Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Tài liệu Đề tài " Giải pháp đáng tin cậy : một viễn cảnh của sự đánh giá và chọn lựa theo trực giác " Phần 1 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.41 KB, 20 trang )

CÁC MẶT CỦA GIẢI PHÁP ĐÁNG TIN CẬY:
MỘT VIỄN CẢNH CỦA SỰ ĐÁNH GIÁ VÀ CHỌN LỰA THEO TRỰC GIÁC.
DANIEL KAHNEMAN
Bài diễn thuyết đoạt giải, ngày 8 tháng 12 năm 2002*
Trường đại học Princeton, Khoa tâm lý học, Princeton, NJ 08544, Hoa Kỳ
Tác phẩm được trích dẫn bởi ủy ban Nobel được thực hiện cùng với Amos
Tversky (1937-1996) trong suốt một sự cộng tác lâu dài và khác thường. Tiếp xúc
với nhau, chúng ta phát hiện ra tâm lý của những lòng tin và sự chọn lựa theo trực
giác và nghiên cứu giải phát đáng tin cậy của chúng. Bài tiểu luận này đưa ra một
viễn cảnh hiện thời trong 3 chủ đề chính trong tác phẩm chung của chúng tôi:
những phương pháp đánh giá, sự chọn lựa rủi ro và các tác động có hệ thống.
Trong tất cả 3 phạm vi chúng tôi đã nghiên cứu những viễn cảnh - những tư duy
và quyền ưu tiên nảy sinh nhanh chóng trong ý nghĩ và không có nhiều lời phê
bình. Tôi xét lại nghiên cứu trước đó và một vài sự phát triển gần đây trong quan
điểm của hai ý kiến mà đã trở thành trung tâm đối với xã hội - tâm lý học liên
quan đến nhận thức trong những thập kỷ giữa: khái niệm mà những tư duy bất
đồng trong một chiều hướng dễ bị ảnh hưởng - một số nảy sinh trong ý nghĩ dễ
dàng hơn - và sự tương quan giữa những quá trình tư duy theo trực giác và có chủ
ý.
Phần 1 phân biệt hai mô hình tổng quát của chức năng nhận thức: một mô hình
theo trực giác mà những đánh giá và kết luận được tạo thành tự động và nhanh
chóng, và một mô hình có thể kiểm soát thì có chủ ý và chậm hơn. Phần 2 miêu tả
những nhân tố quyết định mối quan hệ dễ bị ảnh hưởng của các đánh giá và hưởng
ứng khác nhau. Phần 3 giải thích các tác động hệ thống trong những giới hạn của
sự nổi bật và tính dễ bị ảnh hưởng tương phản. Phần 4 thuật lại lý thuyết có triển
vọng đối với đề nghị chung mà những sự thay đổi và các mặt khác nhau càng dễ bị
ảnh hưởng hơn những giá trị xác thực. Phần 5 khảo sát lại một mô hình thay thế
đặc trưng của khả năng phán đoán tự khám phá. Phần 6 mô tả một họ riêng biệt
của những phương pháp giải quyết vấn đề bằng cách đánh giá kinh nghiệm, được
gọi là những phương pháp nguyên mẫu. Phần 7 kết thúc với một khảo sát khả năng
phán đoán.


1. KHẢ NĂNG TRỰC GIÁC VÀ TÍNH DỄ NHẬN THỨC
Từ những thời đại gần đây nhất, nghiên cứu mà Tversky và tôi đã chỉ đạo được
hướng dẫn bởi ý kiến mà những khả năng phán đoán theo trực giác giữ một vị trí -
có lẽ tương ứng với lịch sử tiến hóa - giữa những quá trình hoạt động máy móc
của nhận thức và những quá trình hoạt động có chủ ý của lập luận. Bài báo chung
đầu tiên của chúng tôi nghiên cứu những sai sót có hệ thống trong phán đoán
thống kê ngẫu nhiên của những nhà nghiên cứu thống kê phức tạp (Tversky &
Kahneman, 1971). Đặc biệt, khả năng phán đoán theo trực giác của những chuyên
gia này không thích ứng với những nguyên tắc thống kê mà chúng hoàn toàn quen
thuộc. Nói cụ thể hơn, những kết luận thống kê theo trực giác và những đánh giá
của họ về khả năng thống kê đã chỉ ra một sự nổi bật thiếu độ nhạy đối với các tác
động trong quy mô tiêu biểu. Chúng tôi bị gây ấn tượng bởi sự dai dẳng không
nhất quán giữa trực giác thống kê và kiến thức thống kê, mà chúng tôi đã quan sát
trong các đồng nghiệp và cả chính mình và bởi sự thật mà những kết luận nghiên
cứu có ý nghĩa, như sự chọn lựa của quy mô tiêu biểu cho một cuộc thử nghiệm,
đươc hướng dẫn thông thường bởi những khả năng trực giác không hoàn thiện của
những người hiểu biết rõ hơn. Trong thuật ngữ dần dần được chấp nhận sau này,
chúng tôi nắm được một quan điểm hai hệ thống, đã phân biệt khả năng trực giác
với lập luận. Nghiên cứu của chúng tôi tập trung vào những lỗi của khả năng trực
giác mà chúng tôi đã nghiên cứu cả tầm quan trọng về bản chất và giá trị của
chúng như những hướng dẫn chẩn đoán của những cơ chế dựa trên hiểu biết.
Quan điểm hai hệ thống
Tương quan giữa khả năng trực giác và lý luận là một đề tài của mối quan tâm
đáng kể trong những thập kỷ qua (giữa nhiều người khác, Epstein, 1994;
Hammond, 1996; Jacoby, 1981, 1996; và những mô hình đông đảo được chọn lọc
bởi Chaiken và Trope, 1999; đối với những khảo sát bao hàm toàn diện của khả
năng trực giác, ta thấy Hogarth, 2002; Myers, 2002). Nói cụ thể, sự khác nhau
giữa hai mô hình của tư duy được viện dẫn chứng trong sự nỗ lực để thiết lập
những kết quả gần như mâu thuẫn trong những nghiên cứu của khả năng phán
đoán không chắc chắn (Kahneman và Frederick, 2002; Sloman, 1996, 2002;

