Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

GIẢI PHÁP GIẢM THIỂU TÌNH TRẠNG MẤT CÂN BẰNG GIỚI TÍNH KHI SINH TẠI TỈNH THANH HÓA,GIAI ĐOẠN 2016 – 2021BSCKII. Nguyễn Thị Dung Bộ môn Sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.92 KB, 20 trang )

GIẢI PHÁP GIẢM THIỂU TÌNH TRẠNG
MẤT CÂN BẰNG GIỚI TÍNH KHI SINH TẠI TỈNH THANH HÓA,
GIAI ĐOẠN 2016 – 2021
BSCKII. Nguyễn Thị Dung
Bộ môn Sản
1. Đặt vấn đề:
Theo tổng kết của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA), châu Á là nơi
có sự mất cân bằng giới tính cao nhất trên thế giới, sáu quốc gia châu Á có tỷ số
giới tính ở độ tuổi trẻ em được ghi nhận là mất cân bằng đáng kể (lên tới trên
108) là Ấn Độ, Hàn Quốc, Georgia, Azerbaijan, Trung Quốc và Armenia đặc
biệt đáng lưu ý hai nước đông dân nhất thế giới là Trung Quốc và Ấn Độ1.
Việt Nam, trước năm 1999, chưa nơi nào rơi vào tình trạng mất cân bằng
giới tính khi sinh (MCBGTKS). Từ năm 1999 đến nay tỉ số giới tính khi sinh ở
nước ta có xu hướng tăng lên, từ 107 bé trai/100 bé gái khi sinh vào năm 1999;
lên 110 bé trai /100 bé gái vào năm 2009; 112 bé trai/100 bé gái năm 2014 2. Tỷ
số giới tính khi sinh (TSGTKS) của nước ta, đã thực sự “nóng” tại các diễn đàn
Quốc hội, Chính phủ và cộng đồng xã hội. Các nhà khoa học trong và nước
ngồi dự báo tỷ số này vẫn cịn tiếp tục tăng lên. Tình trạng MCBGTKS đang là
tình trạng đáng báo động và ngày càng phổ biến ở nhiều địa phương trong cả
nước. Nếu tiếp tục mức tăng như thế vào những năm sắp tới sẽ làm biến đổi các
chỉ số nhân khẩu học, tác động tiêu cực đến cuộc sống cá nhân, gia đình, xã hội
đến an ninh trật tự, an toàn xã hội và sẽ trở thành thảm họa đối với dân tộc và sự
phát triển bền vững Quốc gia, nếu không được can thiệp kịp thời.
Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm chỉ đạo kiểm sốt tình trạng
MCBGTKS, Pháp lệnh Dân số 2003 quy định nghiêm cấm tất cả các hình thức
lựa chọn giới tính thai nhi. Nghị định 176/2013/NĐ – CP ngày 14/11/2013 của
Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Y tế, trong đó có
vi phạm hành chính về dân số, Nghị định quy định các hành vi vi phạm và các
mức xử phạt cho các hành vi liên quan đến lựa chọn giới tính thai nhi, nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến MCBGTKS.


1

UNFPA - Tỷ số giới tính khi sinh ở Châu Á và Việt Nam: Tổng quan tài liệu nhằm hướng dẫn nghiên cứu về
chính sách. Tháng 10/2010.
2
Tổng Điều tra dân số năm 1999 và 2009, điều tra biến động dân số ngày 01/4 hàng năm.

1


Thanh Hố là một trong những tỉnh có tỷ số giới tính khi sinh khá cao so
với trung bình trong cả nước. Năm 2011: 120/100, Năm 2012: 116; năm 2013:
115; năm 2014: 115; năm 2015: 115.
Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh theo hướng “thừa nam thiếu
nữ” tại Thanh Hóa đã xảy ra và đang ở mức báo động. Đây là một thách thức
lớn đối với ngành Y tế nói riêng và tỉnh Thanh Hóa nói chung. Tình trạng này
khơng chỉ diễn ra ở thành thị mà cịn diễn ra ở cả nông thôn và miền núi. Mất
cân bằng giới tính khi sinh gây ra nhiều hệ lụy nhiều mặt đối với đời sống kinh
tế xã hội làm thay đổi cơ cấu dân số trong tương lai, thiếu hụt phụ nữ ở độ tuổi
lập gia đình, cấu trúc gia đình thay đổi đáng kể, gia tăng tội phạm liên quan đến
lạm dụng tình dục, mua bán phụ nữ, ngược đãi phụ nữ, cản trở việc nâng cao vị
thế của phụ nữ trong xã hội từ nhiều lý do.
Trong những năm qua tỉnh Thanh Hóa được sự quan tâm, Chỉ đạo của
Tổng cục Dân số, của Tỉnh Ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban
mặt tổ quốc của các ban, ngành, đoàn thể các cấp đã triển khai nhiều hoạt động
can thiệp nhằm từng bước khống chế tốc độ gia tăng TSGTKS bước đầu đã có
kết quả. Tuy nhiên, do tính chất khó khăn và phức tạp của việc kiểm soát
MCBGTKS trong bối cảnh của một xã hội chịu ảnh hưởng nặng nề của các giá
trị nho giáo, nhận thức của người dân còn nhiều hạn chế, các vi phạm về lựa
chọn giới tính thai nhi có xu hướng lan rộng, tinh vi, những biện pháp can thiệp

chưa đủ mạnh, thiếu đồng bộ. Một số cấp ủy Đảng, Chính quyền các cấp đã vào
cuộc nhưng chưa tạo bước đột phá, đây đó cịn xem nhẹ, chưa thực sự quan tâm
và chưa thấy hết được hệ lụy của vấn đề MCBGTKS đối với toàn xã hội, dân
tộc. Sự quan tâm của các ban, ngành, đồn thể cịn hạn chế. MCBGTKS có
nguyên nhân tổng hợp từ các yếu tố Văn hóa xã hội, kinh tế và là một vấn đề
liên quan đến phong tục tập quán của người dân đã có từ hàng ngàn năm. Vì vậy
để giải quyết vấn đề này trước hết địi hỏi phải có sự cam kết mạnh mẽ, sự
chung tay góp sức của cả hệ thống Chính trị, sự quan tâm chỉ đạo sát của cấp Ủy
Đảng, Chính quyền, sự tham gia tích cực của các ban, ngành, đoàn thể cũng như
toàn xã hội.
Xuất phát từ nhận thức trên em chọn đề tài: “ Giải pháp giảm thiểu tình
trạng mất cân bằng giới tính khi sinh tại tỉnh Thanh Hóa, giai đoạn 2016 –
2021” làm tiểu luận tự chọn trình độ cao cấp lý luận chính trị của mình, với mục
tiêu khống chế có hiệu quả tốc độ gia tăng tỷ số giới tính khi sinh, tiến tới đưa tỷ
2


số giới tính khi sinh trở lại mức cân bằng tự nhiên góp phần đảm bảo hợp lý cơ
cấu dân số, chất lượng dân số cũng như ổn định, trật tự xã hội.
2. Nội dung
2.1. Cơ sở khoa học
2.1.1. Một số khái niệm cơ bản:
- Dân số: Dân số là đại lượng tuyệt đối con người trong một đơn vị hành
chính hay một quốc gia, một châu lục hoặc cả hành tinh chúng ta tại một thời
điểm nhất định. (Tổng số người sống trên một lãnh thổ nhất định được tính vào
một thời điểm nhất định). Như vậy, nói đến dân số là nói đến quy mơ, cơ cấu,
chất lượng và những yếu tố gây nên sự biến động của chúng như: sinh, chết và
di cư.
- Cơ cấu dân số: Là khái niệm dùng để chỉ tập hợp những bộ phận hợp
thành dân số của một lãnh thổ dựa trên những tiêu chuẩn nhất định. Nói cách

