhà nước quản lý nền kinh tế nhằm định
hướng, dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt
động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường, kiểm soát chặt chẽ và xử lý các vi phạm
pháp luật trong hoạt động kinh tế, đảm bảo sự hài hoà giữa phát trển kinh tế và phát triển
xã hội”.
Như vậy, sự quản lý của Nhà nước sẽ đảm bảo cho các hoạt động kinh tế diễn ra
một cách bình thường, không can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của
các đơn vị nhưng vẫn có tác dụng làm cho nền kinh tế phát triển theo một hướng đã định,
đảm bảo nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với ý nghĩa đó,
vai trị của quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế sẽ tạo cho các đơn vị kinh tế một môi
trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Để quản lý tốt nền kinh tế đất nước, Nhà nước phải khơng ngừng đổi mới và hồn
thiện các cơng cụ quản lý vĩ mô sao cho lực lượng sản xuất có cơ hội phát huy hết khả


năng của mình, tạo ra nguồn của cải dồi dào cho đất nước. Nhận thức rõ điều đó, tại Đại
hội VII Đảng chủ trương tiếp tục đổi mới, bổ sung và đồng bộ hoá hệ thống pháp luật;
nâng cao chất lượng kế hoạch hoá, lấy thị trường làm đối tượng và căn cứ quan trọng

nhất; xây dựng chính sách tài chính quốc gia và thực hiện cải cách cơ bản tài chính Nhà
nước; …
Tuy vậy, trong q trình thực hiện những chủ trương này vẫn còn nhiều hạn chế,
“hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách chưa đồng bộ và nhất qn, thực hiện chưa
nghiêm, cơng tác tài chính ngân hàng, kế hoạch hố,… đổi mới chậm”. Tình hình đó đặt
ra một nhiệm vụ đối với Đảng và Nhà nước ta là phải đẩy mạnh hơn nữa công tác đổi
mới và hồn thiện các cơng cụ quản lý vĩ mơ.
Trong quan hệ phân phối sản phẩm, để kích thích nền kinh tế hàng hoá phát triển,
tại Đại hội VII, Đảng chú trọng tới việc điều chỉnh từ trả lương bằng hiện vật sang hình
thức trả bằng tiền, kết hợp hài hồ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Đảng nhấn
mạnh: “cải cách cơ bản chính sách tiền lương và tiền công theo nguyên tắc tiền lương và
tiền công phải dựa trên số lượng và chất lượng lao động, đảm bảo tái sản xuất sức lao
động, tiền tệ hàng hoá tiền lương, xoá bỏ chế độ bao cấp ngồi lương dưới hình thức hiện
vật; thực hiện mối tương quan hợp lý về tiền lương và thu nhập của bộ phận lao động xã
hội”. Ngoài ra, Đảng cũng khuyến khích mọi người tăng thu nhập và làm giàu dựa trên
kết quả lao động và hiệu quả kinh tế; bảo hộ các nguồn thu nhập hợp pháp; điều tiết hợp
lý thu nhập giữa các bộ phận dân cư, các ngành, các vùng… các chính sách phân phối đó
thể hiện rõ một nguyên tắc mà Đảng đã nêu ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là: làm theo năng lực, hưởng theo lao động. Do đó,
quan hệ phân phối này đảm bảo được tính cơng bằng giữa những người lao động, đó là
một điều kiện quan trọng để thúc đẩy sản xuất phát triển.
Nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển, ngoài việc đổi mới và hoàn thiện các quan hệ
sản xuất, Đảng còn đưa ra những chủ trương, biện pháp để nâng cao trình độ của lực
lượng sản xuất. Văn kiện Đại hội VII chỉ rõ: quan điểm của chúng ta là: trình độ lực
lượng sản xuất ở nước ta còn thấp, lao động còn dư thừa, vốn còn hạn chế, ta phải kết
hợp nhiều trình độ cơng nghệ, vừa tận dụng cơng nghệ sẵn có và từng bước cải tiến, nâng
cao, vừa cố gắng tranh thủ công nghệ mới, lựa chọn từng mặt, từng khâu, từng ngành,
mỗi cơ sở có khả năng tiến thẳng vào cơng nghệ hiện đại… Đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp



giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ, coi đây là quốc sách hàng đầu để phát huy
nhân tố con người, động lực trực tiếp của sự phát triển…
So với 5 năm đầu tiên thực hiện đường lối đổi mới, giai đoạn 1991 – 1996 này
Đảng và Nhà nước ta đã có những đổi mới đi vào chiều sâu của quan hệ sản xuất. Nhờ
đó, nền sản xuất nước ta đã có một quan hệ sản xuất tương đối phù hợp, do đó lực lượng
sản xuất được giải toả, tháo gỡ khỏi nhiều lực cản để phát triển.
Trong giai đoạn 1991 – 1995, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng. Tình trạng đình đốn trong sản xuất, rối ren trong lưu thông được khắc phục. Kinh
tế tăng trưởng nhanh, nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân hàng năm
thời kỳ 1991 – 1995 đạt 8,2%, lạm phát bị đẩy lùi từ 774,7% năm 1986 còn 67,1% năm
1991, 12,7% năm 1995. Lương thực khơng những đủ ăn mà cịn xuất khẩu được 2 triệu
tấn gạo mỗi năm. Nhiều cơng trình thuộc kết cấu hạ tầng và cơ sở công nghiệp trọng yếu
được xây dựng, tạo thêm sức mạnh vật chất và thế cân đối mới cho sự phát triển. Đời
sống vật chất của đại bộ phận nhân dân được cải thiện. Trình độ dân trí và mức hưởng
thụ văn hố của nân dân khá hơn trước. ổn định chính trị – xã hội được giữ vững. Nhiệm
vụ đề ra cho 5 năm 1991 – 1995 đã hoàn thành về cơ bản. Nước ta đã ra khỏi khủng
hoảng kinh tế – xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm .
Những thành tựu đó một lần nữa khẳng định sự nghiệp đổi mới đất nước được đề ra
tại Đại hội VI là đúng đắn. Và đây cũng chính là những tiêu chí sát thực nhất để khẳng
định những điều chỉnh trong quan hệ kinh tế của Đảng ta là phù hợp.
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, lực lượng sản xuất ở nước ta đã có những
bước phát triển mạnh mẽ, nền kinh tế – xã hội không ngừng được ổn định và phát triển.
Từ thực tiễn đó, tại Đại hội VIII năm 1996, Đảng ta nhận định: nước ta đã chuyển sang
thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Đây là một nhận
định cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa chỉ đạo đối với việc đề ra phương hướng, nhiệm vụ
sắp tới.
2.2.2.Các chính sách trong giai đoạn từ năm 1996 đến nay
2.2.2.1. Các chính sách trong giai đoạn từ năm 1996 đến 2000:
Đại hội VIII của Đảng (6-1996) khẳng định Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh
tế - xã hội và hoàn thành những nhiệm vụ đặt ra cho chặng đường đầu tiên của thời kỳ

quá độ, cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Những năm đầu thập niên


