Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Hạch toán tiền lương tại Công ty cơ giới và xây lắp số 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.03 KB, 77 trang )

Thực trạng tổ chức kế toán tiền lương và các khoản trích theo lượng
tại công ty cơ giới và xây lắp số 12
LỜI MỞ ĐẦU
Nghị quyết đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam một lần nữa khẳng
định con đường đi lên CNXH ở nước ta, đó là tất yếu. Một trong những
nhiệm vụ đặt ra là: Bảo đảm quyền lợi cho đông đảo quần chúng lao
động. Quyền lợi ở đây trước hết và quan trọng là quyền lợi vật chất. Với
các chính sách của Nhà nước về tiền lương và các vấn đề liên quan là
quan trọng trong việc đạt được thắng lợi chung.
Đối với các doanh nghiệp trong điều kiện cạnh tranh gay gắt để tồn tại và
phát triển thì lương, thưởng và các vấn đề liên qua phải đáp ứng được yêu
cầu về nhân lực cần thiết và sử dụng có hiệu quả yếu tố này.
Những “ phản ứng” của người lao động như: trách nhiệm trong công việc,
mức độ gắn bó với doanh nghiệp, sáng kiến lao động...cũng gắn lièn với
chính sách trên.
Từ trên có thể thấy được vai trò quan trọng của tiền lương trong mối
quan hệ với ngưừi lao động, doanh nghiệp và Nhà nước
Chế độ kế toán mới theo quyết định số 1141 TC/QĐCĐKT đã góp phần
quan trọng trong quản lý kinh tế các cấp. Tuy nhiên trước những vấn đề
mới như: hội nhập kinh tế, vai trò của công nghệ thông tin, những bất
cập của chế độ kế toán hiện hành,...kế toán phải đáp ứng những yêu cầu
như: phải đảm bảo nguyên tắc so sánh các chỉ tiêu kinh tế đòi hỏi kế toán
Việt Nam phải tiếp cận với thông lệ quốc tế, giải quyế được mối quan hệ
giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị...Theo đó cũng cần phải hoàn
thiện theo các hướng trên.
Với những nhận thứ như trên nên tôi đã chọn đề tài: “Tổ chức hạch toán
tiền lương, các khoản trích theo lương trong các doanh nghiệp” cho bài
viết của mình.
Bài viết gồm 3 phần:
Phần I: Lý luận chung về hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương.
Phần II: Giới thiệu chung về Công ty cơ giới và xây lắp số 12


Phần III. Hạch toán tiền lương tại Công ty cơ giới và xây lắp số 12
1
PHẦN I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẠCH TOÁN LAO ĐỘNG, TIỀN LƯƠNG,
CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TIỀN LƯƠNG
1. Bản chất tiền lương
Lao động là hoạt động cơ bản nhất của loài người, là bản năng của
loài người. Lao động là hoạt động có ý thức, có mục đích của con người
tác động vào giới tự nhiên nhằm biến những vật chất trong tự nhiên thành
những vật phẩm có ích cho họ.
Nền sản xuất xã hội được cấu thành từ 3 yếu tố cơ bản là: tư liệu
lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Trong đó sức lao động là
yếu tố quan trọng nhất vì nó mang tính chủ động, quyết định. Các yếu tố
này không phải là vô cùng, vô tận mà muốn sử dung lại chúng, ta phải tái
tạo hay tái sản xuất lại. Với tư liệu lao động và đối tượng lao động thì
việc tái tạo lại nghĩa là mua sắm cái mới nhưng sức lao động gắn liền với
hoạt động sống của con người, là thể lực và trí lực của con người nên
muốn tái tạo lại phải thông qua hoạt động sống của con người khi tiêu
dùng một lượng vật chất, tinh thần nhất định. Phần vật chất, tinh thần này
do người sử dụng lao động trả cho người lao động dưới hình thức hiện vật
hay giá trị gọi là tiền lương.
Khái niệm tiền lương đã có từ lâu nhưng chỉ đến khi chủ nghĩa tư
bản ra đời nó mới trở thành một khái niệm mang tính phổ thông. Trong
chủ nghĩa tư bản, tiền lương được coi là giá cả của lao động. Chúng ta đã
biết giá trị hàng hoá do người lao động sáng tạo ra gồm: c + v + m.
C: giá trị tư liệu sản xuất chuyển vào hàng hoá.
V + M: giá trị mới do người công nhân sáng tạo ra.
Nhà tư bản trích một phần (v) để trả lương cho người công nhân
còn phần kia (m) nhà tư bản hưởng. Điều đó chứng tỏ rằng chính giai cấp