khác, cơ cấu dân số là tổng số dân được phân loại theo giới tính, độ tuổi, dân
tộc, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hơn nhân và các đặc trưng khác 3.
- Giới và giới tính: Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong
tất cả các mối quan hệ xã hội 4. Giới của mỗi người được hình thành trong q
trình lớn lên chứ khơng phải sinh ra là đã có, nói một cách khác, hình thành các
đặc điểm giới là một quá trình học của mỗi cá nhân. Giới của mỗi người phụ
thuộc vào quyền lực và giá trị xã hội của họ; giới có thể thay đổi ở các nền văn
hóa, lịch sử khác nhau và cũng có thể thay đổi khi được can thiệp. Giới tính: Là
sự khác biệt về mặt sinh học giữa nam giới và phụ nữ. Giới tính là những đặc
điểm đồng nhất mà khi chúng ta sinh ra đã có và không thể thay đổi được. Sự
khác biệt này chủ yếu liên quan đến quá trình tái sản xuất con người và duy trì
nịi giống.
- Tỷ số giới tính khi sinh: Tỷ số giới tính khi sinh là một chỉ số thống kê
được xác định bằng số trẻ em trai được sinh sống trên một trăm trẻ em gái sinh
sống trong một khoảng thời gian xác định, thường là một năm tại một quốc gia,
một vùng hay một tỉnh. Tỷ số này thông thường là từ 103- 106 trẻ em trai trên
100 trẻ em gái và giá trị của tỷ số này thường rất ổn định qua thời gian.
Công thức tính tỷ số giới tính khi sinh như sau:
Số bé trai sinh sống/1 năm
3
4

Điều 3, Pháp lệnh Dân số.
Điều 5, Luật Bình đẳng giới, 2006.

3


Tỷ số giới tính khi sinh (SRB) =


*100

Số bé gái sinh sống/1 năm
- Mất cân bằng giới tính khi sinh: Mất cân bằng giới tính khi sinh là số trẻ
em trai được sinh ra cịn sống vượt trên ngưỡng bình thường so với 100 trẻ em
gái được sinh ra còn sống trong một khoảng thời gian xác định, thường là một
năm tại một quốc gia, một vùng hay một tỉnh. Theo quy ước nhân khẩu học, tỷ
số giới tính khi sinh dao động từ 103 – 106. Tỷ số giới tính khi sinh của một
quốc gia, một vùng hoặc một tỉnh/thành phố nằm ngoài dao động ấy là mất cân
bằng giới tính khi sinh.
- Can thiệp giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh: Là việc tác động
nhằm thay đổi nhận thức, hành vi của người dân về vấn đề giới tính, để cho tình
trạng MCBGTKS hiện nay đang ở mức báo động trở về mức cân bằng giới tính
khi sinh, đảm bảo tỷ số giới tính khi sinh ở mức dao động từ 103 – 106 trẻ trai
sinh ra còn sống trên 100 trẻ gái sinh ra còn sống.
2.1.2. Hậu quả của việc mất cân bằng giới tính khi sinh: Tranh giành trong hôn
nhân, ngăn cản người địa phương khác sang địa phương mình tìm hiểu, kết hơn;
Kết hơn muộn, thậm chí là khơng thể kết hơn do khó hoặc khơng tìm được bạn
đời hoặc đối với các chàng trai sống trong gia đình nghèo, kinh tế yếu kém, chi
phí cho việc cưới vợ vượt quá khả năng, việc cưới vợ sẽ là gánh nặng cho kinh
tế gia đình. Từ đó, khả năng quan hệ tình dục ngồi hôn nhân tăng lên, nguy cơ
lây nhiễm các bệnh qua đường tình dục, trong đó có HIV/AIDS cũng có nguy cơ
tăng lên. Hơn nhân với người nước ngồi khơng dựa trên cơ sở tình u để có
hơn nhân bền vững, mà chỉ dựa trên tiền bạc đã để lại nhiều bi kịch trong các gia
đình. Do khó khăn từ việc chọn vợ sẽ tạo nên sự bất ổn về trật tự, an tồn xã hội
dẫn đến tình trạng gia tăng các loại tội phạm xã hội như: Lừa đảo, bắt cóc, bn
bán trẻ em gái và phụ nữ, tệ mại dâm đã xảy ra và có chiều hướng gia tăng. Phụ
nữ có thể bị ép buộc sinh thêm con, phá thai nhi gái, ảnh hưởng xấu đến sức
khoẻ, tính mạng. Người phụ nữ bị ngược đãi, phụ tình, ruồng bỏ khi không sinh
được con trai. Và khả năng xuất hiện tình trạng phụ nữ đa phu là tất yếu. Luật

Hơn nhân gia đình một vợ một chồng bị phá vỡ. Hiện tượng “nhập khẩu cơ dâu”
là khó tránh khỏi. Từ đó, gây ra những khó khăn thách thức địi hỏi xã hội phải
quan tâm giải quyết trong thời gian dài và phải tăng thêm nguồn nhân lực, tài
lực, vật lực để xử lý.
2.1.3. Nội dung can thiệp giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh:
4


- Nhà nước phải tiến hành nhiều chương trình hoạt động nhằm thúc đẩy
bình đẳng giới và nâng cao vị thế của người phụ nữ trong xã hội;
- Xây dựng các chính sách nhằm bảo đảm an sinh xã hội cho người cao
tuổi, để các gia đình khơng phải phụ thuộc hoàn toàn vào con trai khi cha mẹ già
yếu…
- Nhà nước cịn cần ban hành các quy định, chính sách kinh tế - xã hội ưu
tiên, quan tâm tới những gia đình sinh con một bề là gái;
- Tăng cường cơng tác quản lý, kiểm tra, kiểm sốt các cơ sở y tế nhằm
phát hiện và ngăn chặn kịp thời những hành vi vi phạm quy định không lựa chọn
giới tính thai nhi khi sinh theo điều 10 Nghị định số 104-CP ngày 16/9/2003 của
Chính phủ về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành pháp lệnh dân số.
2.2. Cơ sở chính trị, pháp lý:
2.2.1. Cơ sở chính trị
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đưa ra Nghị quyết định
hướng cho công tác dân số “Bảo đảm quy mô hợp lý, cân bằng giới tính và chất
lượng dân số” (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bổ sung, phát triển năm 2011) và Thực hiện tốt các Chính sách Dân
số và kế hoạch hóa gia đình, duy trì mức sinh thay thế, bảo đảm cân bằng giới
tính hợp lý, nâng cao chất lượng dân số” (Chiến lược phát triển kinh tế - Xã hội
2011 -2020).
- Nghị quyết 47 – NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị về tiếp tục
đẩy mạnh thực hiện chính sách DS và KHHGĐ nhấn mạnh: tiếp tục đẩy mạnh

công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm làm chuyển biến sâu sắc về nhận thức, tâm
lí, tập qn sinh đẻ trong tồn xã hội. Vận động toàn xã hội chấp nhận và thực
hiện mỗi cặp vợ chồng chỉ có một đến hai con, coi việc dừng ở hai con là nghĩa
vụ của mọi người dân để góp phần giảm bớt gánh nặng về dân số của đất nước.
Việc tuyên truyền, vận động phải sâu sát, cụ thể, phù hợp với từng đối tượng.
Chú ý vận động những gia đình đã có hai con để họ không sinh con thứ ba...
Triển khai các hoạt động kiểm tra sức khỏe di truyền, tư vấn tiền hôn nhân, đẩy
mạnh phòng, chống HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội; Giảm tỉ lệ trẻ em sinh ra bị
dị tật bẩm sinh, thiểu năng trí tuệ, giảm nhanh tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng; mở
rộng các dịch vụ chăm sóc người già, người tàn tật, tổ chức phục hồi chức năng
cho trẻ em và người khuyết tật.
5