Stanovich, 1999; Stanovich và West, 2002). Có sự nhất trí đáng kể trong những
đặc tính mà phân biệt hai dạng quy trình kinh nghiệm Stanovich và West (2000)
liệt vào hệ thống 1 và hệ thống 2. Sự sắp xếp được chỉ ra trong Hình 1 đã tóm tắt
những đặc tính này: Những cơ cấu của hệ thống 1 thì nhanh chóng, tự động, không
nỗ lực, kết hợp, và khó kiểm soát hay thay đổi. Những cơ cấu của hệ thống 2 thì
chậm hơn, theo trình tự, có nỗ lực và được kiểm soát thận trọng; chúng cũng
tương đối linh động và chi phối những quy tắc một cách tiềm ẩn. Như đã trình bày
ngắn gọn trong Hình 1, những đặc tính hoạt động của hệ thống 1 tương tự với
những điểm đặc trưng của các quá trình thuộc tri giác. Mặt khác, như được chỉ ra
ở Hình 1, những cơ cấu của hệ thống 1, cũng như hệ thống 2, không bị hạn chế đối
với quá trình khuyến khích hiện thời. Những khả năng phán đoán trực giác xử lý
những khái niệm hoàn chỉnh như với những kết quả của tri giác, và có thể được
gợi lên bằng ngôn ngữ.
Trong mô hình sẽ được trình bày ở đây, hệ thống giác quan và những cơ cấu trực
giác của hệ thống 1 nảy sinh
những ấn tượng trong những thuộc tính về các vật thể
của những kết quả tri giác và tư duy. Những ấn tượng này không tự nguyện và
không cần phải rõ ràng bằng lời nói. Ngược lại,
những khả năng phán đoán luôn
rõ ràng và có chủ ý, không cần biết chúng có biểu lộ thái quá hay không. Vì thế,
hệ thống 2 được bao hàm trong tất cả những khả năng dự đoán, chúng bắt nguồn
từ những ấn tượng hay từ lập luận có cân nhắc hay không. "Trực giác" được áp
dụng cho những khả năng phán đoán những cảm giác phản ánh trực tiếp. Như
trong một số mô hình nhằm vào hai quá trình, một trong những chức năng của hệ
thống 2 là giám sát chất lượng của cả những quá trình hoạt động trí tuệ và hoạt
động công khai (Gilbert, 2002; Stanovich và West, 2002). Trong những giới hạn
thuyết hình người sẽ được sử dụng ở đây, những khả năng phán đoán rõ ràng mà
con người tạo ra (có công khai hay không) được tán thành, ít ra là tiêu cực, ở hệ
thống 2. Kahneman và Frederich (2002) đã đề xuất mà những sự định phân thông
thường khá lỏng lẽo, và cho phép nhiều khả năng phán đoán trực giác được trình

bày, bao gồm một số sai lầm.
Shane Frederick (sự thông tin cá nhân, tháng 4 / 2003) đã sử dụng những vấn đề
nan giải để nghiên cứu tự phân định dựa trên hiểu biết, như trong ví dụ sau đây: "
Một cây vợt và một quả bóng tổng cộng là $1.10. Cây vợt trị giá hơn quả bóng $1.
Vậy quả bóng trị giá bao nhiêu tiền? Hầu hết mọi người lúc đầu đều có khuynh
hướng trả lời "10 xu" bởi vì tổng $1.10 tách ra thành $1 và 10 xu. Frederick tìm
thấy rằng nhiều người thông minh đầu hàng trước động lực trước mắt này: 50%
(47/93) trong những sinh viên Princeton và 56% (164/293) trong những sinh viên
ở trường đại học Michigan đã đưa ra câu trả lời sai. Rõ ràng những bị cáo này đưa
ra một câu trả lời mà không kiểm chứng. Tỷ lệ sai sót cao đáng ngạc nhiên trong
vấn đề dễ dàng này minh họa cho đầu ra của hệ thống 1 được giám sát nhẹ nhàng
như thế nào bởi hệ thống 2: người không quen với việc suy nghĩ cẩn thận, và
thường hay bằng lòng tin tưởng một nhận xét có vẻ đáng tin cậy nảy sinh nhanh
chóng trong ý nghĩ.