công nhân tạo ra quỹ tiêu dùng nuôi sống bản thân mình và cũng tạo ra
giá trị thặng dư đủ nuôi sống và làm giàu cho tư bản. Như vậy, trong chủ
2
nghĩa tư bản, tiền cong che dấu sự bóc lột của nhà tư bản đối với công
nhân làm thuê mà nhìn bề ngoài tỏ ra rất sòng phẳng.
Trong XHCN, tiền lương là một phần giá trị trong tổng sản phẩm
sã hội dùng để phân phát cho người lao động theo nguyên tắc làm theo
năng lực, hưởng theo lao đông. Tiền lương đã mang một ý nghĩa tích cức
tạo ra sự công bằng trong phân phối thu nhập quốc dân. Khái niệm tiền
lương trên đã thừa nhận ssức lao động là hàng hoá đặc biệt và đòi hỏi
phải trả cho người lao động theo sự đóng góp và hiệu quả cụ thể.
Tại Việt nam, thời bao cấp, một phần thu nhập quốc dân được tách
ra làm quỹ lương và phân phối cho người lao động theo kế hoạch. Tiền
lương chịu tác động của quy luật phát triển cân đối có kế hoạch, chịu sự
chi phối trực tiếp của Nhà nước thông qua các chế độ, chính sách lương.
Theo cơ chế này tiền của Nhà nước thông qua các chế dộ, chính sách
lương. Theo cơ chế này tiền lương không gắn chặt với số lượng và chất
lượng người lao động, không phản ánh đúng giá trị sức lao động vì vậy
không tạo ra động lực phát riển sản xuất. Từ khi tiến hành công cuộc đổi
mới, khi thị trường, giá cả, ... được thừa nhận một cách rộng rãi thì “tiền
lương là biểu hiện ằng tiền của giá trị sức lao đôngk, là giá cả của sức lao
động mà người cung ứng sức lao động tuân theo nguyên tắc cung, cầu,
giá cả thị trường và luật pháp hiện hành của Nhà nước. Tiền lương bây
giờ vừa là phạm trù của phân phối vừa là phạm trù trao đổi tiêu dùng.
Có rất nhiều quan niệm về tiền lương, đôi khi các quan niệm này
còn rất khác nhau. Hiểu một cách chung nhất thì tiền lương là biểu hiện
bằng tièn của hao phí lao động cần thiết mà doanh nghiệp trả cho người
lao động theo thời gian và khả năng công viềc mà người lao động đã cống
hiến cho doanh nghiệp. Như vậy, dưới những góc độ khác nhau thì nhìn
nhận tiền lương cũng khác.

Khi tiền lương danh nghĩa tăng chậm hơn chỉ số giá cả hàng hoá
tiêu dùng và dịch vụ thì giá trị sức lao động của người lao động giảm. Để
đảm bảo đầy đủ yêu cầu của tổ chức tiền lương cho người lao đông.
* Chức năng cơ bản của tiền lương:
+Chức năng tái sản xuất sức lao động: sức lao động là toàn bộ thể
lực và trí lực tạo nên cho con người khả năng sáng tạo ra của cải vật chất
3
và tinh thần cho xã hội. Sức lao động chỉ có thể duy trì và phát triển được
nhờ có tái sản xuất sức lao động. Tiền lương đảm bảo cung cấp cho người
lao động nguồn vật chất cần thiết để thực hiện quá trình tái sản xuất sức
lao động.
+ Chức năng đòn bẩy kinh tế: với người lao động, tiền lương là thu
nhập chính đảm bảo cho cuộc sống của họ. Vì vậy, đồng lương là động
lực thu hút họ, kích thích họ phát huy tối đa năng lực của mình, gắg trách
nhiệm của mình với doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp biết dùng công cụ
tiền lươgn một cách hợp lý thì sẽ phát huy được khả năng, trách nhiệm
của người lao động, tăng năng suất, hiệu quả lao động thúc đẩy sản xuất
phát triển.
+ Chức năng công cụ quản lý của Nhà nước: với doanh nghiệp lợi
nhuận là mục tiêu cao nhất vì vậy họ luôn tìm cách để giảm chi phí nhân
công, chi phí sản xuất đôi khi dẫn đến tình trạng bóc lột quá mức nhân
công. Ngược lại người lao động luôn muốn nhận được mức tiền công cao
nhất. Để đảm bảo cho quyền lợi của người lao động mà vẫn khuyến khích
sản xuất ở các doanh nghiệp. Nhà nước ban hành chính sách lao động,
tiền lương phù hợp buộc cả hai bên phải tuân theo.
+ Chức năng thước đo hao phí lao động xã hội: tiền lương là giá cả
sức lao động. Khi tiền lương trả cho người lao động ngang giá với giá trị
sức lao động mà họ bỏ ra để thực hiện công việc, người ta có thể xác định
hao phí lao động của toàn xã hội thông qua tổng quỹ lương rrả cho người
lao động.