- Kết luận số: 44 - KL/TW ngày 01/4/2009 của Bộ Chính trị về Kết quả 3
năm thực hiện Nghị quyết số: 47 - NQ/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện chính sách DS - KHHGĐ đã cho rằng phải chủ động kiểm soát
và giải quyết các nguyên nhân sâu xa làm mất cân bằng giới tính của trẻ sơ sinh;
Xử lý nghiêm các hành vi lựa chọn giới tính thai nhi.
- Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XVII nhiệm kỳ 2015
– 2020 đã ghi rõ: duy trì mức sinh thay thế, giảm tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi
sinh.
- Chỉ thị số 16 CT/TU, ngày 10 tháng 9 năm 2013 của Ban Thường vụ Tỉnh
ủy về việc tiếp tục đẩy mạnh cơng tác dân số và kế hoạch hóa gia đình.
2.2.2. Cơ sở pháp lý
- Pháp lệnh Dân số, số 06/2003/PL – UBTVQH11, ngày 9 tháng 01 năm
2003; Khoản 2, Điều 7 nghiêm cấm “ Lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình
thức” và điều 13 quy định “Nhà nước điều chỉnh cơ cấu dân số nhằm bảo đảm
cơ cấu dân số hợp lý về giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn, ngành nghề và các
đặc trưng khác” và “ Việc điều chỉnh cơ cấu dân số được thực hiện thơng qua

các trưng trình, dự án phát triển kinh tế - Xã hội của cả nước và từng địa
phương”
- Luật Bình đẳng giới số 73/2006/QH11, ngày 29 tháng 11năm 2006, Điều
4 “Mục tiêu của Bình đẳng giới là xóa bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội
như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - Xã hội và phát triển nguồn
nhân lực tiến tới bình đẳng thực chất giữa nam,nữ và thiết lập, củng cố quan hệ
hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống Xã hội và gia
đình” Điều 40, khoản 7, mục b quy định các hành vi “Lựa chọn giới tính thai nhi
dưới mọi hình thức hoặc xúi giục, ép buộc người khá phá thai vì giới tính của
thai nhi” là vi phạm Pháp luật về Bình đẳng giới.
- Nghị định số: 114/2006/NĐ - CP ngày 03/10/2006 - Quy định sử phạt vi
phạm hành chính về dân số và trẻ em, nghiêm cấm các hành vi lựa chọn giới
tính thai nhi.
- Nghị định số:104/2003/NĐ - CP ngày 16/9/2003 - Quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Dân số.
- Chị thị số: 23/2008/CT - TTg ngày 04/8/2008 của Thủ tướng Chính phủ
về việc tiếp tục đẩy mạnh cơng tác dân số và kế hoạch hóa gia đình “ Đẩy nhanh
tiến độ và nâng cao chất lượng việc thử nghiệm, nhân rộng các mơ hình, giải
6


pháp can thiệp về kỹ thuật, về kinh tế và xã hội, góp phần kiểm sốt tỷ số giới
tính khi sinh và nâng cao chất lượng dân số…”
- Quyết định số:153/2006/QĐ-TTg ngày 30/6/2006 của Thủ tướng Chính
phủ về Qui hoạch tổng thể phát triển ngành Y tế Việt Nam đến năm 2010 và tầm
nhìn đến 2020.
- Quyết định số: 2351/QĐ - TTg ngày 24/12/2010 của Thủ tướng Chính
phủ về Chiến lược Bình đẳng giới đến năm 2020.
- Chiến lược phát triển Dân số và sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn
2011 - 2020 - Bộ Y tế.

- Quyết định số 4381/2011/QĐ-UBND, ngày 28/12/2011 về phê duyệt Kế
hoạch hành động thực hiện Chiến lược dân số - sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011
– 2020.
- Quyết định số 1491/QĐ-UBND, ngày 28/5/2008 của Chủ tịch UBND tỉnh
Thanh Hóa về việc thành lập và quy định tổ chức bộ máy Chi cục DS - KHHGĐ
thuộc Sở Y tế.
2.2.3. Cơ sở thực tiễn
MCBTSGTKS ở Việt Nam thật sự nóng lên từ năm 2006. Mặc dù khởi
đầu muộn hơn các nước trong khu vực khoảng 20 năm nhưng tốc độ gia tăng
TSGTKS ở Việt Nam nhanh hơn rất nhiều. Bình quân tốc độ gia tăng TSGTKS
hằng năm của các nước chỉ từ 0,4% đến 0,5%, nhưng ở Việt Nam ngay từ những
năm đầu tiên xuất hiện tốc độ gia tăng TSGTKS đã lên cao bất thường, từ 1%
đến 1,5%. Quy luật gia tăng TSGTKS ở Việt Nam cũng giống các nước khác, đó
là xuất hiện vào giai đoạn xã hội nở rộ các dịch vụ siêu âm, mở rộng các dịch vụ
hành nghề y tế tư nhân và sự thuận tiện, dễ dàng trong nạo phá thai 5.
Theo một nghiên cứu của Viện Khoa học Dân số, Gia đình và Trẻ em năm
2005 về TSGTKS tại 6 tỉnh: Ninh Bình, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Bình Định,
Đồng Nai và Cần Thơ thì TSGTKS trong thời kỳ 5 năm (1999-2003) tại những
tỉnh này là 115,6 6. Năm 2007, một nghiên cứu khác của Viện nghiên cứu Phát
triển xã hội được thực hiện trên cả nước cho thấy, TSGTKS đã có sự chênh lệch
đáng kể. Có tới 16 tỉnh/thành có TSGTKS từ 115 - 128, ở 20 tỉnh/thành khác là
5

Dương Quốc Trọng - Tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam các đặc điểm cơ bản và giải pháp - Tổng cục DS KHHGĐ năm 2013.
6
Viện Khoa học Dân số, Gia đình và trẻ em - Về tình trạng giới tính khi sinh tại 6 tỉnh: Ninh Bình, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Bình Định, Đồng Nai và Cần Thơ, Viện Khoa học Dân số, Gia đình và Trẻ em năm 2005- Hà Nội
năm 2006.