Chiều hướng dễ bị ảnh hưởng
Khái niệm cốt yếu trong phân tích hiện tại của những khả năng phán đoán và
quyền ưu tiên theo trực giác dễ bị ảnh hưởng - trường hợp những nội dung trí tuệ
đặc trưng nảy sinh trong ý nghĩ (Higgins, 1996). Một thuộc tính chỉ rõ tính chất
của những tư duy theo trực giác là chúng nảy sinh trong ý nghĩ một cách tự phát,
giống như kết quả của tri giác. Để hiểu trực giác chúng ta phải hiểu tại sao một số
tư duy dễ bị ảnh hưởng còn một số khác lại không. Khái niệm của tính dễ bị ảnh
hưởng được áp dụng rộng rãi hơn trong nghiên cứu hơn là cách sử dụng phổ biến.
Những dạng phạm trù, chiều hướng mô tả (đặc trưng, tiêu biểu), giá trị của những
xu hướng, tất cả đều có thể được miêu tả có thể sử dụng nhiều hơn hay ít hơn, đối
với một cá nhân nhất định đã đưa ra một tình huống nhất định ở một thời điểm
riêng biệt.
Đối với một thí dụ minh họa về tính dễ bị ảnh hưởng tương phản, xem xét Hình 2a
và 2b. Như chúng ta thấy đối tượng trong Hình 2a, chúng ta có những hình tượng
tức thì về độ cao của tháp, nơi khối ở đỉnh, và có lẽ số lượng của tháp. Chuyển

những hình vẽ này sang những đơn vị của độ cao hay số lượng đòi hỏi một hoạt
động có tính toán, nhưng những hình vẽ tự chúng có thể sử dụng cao độ. Đối với
những thuộc tính khác, không có những hình tượng thuộc tri giác nào tồn tại. Thí
dụ, tổng diện tích mà những khối sẽ bao trùm nếu tháp bị phá vỡ không được sử
dụng theo tri giác, mặc dù nó có thể được đánh giá bởi

một thủ tục có cân nhắc, như việc nhân lên diện tích của một khối với tổng số của
các khối. Dĩ nhiên, trạng thái được lưu giữ với Hình 2b. Bây giờ những khối được
sắp xếp và một hình tượng của tổng diện tích được sử dụng tức thì, nhưng độ cao
của tháp có thể được cấu tạo với những khối khác thì không.

Một số đặc tính có liên quan có thể sử dụng được. Vì thế, rõ ràng khi nhìn thoáng
qua Hình 2a và 2c khác nhau, nhưng chúng cũng tương tự với Hình 2b. Và một số
đặc tính thống kê trong toàn bộ có thể sử dụng được, trong khi những cái khác thì
không. Cho một thí dụ, xem xét câu hỏi "Độ dài trung bình của những đưởng kẻ
trong Hình 3 là bao nhiêu?". Câu hỏi này rất đơn giản. Khi một tập hợp vật thể của
dạng tổng quát như nhau được đưa ra để quan sát - xãy ra cùng một lúc hay liên
tục - một sự miêu tả được ước tính tự động, mà bao gồm thông tin khá chính xác
về mức trung bình (Ariely, 2001; Chong & Treisman, ấn bản). Sự mô tả của
nguyên mẫu dễ hiểu, và nó có một đặc tính của một nhận thức: chúng tôi hình
thành một dấu hiệu của đường kẻ tiêu biểu ngẫu nhiên. Vai trò duy nhất của hệ
thống 2 trong bài tập này sắp xếp chiều dài điển hình này lên trên phạm vi thích
hợp. Ngược lại, trả lời cho câu hỏi "Tổng độ dài của những đường kẻ là bao
nhiêu?" không nảy sinh trong ý nghĩ mà không có tác động đáng kể.
Những ví dụ về tri giác này giúp thiết lập một khía cạnh dễ hiểu. Ở phần kết thúc
của khía cạnh này chúng tôi tìm thấy những hoạt động có những đặc tính của nhận
thức và của hệ thống 1: chúng nhanh chóng, tự động, và không bị tác động. Còn ở
các phần khác thì chậm, theo trình tư và những hoạt động dễ bị tác động mà người
ta cần một lý do đặc biệt để bảo đảm. Nhận thức là một thể liên tục, không phải là
sự lưỡng phân, và một số hoạt động dễ bị tác động đòi hỏi nhiều tác động hơn. Đạt

được những kỹ năng có lựa chọn làm gia tăng nhận thức của những phản ứng có
lợi và của những cách thức hữu ích để tổ chức thông tin. Kỳ thủ cờ vua ưu tú
không thấy bảng giống nhau như người mới học, và kỹ năng hình dung tháp có thể
được xây dựng từ một sự trình bày của nhữ khối có thể được phát triển chắc chắn
bởi thực hành kéo dài.
Những yếu tố quyết định của nhận thức
Như được sử dụng ở đây, khái niệm của nhận thức xếp vào những quan điểm của
tác nhân khuyến khích nổi bật, sự chú ý có chọn lựa, và phản ứng hoạt hóa hay tất
yếu. Những khía cạnh và yếu tố khác nhau của một tình huống, những vật thể khác
nhau trong một cảnh, và những thuộc tính khác nhau trong một vật thể - tât cả đều
có thể được nhận thức nhiều hơn hay kém đi. Những gì trở thành nhận thức trong
bất kỳ tính huống riêng biệt nào đều được xác định chủ yếu, và đương nhiên, bằng
những thuộc tính thực tế của vật thể trong phán đoán: dễ dàng để thấy một tháp
trong Hình 2a hơn Hình 2b, bởi vì tháp trong hình sau chỉ là ảo. Sự rõ ràng vật
chất cũng quyết định nhận thức: nếu một chữ "xanh lá" và một chữ "xanh" được
chỉ ra cùng một lúc, "xanh lá" sẽ đến với ý nghĩ trước tiên. Tuy nhiên, điểm thừa
ra có thể được khắc phục bằng việc chú ý có cân nhắc: một chỉ dẫn để tìm chữ
ngắn gọn hơn sẽ làm tăng nhận thức của tất cả những nét đặc trưng của nó. Tất cả
những nét đặc trưng của một tác nhân khuyến khích khuấy động trở thành nhận
thức, bao gồm những tác nhân không liên kết với ý nghĩa thúc đẩy hay xúc cảm
của nó. Thực tế này được biết đến, đương nhiên là những nhà thiết kế các bảng
thông cáo.
Những tác động thuộc tri giác của nét nổi bật, của sự chú ý tự phát và chủ động có
những bản đối chiếu trong quá trình của tác nhân kích thích trừu tượng hơn. Thí
dụ, nhận xét "Đội A đánh Đội B" và "Đội B thua Đội A" cùng truyền đạt thông tin
như nhau. Bởi vì mỗi đều lôi cuốn chú ý đối với chủ ngữ của nó, tuy nhiên, hai
dạng tạo nên những tư duy nhận thức khác nhau. Nhận thức cũng phản ánh những
trạng thái nhất thời của sự hoạt hóa tất yếu và liên kết, giống như những thuộc tính
hoạt động lâu dài của các hệ thống thuộc tri giác và kinh nghiệm. Thí dụ, sự đề
cập đến một phạm trù xã hội quen thuộc nhất thời gia tăng nhận thức của những