+ Chức năng điều tiết lao đông: trình độ lao động, thù lao lao động,
nhu cầu sử dụng lao động ở các vùng, các nghành là không giống nhau.
Để tạo sự cân đối giữa các vùng, các nghành trong nền kinh tế quốc dân
nhằm khai thác tối đa các nguồn lực. Nhà nước phải điều tiết nguồn lao
động thông qua chế độ, chính sách tiền lương như mức lương tối thiểu,
bậc lương, phụ cấp ...
* Các nguyên tắc cơ bản trong tiền lương.
-Phải giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa lao động và tiền lương theo
nguyên tác ghi ở điều 55 trong bộ luật lao động của Việt Nam gồm:
4
+Mức lương được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa người lao
động và người sử dụng lao động.
+ Mức lương ở hợp đồng lao động phải lớn hơn mức lương tối
thiểu do Nhà nước quy định.
- Lương tối thiểu là mức lương thấp nhất do Nhà nước ấn định để đảm
bảo cho người lao động làm công việc giản đơn nhất trong điều kiện bình
thường ở trình độ bình thường bù đắp được sức lao động giản đơn và một
phần tích luỹ để tái sản xuất sức lao động mở rộng. (Điều 56 bộ luật lao
động)
+ Người lao động được hưởng theo năng suất lao động, chất lượng
lao động và kết quả lao động.
- Trong việc tín lương và trả lương phải tuân thủ các nguyên tắc đã ghi ở
điều 8-NĐ/1997/CP ngày 31/12/1994 và văn bản hướng dẫn kèm theo
công văn số 4320/LĐTBXH-TL ngày 29/12/1998.
+Thực hiện phân phối theo lao động, tiền lương phụ thuộc vào kết
quả cuối cùng của từng người, từng bộ phận, làm công việc gì, chức vụ gì
thì hưởng theo công việc chức vụ đó mà không phân biệt giới tính, dân
tộc, tôn giáo, tuổi tác, ... Trả lương ngang nhau cho những người lao động
như nhau về trình độ, khối lượng và chất lượng công việc.
+Chống phân phối bình quân, hệ số giãn cách giữa người có tiền

lương cao nhất và thấp nhất do doanh nghiệp lựa chọn, quyết định nhưng
tối đa không quá hai lần so với hệ số mức lương cao nhất theo quy định
tại NĐ26/CP ngày 23/5/1993 của chính phủ và thấp nhất bằng hệ số mức
lương quy định tại NĐ26/CP nói trên.
+Đảm bảo tốc độ tăng năng suất cao hơn tốc độ tăng của tiền
lương. Đó là nhân tố cơ bản trong sản xuất kinh doanh do tiền lương là
một bộ phận cấu thành nên giá thành sản phẩm và giá cả hàng hoá. Muốn
hạ giá thành sản phẩm, tăng tích luỹ thì không còn con đường nào khác là
đảm bảo tăng năng suất lao động nhanh hơn tốc độ tăng của tiền lương
bình quân. Vi phạm nguyên tắc này sẽ dẫn đến nguy cơ bị phá sản.
+Bảo đảm mối quan hệ hợp lý về tiền lương giữa những người lao
động khác nhau trong nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nguyên tắc này
5
giúp Nhà nước tạo sự cân đối giữa các nghành, khuyến khích sự phát
triển nhanh chóng nghành mũi nhịn đồng thời đảm bảo lợi ích của người
lao động làm việc trong các nghành khác nhau.
2.Vai trò của hạch toán tiền lương trong các doanh nghiệp
Tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động vì vậy
các doanh nghiệp có thể sử dụng tiền lương làm đòn bẩy kinh tế để
khuyến khích người lao động hăng say làm việc để tăng năng suất lao
động. Đối với doanh nghiệp, tiền lương là một bộ phận cấu thành nên giá
trị sản phẩm nên doanh nghiệp phải sử dụng tiền lương một cách có hiệu
quả để tiết kiệm chi phí tiền lương.
Quản lý tiền lương là một nội dung quan trọng trong công tác quản
lý kinh doanh của doanh nghiệp, nó là nhân tố giúp doanh nghiệp hoàn
thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất của mình. Hạch toán tốt
lao động tiền lương giúp doanh nghiệp hoạt động có nền nếp, thúc đẩy và
hiêu quả công tác. Đồng thời hạch toán tốt lao động, tiền lương, tính
lương đúng theo nguyên tắc phân phối theo lao động, quản lý tốt quỹ
lương, đảm bảo trả lương theo đúng chế độ, phân bổ đúng chi phí nhân

