Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Tài liệu Đề tài " Giải pháp đáng tin cậy : một viễn cảnh của sự đánh giá và chọn lựa theo trực giác " Phần 3 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.95 KB, 16 trang )

CÁC MẶT CỦA GIẢI PHÁP ĐÁNG TIN CẬY:
MỘT VIỄN CẢNH CỦA SỰ ĐÁNH GIÁ VÀ CHỌN LỰA THEO TRỰC GIÁC.
DANIEL KAHNEMAN
5. KHẢ NĂNG DỄ NHẬN THỨC CỦA TƯ DUY ĐỂ ĐIỀU CHỈNH
Quan điểm hiện tại giả định rằng hệ thống 2 được bao gồm trong tất cả các hoạt
động tự phát - bao gồm các diễn đạt rõ ràng của những phán đoán trực giác được
bắt đầu trong hệ thống 1. Giả định này ám chỉ rằng những lỗi trong phán đoán trực
giác gồm những thất bại của cả hai hệ thống: hệ thống 1, phát sinh lỗi; và hệ thống
2, tìm ra lỗi và đính chính (Kahneman & Tversky, 1982a). Để minh họa điểm này,
Kahneman và Frederick (2002) đã xem xét lại nhận thức tương tự mà Tversky và
Kahneman (1974) đã sử dụng để giải thích những phương thức phán đoán đã sinh
ra các xu hướng như thế nào: làm lu mờ mà một gợi ý hay đối với khoảng cách và
các khối lượng lớn, nhưng đáng tin cậy trong gợi ý này gây ra các lỗi có thể đoán
trước được của đánh giá khoảng cách. Trong những ngày có nắng hay mù sương.
Sự tương tự có khuynh hướng, nhưng phân tích những ví dụ nhận thức đã sao lãng
một hiện tượng quan trọng. Đương nhiên những người quan sát biết trời có nắng
hoặc mù sương hay không, và họ có thể sử dụng kiến thức này để chống lại các xu
hướng - nhưng hầu như họ không thực hiện được. Trái ngược với những gì quan
điểm trước đó ám chỉ, cách sử dụng như một gợi ý không dẫn đến các khuynh
hướng trong phán đoán về khoảng cách là không tránh khỏi. Tác động của mù
sương trong các biểu tượng của khoảng cách là một thất bại trong hệ thống 1: hệ
thống nhận thức không được phác họa để điều chỉnh đối với biến đổi này. Tác
động tương tự có thể được xác định trong các lỗi khác nhau của phán đoán trực
giác.
Nó hữu dụng để cân nhắc hệ thống 2 có thể xen vào như thế nào trong các vấn đề
của Tom W. và Linda đã được miêu tả ở phần trước.
"Tom W. thực hiện giống như một cá nhân thư việ khoa học, nhưng có nhiều sinh
viên tốt nghiệp hơn trong Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn. Do đó, tôi nên sửa lại
những bảng xếp loại của mình". "Linda không thể giống một thủ quỹ ngân hàng
nữ quyền hơn là một thủ quỹ ngân hàng đơn thuần. Do đó, tôi phải xếp loại hai kết
quả này".


Những ví dụ giả thuyết này của hai hình thức minh họa lý luận mà các phán đoán
trực giác có thể được đính chính. Trong ví dụ Tom W., cá nhân ý thức được một
nhân tố không phải là thành phần của phán đoán trực giác, và do đó tạo nên một
nỗ lực để điều chỉnh. Trong ví dụ Linda, cá nhân nhận ra rằng câu hỏi có thể được
trả lời bằng cách áp dụng một quy tắc quyết định hợp lý, tạo nên những trực giác
về tương phản không liên quan. Cả hai sẽ đến dưới đề mục của "những khám phá
thỏa đáng", mà đôi khi người ta có năng lực trong việc phát triển lý luận của họ về
những sự kiện không rõ ràng (Nisbett, Krantz, Jepson & Kunda, 1983/2002).
Những ví dụ này của lý luận cũng không vượt quá tri thức đạt được của những
sinh viên tốt nghiệp tại các trường đại học chuyên môn mà những bảng xếp loại
được đưa ra trong Hình 8. Tuy nhiên, dữ liệu chỉ ra rằng thật sự rất ít các bên bị
tiếp cận với các đính chính. Sự bối rối giống như minh họa mơ hồ: tại sao những
người này không đặt kiến thức của họ vào lối sử dụng đúng đắn? Trong ngữ cảnh
của quan điểm hiện tại, câu hỏi có thể tái diễn đạt: tại sao các phương thức thống
kê không trở nên dễ nhận thức khi chúng được yêu cầu?
Một thành phần quan trọng của câu trả lời mà sự thay thế tượng trưng là một quy
trình kín: các bên bị phán đoán khả năng có thể xãy ra như thể họ được để phán
đoán tính tiêu biểu không tự giác về những gì họ đang làm. Thuộc tính thay thế
thích hợp với nhiêm vụ thực hiện và giá trị của nó tiếp cận với số ít hay không có
tác động và với lòng tin cao độ. Bởi vậy, có ít nguyên nhân cho những bên bị để
hỏi về phán đoán của họ, có lẽ thậm chí ít hơn trong vấn đề đã được đề cập trước.
Ngược lại, khả năng dễ nhậ thức của phương thức thống kê thường thấp, nhưng nó
có thể được gia tăng ít nhất trong hai hình thức: bằng cách gia tăng sự cảnh giác
của các hoạt động hiệu thính, hay bằng cách cung cấp nhưng gợi ý mạnh mẽ hơn
cho những quy tắc thích ứng.
Một chương trình nghiên cứu thực tế được sắp xếp bởi Nisbett, Krantz và đồng
nghiệp của họ để điều tra các nhân tố điều khiển khả năng dễ nhận thức của các
phương thức thống kê (Nisbett và các đồng sự, 1983/2002). Thí dụ, Nisbett và các
đồng sự đã nghiên cứu các vấn đề hình thức tương tự trong một số lĩnh vực. Họ
cũng chỉ ra rằng việc đề cập rõ ràng một thủ tục mẫu đã làm dễ dàng cho tư duy