nét đặc trưng được kết hợp với dạng rập khuôn, như được chỉ ra bởi một điểm
khởi đầu thấp hơn đối với việc nhận ra các biểu thị của những nét đặc trưng này
(Higgins, 1996; đối với một bài phê bình, ta có Fiske, 1998). Và những trạng thái
nóng bỏng của tác nhân kích thích tri giác và động cơ thúc đẩy to lớn làm gia tăng
khả năng những tư duy có liên quan đến các nhu cầu và cảm xúc nhất thời, làm
giảm đi nhận thức của những tư duy khác (George Leowenstein, 1996).
Một số thuộc tính mà Tversky và Kahneman (1983) gọi là những đánh giá bản
chất, được ghi chép một cách thông thường và tự động bởi hệ thống nhận thức hay
Hệ thống 1, không có mục tiêu hay động lực tác động. Kahneman và Frederick
(2002) đã biên soạn một bảng liệt kê những đánh giá bản chất. Trong điều kiện
những thuộc tính vật lý như kích thước, khoảng cách và độ lớn, bảng liệt kê bao
gồm những thuộc tính không cụ thể như tính tương đồng (Tversky & Kahneman,
1983), xu hướng nhân quả (Kahneman & Varey, 1990; Heider, 1944; Michotte,
1963), gây ngạc nhiên (Kahneman & Miller, 1986), hiệu quả (Bargh, 1997;
Cacioppo, Prister & Bernston, 1993; Kahneman, Ritov & Schkade, 1999; Slovic,
Finucance, Peters & MarGregor, 2002; Zajonc, 1980) và hình thức diễn đạt
(Schwarz & Clore, 1983). Nhận thức của chính nó là một đánh giá tự nhiên - đánh
giá thông lệ của sự lưu loát về nhận thức trong tri giác và trong trí nhớ (Jacoby &
Dallas, 1981; Johnson, Dark & Jacoby, 1985; Schwarz & Vaughn, 2002; Tversky
& Kahneman, 1973).
1


Hình 4 minh họa tác động của hoàn cảnh lên nhận thức. Một tác nhân kích thích
không rõ ràng được hiểu như một ký tự trong một ngữ cảnh của các ký tự như một
con số trong một ngữ cảnh của các con số. Hình vẽ cũng minh họa một đặc điểm
khác: sự mơ hồ bị hạn chế trong nhận thức. Khía cạnh này của minh họa bị nhầm
lẫn khi độc giả thấy hai hình thức gần sát bên nhau, nhưng khi hai đường kẻ được
chỉ ra riêng biệt, những người quan sát sẽ không ý thức được cảm nhận khác nhau
một cách tự phát. Họ "hiểu" sự cảm nhận gần như giống nhau trong ngữ cảnh của

nó, nhưng không có dấu hiệu chủ quan mà nó có thể được nhận xét khác nhau.
Tương tự, trong các hình thức cùng nguồn gốc lưỡng phân như hình minh họa
mẹ/con gái hay khối thập phương, không có biểu tượng tri giác của nhận thức. Và
hầu như không có người nào (đối với tường thuật ngoại lệ, ta có Wittreich, 1961)
có thể thấy căn phòng Ames như bất cứ vật chất nào, thậm chí khi căn phòng bị hư
hỏng mà bức ảnh không cung cấp đầy đủ thông tin để chỉ rõ hình dáng thật của nó.
Như những người tiến hành xây dựng lại căn phòng Ames đã nhấn mạnh, nhận
thức những gì mà chúng ta không biết, và chúng ta nhận thức những gì được chọn
lựa.
Khả năng không thể đoán trước được nhận thức vốn có một số hệ thống nguyên
nhân là điểm riêng biệt thuộc tâm lý quy cho sự kém hiểu biết của một cá nhân
nào đó (Kahneman & Tversky, 1982). Thiên hướng cạnh tranh thường được nhận
thức - như thể khi chúng ta xem một cuộc đua ngựa ngang sức. Và những sự chọn
lựa đối lập với thực tế với những gì đã xãy ra cũng được nhận thức - chúng ta có
thể thấy một con ngựa thắng trận và "chiến thắng ở hầu hết tất cả các vòng đua"
(Kahneman & Varey, 1990). Trong sự tương phản giữa những thiên hướng cạnh
tranh, tuy nhiên, những sự giải thích cạnh tranh của thực tế xuất hiện để đàn áp lẫn
nhau: chúng ta không thấy mỗi con ngựa sắp kết thúc cuộc đua như thắng hoặc
bại.
Không rõ ràng được trình bày hạn chế trong trực giác, cũng như trong nhận thức.
Thật vậy, khái niệm về các giải pháp phán đoán được phát minh để bao hàm sự
quan sát mà những phán đoán trực giác của khả năng có thể về bản chất không có
liên quan với sự rõ ràng. Tài liệu phát hiện trọng tâm trong các nghiên cứu về
những kết luận trực giác, như được mô tả bởi Klein (1998), là những người đưa ra
kết luận dựa trên kinh nghiệm làm việc dưới áp lực, như các lãnh đạo của những
công ty cứu hỏa, hiếm khi cần đến sự chọn lựa bởi vì trong hầu hết các trường hợp
chỉ có một sự chọn lựa duy nhất đến trong ý nghĩ của họ. Những sự chọn lựa bị
loại bỏ không được trình bày. Hoài nghi là một hiện tượng của Hệ thống 2, một sự
am hiểu sâu sắc về thay đổi nhận thức trong khả năng của một cá nhân nào đó để
nghĩ ra những tư duy không thích hợp về vật chất giống nhau.