công vào đúng đối tượng.
3.Yêu cầu quản lý lao động tiền lương
Để hạch toán tốt lao động tiền lương, doanh nghiệp phải đảm bảo các yêu cầu
sau:
- Doanh nghiệp phải xây dựng được định mức lao động, lao động
định biên cho từng công việc, từng khâu từ đó có kế hoạch tuyển dụng,
quản lý số lao động đó có hiệu quả.
- Phải ban hành chế độ, kỷ luật lao động buộc người lao động phải
tuân theo, đưa hoạt động của công ty vào nền nếp.
- Phải xây dựng được đơn giá tiền lương cho doanh nghiệp của
mình, đơn giá tiền lương này đã phải được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền xét duyệt.
- Phải xác định được hình thức trả lương hợp lý.
- Phải luôn quán triệt chính sách lao động, tiền lương của Nhà
6
nước. Tất cả các khâu trong qúa trình quản lý, hạch toán lao động, tiền
lương đều phải dựa vào các chế độ, chính sách Nhà nước ban hành.
4. Nhiệm vụ của hạch toán lao động và tiền lương trong doanh
nghiệp
Chính vì những vai trò to lớn trên của hạch toán lao động tiền lương mà
hạch toán lao động tiền lương có những nhiệm vụ sau:
+ Tính toán chính xác, kịp thời, đúng chế độ các khoản tiền lương,
tiền thưởng, các khoản phụ cấp, trợ cấp, ... cho người lao động, phản ánh
kịp thời đầy đủ, chính xác thanh toán các khoản tiền cho người lao động
tình hình chấp hành các chế độ do Nhà nước ban hành.
+ Tính toán phân bổ đúng đối tượng các khoản tiền lương, trích
theo lương vào chi phí sản xuất kinh doanh. Hướng dẫn, kiểm tra các bộ
phận, đơn vị trong doanh nghiệp, thực hiện đầy đủ đúng chế độ ghi chép
ban đầu về lao động tiền lương, các khoản trích theo lương; mở sổ, thẻ kế
toán hạch toán lao động tiền lương đúng chế độ, phương pháp.

+ Lập báo cáo về lao động, tiền lương và các khoản trích theo
lương thuộc trách nhiệm của kế toán.
+ Phân tích tình hình quản lý, sử dụng thời gian lao động, chi phí
nhân công, năng suất lao động, quỹ lương, các quỹ khác, đề xuất các biện
pháp nhằm khai thác, sử dụng triệt để, có hiệu quả mọi tiềm năng lao
động sẵn có trong doanh nghiệp, chống hành vi vô trách nhiệm, vi phạm
kỷ luật lao động, chế độ.
Ngoài tiền lương, người lao động còn được hưởng các khoản thu
nhập khác như phụ cấp lương, tiền thưởng.
5. Phụ cấp lương
Phụ cấp lương là khoản mà doanh nghiệp trả thêm cho người lao động
khi họ làm việc ở những điều kiện đặc biệt. Theo điều 4 thông tư liên bộ
số 20/LB-TT ngày 2/6/1993 của liên bộ lao động – thương binh và xã hội
– tài chính thì có 7 loại phụ cấp sau:
- Phụ cấp khu vực: áp dụng đối với những nơi xa xôi, hẻo lánh, có
nhiều khó khăn và điều kiện khí hậu khắc nghiệt. Có các mức phụ cấp với
7
hệ số: 0,1; 0,2; 0,3; 0,4; 0,5; 0,6; 0,7 và 1,0 so với mức lương tối thiểu.
- Phụ cấp độc hại, nguy hiểm chưa xác định trong mức lương: khi
người lao động làm việc trong điều kiện độc hại, nguy hiểm.
- Phụ cấp trách nhiệm cao hoặc phải kiêm nhiệm công tác quản lý
không thuộc chức vụ lãnh đạo.
-Phụ cấp làm đêm: áp dụng đối với công nhân viên chức làm việc
ca ba (từ 22h đến 6h sáng).
Phụ cấp này gồm hai mức:
30% tiền lương cấp bậc hoặc chức vụ đối với công việc không
thường xuyên làm vào ban đêm.
40% tiền lương cấp bậc hoặc chức vụ đối với công việc thường
xuyên làm theo ca.
- Phụ cấp thu hút: áp dụng đối với công nhân viên chức đến làm ở