thống kê (Nisbett và các đồng sự. 1983; Gigerenz, Hell & Blank, 1988). Zukier và
Pepitone (1984) tìm thấy rằng những bên bị dường như sử dụng thông tin đánh giá
cơ bản khi đã chỉ dẫn để suy nghĩ như những nhà thống kê học hơn là khi hướng
dẫn thi đua với các nhà tâm lý học. Agnoli và Krantz (1989) phát hiện rằng sự đào
tạo ngắn gọn trong sự hợp lý của các chuỗi đã nâng cao thực hành trong một hình
thức đơn giản trong vấn đề của Linda. Sự cân nhắc khả năng dễ nhận thức hiển
nhiên thích ứng với sự hoạt hóa của lý luận thống kê, không chỉ với sự thay thế
tượng trưng.
Nisbett, Krantz và đồng nghiệp của họ đã kéo một sự phân biệt rõ rệt giữa phương
thức thống kê và phương thức trực giác của họ, mà họ đã mô tả như "các quy tắc
phán đoán nhanh chóng và nhiều hay ít tự động hơn" (2002, trang 510). Trong xu
hướng giống nhau, quan điểm hiện tại phân công phương thức cạnh tranh đến các
hệ thống nhận thức khác nhau. Thay thế tượng trưng đã được mô tả như một hoạt
động của hệ thống 1, xãy ra một cách tự phát và không nỗ lực. Ngược lại, các
phương thức thống kê minh họa lý luận quyết định của hệ thống 2 (Sloman, 1996),
cân nhắc kỹ càng và đòi hỏi một số tác động. Đánh giá lưu ý rằng sự xen vào của
hệ thống 2 và ứng dụng của các phương thức thống kê và các quy tắc khác không
bảo đảm một câu trả lời chính xác. Các quy tắc mà người ta áp dụng trong lý luận
cân nhắc kỹ càng và thỉnh thoảng cũng có sai sót.
Một ám chỉ về quan điểm trực giác được đề nghị ở đây là đào tạo thống kê không
xóa sạch các phương thức khám phá trực giác như tính tiêu biểu, nhưng chỉ làm
cho người ta có thể hạn chế một xu hướng được ưu tiên. Các kết quả đã chỉ ra
trong Hình 8, được thu thập từ những sinh viên tốt nghiệp thông thạo thống kê, các
bên bị này tạo nên các dự đoán tuyệt đối giống như mọi người khác - bằng tính
tiêu biểu. Tuy nhiên, làm thành rắc rối thống kê tạo nên một sự khác biệt trong
một hình thức mới được thay thế của Linda thành "một thủ quỹ ngân hàng" hay
"một thủ quỹ ngân hàng tích cực trong vận động nữ quyêng" (Tversky &
Kahneman, 1983). Số lần xãy ra lỗi tồn tại còn cao, nhưng tỷ lệ lỗi rơi vào giữa
phép ngụy biện một cách đầy kịch tính.
Hiệu quả của hệ thống 2 bị làm suy yếu bởi áp lực thời gian (Finucance,