90, Việt Nam cũng ra khỏi tình trạng bị bao vây, cấm vận: bình thường hóa quan hệ với
Trung Quốc (1991), với Mỹ (1995), gia nhập ASEAN (1995), thúc đẩy quan hệ với Liên
minh châu Âu (EU), Nhật Bản và khởi động tích cực q trình hội nhập quốc tế.
Phát triển kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ
đạo.Mở rộng các hình thức kinh tế hợp tác đa dạng của người lao động trong các ngành
nghề trên cơ sở góp cổ phần và lao động trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả lao
động và theo cổ phần, bảo đảm nguyên tắc tự nguyện và cơ chế quản lý dân chủ, cơng
khai về tài chính và kinh doanh. Phát triển đa dạng các hình thức kinh tế tư bản Nhà
nước. Giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ giải quyết các khó khăn về vốn, cơng nghệ, thị
trường và kinh nghiệm quản lý. Khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất
trong các ngành, các lĩnh vực phù hợp với mục tiêu và chiến lược phát triển của đất nước.
Quan điểm của Đảng: coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm; phát huy tối đa
nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, ra sức cần kiệm, nâng cao hiệu quả sức cạnh
tranh của nền kinh tế. Cần kiệm để cơng nghiệp hố, khắc phục xu hướng chạy theo “xã
hội tiêu dùng”. Tập trung xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đồng
thời quan tâm xây dựng quan hệ sản xuất, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hướng
mạnh về xuất khẩu, nhưng không được coi nhẹ sản xuất trong nước và thị trường trong
nước. Thực hiện cơ chế thị trường, nhưng Nhà nước phải quản lý và điều tiết theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hiện công bằng xã hội.
Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu: Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và điều
chỉnh cơ cấu đầu tư. Phát triển nông nghiệp và nông thơn theo hướng cơng nghiệp hố,
hiện đại hố và hợp tác hoá, dân chủ hoá. Đẩy mạnh đổi mới, phát triển và quản lý có
hiệu quả các loại hình doanh nghiệp. Tiếp tục đổi mới và lành mạnh hoá hệ thống tài
chính-tiền tệ; thực hành triệt để tiết kiệm. Tích cực giải quyết việc làm và xố đói giảm
nghèo. Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý nhà nước và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế - xã hội.
Vượt qua khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực từ tháng 7-1997, với các chủ

trương trên về kinh tế, cho đến năm 2000, kinh tế đất nước tăng trưởng khá, tổng sản
phẩm trong nước (GDP) tăng bình qn hằng năm 7%. Nơng nghiệp phát triển liên tục,
đặc biệt là sản xuất lương thực. Giá trị sản xuất cơng nghiệp bình qn hằng năm tăng


13,5%. Các ngành dịch vụ, xuất khẩu và nhập khẩu đều phát triển. Năm 2000, các chỉ
tiêu chủ yếu đều đạt hoặc vượt kế hoạch đề ra.
2.2.2.2 Các chính sách trong giai đoạn 2000-2005
Đến năm 2001, Đảng và Nhà nước đã thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp tích
cực đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước và đã đạt nhiều kết quả làm
tăng thế và lực của đất nước. Tuy nhiên, doanh nghiệp nhà nước cũng cịn những mặt hạn
chế, yếu kém, có mặt rất nghiêm trọng. Hội nghị Trung ương 3 (9-2001) đã chỉ đạo sắp
xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, tạo bước phát
triển mới, tạo thế và lực cho các doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn
trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
Qua 5 năm 1996-2001, kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã kiểu mới dưới
nhiều hình thức, trình độ khác nhau trong các ngành, lĩnh vực, nhất là trong nơng nghiệp,
nơng thơn đã có đổi mới, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, kinh tế tập thể hiện nay còn nhiều mặt yếu kém, năng lực nội tại hạn chế; hiệu
quả ít; kinh tế tập thể chiếm tỷ trọng thấp trong GDP, chưa đủ sức đảm nhiệm tốt vai trị
của mình. Hội nghị Trung ương 5 (3-2002) đã thống nhất nhận thức về sự cần thiết phát
triển kinh tế tập thể và chủ trương xác lập môi trường thể chế và tâm lý xã hội thuận lợi,
sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách; nâng cao vai trị quản lý của nhà nước; tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Liên minh hợp tác xã Việt Nam, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đổi với phát triển kinh tế tập thể.
Qua 10 năm 1991-2001, kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư
bản tư nhân đã phát triển rộng khắp trong cả nước, đóng góp quan trọng vào phát triển
kinh tế. Tuy vậy, kinh tế tư nhân nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, yếu kém: quy mơ
nhỏ, vốn ít, cơng nghệ sản xuất lạc hậu, trình độ quản lý kém, hiệu quả và sức cạnh tranh
yếu và gặp nhiều khó khăn, vướng mắc về cơ chế hoạt động. Hội nghị Trung ương 5 (32002) đã thảo luận, thống nhất nhận thức coi kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan

trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài
trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Trung ương
quyết định tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển
kinh tế tư nhân.