những vùng kinh tế mới, cơ sở kinh tế và các đảo xa đất liền có điều kiện
sinh hoạt đặc biệt khó khăn, chưa có cơ sở hạ tầng.
- Phụ cấp đắt đỏ: áp dụng đối với những nơi có chỉ số giá cả sinh
hoạt (lương thực, thực phẩm, dịch vụ) cao hơn chỉ số giá sinh hoạt bình
quân chung cả nước từ 10% trở lên.
- Phụ cấp lưu động: áp dụng đối với những nghề hoặc công việc
phải thường xuyên thay đổi địa điểm làm việc hoặc ở nơi ở.
6. Tiền thưởng
Tiền thưởng thực chất là một khoản tiền lương bổ sung nhằm quán triệt
đầy đủ hơn nguyên tắc phân phối theo lao động. Trong cơ cấu thu nhập
của người lao động thì tiền lương có tính ổn định thường xuyên còn tiền
lương chỉ là phần thêm và phụ thuộc vào chỉ tiêu tiền thưởng, vào kết quả
sản xuất kinh doanh.
Các khoản tiền thưởng gồm:
+Thưởng thường xuyên (có tính chất lương): thực chất là một phần
quỹ lương được tách ra để trả cho người lao động dưới hình thức tiền
lương theo một tiêu chí nhất định.
8
+Tiền thưởng về chất lượng sản phẩm: áp dụng khi nhân công có
sáng kiến làm nâng cao chất lượng sản phẩm. Khoản tiền thưởng này có
tính trên cơ sở tỷ lệ chung không quá 40% phân chênh lệch giá giữa sản
phẩm có phẩm chất coa với sản phẩm có phẩm chất thấp.
+Tiền thưởng về tiết kiệm vật tư: áp dụng khi người lao động có
sáng kiến, biện pháp và làm việc tiết kiệm được vật tư, hàng hóa. Khoản
tiền thưởng này tính trên cơ sở giá trị vật tư người lao động tiết kiệm
được so với định mức và tỷ lệ quy định không quá 40%.
+ Tiền thưởng không thường xuyên: khoản tiền thưởng này không
thuộc quỹ lương mà được trích từ quỹ khen thưởng, khoản tiền thưởng
này thường được trả cho người lao động dưới hình thức phân loại người
lao động trong một kỳ (quý, nửa năm, một năm), khoản tiền thưởng này

không thuộc chi phí của doanh nghiệp nhưng thuộc thu nhập của người
lao động
Thưởng một cách đúng đắn, hợp lý là cần thiết, nó như một đòn
bẩy kinh tế kích thích tăng năng suất và tiết kiệm chi phí. Vì vậy, chế độ
tiền thưởng cần tôn trọng các nguyên tắc sau:
* Phải xuất phát từ đặc điểm, yêu cầu, tầm quan trọng của sản xuất
hay công việc mà áp dụng hình thức hay chế độ thưởng thích hợp.
* Phải đảm bảo quan hệ giữa chỉ tiêu số lượng và chất lượng.
* Đảm bảo mức thưởng hợp lý công bằng với người lao động.
* Tiền thưởng không vượt quá số tiền làm lợi.
7. Chế độ và hình thức trả lương
a. Chế độ trả lương
Để quản lý lao động tiền lương Nhà nước quy định chế dộ tiền lương
gồm hai loại là tiền lương cấp bậc và tiền lương chức vụ.
- Chế độ tiền lương cấp bậc.
Chế độ tiền lương cấp bậc thường áp dụng tính lương cho công
nhân được xây dựng trên cơ sở lượng và chất lượng lao động. Mỗi loại
công việc có yêu cầu, điều kiện lao động khác nhau. ... Tiền lương cấp
bậc thể hiện sự khác biệt của các công việc. Như vậy, tiền lương cấp bậc
9
giúp điều chỉnh tiền lương giữa các nghành nghề một cách hợp lý giảm đi
sự bình quân trong lao động.
- Chế độ tiền lương cấp bậc gồm 3 cấp độ sau:
+ Thang lương: là bảng xác định quan hệ tỷ lệ về tiền lương giữa
các công nhân cùng nghề, hoặc nhóm nghề giống nhau theo trình độ cấp
bậc của họ. Mỗi thang lương có các bậc lương và hệ số lương tương ứng.
Hệ số này do Nhà nước quy định.
+ Mức lương: là số lượng tiền tệ trả cho công nhân lao động trong
một đơn vị thời gian phù hợp với các bậc trong thang lương, trong đó
mức lương thấp nhất cũng phải lớn hơn hoặc bằng mức lương tối thiểu