Alhakami, Slovic & Johnson, 2000), bằng sự bao hàm đồng thời trong một nhiệm
vụ được giao nhận thức khác (Gilbert, 1989, 1991, 2002), và rất bất ngờ, bằng sự
tồn tại trong một trạng thái (Isen, Nygen & Ashby, 1988; Bless và các đồng sự,
1996). Trái lại, điều kiện dễ dàng trong hệ thống 2 được đính chính xác thực với
sự hiểu biết (Stanovich & West, 2002) với "nhu cầu cho nhận thức" (Shafir &
LeBeouf, 2002) và với sự trình bày tư duy thống kê (Nisbett và các cộng sự, 1983;
Agnoli & Krantz, 1989; Agnoli, 1991).
Quan sát có thể phác thảo các thí nghiệm mà đôi khi "làm mất đi những minh họa
nhận thức" được sử dụng như một tranh luận chống lại sự hữu ích của những ý
niệm của những phương thức hay khuynh hướng (Gigerenzer, 1991). Tuy nhiên,
trong cơ cấu tổ chức hiện tại, không có điều bí ẩn về các điều kiện dưới các minh
họa nào nảy sinh hay không. Một phán đoán trực giác vi phạm một quy tắc mà bên
bị chấp nhận sẽ không được nhắc đến, nếu quy tắc tiếp cận sớm hơn. Tranh luận
này không lòng vòng bởi vì chúng tôi có đầy đủ kiến thức khoa học (đầy đủ như
kiến thức dân gian được chia ra rộng rãi) về các điều kiện mà làm cho dễ dàng hay
trở ngại khả năng dễ nhận thức của các quy tắc hợp lý hay thống kê.
Các ví dụ về những đính chính có thể trong vấn đề của Tom W. và Linda đã minh
họa hai kết quả có thể xãy ra của sự can thiệp trong hệ thống 2: phán đoán trực
giác có thể được sửa đổi, hay bác bỏ và được thay thế bằng một kết luận khác. Một
dự đoán chung có thể được tạo ra về trường hợp trước đó, đương nhiên là thường
xuyên nhất. Bởi vì ấn tượng trực giác đến trước để đáp ứng như một sự vững chắc
đối với những phán đoán đến sau, và những sửa đổi đính chính từ những sự vững
chắc bình thường không đủ. Sự biến đổi trong đề tài này là thông thường trong văn
chương (Epley & Gilovich, 2002; Epstein, 1994; Gilbert, 2002; Griffin & Tversky,
1992; Sloman, 2002; Wilson, Genterbar & Brekkem 2002).
Ám chỉ phương pháp luận của phân tích này là những phán đoán và ưu tiên trực
giác được nghiên cứu kỹ càng nhất trong các phác thảo. Những phác thảo bên
trong vấn đề với nhiều thử nghiệm khuyến khích sự chọn lựa của các chiến lược
đơn giản hóa mà những câu trả lời được được giải quyết một cách máy mó, không
nghiên cứu sâu vào các chi tiết của mỗi vấn đề. Những phác thảo đặc biệt không

được lưu ý, bởi vì chúng cung cấp một gợi ý không thể nhầm lẫn mà mỗi nhân tố
được thao tác phải thích ứng với phán đoán (Kahneman & Frederick, 2002).
Không thích hợp để nghiên cứu các phán đoán trực giác trong các điều kiện được
bảo đảm để phá vỡ thuộc tính trực giác. Vấn đề khó khăn của những phác họa dựa
trên thí nghiệm được lưu ý trược đó rất lâu bởi Kahneman và Tversky (1982a),
những người đã vạch ra rằng "những phác họa
ws được kết hợp với các vấn đề có
ý nghĩa của sự giải thích trong một số phạm vi nghiên cứu tâm lý học (Poulton,
1975). Trong các nghiên cứu trực giác, họ chịu trách nhiệm thúc đẩy tác động thay
thế được định để thử nghiệm" (trang 500). Không may, sự thận trọng phương pháp
luận bị lờ đi.
6.NHỮNG PHƯƠNG THỨC NGUYÊN MẪU
Phần này giới thiệu một nhóm phương thức nguyên mẫu phân chia một kiểu mẫu
kiên định đáng lưu ý và một kiểu mẫu cơ cấu thông thường của các minh học nhận
thức, tương tự với những tác động đã quan sát trong vấn đề của Tom W. và Linda
(Kahneman & Frederick, 2002). Phương thức nguyên mẫu có thể được miêu tả
như một thay thế của một mức độ trung bình cho một tổng số - một quá trình được
nghiên cứu rộng rãi bởi Anderson trong các hoàn cảnh khác nhau (Anderson,
1981, trang 58-70, 1991a,b). Phần này cũng được thảo luận các điều kiện dưới mà
hệ thống 2 hạn chế hay giảm bớt những khuynh hướng kết hợp với các phương
thức này.
Các thuộc tính mở rộng và nguyên mẫu
Các đánh giá mục tiêu trong một số nhiệm vụ có ý nghĩa của việc tạo ra phán đoán
và kết luận là thuộc tính mở rộng của các hạng mục hay chuỗi. Giá trị của một
thuộc tính mở rộng trong một chuỗi là một khối tập hợp (không cần thiết phải
cộng vào) của các giá trị trên sự mở rộng của nó. Mỗi nhiệm vụ dưới đây được
minh họa bằng một ví dụ của thuộc tính mở rộng trong những nhiệm vụ này ở mức
độ nhận thức thấp, và bởi thế được đưa ra cho phương thức thay thế.
(i) sự giải thích hạng mục (ví dụ,
khả năng có thể xãy ra mà tập hợp các thủ quỹ