Kể từ Luật đất đai sửa đổi năm 1988, những đổi mới trong chính sách, pháp luật về
đất đai hơn 15 năm qua đã đưa đến những kết quả tích cực, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Tuy nhiên, công tác quản lý và sử dụng đất đai hiện nay còn nhiều hạn chế, yếu kém và
nhiều vấn đề bức xúc. Đất đai chưa được chuyển dịch hợp lý, hiệu quả sử dụng cịn thấp.
Tình trạng người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai và tình hình khiếu kiện về đất
đai diễn ra nghiêm trọng và phổ biến; việc thu hồi đất, đền bù giải toả mặt bằng thực hiện
hết sức khó khăn. Hội nghị Trung ương 7 (3-2003) đã thống nhất nhận thức coi đất đai
là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn nội lực và
nguồn vốn to lớn của đất nước; quyền sử dụng đất là hàng hố đặc biệt. Đất đai thuộc sở
hữu tồn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Trung ương chủ
trương tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Đảng Nhà nước giao đất, cho thuê đất cho các tổ
chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài hoặc có thời hạn theo pháp luật.
Nhà nước khơng thừa nhận việc địi lại đất đã được Nhà nước giao cho cá nhân.
2.2.2.3. Các chính sách trong giai đoạn từ năm 2006 đến 2010
Mục tiêu và phương hướng tổng quát phát triển kinh tế giai đoạn 2006 đến 2010:
“Phấn đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng cao và bền vững hơn, gắn
với phát triển con người. Đến năm 2010, tổng sản phẩm trong nước (GDP) gấp hơn 2,1
lần so với năm 2000. Trong 5 năm 2006 - 2010, mức tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,5
-

8%/năm,

phấn


đấu

đạt

trên

8%/năm.” Cụ thể:
Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ. Đẩy mạnh tự do hoá thương mại phù hợp
các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Tạo bước phát triển mới, nhanh và toàn diện thị
trường dịch vụ, nhất là những dịch vụ cao cấp, có hàm lượng trí tuệ cao, giá trị gia tăng
lớn. Phát triển vững chắc thị trường tài chính bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ
theo hướng đồng bộ, có cơ cấu hoàn chỉnh.
Phát triển vững chắc thị trường tài chính, bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền
tệ theo hướng đồng bộ, có cơ cấu hồn chỉnh. Mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động
của thị trường vốn, thị trường chứng khoán. Huy động mọi nguồn vốn trong xã hội cho


đầu tư phát triển. Hiện đại hoá và đa dạng hoá các hoạt động của thị trường tiền tệ. Xây
dựng các ngân hàng thương mại nhà nước vững mạnh về mọi mặt.
Phát triển thị trường bất động sản, bao gồm thị trường quyền sử dụng đất và bất
động sản gắn liền với đất: bảo đảm quyền sử dụng đất chuyển thành hàng hoá một cách
thuận lợi, làm cho đất đai thực sự trở thành nguồn vốn cho phát triển, thị trường bất động
sản trong nước có sức cạnh tranh so với thị trường khu vực, có sức hấp dẫn các nhà đầu
tư. Thực hiện công khai, minh bạch và tăng cường tính pháp lý, kỷ luật, kỷ cương trong
quản lý đất đai. Nhà nước điều tiết giá đất bằng quan hệ cung - cầu về đất đai và thông
qua các chính sách về thuế có liên quan đến đất đai. Nhà nước vừa quản lý tốt thị trường
bất động sản vừa là nhà đầu tư bất động sản lớn nhất. Hoàn thiện hệ thống luật pháp về
kinh doanh bất động sản.
Phát triển thị trường sức lao động trong mọi khu vực kinh tế, tạo sự gắn kết cung cầu lao động, phát huy tính tích cực của người lao động trong học nghề, tự tạo và tìm