quy định.
+ Tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật: Là văn bản quy định về mức độ
phức tạp công việc, tay nghề của công nhân ở mức độ nào đó. Tiêu chuẩn
này xác định mức độ lành nghề của công nhân và làm căn cứ để xác định
mức lương.
Tuy nhiên, chế độ lương cấp bậc chỉ phù hợp với công nhân trực tiếp
sản xuất.
- Chế độ tiền lương theo chức vụ.
Chế độ này áp dụng với nhân viên hưởng lương thời gian và được
thực hiện thông qua bảng lương do Nhà nước ban hành.
Hình thức trả lương
Tiền lương của người lao đông do hai bên thoả thuận trong hợp
đồng lao động. Nó cũng được trả theo năng suất, chất lượng và hiệu quả
lao động. Có các hình thức trả lương sau:
Trả lương theo thời gian.
Trả lương theo sản phẩm.
Hình thức khoán thu nhập
Trong đó hai hình thức đầu là hay được dùng hơn cả. Nó được kết hợp
hoặc không trong việc trả lương sao cho phù hợp với đặc điểm sản xuất,
đặc biệt là tạo sự công bằng trong phân phối thu nhập.
10
Hình thức trả lương theo thời gian: gồm hai loại:
Trả lương theo thời gian đơn giản.
Trả lương theo thời gian có thưởng.
Hình thức trả lương theo sản phẩm bao gồm 6 loại:
+ Trả lương theo sản phẩm trực tiếp cá nhân.
+ Trả lương theo sản phẩm tập thể.
+ Trả lương theo sản phẩm gián tiếp.
+ Trả lương theo sản phẩm có thưởng.
+ Trả lương theo sản phẩm luỹ tiến.

+ Trả lương khoán.
* Hình thức trả lương theo thời gian.
Đây là hình thức căn cứ vào thời gian lao động thực tế và mức lương cấp
bậc (trình độ thành thạo, điều kiện làm việc, mức độ trách nhiệm của
người lao động)
+ Trả lương theo thời gian đơn giản.
Đây là hình thức trả lương cho người lao động căn cứ vào bậc
lương và thời gian lao động thực tế mà không xét đến thái độ làm việc.
Chế độ trả lương này chỉ áp dụng cho người lao động không thể
định mức và tính toán chặt chẽ được đơn giá tiền lương, hoặc công việc
của người lao động chỉ đòi hỏi đảm bảo chắt lượng sản phẩm mà không
đòi hỏi năng suất lao động. Có các hình thức cụ thể sau:
* Lương tháng: được quy định sẵn với từng bậc lương trong các
thang lương. Lương tháng thường được dùng để trả lương cho công nhân
viên làm công tác quản lý hành chính, quản lý kinh tế và các nghành hoạt
động ít mang tính sản xuất.
Tiền lương = Lương cấp bậc công việc + phụ cấp (nếu có).
* Lương ngày
Đối tượng chủ yếu như
lương tháng. Một ưu
= Lương cấp
bậc công việc
x Hệ số
phụ cấp
x Số ngày
làm việc
11
điểm của lương ngày là
nó khuyến khích người
lao động đi làm đều.