Như các minh họa thảo luận này, được biết đến nhiều về yếu tố dễ nhận thức,
nhưng không mô tả lý thuyết tổng quát dễ nhận thức và không thăm dò một điểm
nổi bật. Trong ngữ cảnh của nghiên cứu về việc đưa ra phán đoán và kết quả, tuy
nhiên, việc thiếu đi một lý thuyết gây ra một số trở ngại với lợi ích của khái niệm.
Đối với hầu hết các mục tiêu, những vấn đề gì là tổng quát hóa theo kinh nghiệm
về các yếu tố dễ nhận thức được tiếp nhận rộng rãi -và đương nhiên có những thủ
tục đối với phương thức thử nghiệm sự vững chắc của chúng. Thí dụ, các yêu cầu
dễ nhận thức khác của những thuộc tính tương phản trong Hình 2 và 3 đã thu hút
những phán đoán liên ứng của các nhận thức, những yêu cầu dễ tiếp cận cũng có
thể thử nghiệm trong các hình thức khác nhau. Đặc biệt, các thuộc tính phán đoán
tương đối khó nhận thức được mong đợi chậm hơn và dễ gây cảm xúc hơn bởi
hoạt động trí tuệ xãy ra đồng thời. Một số công việc đuợc trình bày thậm chí trong
khi giữ lại một vài con số trong bộ nhớ đối với hồi tưởng đến sau, nhưng sự trình
bày của các tác phẩm có nỗ lực hơn sẽ sụp đổ dưới việc truyền tải nhận thức.
Sự suy xét của khả năng dễ nhận thức và tương tự giữa tri giác và nhận thức đóng
một vai trò trung tâm trong các chương trình nghiên cứu mà tôi sẽ khảo sát ngắn
gọn về những gì tiếp theo. Các tác động cấu trúc trong kết quả (Phần 3) nảy sinh
khi những mô tả khác nhau trong cùng một vấn đề làm nổi bật những khía cạnh
khác nhau của các kết quả. Ý tưởng cốt lõi của thuyết viễn tượng (Phần 4) là
những thay đổi và tương phản càng dễ nhận thức hơn các mức độ tuyệt đối của sự
kích thích. Những phương thức phán đoán giải thích nhiều lỗi có hệ thống sự tin
tưởng và ưa thích hơn được giải thích trong Phần 5 bằng một quy trình của thay
thế tượng trưng: đôi khi người ta đánh giá một thuộc tính khó đoán trước bằng
việc thay thế một thuộc tính khác dễ nhận thức hơn. Những thay đổi trong khả
năng của Hệ thống 2 đến những phán đoán trực giác chính xác và quan trọng hơn
hết được giải thích bằng những thay đổi dễ hiểu của các quy tắc thích ứng (Phần
6). Những biểu hiện thay đổi khác nhau về khả năng dễ nhận thức tương phản với
nhau của mức trung bình và tổng số được thảo luận của Phần 7.
2. Những tác động cấu trúc
Trong Hình 2, thuộc tính giống nhau (tổng chiều cao của một tập hợp các khối) rất