việc làm. Có chính sách ưu đãi các doanh nghiệp thu hút nhiều lao động, nhất là ở khu
vực nông thôn. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động, đặc biệt là xuất khẩu lao động đã qua đào
tạo nghề, lao động nơng nghiệp. Hồn thiện cơ chế, chính sách tuyển chọn và sử dụng lao
động trong khu vực kinh tế nhà nước và bộ máy cơng quyền. Đa dạng hố các hình thức
giao dịch việc làm; phát triển hệ thống thông tin về thị trường sức lao động trong nước và
thế giới. Có chính sách nhập khẩu lao động có chất lượng cao trong lĩnh vực công nghệ
và quản lý ở những ngành, nghề cần ưu tiên phát triển.
Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh.
Thực hiện Chiến lược quốc gia về phát triển doanh nghiệp. Xây dựng một hệ thống
doanh nghiệp Việt Nam nhiều về số lượng, có sức cạnh tranh cao, có thương hiệu uy tín,
trong đó chủ lực là một số tập đồn kinh tế lớn dựa trên hình thức cổ phần. Nhà nước
định hướng, tạo mơi trường để phát triển có hiệu quả các doanh nghiệp theo cơ chế thị
trường; bồi dưỡng, đào tạo và tơn vinh các doanh nhân có tài, có đức và thành đạt. Tiếp
tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; đổi mới và phát
triển các loại hình kinh tế tập thể; phát triển mạnh các hộ kinh doanh cá thể và các loại
hình doanh nghiệp của tư nhân; thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài.


Đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp và nông thôn, giải quyết
đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông
nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với
công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hố, điện khí hố, thuỷ lợi hố, đưa
nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất,
chất lượng và sức cạnh tranh, phù hợp đặc điểm từng vùng, từng địa phương. Coi trọng
khâu sản xuất và cung cấp giống tốt, bảo vệ môi trường, mở rộng thị trường trong nước
và xuất khẩu. Tăng cường các hoạt động khuyến nông, khuyến công, khuyến lâm, khuyến
ngư, công tác thú y, bảo vệ thực vật và các dịch vụ kỹ thuật khác ở nông thơn. Hình thành
các khu dân cư đơ thị hố với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ như: thuỷ lợi, giao
thông, điện, nước sạch, cụm công nghiệp, trường học, trạm y tế, bưu điện, chợ. Phát huy
dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hố, nâng cao trình độ dân trí, bài

trừ các tệ nạn xã hội, hủ tục, mê tín dị đoan; bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Khuyến khích phát triển
cơng nghiệp cơng nghệ cao, công nghiệp chế tác, công nghiệp phần mềm và công nghiệp
bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động; phát
triển một số khu kinh tế mở và đặc khu kinh tế, nâng cao hiệu quả của các khu công
nghiệp, khu chế xuất. Có chính sách hạn chế xuất khẩu tài nguyên thô. Thu hút những
chuyên gia giỏi, cao cấp của nước ngoài và trong cộng đồng người Việt Nam định cư ở
nước ngồi. Phát triển cơng nghiệp năng lượng đi đôi với công nghệ tiết kiệm năng
lượng. Tăng nhanh năng lực và hiện đại hóa bưu chính - viễn thơng.
Phát triển kinh tế vùng. Có cơ chế, chính sách phù hợp để các vùng trong cả nước
cùng phát triển, đồng thời tạo sự liên kết giữa các vùng và nội vùng. Thúc đẩy phát triển
các vùng kinh tế trọng điểm, tạo động lực, tác động lan tỏa đến các vùng khác; đồng thời
tạo điều kiện phát triển nhanh hơn cho các vùng kinh tế đang cịn nhiều khó khăn, đặc
biệt là các vùng biên giới, hải đảo, Tây Nguyên, Tây Nam, Tây Bắc.
Phát triển kinh tế biển. Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển
toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm; sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế
biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế. Phát triển
hệ thống cảng biển, vận tải biển, khai thác và chế biến dầu khí, hải sản, dịch vụ biển; đẩy


×