7



111- 120. Cụ thể, tại Kiên Giang TSGTKS là 125 ; tại Sóc Trăng là 124; tại Bắc
Ninh là 123… 7.
MCBTSGTKS ở Việt Nam có những nét đặc thù khác với các nước trong
khu vực, đó là ở Việt Nam hiện tượng này cao ngay từ lần sinh đầu tiên, chứng
tỏ các bà mẹ đã chọn lọc giới tính ngay từ lần sinh đầu. Ðặc biệt, tình trạng
MCBTSGTKS diễn ra nghiêm trọng nhất ở nhóm kinh tế khá giả. Trong khi ở
nhóm nghèo nhất (chiếm khoảng 20% dân số) TSGTKS ở mức bình thường là
105,2 thì ở nhóm trung bình, nhóm giàu và nhóm giàu nhất tình trạng
MCBTSGTKS lại rất nặng nề. Cụ thể, TSGTKS ở nhóm giàu là 111,7 và ở
nhóm giàu nhất là 112,9. TSGTKS thấp nhất ở nhóm phụ nữ khơng biết chữ là
107 và tăng dần theo trình độ học vấn, lên đến 114 ở nhóm các bà mẹ có trình độ
cao đẳng trở lên. Những phụ nữ có trình độ học vấn cao biết chủ động sử dụng
các biện pháp tránh thai và điều chỉnh số con mong muốn; những phụ nữ này
thường lại có điều kiện kinh tế tốt hơn để có thể chi trả dịch vụ lựa chọn giới
tính trước sinh và họ thỏa mãn được cả hai mục tiêu: quy mô gia đình nhỏ và có
con trai8.
2.3. Thực trạng mất cân bằng giới tính khi sinh tại tỉnh Thanh Hóa hiện
nay
2.3.1. Đặc điểm tình hình kinh tế chính trị, văn hóa
Thanh Hóa là một tỉnh lớn, đứng thứ 5 về diện tích và thứ 3 về dân số
trong số các đơn vị hành chính tỉnh trực thuộc Nhà nước. Bao gồm 1 thành phố
trực thuộc tỉnh, 2 thị xã và 24 huyện, 635 xã, phường, thị trấn.
- Về địa lý: Thanh Hóa là tỉnh cực Bắc miền Trung Việt Nam nằm ở vĩ
tuyến 19°18' Bắc đến 20°40' Bắc, kinh tuyến 104°22' Đông đến 106°05' Đơng.
Phía bắc giáp ba tỉnh: Sơn La, Hịa Bình và Ninh Bình; phía nam và tây nam
giáp tỉnh Nghệ An; phía tây giáp tỉnh Hủa Phăn nước Lào với đường biên giới
192 km; phía đơng Thanh Hóa mở ra phần giữa của vịnh Bắc Bộ thuộc biển
Đông với bờ biển dài hơn 102 km. Diện tích tự nhiên của Thanh Hóa là
11.106 km², chia làm 3 vùng: đồng bằng ven biển, trung du, miền núi. Thanh

Hóa có thềm lục địa rộng 18.000 km².
7

Viện nghiên cứu Phát triển xã hội - Tình trạng giới tính khi sinh trong nước, Viện nghiên cứu Phát triển xã hội
Năm 2007
8

Dương Quốc Trọng - Tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam các đặc điểm cơ bản và giải pháp - Tổng cục DS KHHGĐ năm 2013.

8


- Về dân cư: Dân số Thanh Hóa đến 31/12/2015 là 3.651.788 Người,
đứng thứ ba Việt Nam, chỉ sau Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. [15]. Trong đó:
Nữ giới 1.852.180 người, chiếm 50,7%, Mật độ dân số 312 người/km². Thanh
Hóa có 7 dân tộc là Kinh, Mường, Thái, Thổ, Dao, Mông, Khơ Mú. Người Kinh
chiếm phần lớn dân số của tỉnh.
- Về chính trị: Chính trị ổn định, các dân tộc chung sống hoà hợp, cùng
nhau phát triển, tồn tỉnh khơng có thơn bản, xã khơng có đảng viên. Bình quân
hằng năm kết nạp hơn 7.000 đảng viên mới và có từ 80% tổ chức cơ sở đảng trở
lên kết nạp được Đảng viên mới trong năm; Tỷ lệ tổ chức cơ sở Đảng đạt trong
sạch, vững mạnh hằng năm đạt 45% trở lên.
- Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh GRDP
bình quân 5 năm đạt 12%/năm trở lên; GRDP bình quân đầu người đạt 3.600
USD.
- Về văn hóa - xã hội: Tốc độ tăng dân số bình quân hằng năm dưới
0,65%; Tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội đến chiếm 35 38%.
- Về môi trường: Tỷ lệ che phủ rừng đạt 52,5%; Tỷ lệ dân số đô thị được
dùng nước sạch đạt 95% trở lên theo chuẩn mới; Tỷ lệ dân số nông thôn được
dùng nước hợp vệ sinh đạt 95%. Tỷ lệ chất thải nguy hại được thu gom, xử lý

đạt tiêu chuẩn đạt 80%. Tỷ lệ chất thải y tế được thu gom, xử lý đạt tiêu chuẩn
đạt 100%;
- Về an ninh trật tự: Hằng năm có 70% xã, phường, thị trấn đạt tiêu chuẩn an
toàn về an ninh trật tự;
2.3.2.Thực trạng can thiệp giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh ở tỉnh
Thanh Hóa hiện nay
Bộ máy DS –KHHGĐ tỉnh Thanh Hóa bao gồm: Chi cục DS - KHHGDD
Tỉnh: Có 32 cán bộ. Trong đó: Trình độ trên đại học 09, đại học 18, Cao đẳng 01
trung cấp 02, khác 02. Trung tâm DS - KHHGDD huyện, thị, thành phố: Có 27
Trung tâm DS - KHHGDD với 167 cán bộ. Trong đó: Trình độ trên đại học 05,
đại học 82, Cao đẳng 09, trung cấp 71. Cán bộ chuyên trách cấp Xã, Phường
Thị trấn 635 cán bộ, trong đó: Trình độ trên đại học 0, đại học 08, cao đẳng 25
trung cấp, 480 khác 122. Với 7435 Cộng tác viên (thôn , Bản).
Thực trạng tỷ số giới tính khi sinh tại Thanh hóa từ 2009 - 2015: Năm
2008 là 118, năm 2009: 119; năm 2010: 119; năm 2011: 120; năm 2012: 116;
9


năm 2014: 115; năm 2015: 115. (Nguồn báo cáo Chi cục DS – KHHGĐ tỉnh
Thanh Hóa ).
Từ các số liệu nêu trên cho thấy diễn biến tình hình chênh lệch giới tính
khi sinh của tỉnh Thanh Hóa đang ở mức báo động bởi: Xu hướng tăng cao, cao
nhất là năm 2011 (120/100). Biên độ dao động lớn, không ổn định nhất là trong
giai đoạn năm 2010 (116), 2011 (120) dao động dương 4. Biên độ giao động cấp
huyện cũng rất cao và bất ổn: Cao nhất là Thị xã Bỉm Sơn, năm 2010: 130/100,
năm 2011: 139/100. Thành phố Thanh Hóa, năm 2010:125/100, nam 2011:
133/100; Huyện Bá Thước, năm 2010: 128/100, năm 2011: 139/100.
Nguyên nhân của sự MCBGTKS ở tỉnh Thanh Hóa: Trước hết là đặc
điểm văn hóa với nhiều phong tục tập quán thấm đậm tư tưởng Nho giáo, đặc
biệt phong tục tập quán người dân tộc làm cho suy nghĩ: “ Trọng nam khinh nữ