ngân hàng trong đó có Linda/số thủ quỹ ngân hàng
)
(ii) định giá một số lượng hàng hóa cộng đồng hay cá nhân
(iii) sự đánh giá chung của một sự việc trải qua trong quá khứ và được kéo dài qua
thời gian (ví dụ,
sự bác bỏ toàn bộ của một thủ tục y khoa/thời gian thủ tục)
(iv) đánh giá của sự hỗ trợ mà một mẫu quan sát cung cấp cho một giả thuyết (ví
dụ,
khả năng có thể xãy ra một mẫu chỉ rõ những trái banh màu/số lượng banh
màu
).
Các thuộc tính mở rộng được chỉ đạo bởi một nguyên tắc chung của việc thêm vào
có điều kiện, mà quy định rằng mỗi yếu tố của chuỗi cộng vào giá trị tổng thể một
khoảng phụ thuộc vào những yếu tố sẵn có. Trong các trường hợp đơn giản, giá trị
là để cộng vào: tổng chiều dài của chuỗi đường kẻ trong Hình 3 chỉ là tổng các
chiều dài riêng lẻ của chúng. Trong các trường hợp khác, mỗi yếu tố xác thực của
chuỗi gia tăng giá trị tập hợp, nhưng quy tắc kết hợp không được cộng vào (phần
phụ tiêu biểu)
Một hạng mục hay chuỗi đồng nhất hoàn toàn có một nguyên mẫu cũng có thể
được mô tả bởi các thuộc tính nguyên mẫu của nó. Ở đâu các thuộc tính mở rộng
quen thuộc với một tổng số, thuộc tính nguyễn mẫu trung bình. Như sự trình bày
các đường kẻ trong Hình 3 đã minh họa, các thuộc tính mở rộng dễ nhận thức.
Quan sát này đuợc cung cấp tư liệu đầy đủ. Bất cứ khi nào chúng ta nhìn, hay
chúng ta nghĩ, một tổng thể hay hạng mục có nguyên mẫu, thông tin về nguyên
mẫu trở nên dễ nhận thức. Thảo luận đặc trưng của những hạng mục ở mức độ cơ
bản bao gồm những chứng minh dễ dàng với nét đặc trưng nào của nguyên mẫu
tiếp cận (Rosch & Mervis, 1975). Thậm chí trước đó, Posner và Kede (1968,
1970) đã tường thuật các thí nghiệm mà những người quan sát được đưa ra trong
nhiều thí nghiệm sự méo mó khác nhau của một hình dạng đơn lẻ. Hình dạng
nguyên mẫu không bao giờ được chỉ ra, nhưng những người quan sát sai lầm khi

tin tưởng rằng nó thường được đưa ra. Gần đây hơn, một số nghiên cứu tâm lý xã
hội đã chỉ ra tên một hạng mục xã hội quen thuộc làm gia tăng khả năng dễ nhận
thức của các nét điểm được kết hợp chặt chẽ với chuẩn hóa của nó (Fiske, 1998).
Bởi vì khả năng nhận thức cao của chúng mà các thuộc tính nguyên mẫu là các
đặc điểm tự nhiên được chọn lựa cho vai trò của các thuộc tính khám phá. Một
phương thức nguyên mẫu bao trùm quá trình thay thế một thuộc tính của nguyên
mẫu cho một thuộc tính mở rộng hạng mục của nó (Kahneman & Frederick,
2002). Thí dụ nguyênbản của một phương thức nguyên mẫu là giá trị sử dụng của
tính tiêu biểu trong giải thích hạng mục. Khả năng có thể xãy ra là Linda trở thành
một thủ quỹ ngân hàng là một biến đổi mở rộng, nhưng điểm giống nhau của cô
đối với một thủ quỹ ngân hàng là thuộc tính nguyên mẫu.
Hai phương thức thử nghiệm của các phương thức nguyên mẫu
Vì các thuộc tính nguyên mẫu và mở rộng được chỉ đạo bởi các quy tắc khác nhau
riêng biệt, sự thay thế một thuộc tính nguyên mẫu cho một thuộc tính mở rộng kế
thừa hai khuynh hướng có thể thử nghiệm: sao lãng việc mở rộng và vi phạm sự
nhàm chán. Những phương thức thử nghiệm của hai giả thuyết được thảo luận
luân phiên.
Các phương thức thử nghiệm tính mở rộng
Nhân đôi các chu kỳ của tất cả các giá trị trong chuỗi sẽ không tác động đến các
thuộc tính nguyên mẫu, bởi vì những biện pháp của khuynh hướng trọng tâm chỉ
phụ thuộc cào các chu kỳ có liên quan. Ngược lại, giá trị của một thuộc tính mở
rộng sẽ gia tăng đều đều với sự mở rộng. Giả thuyết rằng các phán đoán của một
thuộc tính mục tiêu được dàn xếp bởi một phương thức nguyên mẫu tăng thêm hỗ
trợ nếu các phán đoán không quan tâm đến những biến đổi của sự mở rộng.
Đề xuất mở rộng bị sao lãng trong một phán đoán đặc thù có tính chất của một giả
thuyết vô hiệu hóa: nó chỉ đúng đắn một cách chính xác nếu tất cả các cá nhân
trong kiểu mẫu hoàn toàn không quan tâm đến những biến đổi của sự mở rộng.
Giả thuyết sẽ bị bác bỏ, trong một nghiên cứu rộng rãi một cách đầy đủ, thậm chí
nếu một sự cân đối nhỏ của những người tham gia chỉ ra một số mức độ quan tâm
với sự mở rộng. Cơ hôi của một số cá nhân đáp lại sự mở rộng được ưu tiên cao,