dễ nhận thức trong một sự trình bày, mặc dù cả hai cách trình bày đều chứa đựng
thông tin như nhau. Sự quan sát này hoàn toàn không đáng lưu ý - dường như nó
không tác động mạnh đến một vài thuộc tính của một sự kích thích tự động được
nhận thức khi các thuộc tính khác nhau phải được tính toán, hay thuộc tính như
nhau được nhận thức trong việc trình bày một vật thể nhưng phải được tính toán
trong phương thức trình bày khác nhau. Trong ngữ cảnh của việc đưa ra kết quả,
tuy nhiên, những quan sát tương tự nổi lên một thử thách đầy ý nghĩa với mô hình
hợp lý tiêu biểu. Gỉa định mà sự ưa thích không bị ảnh hưởng bởi những biến đổi
của những nét đặc trưng không liên quan của các chọn lựa hay kết quả được gọi là
sự mở rộng (Arrow, 1982) và bất biến (Tversky &Kahneman, 1986). Bất biến là
một khía cạnh thiết yếu của sự hợp lý trong việc chứng minh của các tác động cấu
trúc như vấn đề bệnh tật ở châu Á (Tversky & Kahneman, 1981):
Vấn đề 1 - Bệnh tật ở châu Á
Hãy tưởng tượng rằng Hoa Kỳ đang chuẩn bị cho sự bộc phát của một bệnh tật
thất thường ở châu Á, mà được dự đoán sẽ làm thiệt mạng 600 người. Hai phương
pháp có thể lựa chọn để chống lại bệnh tật được đưa ra. Gỉa sử rằng những đánh
giá khoa học chính xác về các kết quả của những phương pháp sau:
Nếu chọn phương pháp A, 200 người sẽ được cứu sống.
Nếu chọn phương pháp B, có 1/3 khả năng có thể 600 người được cứu sống và 2/3
khả năng không có người nào được cứu sống.
Trong 2 phương pháp, bạn sẽ chọn phương pháp nào?
Trong dạng vấn đề này, đa số các câu trả lời đều chọn phương pháp A, chỉ ra việc
không thích rủi ro.
Một số khác, lựa chọn ngẫu nhiên, có một câu hỏi cùng một câu chuyện được theo
dõi bởi sự miêu tả khác nhau của các khả năng chọn lựa:
Nếu chọn phương pháp A', 400 người sẽ thiệt mạng
Nếu chọn phương pháp B', có 1/3 khả năng không ai thiệt mạng và 2/3 khả năng
600 người đều thiệt mạng.
Đa số bây giờ đều chọn phương pháp B', chọn lựa mưu cầu rủi ro. Mặc dù không
có sự tương phản tồn tại giữa hai hình thức, nhưng chúng gợi lên những liên kết và

ước lượng khác một các hiển nhiên. Điều này dễ thấy nhất trong lựa chọn nào đó,
bởi vì những kết quả rõ ràng quá tải có liên quan đến các kết quả của khả năng có
thể xãy ra ở mức độ cao hay trung bình (Kahneman & Tversky, 1979). Những lựa
chọn tác động trực tiếp này của các kết quả làm nổi bật một số nét đặc trưng của
tình huống và che đậy những nét đặc trưng khác.
Câu hỏi như thế nào để xác định hai kết luận các vấn đề "giống nhau" hay khác
nhau có một câu trả lời chung hay không. Để tránh vấn đề này, Tversky và tôi đã
hạn chế những tác động cấu trúc đến những sự khác biệt giữa các vấn đề chọn lựa
mà những người đưa ra kết luận trên sự phản ánh, nhận ra hiệu quả tương tự. Vấn
đề bệnh tật ở châu Á qua phương thức thử nghiệm này: những người được hỏi để
đối chiếu hai hình thức hầu như luôn kết luận rằng hoạt động giống nhau sẽ được
thực hiện trong cả hai. Những người quan sát đồng ý rằng nó là phù phiếm khi để
một chi tiết bên ngoài của công thức xác định một chọn lựa có những hậu quả của
sự sống và cái chết.
Một chứng minh khác được biết nhiều đếu của một tác động cấu trúc đè nặng,
McNeill, Pauker, Sox và Tversky (1982) thúc đẩy những chọn lựa khác nhau giữa
nội khoa và ngoại khoa, bằng cách mô tả kết quả thống kê trong các khoảng tỷ lệ
sống sót và tỷ lệ có khả năng tử vong. Bởi vì 90% sự sống sót ngắn hạn ít được
chữa trị hơn 10% khả năng có thể tử vong, cơ cấu tỷ lệ sống sót đã nảy sinh ra một
đặc quyền ưu tiên cao hơn về căn bản đối với phẫu thuật. Những tác động cơ cấu
không được tuyên bố giữa các thầy thuốc có kinh nghiệm hơn với các bệnh nhân.
Shafir (1993) đã đưa ra những bên bị với các vấn đề mà chúng đóng vai trò là một
xét đoán trong sự phán đoán việc coi sóc một đứa trẻ giữa các cặp bố mẹ ly dị.
Mỗi người cha, người mẹ được mô tả bằng một bảng liệt kê các đặc điểm. Một
bảng liệt kê mô tả nổi trội hơn: nó có những đặc điểm tiêu cực và xác thực hơn.
Việc sắp xếp hướng dẫn bị thay đổi. Một vài bên bị được yêu cầu chăm sóc sẽ
được chấp thuận, một số khác sẽ bị bác bỏ. Sự mô tả nổi trội được chọn lựa dưới
cả hai trích dẫn có thể được bởi vì các bên bị đã can dự vào nhiều mặt thuận lợi
của nó trong việc quyết định yêu cầu chăm sóc con cái của cá nhân nào đó được
chấp thuận, và đối với nhiều mặt tiêu cực bị bác bỏ.