”, “ Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô ”, con trai mới là con của mình, cịn con
gái là con người ta ”, mong có con trai để “ nối dõi tơng đường ”, để “ đảm trách
công việc thờ cúng tổ tiên ông bà ”, vẫn còn tiềm ẩn trong nhận thức của một số
gia đình mặc dầu những năm gần đây, cái nhìn về “con gái” trong xã hội đã cởi
mở hơn. Vẫn cịn nhiều gia đình mong sinh con trai để đảm đang những cơng
việc nặng nhọc của gia đình mà con gái không làm được như đi rừng, làm nương
làm rẫy, khuân vác … Chế độ an sinh xã hội chưa bảo đảm, đặc biệt là người già
không được hưởng lương hưu, dẫn đến tư tưởng coi con trai là chỗ dựa tốt hơn
về mặt tài chính; con trai mới là người chăm sóc cha mẹ khi về già, con gái khi
lấy chồng sẽ khơng sống trong gia đình mình, khơng thể thường xun đỡ đần
cho cha mẹ đẻ.
Nhận thức của người dân, đặc biệt là những cặp vợ chồng trong độ tuổi
sinh đẻ về pháp luật liên quan tới việc lựa chọn giới khi sinh và hậu quả do mất
cân bằng giới tính khi sinh gây ra cịn rất hạn chế, do chưa được tăng cường
tuyên truyền, giáo dục về bình đẳng giới, hậu quả của mất cân bằng giới tính khi
sinh đối với gia đình và xã hội. Do “tâm lý đám đông” và định kiến đối với
người khơng có con trai. Ngạn ngữ Việt Nam có câu “con gà tức nhau tiếng
gáy” ,câu ngạn ngữ này rất đúng với nguyên nhân từ “tâm lý đám đông” gây ra
MCBGTKS. Thực tế cho thấy, khơng ít người muốn sinh con trai và phải sinh
bằng được con trai do tác động của nguyên nhân này bởi chính sự kích động của
dịng họ, bạn bè, hàng xóm cũng như sự dồn ép của gia đình, dịng tộc. Đã có
khơng ít những bi kịch mà hậu quả của nó trút xuống đầu người phụ nữ không
10


sinh được con trai như: phải để chồng đi lấy vợ khác, chịu sự hắt hủi, bỏ mặc...
của chồng, gia đình nhà chồng và những trường hợp như vậy khơng phải là
hiếm, vẫn còn tồn tại, nhất là ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng
đồng bào dân tộc có tập tục lạc hậu.
Chưa thực hiện tốt pháp luật liên quan đến lựa chọn giới tính thai nhi. Một

số cán bộ y tế chưa có ý thức đầy đủ về tầm quan trọng của MCBGTKS , khơng
ít người làm dịch vụ siêu âm thai nhi cho rằng. Việc mình thơng báo cho người
khác biết được giới tính thai nhi là “làm phúc”, là đáp ứng được mong muốn,
nguyện vọng của người làm cha, làm mẹ mà không ý thức một cách sâu xa rằng,
chính thơng báo đó là biểu hiện việc họ vơ tình tiếp tay cho hành vi vô đạo đức
của những người làm cha, làm mẹ (trong trường hợp tước đoạt đi mạng sống của
thai nhi khơng có giới tính như mong muốn). Từ đó ảnh hưởng đến cơ cấu dân
số và sự phát triển bền vững của gia đình, của xã hội. Nên hầu hết những người
mẹ có thai đến khám và siêu âm đều được người cung cấp dịch vụ siêu âm cho
biết giới tính của thai nhi dưới nhiều hình thức khác nhau. Việc mong muốn có
con trai lại nhận được sự trợ giúp đắc lực bởi chính một số người làm cơng tác
y tế, đặc biệt là những bác sĩ sản khoa đã tạo điều kiện dễ dàng, thuận lợi cho
việc lựa chọn giới tính thai nhi của các bậc làm cha mẹ. Từ đó xuất hiện hành
vi phá thai lựa chọn giới tính tại một số cơ sở y tế.
Việc xác định đối tượng để truyền thơng về MCBGTKS cịn chưa đủ,
chưa thật đúng sẽ dẫn tới hệ lụy là các đối tượng này biết chưa nhiều, hiểu chưa
sâu về MCBGTKS do đó sẽ ảnh hưởng đến thái độ và hành vi của họ trong việc
tích cực tham gia làm giảm thiểu MCBGTKS. Các ấn phẩm văn hóa tuyên
truyền hướng dẫn việc lựa chọn giới tính thai nhi cũng như các cơ sở tư vấn về
sinh con trai hay con gái khá phổ biến, từ đó đã góp phần gia tăng tỷ số giới tính
khi sinh. Những chuẩn mực xã hội mới như gia đình quy mơ nhỏ cũng tạo áp lực
giảm sinh, vừa mong có ít con, lại mong muốn có con trai.
Đứng trước thực trạng MCBGTKS theo hướng “Thừa nam”, Tỉnh Thanh
Hóa được Trung Ương lựa chọn thí điểm để triển khai đề án “Can thiệp giảm
thiểu mất cân bằng GTKS”. Đề án được triển khai năm 2009.
Thanh Hóa đã xây dựng đề án giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh,
từ đó đã ý thức được những nguy cơ và tác hại của việc mất cân bằng giới tính
khi sinh. Cấp ủy và chính quyền các cấp quan tâm chỉ đạo ngành y tế và hệ
thống dân số nắm bắt sát sao tình hình diễn biến giới tính khi sinh, tìm hiểu xác
11



định nguyên nhân. Phối hợp cơ quan thông tin đại chúng tuyên truyền tác hại
việc lựa chọn giới tính, đồng thời lên án những hành vi tiếp tay cho việc lựa
chọn giới tính khi sinh, xây dựng và duy trì mơ hình can thiệp giảm thiểu
MCBGTKS, xây dựng CLB khơng sinh con thứ 3 lồng ghép tuyên truyền giới
và bình đẳng giới… bước đầu gặt hái được những kết quả tương đối khả quan,
thu hút được sự quan tâm và đồng thuận của xã hội. Tạo tiền đề quan trọng cho
việc triển khai đề án trong giai đoạn hiện nay. Các cơng việc đã triển khai để
giảm thiểu tình trạng MCBGTKS đó là:
Một là, cơng tác tham mưu chỉ đạo: Sở Y tế chỉ đạo Chi cục Dân số KHHGĐ tham mưu, trình HĐND, UBND tỉnh ban hành các văn bản triển khai
các hoạt động của Đề án: Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa có quyết định số:
2100/QĐ-UBND ngày 07/7/2009 phê duyệt đề án theo hướng dẫn của Tổng cục
Dân số. Năm 2011, HĐND tỉnh đã ra Nghị Quyết số 06/NQ-HĐND, ngày
20/9/2011 của HĐND tỉnh về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác DS - KHHGĐ
giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020. Năm 2013, Ban Thường vụ
Tỉnh ủy Chỉ thị số 16 CT/TU, ngày 10 tháng 9 năm 2013 của Ban Thường vụ
Tỉnh ủy về việc tiếp tục đẩy mạnh cơng tác dân số và kế hoạch hóa gia đình.
Chi cục DS – KHHGĐ đã: Thực hiện nghiên cứu, khảo sát thu thập thơng tin
về giới tính khi sinh, theo dõi về MCBGTKS. Qua hệ thống báo cáo Chi cục đã
báo cáo với sở Y tế và UBND tỉnh nắm bắt tình hình để sớm có ý kiến chỉ đạo.
Đã triển khai và đang duy trì Đề án MCBGTKS. Năm 2009 – 2010 đề án được
triển khai tại 276 xã, Thị trấn, thuộc 14 huyện, Thị, Thành phố được chọn triển
khai thí điểm đề án đó là: Thành phố Thanh Hóa, Huyện Đơng Sơn, Thiệu Hóa,
Triệu Sơn, n Định, Thọ Xuân, Cẩm Thủy, Quảng Xương, Tĩnh Gia, Hoằng
Hóa, Hà Trung, Nga Sơn Như Thanh và Huyện Như Xuân.
Năm 2011 duy trì hoạt động tại 140 xã của 14 huyện. Năm 2012 duy trì 140
xã và mở rộng thêm 95 xã mới có tỷ số giới tính khi sinh cao của 14 huyện.
Năm 2013 duy trì 235 xã. Năm 2014, năm 2015 chỉ còn 96 xã. 100% số xã, Thị
trấn thụ hưởng đề án đều. Tổ chức hội thảo, trao đổi chia sẻ thông tin và kinh

nghiệm giải quyết MCBGTKS. Phối hợp với các ban ngành đồn thể: Hội Nơng
dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên tuyên truyền vận động để mọi người dân
trong tỉnh nhận thức được thực trạng và tầm quan trọng của MCBGTKS đang
diễn ra trong cả nước và trong tỉnh Thanh Hóa.
12