bởi vì các bên bị được đào tạo ý thức được sự thích ứng của biến đổi này một cách
tổng quát (Kahneman & Frederick, 2002). Mọi người đồng ý rằng WTP đối với
việc cứu sống những con chim nên gia tăng với số lượng chim được cứu sống, kéo
dài một thủ tục y khoa từ các hình thức rộng hơn thì đáng tin cậy hơn. Bởi vậy sao
lãng sự mở rộng hoàn toàn là một phương thức thử nghiệm thật vô lý của các
phương thức nguyên mẫu. Tuy nhiên, kết quả cực đoan này có thể đạt được dưới
các điều kiện ưu tiên, như các ví dụ sau:
* Nghiên cứu của Tom W. (xem Hình 8) đã minh họa một kiểu mẫu
định giá cơ
bản
trong giải thích tuyệt đối. Phát hiện này quả quyết khi nhiệm vụ đòi hỏi một
bảng phân loại các kết quả đa số (Kahneman & Tversky, 1973). Như đã lưu ý
trong phân trước, những người tham dự dùng phép ngụy biện trong thí nghiệm đã
ý thức được đánh giá cơ bản và có khả năng của việc sử dụng kiến thức này trong
dự đoán của họ - nhưng ý nghĩ của việc thực hiện rất hiển nhiên đã không xãy ra
với bất cứ ai trong số họ. Kahneman và Tversky cũng cung cấp tư liệu hầu hết sao
lãng đánh giá cơ bản trong một thí nghiệm (nghiên cứu kỹ sư/luật sư) mà đánh giá
cơ bản được phát biểu rõ ràng. Tuy nhiên, việc sao lãng thông tin được đánh giá rõ
ràng trong phác họa này là một phát hiện không vững chắc (Kahneman &
Frederick, 2002; Khehler, 1996, Evans, Handley, Over & Perham, 2002).
*Những người tham gia trong một nghiên cứu của Desvousges và các cộng sự của
ông đã chỉ ra sự hài lòng của họ khi đóng góp tiền đề hạn chế sự chết chóc của các
loài chim di trú. Số lượng chim sẽ được cứu sống không giống với các kiểu mẫu
phụ khác. Các khoản được định giá mà các hộ gia đình sẽ chi trả $80, $78 và $88
để cứu 2.000; 20.000 hay 200.000 con chim tương ứng. Frederick và Fishhoff
(1998) đã xem xét biểu hiện khác của phạ vi sao lãng trong các nghiên cứu về sự
tự nguyện chi trả (WTP) đối với hàng hóa cộng đồng. Ví dụ, Kahneman và
Knetsch phát hiện rằng quan sát các bên bị ở Toronto hầu như sẵn sàng chi trả
nhiều để làm sạch ao hồ trong miền nhỏ của Otario hay làm sạch tất cả các ao hồ
trong thị trấn đó (Kahneman, 1986)

*Trong một nghiên cứu đã mô tả của Redelmeier và Kahneman (1996), các bệnh
nhân thuật lại cảm giác đau đớn mỗi 60 giây trong suốt thủ tục (xem Hình 9) và
sau đó là một ước lượng đánh giá tổng quát của sự đau đớn mà họ đã chịu. Tương
quan của những ước lượng đánh giá tổng quát với thời gian của thủ tục (mà được
sắp xếp từ 4 đến 66 phút trong nghiên cứu đó) là .03. Mặt khác những ước lượng
đánh giá tổng quát có tương quan (r = .67) với một mức trung bình của sự đau đớn
đã được thuật lại trong hai trường hợp: khi sự đau đớn lên đến điểm đỉnh, và chỉ
trước khi thủ tục kết thúc. Ví dụ, bệnh nhân A trong Hình 9 đã báo cáo một định
giá tiêu cực hơn về cao trào/kết thúc đã được quan sát trong các nghiên cứu khác
(Fredrickson & Kahneman, 1993; một thảo luận của Kahneman, 2000a, 2000c).