Một nghiên cứu quy mô lớn của LeBoeuf và Shafir nghiên cứu một yêu cầu sớm
hơn mà những tác động cơ cấu bị giảm đi, trong một phác họa giữa các vấn đề vì
những người tham dự với số điểm cao trên "nhu cầu cho nhận thức" (Smith &
Levin, 1996). Tác động nguyên bản không được sao chép trong nghiên cứu mở
rộng. Tuy nhiên, LeBeouf và Shafir (2003) đã chỉ ra rằng những cá nhân càng tư
duy hơn cho thấy tính kiên định mạnh mẽ trong một phác họa trong các vấn đề mà
mỗi bên bị đối diện với hai mặt của mỗi vấn đề. Kết quả này kiên định với những
phân tích hiện tại. Các bên bị đã biểu hiện đặc điểm bằng một Hệ thống 2 tích cực
giống hơn để lưu ý mối quan hệ giữa hai hình thức để đảm bảo tính kiên định của
những câu trả lời. Sự ngẫm nghĩ không hội ý các mặt tích cực trong việc thiếu một
gợi ý thích ứng, và vì vậy không liên quan đến việc thực hiện phát thảo giữ các
vấn đề.
Những tác động cơ cấu không bị hạn chế để tạo nên kết luận: Simon và Hayes
(1976) đã cung cấp một quan sát tương tự trong phạm vi của việc giải quyết vấn
đề. Họ đã xây dựng một sự chọn lọc các biến đổi, tất cả các hình thức tương tự vấn
đề tháp Hà Nội, và tìm thấy rằng "vấn đề những thể đồng dạng" đã biến đổi lớn
trong khó khăn. Thí dụ, trạng thái ban đầu và mục tiêu được miêu tả trong hai hình
thức như 3 con quái vật đang giữ những trái banh khác màu. Sự chuyển tiếp trạng
thái được miêu tả trong một hình thức cũng như những thay đổi về màu sắc của
những trái banh, và trong các hình thức khác những trái banh được chuyền từ con
quái vật này sang con quái vật khác. Vấn đề làm lúng túng được giải quyết dễ
dàng hơn nhiều khi được sắp xếp trong các dạng vần động. Các tác giả đã bình
luận rằng "có thể đối với một chủ đề để tìm sự trình bày đơn giản nhất, theo một
số tiêu chuẩn, hay để đưa tất cả các vấn đề như thế trở nên giống nhau, hợp lý
hơn…"nhưng "những vấn đề sẽ không tận dụng các chiến lược luân phiên như thế,
thậm chí chúng tồn tại sẵn có, nhưng sẽ không chọn lựa sự trình bày các cấu tạo
thể hiện đơn giản nhất …" (Simon & Hayes, 1976, trang 183).
Sự chọn lựa tiêu cực của sự chính xác được đưa ra xuất hiện là một nguyên tác
chung, áp dụng hiệu quả đối với các vấn đề khó khăn này, với các trình bày của
Hình 2, và với những tác động cơ cấu chuẩn mực. Người ta không tính toán một

cách tự phát chiều cao của một tháp có thể được xây dựng từ việc bố trí ngay ngắn
các khối, và không tự thay đổi biểu tượng của những vấn đề khó khăn hay vấn đề
kết luận. Tuy nhiên, đó không phải là mối quan tâm mà một số hệ thống tri giác và
nhận thức chuyên sâu trình bày một khả năng hữu hạn để đưa ra những biểu tượng
được chấp nhận đối với các dạng kích thích riêng biệt. Thí dụ, ta thấy một phương
diện mà từ một góc riêng biệt, những người quan sát sẽ nhận ra nó từ một góc độ
khác, và họ cũng sẽ xác định một bức tranh đen trắng của nó, hay thậm chí một sự
kéo dài đường viền. Nhưng ngay cả đơn vị đo phương diện tri giác linh hoạt có
những giới hạn của nó: việc thực hiện khá thấp trong nhận thức các phương diện
quen thuộc được chỉ ra bên dưới. Những cơ cấu bộ não hỗ trợ sự nhận thức của
ngôn ngữ cũng có một khả năng thật sự để vạch ra những chi tiết bên ngoài và
những lý do chính trong ý nghĩa của sự phát biểu, những khả năng này hữu hạn.
Một số ít chúng ta có thể nhận ra "137 x 24" và "3.288" là con số "giống nhau" mà
không hoàn thành một một số tính toán phức tạp. Sự bất biến không thể được thực
hiện bằng một ý thức hữu hạn.
Khả năng không thể của sự bất biến nảy sinh những mối nghi ngờ về chủ nghĩa
hiện thực mô tả của mô hình lựa chọn hợp lý (Tversky & Kahneman, 1986). Thiếu
một hệ thống mà những nảy sinh đáng tin cậy thích hợp với những biểu tượng
được chấp nhận, những kết luận về trực giác sẽ được tạo hình bởi các nhân tố xác
định khả năng dễ nhận thức những nét đặc trưng khác nhau trong tình huống.
Những nét đặc trưng dễ nhận thức cao độ sẽ ảnh hưởng đến các kết luận, trong khi
những nét đặc trưng của khả năng dễ nhận thức thấp sẽ bị lờ đi. Không may,
không có lý do nào để tin rằng những nét đặc trưng dễ nhận thức nhất cũng là
thích ứng nhất đối với một kết luận hoàn tất.
3. NHỮNG THAY ĐỔI HAY PHÁT BIỂU: THUYẾT VIỄN TƯỢNG
Một đặc tính chung của các hệ thống tri thức là chúng được phác thảo đề làm tăng
khả năng dễ nhận thức của những thay đổi và tương phản (Palmer, 1999). Nhận
thức là phụ thuộc tương ứng: các thuộc tính nhận thức của một tác nhân kích thích
tiêu điểm phản chiếu sự tương phản giữa tác nhân kích thích đó và một ngữ cảnh
của sự kích thích xãy ra trước và đồng thời. Hình 5 minh họa sự phụ thuộc trích

dẫn trong quan điểm. Hai hình vuông bao quanh có màu sáng như nhau, nhưng
chúng không có độ sáng bằng nhau. Đặc điểm của sự minh họa là độ sáng của một
vùng không phải là một chức năng thông số đơn lẻ của năng lượng ánh sáng mà
thu hút cái nhìn từ vùng đó. Một mô tả của ánh sáng được nhận thức cũng đòi hỏi
một thông số đối với một giá trị trích dẫn (hay được gọi là mức độ thích nghi) bị
tác động.