Trung tâm DS – KHHGĐ các huyện, thị, thành phố đã tham mưu cho
UBND huyện củng cố Ban Chỉ đạo thực hiện công tác Dân số - KHHGĐ huyện
để chỉ đạo thực hiện đề án. Triển khai kế hoạch hoạt động từ tỉnh đến các xã,
phường, thị trấn và phối hợp với các đơn vị trong huyện để truyền thông về đề
án. Chỉ đạo, tổ chức thực hiện các hoạt động truyền thông tại địa bàn huyện và
xã.
Hai là, công tác thông tin, truyền thông: Công tác truyền thông được triển
khai rộng rãi đến lãnh đạo các cấp,các ban nghành, cán bộ làm công tác y tế, đặc
biệt là các cán bộ làm công tác DS - KHHGĐ từ tỉnh tới cơ sở, người dân và các
đối tượng gia đình có 2 con là gái, thanh niên nam/nữ chuẩn bị kết hơn, các cặp
vợ chồng có vợ 15 - 49 tuổi. Với nội dung về thực trạng, nguyên nhân và hậu
quả của MCBGTKS thông qua các kênh như: Hội nghị, hội thảo; thông tin,
tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng như: Báo Thanh Hóa, Đài
Phát thanh và Truyền hình tỉnh; nói chuyện chun đề, tổ chức giao lưu văn
nghệ lồng ghép các thông điệp truyền thông tại một số xã. Thực hiện truyền
thông trên hệ thống truyền thanh xã, trung bình mỗi tháng 2 - 3 lần. Tổng 12.600
lượt phát thanh. Nhân bản tài liệu truyền thông và cấp phát đến cơ sở: 8950 tài
liệu. Sao đĩa truyền thông về MCBGTKS do Tổng cục DS - KHHGĐ cung cấp.
Nhân bản tờ rơi về MCBGTKS do Tổng cục DS - KHHGĐ cung cấp. In tài liệu
hướng dẫn thành lập Câu lạc bộ MCBGTKS và các nội dung sinh hoạt thường
kỳ của Câu lạc bộ.
Ba là, công tác tập huấn: Hàng năm Chi cục DS - KHHGĐ phối hợp với
Trung tâm DS - KHHGĐ các huyện/thị/thành phố tổ chức tập huấn cho lãnh đạo

cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể, cán bộ y tế và cộng tác viên dân
số về kiến thức, kỹ năng truyền thông, tư vấn; Kỹ năng xây dựng điều hành Câu
lạc bộ và mạng lưới truyền thông xã để đáp ứng nhu cầu cần được thơng tin, tư
vấn về MCBGTKS và chăm sóc SKSS/KHHGĐ cho Vị thành niên và Thanh
niên chuẩn bị kết hôn, nhằm cung cấp kiến thức về MCBGTKS và chăm sóc
SKSS/KHHGĐ.
Bốn là, cơng tác giám sát hỗ trợ: Hàng năm Chi cục DS - KHHGĐ thực
hiện giám sát định kỳ và giám sát đột xuất các hoạt động triển khai tại các cấp.
Tổ chức các đoàn thanh tra, kiểm tra liên ngành định kỳ hoặc đột xuất cơng tác
bình đẳng giới và kiểm sốt mất cân bằng giới tính khi sinh; Kiểm tra các cơ sở
13


siêu âm, nạo hút thai, các nhà sách.... Qua kiểm tra không phát hiện được cơ sở
y tế và nhà sách nào vi phạm về lựa chọn giới tính thai nhi.
Năm là, thành lập câu lạc bộ mất cân bằng giới tính khi sinh: Mỗi xã
thành lập 1 câu lạc bộ MCBGTKS (Chủ tịch UBND xã quyết định). Bộ khung
của câu lạc bộ là: Bí thư chi đồn các thơn/bản, Cộng tác viên dân số, Y tế
thôn/bản, Chi hội trưởng Hội phụ nữ thôn/bản. Đối tượng sinh hoạt là các gia
đình sinh con một bề là gái, vị thành niên, thanh niên và những ai quan tâm đến
chương trình MCBGTKS và chăm sóc SKSS/KHHGĐ; Duy trì sinh hoạt câu lạc
bộ mỗi quý 1 lần. Các thành viên được trang bị đầy đủ những kiến thức về giới,
giới tính, nguyên nhân, hậu quả của việc MCBGTKS, các nội dung về
CSSK/KHHGĐ, chăm sóc ni dạy con tốt.
Sáu là, thành lập phịng tư vấn tại trạm y tế xã, phường: Tại trạm Y tế
xã, phường phòng tư vấn SKSS/ KHHGĐ kết hợp truyền thông về nguyên nhân
và hậu quả của MCBGTKS thực hiện thường xuyên cho các đối tượng9
Tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế trong việc thực hiện can thiệp
mât cân bằng giới tính khi sinh: MCBGTKS là vấn đề mới, nên nhận thức của
người dân còn nhiều hạn chế, chưa quan tâm đến hậu quả của MCBGTKS. Kinh

phí cho hoạt động của đề án còn hạn hẹp nên các hoạt động chưa phủ khắp tất cả
các địa bàn trong tỉnh. Có văn bản quy phạm pháp luật nhưng rất khó thể chế và
thực thi ở địa phương, cần có sự phối hợp tích cực của các cơ quan kiểm tra,
thanh tra, điều tra (ví dụ cơng an, tư pháp…). Chưa có chính sách cụ thể và
nguồn kinh phí để thực hiện các hoạt động khuyến khích các gia đình chỉ có 2
con gái, hoặc hỗ trợ, tạo điều kiện để các em học sinh gái trong các gia đình chỉ
có 2 con gái thuận lợi hơn trong việc học tập, lao động và thu nhập; Chưa có chế
độ an sinh cho người cao tuổi khơng có lương hưu sinh 2 con là gái...Thay đổi
về quan niệm về “con trai nối dõi tông đường…” là một cuộc cánh mạng tư
tưởng, cần có thời gian và giải pháp phong phú, thích hợp…
Ngun nhân của hạn chế đó là:
Thứ nhất: Mơ hình câu lạc bộ giảm thiểu MCBGTKS triển khai lần đầu ở
tỉnh Thanh Hóa nên chưa có sự chỉ đạo tích cực của chính quyền các cấp do đó
việc triển khai các hoạt động của đề án đơi khi cịn gặp nhiều khó khăn.