Trong các phát hiện đã thảo luận ở phần trước, hữu dụng để cân nhắc các tình
huống mà người ta sẽ sao lãng sự mở rộng hoàn toàn. Các tác động mở rộng được
dự đoán, trong mô hình hiện tại, nếu một cá nhân (i) có thông tin về sự mở rộng
của chuỗi thích ứng; (ii) được nhắc nhở sự thích ứng của việc mở rộng; và (iii) có
thể dò ra những phán đoán trực giác của mình sao lãng sự mở rộng. Các điều kiện
này ít ra cũng đáng giữ lại - và hoàn tất sự sao lãng được quan sát - khi phán đoán
đánh giá một vật thể riêng lẻ và khi sự mở rộng chuỗi không được đề cập rõ ràng.
Trong một thí nghiệm khác, các điều kiện cho một tác động xác thực của sự mở
rộng hoàn toàn được đáp ứng trong phác thảo nghiên cứu của các nhà tâm lý học:
thí nghiệm các thành phần bên trong chủ đề, mà cac giá trị của sự mở rộng trái
ngược với những giá trị của các biến đổi khác nhau trong phác thảo. Như đã lưu ý
tới trước đó, phác họa này cung cấp một gợi ý rõ ràng mà nhà thí nghiệm cân nhắc
mỗi thao tác thích tứng biến đổi, và nó làm cho những người tham gia có thể bảo
đảm rằng những phán đoán của họ đưa ra quan tâm đến tất cả những biến đổi này.
Bởi vậy phác họa các thành phần đặc biệt không thích hợp với các giả thuyết thử
nghiệm về các xu hướng của sự sao lãng (Kahneman & Frederick, 2002)
Bất chấp những phản bác đó, những phác họa bên trong chủ đề các thành phần đã
được sử dụng trong một số nghiên cứu dựa trên thí nghiệm của việc sao lãng sự
mở rộng. Hình 10 minh họa

tác động mở rộng cộng hưởng đáng lưu ý đã nổi lên
trong những thí nghiệm này (Schreiber & Kahneman, 2000). Trong mỗi thí
nghiệm, biến đổi mở rộng có một tác động không đáng kể nhưng đầy ý nghĩa, và
kết hợp phần phụ với thông tin khác nhau. Đối với mỗi khung trong Hình 10, một
lý luận tiêu chuẩn bắt buộc có thể được tạo ra một quy tắc gần như được nhân lên
mà các đường kẻ nên phân ra. Mẫu quan sát thích hợp với một quá trình của một
sự vững chắc và điều chỉnh: phán đoán trực giác cung cấp một sự vững chắc và
những đính chính nhỏ nhặt từ sự vững chắc đó được tẩo để bao quát được vai trò
của sự mở rộng.

Các phương thức thử nghiệm đơn điệu
Những biến đổi mở rộng, như tổng số, theo tính đơn điệu. Tổng một chuỗi của các
giá trị xác thực ít nhất cũng cao như mức độ tối đa trong các chủ thể của nó.
Ngược lại, mức độ trung bình của một đối tượng nghiên cứu có thể cao hơn mức
trung bình của một chuỗi bao hàm. Vi phạm tính đơn điệu bị hạn chế để nảy sinh
khi một thuộc tính mở rộng được phán đoán bởi một thuộc tính nguyên mẫu: nó
phải có khả năng phát hiện các trường hợp mà việc thêm vào các yếu tố, một chuỗi
gây ra phán đoán của biến đổi mục tiêu để giảm sút. Phương thức thử nghiệm các
phương thức nguyên mẫu này đòi hỏi hơn giả thuyết của việc sao lãng sự mở rộng,
và vi phạm tính đơn điệu thích hợp với một số mức độ cảm xúc đến sự mở rộng
(Ariely & Loewenstein, 2000). Tuy nhiên, vi phạm tính đơn điệu trong các nhiệm
vụ quan trọng của phán đoán và lựa chọn là nguồn hỗ trợ mạnh mẽ nhất cho giả
thuyết thuộc tính nguyên mẫu được thay thế cho các thuộc tính mở rộng trong
những nhiệm vụ này.
* Các lỗi liên kết, mà vi phạm tính đơn điệu đã được chứng minh trong vấn đề của
Linda và trong các vấn đề khác của hình thức giống như thế. Không có sự loại trừ
cung cấp tư liệu đến kiểu mẫu được dự đoán khi các phán đoán đạt được trong một
phác thảo giữa đối tượng nghiên cứu, hoặc khi hai kết quả nghiêm trọng được đưa
vào một bảng liệt kê dài hơn (Tversky & Kahneman, 1982, 1983; Miller, Hertwig
& Kahneman, 2001). Tversky và Kahneman (1983) cũng phát hiện ra rằng các bên