Gía trị trích dẫn mà tác nhân kích thích hiện tại được đối chiếu cũng phản ánh lịch
sử của sự thích nghi đối với các tác nhân kích thích trước đó. Một chứng minh
quen thuộc bao gồm 3 thùng nước có nhiệt độ khác nhau được sắp xếp từ trái sang
phải với độ lạnh đến nóng tương ứng, còn thùng nước ấm ở giữa. Nhúng tay trái
vào nước lạnh và tay phải vào nước nóng, những cảm giác mạnh lúc đầu của lạnh
và nóng tương ứng giảm đi dần. Khi cả hai tay sau khi được nhúng vào thùng ở
giữa, cảm nhận làm nóng lên ở tay trái và lạnh ở tay phải.
Sự phụ thuộc tương ứng trong chọn lựa
Các nhân tố của sự thích nghi nhận thức ở trong ý nghĩ của chúng ta khi Tversky
và tôi bắt đầu đồng nghiên cứu của chúng tôi trong việc tạo ra quyết định dưới rủi
ro. Được hướng dẫn bởi sự tương tự của nhận thức, chúng tôi đã dự đoán định giá
của những kết quả không hợp với giải thích chuẩn mực của thuyết dự đoán hữu ích
(Expected Utility Theory), mô hình lý thuyết đang thịnh hành trong lĩnh vực này.
Sự thiếu sót này có thể được vạch ra trong bài tiểu luận đã giới thiệu bản dịch đầu
tiên của thuyể dự đoán hữu ích (Bernoulli, 1738).
Một trong những mục đích của Bernoulli là hình thức hóa trực giác mà nó tao nên
xu hướng cho người nghèo mua bảo hiểm và người giàu thì bán nó đi. Ông lý luận
rằng phần gia tăng
trực giác kết hợp với phần gia tăng của sự phồn vinh tỉ lệ
nghịch với sự giàu có ban đầu, và từ giả định tâm lý hợp lý này ông đã nhận thức
được hoạt động hữu ích đối với sự phồn vinh. Sau đó ông đề nghị một nguyên tắc
quyết định lẽ phải cho sự chọn lựa bao gồm rủi ro để tối đa hóa sự hữu ích được
dự đoán của sự giàu có (dự đoán thuộc đạo đức). Lời đề nghị này đã hoàn thành

những gì Bernoulli đã dự định thực hiện: nó giải thích việc không ưa thích rủi ro,
cũng như các trạng thái rủi ro khác nhau của người giàu và người nghèo. Thuyết
dự đoán hữu ích mà ông đã giới thiệu vẫn là kiểu mẫu chi phối chọn lựa rủi ro.
Ngôn ngữ trong bài tiểu luận của Bernoulli đề ra quy tắc - nó nói về những gì là lẽ
phải hay hợp lý để thực hiện. Các lý thuyết cũng được định để miêu tả các lựa
chọn của người có lý lẽ (Gigerenzer và những người cộng sự khác, 1989). Như
trong hầu hết các quan điểm hiện đại trong việc hình thành quyết định, không có
sự thừa nhận bất cứ điều căng thẳng nào giữa việc đề ra quy tắc và sự mô tả trong
bài tiểu luận của Bernoulli. Ý kiến cho rằng những người đưa ra quyết định đáng
giá các kết quả bằng lợi ích của những vị trí của sự giàu có cuối cùng được giữ lại
trong các phân tích kinh tế hầu như gần 300 năm. Điều này được lưu ý hơn nữa
bởi vì ý kiến cho thấy sai lệch một cách dễ dàng; tôi gọi đó là lỗi của Bernoulli.
Mô hình của Bernoulli bị tác động xấu bởi vì nó
phụ thuộc tương ứng: giả sử rằng
giá trị được cho là một phát biểu được đưa ra của sự giàu có không thay đổi với
biểu hiện ban đầu của sự phồn vinh
2
. Giả định này công kích mạnh mẽ một
nguyên tắc nhận thức cơ bản, mà tác nhân kích thích có hiệu quả không phải là
mức độ mới của tác nhân kích thích, nhưng sự khác biệt giữa nó và mức độ thích
hợp tồn tại. Tương tự với những gợi ý nhận thức mà những người mang lại sự hữu
ích giống như gia tăng hoặc giảm hơn là các trạng thái của sự phong phú, và đề
nghị này được hỡ trợ nhiều bởi bằng chứng của cả hai nghiên cứu dựa trên thí
nghiệm và quan sát của sự chọn lựa (Kahneman & Tversky, 2000). Thảo luận hiện
tại sẽ dựa vào hai thí nghiệm tư duy, của hình thức mà Tversky và tôi đã nghĩ ra
khi chúng tôi phát triển mô hình của sự chọn lựa rủi ro mà chúng tôi gọi là thuyết
viễn tượng (Kahneman & Tversky, 1979).
Vấn đề 2
Bạn sẽ chấp nhận vận may rủi này ?
50% cơ hội thắng $150

50% cơ hội thua $ 100
Sự chọn lựa của bạn sẽ thay đổi nếu toàn bộ tài sản của bạn thấp hơn $100 ?
Sẽ có một số ít người chọn vấn đề may rủi trong vấn đề 2. Bằng chứng dựa trên thí
nghiệm chỉ ra rằng hầu hết mọi người sẽ loại bỏ một vận may rủi với cả những cơ
hội thắng hay thua, ngoại trừ khả năng có thể thắng ít nhất là 2 lần so với khả năng
thua (Tversky & Kahneman, 1992). Trả lời cho câu hỏi thứ hai đương nhiên là
không.
Tiếp theo ta cân nhắc Vấn đề 3:

×