9

Chi cục DS – KHHGĐ – Báo cáo hoạt động đề án mất cân bằng giới tính khi sinh các năm 2011, 2012, 2013,
2014

14


Thứ hai: Nhận thức của người dân về MCBGTKS còn hạn chế do đó việc
triển khai các hoạt động cũng như công tác truyền thông, sinh hoạt của các Câu
lạc bộ cịn gặp khó khăn.
Thứ ba: Kinh phí cho các hoạt động của đề án ít. Hệ thống loa phát thanh
ở một số cơ sở đã hỏng do đó cơng tác tuyên truyền chưa được thường xuyên,
liên tục.
2.4. Các giải pháp thực hiện giảm thiểu MCBGTKS tại Thanh Hóa giai

đoạn 2016 – 2021.
2.4.1. Các nhóm giải pháp chung
Một là, tăng cường cung cấp thông tin, giáo dục, truyền thông về giới và
mất cân bằng giới tính khi sinh cho các nhóm đối tượng, trong đó chú ý đến các
nhóm đối tượng chính các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ; những người
cung cấp dịch vụ siêu âm và dịch vụ nạo phá thai.
Hai là, thực thi và hoàn thiện hệ thống pháp luật về các nội dung liên
quan đến giới tính khi sinh.
Ba là, Khuyến khích, hỗ trợ phụ nữ, trẻ em gái, gia đình sinh con một bề
là gái.
2.4.2.Các giải pháp cụ thể cần thực hiện
2.4.2.1. Nhóm giải pháp về thông tin, giáo dục, truyền thông:
Tăng cường cung cấp thông tin, giáo dục, truyền thông về giới và mất cân
bằng giới tính khi sinh cho người dân, trước hết là các cặp vợ chồng trong độ
tuổi sinh đẻ; những người cung cấp dịch vụ siêu âm và dịch vụ nạo phá thai;
những người có uy tín trong cộng đồng nhằm hạn chế các hành vi không phù
hợp với việc sinh đẻ theo quy luật tự nhiên.
Một là, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhằm mục
đích làm cho mọi người hiểu được ý nghĩa, nội dung hoạt động của việc
GTMCBGTKS; nâng cao kiến thức tuyên truyền về giới và bình đẳng giới,
những tác hại của chênh lệch giới tính khi sinh. Giúp các thai phụ và gia đình tự
giác khơng lựa chọn giới tính thai nhi. Nội dung xây dựng tin, bài, phóng sự,
chuyên mục... trên báo, đài, địa phương về mục đích, ý nghĩa, các nội dung, kiến
thức về MCBGTKS; Các thông tin cần thiết cho triển khai các hoạt động, kết
quả triển khai thực hiện các mục tiêu, các văn bản quy định liên quan đến giới
và giới tính khi sinh; bình đẳng giới; Luật Phịng chống bạo lực gia đình; NĐ
114/CP... Đồng thời nêu gương những gia đình tiêu biểu thực hiện tốt chính sách
15



dân số, đả phá những phong tục tập quán lạc hậu: Trọng nam khinh nữ, lựa chọn
giới tính khi sinh dẫn đến mất cân bằng giới tính khi sinh. Nhằm hướng tới tất cả
các đối tượng quần chúng nhân dân rộng rãi.
Hai là, tổ chức các lớp tập huấn, nói chuyện chuyên đề, hội thảo về giảm
thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh.. cho lãnh đạo chính quyền, đồn thể,
những người có uy tín trong cộng đồng xã hội, nhằm nâng cao kiến thức mới và
lợi ích của đề án. Vận động lãnh đạo các cấp và cộng đồng ủng hộ chương trình
giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh. Giới thiệu ý nghĩa, tầm quan trọng,
mục tiêu và lợi ích của đề án; các văn bản quy định liên quan đến giới và giới
tính khi sinh; các yếu tố ảnh hưởng giới tính khi sinh và hậu quả của mất cân
bằng giới tính khi sinh.
Ba là, tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề, cho cán bộ y tế, cán bộ DSKHHGĐ tư vấn trực tiếp cho nhân dân tại các xã, phường, thị trấn. Đặc biệt chú
ý đến phụ nữ mang thai và gia đình của họ trên địa bàn triển khai đề án. Cung
cấp kiến thức về giới và giới tính khi sinh, các quy định về nghiêm cấm lựa chọn
giới tính thai nhi tại cộng đồng khu dân cư để họ tự giác tham gia đề án. Tuyên
truyền, tư vấn, vận động phụ nữ mang thai và gia đình tự giác đăng ký khơng
lựa chọn giới tính thai nhi. Tạo sự đồng thuận trong xã hội. Triển khai các chỉ
thị, nghị quyết, nghị định, quy định, hương ước quy ước, cam kết thực hiện tốt
cơng tác DS-KHHGĐ. Tập trung các nội dung có liên quan đến mất cân bằng
giới tính khi sinh và giải đáp các thắc mắc cho người dân.
Bốn là, tổ chức lồng ghép tuyên truyền về giới tính khi sinh với các hoạt
động thường xuyên của ban, ngành, đoàn thể. Tạo mối quan hệ mật thiết liên kết
để tuyên truyền và triển khai thực hiện quy định của pháp luật về giới và bình
đẳng giới trong các cơ quan và tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội và cộng đồng.
Qua đó nâng cao sự hiểu biết, vận động cộng đồng ủng hộ chương trình giảm
thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh. Cử báo cáo viên tham dự nói chuyện
chuyên đề về giới và bình đẳng giới, tác hại của việc lựa chọn giới tính thai nhi,
các quy định của pháp luật về nghiêm cấm lựa chọn giới tính khi sinh tại các
cuộc hội họp của chính quyền, các đồn thể… nhằm giới thiệu về đề án cho
quảng đại quần chúng.

Năm là, biên soạn, nhân bản và cung cấp các sản phẩm, tài liệu truyền
thông, pano...Cung cấp cho đối tượng kiến thức về giới và giới tính khi sinh
thơng qua ấn phẩm truyền thông, pano... Nội dung biên soạn phù hợp với nội
16


dung tuyên truyền, sản xuất và cấp cho đối tượng, các sản phẩm gồm: (1) Tài
liệu hướng dẫn tư vấn, tuyên truyền dùng cho nhân viên tuyên truyền cấp cơ sở;
các quy định của pháp luật về nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi. (2) Tờ rơi
tuyên truyền về giới và giới tính khi sinh. (3) Băng/đĩa hình tun truyền về hậu
quả của mất cân bằng giới tính khi sinh, các quy định về nghiêm cấm lựa chọn
giới tính khi sinh, các hoạt động của đề án. (4) Pano, áp phích có nội dung tập
trung nêu lên các quy định của pháp luật nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi
và tác hại của việc lựa chọn giới tính khi sinh.
Sáu là, tổ chức cung cấp thông tin cho công chức Tư pháp xã, phường;
Nam, nữ thanh niên đến đăng ký kết hôn tại nơi đăng ký kết hôn. Giúp cho nam,
nữ thanh niên chuẩn bị lập gia đình hiểu được tác hại của việc lựa chọn giới tính
khi sinh và các quy định của pháp luật về nghiêm cấm hành vi lựa chọn giới tính
thai nhi. Nội dung cung cấp kiến thức về giới và bình đẳng giới, những tác hại
của việc chênh lệch giới tính khi sinh, các quy định nghiêm cấm việc lựa chọn
giới tính thai nhi.
Bảy là, tuyển chọn cán bộ chuyên môn và tổ chức lớp tập huấn cán bộ
tuyên truyền tư vấn, quản lý đối tượng, tuyến huyện, xã có khả năng truyền
thơng, nhiệt tình, tâm huyết cung cấp kiến thức về giới và bình đẳng giới, các
quy định của pháp luật về nghiêm cấm lựa chọn giới tính khi sinh.
Tám là, tổ chức lớp tập huấn cán bộ tuyên truyền, tư vấn, quản lý đối
tượng, tại xã. Nâng cao năng lực tuyên truyền, tư vấn, quản lý đối tượng cho cán
bộ chuyên trách và cộng tác viên dân số xã, phường.
2.4.2.2. Nhóm giải pháp về thực thi pháp luật và hoàn thiện hệ thống
văn bản về các nội dung liên quan đến giới tính khi sinh