bị cả tin thống kê đã tạo nên lỗi liên kết thậm chí trong một so sánh trực tiếp của
những kết quả nghiêm trọng. Như trong trường hợp sao lãng việc mở rộng, tuy
nhiên, các lỗi liên kết ít khắt khe trong các điều kiện bên trong đối tượng nghiên
cứu, đặc biệt khi nhiệm vụ bao gồm một so sánh trực tiếp (Kahneman &
Frederick, 2002)
*Hsee (1999) đã hỏi những người tham dự về các chuỗi giá cả đã đưa ra. Một
trong các chuỗi (A) gồm có 24 mẫu, hoàn toàn trong các điều kiện tốt. Một chuỗi
khác bao gồm 24 mẫu giống nhau, thêm 16 mẫu, trong đó 7 mẫu nằm trong điều
kiện tốt và 9 mẫu không hoàn chỉnh. Khi mỗi bên bị đánh giá một chuỗi duy nhất,
có nghĩa tự nguyện chi trả (WTP) là $33 cho mỗi chuỗi nhỏ hơn và $23 cho mỗi
chuỗi lớn hơn (p<.01). Ngược lại, những người tham gia định giá cả hai chuỗi tự
nguyện chi trả một cách kiên định hơn đối với chuỗi lớn hơn. Bảng liệt kê (2002)
đã quan sát những vi phạm nổi trội tương tự với một ưu điểm khác, trong một tình
huống thị trường thực tế.
*Các vấn đề thuộc dạng sau đây đã được sử dụng trong một số thí nghiệm (
Kahneman & Tversky, 1972; Griffin & Tversky, 1992)
Một thí dụ được đưa ra từ một trong hai bình. Một bình chứa 70% banh đỏ và 30%
banh trắng. Sự cân đối bị đảo ngược trong một bình khác. Khả năng nào có thể
xãy ra khi mỗi mẫu này được đưa ra từ bình đỏ chiếm đa số?
Một mẫu 3 banh đỏ và 0 banh trắng (3R, 0W)
Một mẫu 4 banh đỏ và 3 banh trắng (4R, 3W)
Một mẫu 7 banh đỏ và 3 banh trắng (7R, 3W)
Biến đổi mục tiêu mở rộng ở đây là mức độ hỗ trợ cho giả thuyết "đỏ" có liên
quan với giả thuyết "trắng". Giải phát chuẩn đơn giản: khả năng có thể xãy ra
thuộc tính mục tiêu được xác định bởi một sự kết hợp công hưởng lên trên các yếu
tố mẫu - sự khác biệt giữa số banh đỏ và banh trắng trong ví dụ. Giải pháp tâm lý
cũng đơn giản như thể: phương thức thuộc tính nguyên mẫu là mức độ hỗ trợ
trung bình, tương xứng với sự cân đối của banh đỏ trong ví dụ. Vì thế, tính cộng
hưởng của (4R, 3W) đến (3R, 0W) tăng giá trị của thuộc tính mục tiêu nhưng giảm
giá trị của phương thức khám phá. Thí dụ đặc trưng này thuộc giả tưởng, nhưng

hình thức phát hiện chỉ ra rằng các bên bị sẽ nhận được sự chắc chắn nhiều ở (3R,
0W) hơn từ (7R, 3W) (Kahneman & Tversky, 1972; Griffin & Tversky, 1992)
*Một thí nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên được dẫn đến như một sự tiếp tục cho
nghiên cứu đã mô tả trước đó. Đối với phân nửa bệnh nhân, dụng cụ không được
di chuyển ngay tức thì khi kiểm tra lâm sàng kết thúc. Thay vì chờ trong 1 phút,
các bác sĩ lại để dụng cụ cố định. Kinh nghiệm trong suốt giai đoạn phụ không dễ
dàng, nhưng thủ tục bảo đảm không bao giờ kết thúc nghiêm trọng. Những bệnh
nhân đã thuật lại các đánh giá tổng quát ưu tiên hơn một các có ý nghĩa trong điều
kiện dựa trên thí nghiệm này hơn trong điều kiện kiểm soát (Redelmeier, Katz &
Kahneman). Vi phạm nổi trội cũng được xác nhận trong các sự chọn lựa.
Kahneman, Fredrickson, Schreiber và Redelmeier (1993) đã đưa ra những người
tham gia đến hai kinh nghiệm: một quãng thời gian "ngắn" (nhúng tay vào nước
14
0
C trong 60 giây), và một quãng thời gian "dài" (quãng thời gian ngắn, thêm 30
giây trong suốt khi nước ấm dần đến 15
0
C). Hình thức này của các sự chọn lựa
được dự đoán từ quy tắc đỉnh điểm/kết thúc của đánh giá được mô tả trước đó.
Hình thức kết quả giống như thế được phát hiện với các âm thanh khó đọc của tính
ầm ĩ và thời gian biến đổi (Schreiber & Kahneman, 2000)/
Tính kiên định của các kết quả đã quan sát trong các nghiên cứu nhỏ nhặt của
phương thức nguyên mẫu gợi ra nhu cầu cho một sự giải thích thống nhất, và
những giải thích thử thách chỉ áp dụng cho một phạm vi riêng lẻ. Một số tác giả đã
đưa ra những giải thích cạnh tranh của tính sao nhãng định giá gốc (Cosmides &
Tooby,1996; Koehler, 1996), không quan tâm đến phạm vi trong WTP (Kopp,
1992) và sự lãng phí thời gian (Ariely & Leowenstein, 2000). Tuy nhiên, nói
chung những giải thích này chỉ rỏ một nhiệm vụ đặc trưng và sẽ không mang đến
các chứng minh của sự sao nhãng mở rộng trong những nhiệm vụ khác đã được
thảo luận ở đây. Tương tự, nỗ lực mô tả các lỗi liên kết như một phương tiện

truyền đạt thông tin thiếu sót giữa thí nghiệm và bên bị (Dulany & Hilton, 1991;
Hilton & Slugoski, 2001) không giải thích những vi phạm tương tự của sự đều đặn
trong thí nghiệm và trong định giá hàng hóa cá nhân. Ngược lại, các khoảng đưa ra
ở đây (và đã được phát triển trong chi tiết hơn bởi Kahneman & Feredrick, 2002)
có thể sử dụng như nhau để các nhiệm vụ đa dạng đòi hỏi một định giá của thuộc
tính mục tiêu mở rộng.
Những phát hiện đã đạt được trong sự chọn lựa và đồng định giá xác nhận sự tồn
tại của hai hình thức riêng biệt của việc chọn lựa, mà đã được xác định trong
thuyết viễn tượng (Kahneman & Tversky, 1979). Trong thủ tục không phân tích
mà tôi gọi là "lựa chọn bằng sự ưu tiên" (Kahneman, 1994), cá nhân cân nhắc
đánh giá tổng quát của hai chọn lựa riêng rẽ, và chọn một giá trị cao hơn giá trị
tổng quát, không so sánh chi tiết của những chọn lựa. Chọn lựa bởi giá trị tổng
quát là cơ cấu nền tảng đã giả định trong thuyết viễn tượng. Tuy nhiên, thuyết viễn
tượng cũng giới thiệu ý kiến cho rằng nếu cá nhân tìm ra rằng một chọn lực này
chỉ đạo chọn lựa khác, chọn lựa chỉ đạo sẽ được chọn mà không cân nhắc những
giá trị riêng rẽ của chúng. Trong nghiên cứu của Hsee (1998), các bên bị chọn lựa
bằng sự ưu tiên trong định giá riêng rẽ, và bằng tính nổi trội trong định giá chung.
Định giá chung không đủ để bảo đảm sự chọn lựa bằng tính nổi trội; nó cũng cần
thiết cho những người tạo ra quyết định để thực hiện một cách rõ ràng trong các
chọn lựa chính xác hơn. Yêu cầu này không được đáp ứng trong thí nghiệm . Mặc
dù những người tham gia được đưa ra hai định giá chung, họ không lưu ý rằng
quãng thời gian dài bao hàm toàn bộ cảm giác đau đớn của quãng thời gian ngắn,
và sau đó là một số cảm giác đau đớn phụ. Hầu hết các bên bị sẽ tạo nên một chọn
lựa khác nếu họ hiểu cơ cấu của các chọn lựa.
Chuẩn hợp lý của lòng tin và sự chọn lựa được mở rộng, và nó đòi hỏi định giá
thích hợp của các thuộc tính mở rộng, bao gồm cả hai khả năng có thể xãy ra và sự
hữu ích. Ví dụ đã được thảo luận trong phần này chứng minh một sự tách biệt hẳn
từ sự hợp lý mở rộng, trong đánh giá trực giác của cả bằng chứng và kết quả. Sự
thay thế các thuộc tính nguyên mẫu cho các thuộc tính mở rộng nảy sinh như một
đặc điểm chung của hệ thống 1, thích hợp với lòng tin

Bayesian và cả sự tối ưu
hóa hữu ích.
Xem Kết Luận tiếp theo

×