Một là, rà sốt các văn bản quy định có liên quan đến giới, chọn lựa giới
tính khi sinh, nạo phá thai, siêu âm...: Rà soát và tham mưu ban hành các văn
bản qui phạm pháp luật quy định các vấn đề liên quan việc chọn lựa giới tính khi
sinh, nạo phá thai, siêu âm...Rà sốt, xây dựng, ban hành các văn bản quy định
của địa phương về việc chọn lựa giới tính khi sinh, nạo phá thai, siêu âm... Ban
quản lý dự án tỉnh tham mưu với UBND tỉnh phối hợp với Sở Tư pháp và các
ngành có liên quan, tổ chức rà sốt các văn bản quy định của địa phương về giới
và giới tính khi sinh, đề xuất với các cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, ban hành
các văn bản liên quan phù hợp với điều kiện cụ thể, của từng giai đoạn. Sau đó
tổ chức triển khai, thực hiện có hiệu quả, có sơ kết, tổng kết cụ thể.
17


Hai là, hệ thống hóa và in thành tài liệu tuyên truyền vận động rộng rãi
đến mọi tầng lớp, nhất là ông, bà, cha, mẹ và các thanh niên chuẩn bị kết hơn.
Các cơ sở có liên quan đến lựa chọn giới tính khi sinh như: Nạo phá thai, siêu
âm... hướng dẫn thực thi các quy định của pháp luật trong lựa chọn giới tính khi
sinh.
Ba là, phổ biến các văn bản quy định nghiêm cấm lựa chọn giới tính khi
sinh cho lãnh đạo các cơ sở có khả năng cung cấp dịch vụ siêu âm, nạo phá thai
và cán bộ trực tiếp tham gia cung cấp dịch vụ này. Phổ biến những quy định
nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi, nâng cao ý thức trách nhiệm cho các tổ
chức, cá nhân trong việc thực hiện nghiêm những quy định của pháp luật.
Bốn là, thanh tra, kiểm tra, giám sát định kỳ và đột xuất các quy định của
pháp luật về thực hiện nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi tại các cơ sở y tế
có dịch vụ siêu âm, nạo phá thai...
Năm là, thanh tra, kiểm tra, giám sát các cơ sở sản xuất, kinh doanh các
loại sách, báo, văn hóa phẩm thực hiện các quy định về giới và giới tính khi sinh
của pháp luật.
2.4.2.3. Nhóm giải pháp về khuyến khích, hỗ trợ phụ nữ và trẻ em gái

trong học tập, chăm sóc sức khỏe sinh sản, phát triển sản xuất
Một là, tổ chức hội thảo, liên hoan, giao lưu họp mặt các cấp về xây dựng
mơ hình gia đình sinh con một bề là gái không sinh con thứ 3, đả phá tư tưởng
trọng nam khinh nữ.
Hai là, tổ chức hội thảo chia sẻ kinh nghiệm học tập, rèn luyện của các trẻ
em gái trong gia đình có 2 con là gái với thành tích học tập giỏi năm cuối trung
học phổ thông và trung học cơ sở giữa các trường trong huyện, tỉnh. Động viên
gia đình có 2 con là gái quan tâm tạo điều kiện và giúp các trẻ em gái đạt thành
tích tốt trong học tập.
3. KẾT LUẬN
Chúng ta có thể chủ động tác động, điều chỉnh tỷ số giới tính khi sinh cho
phù hợp, tuy nhiên không thể giải quyết ngay trong một thời gian ngắn, mà địi
hỏi cần phải có thời gian, phải tiến hành đồng bộ các giải pháp hiệu quả. Làm
giảm được tỷ số giới tính khi sinh cũng có nghĩa là tránh được hàng nghìn nam
thanh niên ở tuổi trưởng thành không lấy được vợ, giảm được tình trạng bn
bán phụ nữ và tội phạm tình dục, tăng cường bình đẳng giới, giảm được những
bất hạnh cho nam thanh niên và người thân của họ, tăng cường hạnh phúc và sự
18


phát triển bền vững của gia đình, tạo ra cơ cấu dân số hợp lí, bảo đảm nguồn lực
góp phần quan trọng vào sự phát triển Kinh tế - Xã hội ở địa phương.
Để nâng cao chất lượng dân số, giảm thiểu tình trạng MCBGTKS chúng
ta cần phải thực hiện truyền thông vận động thường xuyên, liên tục và lâu dài
cũng như tư vấn tiền hôn nhân là việc làm thiết thực mang tính bền vững lâu dài.
Đề tài can thiệp giảm thiểu MCBGTKS khi đưa vào thực hiện đã được nhân dân
nhiệt tình hưởng ứng. Giảm thiểu tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh trực
tiếp đóng góp vào việc giảm thiểu các hậu quả về an ninh và trật tự xã hội, các
tai tệ nạn liên quan đến giới tính, đến thuần phong mỹ tục do thừa nam thiếu nữ
gây ra. Cải thiện bình đẳng giới góp phần phát triển kinh tế - xã hội một cách

bền vững. Có thể khẳng định, đây là một vấn đề rất thiết thực và quan trọng. Vì
vậy việc triển khai các giải pháp can thiệp giảm thiểu MCBGTKS ở Tỉnh Thanh
Hóa là hết sức cần thiết. “ Giải pháp giảm thiểu MCBGTKS tại Tỉnh Thanh
Hóa, giai đoạn 2016 - 2021” được thực hiện sẽ tạo chuyển biến mạnh mẽ và
đồng bộ, đột phá về chất lượng và hiệu quả, đảm bảo cho công tác DS KHHGĐ ổn định và bền vững. Đáp ứng nhu cầu phát triển chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo. Xây dựng tỉnh Thanh hóa thành tỉnh kiểu mẩu
góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, dân chủ, công bằng,
văn minh./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế (2009), Đề án can thiệp giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi
sinh giai đoạn 2009 - 2014.
2. Bộ Y tế ( 2011), Đề án can thiệp giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi
sinh giai đoạn 2015 - 2020.
3. Bộ Y tế (2011), Chiến lược phát triển Dân số và sức khỏe sinh sản Việt
Nam giai đoạn 2011 – 2020.
4. Dương Quốc Trọng (2013), Tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam các đặc
điểm cơ bản và giải pháp, Tổng cục DS - KHHGĐ.
5.Nghị Quyết số 06/NQ-HĐND, ngày 20/9/2011 của HĐND tỉnh về việc
tiếp tục đẩy mạnh công tác DS - KHHGĐ giai đoạn 2011-2015, định hướng đến
năm 2020.
6. Tổng cục Thống kê - Bộ Kế hoạch và Đầu tư ( 6/2011), Tỷ số giới tính
khi sinh ở Việt Nam: các bằng chứng mới về thực trạng, xu hướng và những
khác biệt, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
19


7. Trung tâm DS - KHHGĐ các huyện, thành phố - Báo cáo thống kê về số
sinh, Trung tâm dân số các huyện, thành phố 2012, 2013,2014.
8. UNFPA ( 8/2009), Những biến đổi gần đây về TSGTKS ở Việt Nam Tổng quan các bằng các bằng chứng, Hà Nội.
9. UNFPA ( 8/2010), Mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam - Bằng

chứng từ tổng điều tra Dân số và nhà ở năm 2009, Hà Nội.
10. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XVII nhiệm kỳ
2015 – 2020 đã ghi rõ: duy trì mức sinh thay thế, giảm tỷ lệ mất cân bằng giới
tính khi sinh.
11.Nghị Quyết số 06/NQ-HĐND, ngày 20/9/2011 của HĐND tỉnh về việc
tiếp tục đẩy mạnh công tác DS - KHHGĐ giai đoạn 2011-2015, định hướng đến
năm 2020.
12.Chỉ thị số 16 CT/TU, ngày 10 tháng 9 năm 2013 của Ban Thường vụ
Tỉnh ủy về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình.

20



×