theo ngày (nếu có) thực tế
Hoặc tính theo công thức:
Lương
ngày
=
Lương tháng
Số ngày làm việc theo chế độ trong
tháng
x
Số ngày
làm việc
thực tế
Trong doanh nghiệp, lương ngày dùng để tính lương cho công nhân sản
xuất trong thời gian nghỉ việc tròn ngày vì lý do thuộc về doanh nghiệp.
Lương ngày cũng là căn cứ để tính trợ cấp BHXH cho cán bộ công nhân
viên khi họ được hưởng trợ cấp theo chế độ quy định.
* Lương giờ
Áp dụng đối với người làm việc tạm thời đối với từng công việc
Lương giờ =
Lương ngày
8 giờ làm việc thực tế
x Số giờ làm việc thực tế
Lương giờ được dùng để tính lương cho người lao động khi họ
nghỉ việc không trọn ngày vì lý do thuộc về doanh nghiệp. Nó còn là cơ
sở quan trọng để xây dựng đơn giá tiền lương.
Ở nước ta mới chỉ tính lương ngày và lương tháng. Tuy chế độ trả
lương này dễ tính, dễ trả lương cho người lao động nhưng nhược điểm
lớn nhất của nó là mang tính bình quân nên không khuyến khích được
người lao động tích cực trong công việc và không quán triệt được nguyên
tắc phân phối theo lao động. Bởi vậy xu hướng chung là chế độ trả lương

này ngày càng giảm bớt.
+ Trả lương theo thời gian có thưởng.
Thực chất của chế độ trả lương này là sự kết hợp giữa trả lương
12
theo thời gian đơn giản với chế độ tiền thưởng khi công nhân vượt mức
những chỉ tiêu số lượng và chất lượng quy định.
Tiền lương = Lương theo thời gian giản đơn + Tiền thưởng.
Hình thức này có nhiều ưu điểm hơn so với hình thức trả lương
theo thời gian đơn giản, vừa phản ánh được trình độ thành thạo vừa
khuyến khích được người lao động có trách nhiệm với công việc. Nhưng
việc xác định tiền lương, tiền thưởng bao nhiêu là rất khó khăn. Vì vây,
nó vẫn chưa đảm bảo phân phối theo lao động.
Như vậy, lương theo thời gian dễ tính, dễ trả nhưng nó mang tính
bình quân, không đánh giá đúng kết quả lao động, không đảm bảo nguyên
tắc “làm theo năng lực hưởng theo lao động”.
* Hình thức trả lương theo sản phẩm.
Tiền lương trả theo sản phẩm là một hình thức lương cơ bản đang
được áp dụng phổ biến trong khu vực sản xuất hiện nay. Tiền lương mà
người lao động nhận được phụ thuộc vào đơn giá tiền lương một đơn vị
sản phẩm, một công đoạn chế biến sản phẩm và số lượng sản phẩm mà
người lao động làm được với chất lượng theo tiêu chuẩn quy định. Hình
thức trả lương này có nhiều ưu điểm so với hình thức trả lương theo thời
gian. Vì thế, một trong những phương thức cơ bản của côang tác tổ chức
tiền lương ở nước ta là không ngường mử rộng diện trả lương theo sản
phẩm trong các đơn vị sản xuất hiện nay. Trả lương theo sản phẩm có các
ưu điểm sau:
* Quán triệt nguyên tắc phân phố theo lao động. Gắn thu nhập về
tiền lương với kết quả sản xuất của người lao động. Do đó kích thích
được công nhân nâng cao năng suất lao động
* Khuyến khích người lao động ra sức học tập văn hoá, kỹ thuật,

nghiệp vụ để nâng cao tình độ lành nghề, ra sức phát huy sáng tạo, cải
tiến kỹ thuật, cải tiến phương pháp lao động, sử dụng tốt máy móc thiết bị
để nâng cao năng suất lao đông, chất lượng sản phẩm.
* Góp phần thúc đẩy việc cải tiến quản lý doanh nghiệp nhất là
công tác lao động và thực hiện tốt kế hoạch kinh tế. Cụ thể: khi một
doanh nghiệp bố trí lao động chưa hợp lý, dẫn đến năng suất lao động
13
thấp, thu nhật của người lao động không cao. Do quyền lợi thiết thực bị
ảnh hưởng người lao động sẽ kiến nghị để ải tiến lại những bất hợp lý.
Tuy nhiên để phát huy đầy đủ tác dụng của công tác trả lương theo
sản phẩm nhằm đem lại hiểu quả kinh tế cao phải có những điều kiện cơ
bản sau:
Xây dựng được một hệ thống định mức lao động có căn cứ khoa học,
chính xác dựa trên việc đánh giá sức lao động đã hao phí. Đay là yếu tố
quan trọng bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến lưọi ích của người lao động,
đến giá thành sản phẩm, đến ngân sách nhà nước và sự công bằng xã hội.
Thực hiện tốt công tác thống kê, kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm sản xuất
ra để đảm bảo chất lượng sản phẩm tránh làm bừa, làm ẩu để chạy theo số
lượng.
Khuyến khích người lao động làm chủ tập thể, phát huy tinh thần làm
chủ tập thể, dám nghĩ, dám làm, đoàn kết, phối hợp làm việc trong tập thể.
Tổ chức sắp xếp cơ cấu bộ máy lao động hợp lý, ổn định tạo cho
người lao động một môi trường làm việc tốt.
Có các cơ chế trả lương sau:
+ Chế độ trả lương theo sản phẩm trực tiếp cá nhân.
Cách trả lương này được áp dụng rộng rãi với công nhân trực tiếp
sản xuất trong điều kiện quy trình lao động của ngưòi công nhân mang
tính độc lập tương đối, có thể định mức kiểm tra và nghiệm thu sản phẩm
một cách riêng biệt. Đơn giá tiền lương của cách trả lương này là cố định
trong một khoảng thời gian nào đó và tính theo công thức:

ĐG =
L
Q
đm
= L x T
đm
Trong đó:
ĐG: đơn giá tiền lương.
L: Lương cấp bậc công nhân làm công việc tương ứng.
Q
đm
: mức sản lượng định mức
14
T
đm
: mức thời gian định mức
Tiền lương của công nhân được tính theo công thức:
L = ĐG x Q
Q: mức sản lượng thực tế.
Ưu điểm: mối quan hệ giữa tiền lương của công nhân nhận được
và kết quả lao động thể hiện rõ ràng, người lao động xác định ngay được
tiền lương của mình do đó khuyến khích quan tâm đến chất lượng sản
phẩm của họ.
Nhược điểm: người công nhân ít quan tâm đến máy móc, chất
lượng sản phẩm, tinh thần tập thể tương trợ lẫn nhau trong sản xuất dẫn
đến tình trạng dấu nghề, dấu kinh nghiệm.
+ Chế độ trả lương theo sản phẩm gián tiếp.
Áp dụng cho những công nhân phụ mà kết quả lao động của họ ảnh
hưởng nhiều đến kết quả hoạt động của công nhân chính hưởng lương
theo sản phẩm như: công nhân sửa chữa, công nhân điều chỉnh thiết bị

trong nhà máy ...
Đặc điểm của chế độ trả lương này là thu nhập về tiền lương của
công nhân lại tuỳ thuộc vào kết quả sản xuất của công nhân chính.
Cách tính:
ĐG
p
=
Lc
bcnv
(lao động phụ)
M
slđm
(do lao động)
+ Phụ cấp (nếu có)
TL
p
= ĐG
p
x M
ls
(do lao động chính làm ra)
Tiền lương
p
: Tiền lương của lao động phụ.
M
lsđm
: Số sản phẩm định mức lao động chính làm ra.
Ưu điểm: Cách trả lương này đã khuyến khích công nhân phụ phục
vụ tốt hơn cho công nhân chính.
Nhược điểm: Do phụ thuộc vào kết quả của công nhân chính do

vậy việc trả lương chưa thật chính xác. Tiền lương của công nhân phụ
phụ thuộc nhiều vào trình độ, tay nghề của công nhân chính cho dù người
15
lao động phụ có hoàn thành công việc của mình đến đâu. Như vậy tiền
lương chưa thực sự đảm bảo đúng hao phí lao động mà công nhân phụ bỏ
ra. Dẫn đến tình trạng những người có trình độ như nhau, hoàn thành
những công việc như nhau nhưng lại có mức lương khác nhau.
+ Chế độ trả lương theo sản phẩm tập thể.
Chế độ trả lương này áp dụng đối với những công việc cần một tập
thể công nhân thực hiện như lắp ráp thiết bị, sản xuất ở các bộ phận lam
việc theo dây chuyền.
Tiền lương trước hết tính chung cho cả tập thể sau đó tính và chia
cho từng người trong tập thể đó.
Đơn giá cho một đơn vị sản phẩm
ĐG =
(L
cbcnv
+ phụ cấp)
M
sl
Trong đó:
L
cbcnv
: Lương cấp bậc công việc.
M
sl
: Định mức sản lượng
Xác định tiền lương cho cả tập thể.
Tiền lương = ĐG x Sản lượng thực té của cả tập thể.
Chia tiền lương cho từng người lao động

C ách 1 : Chia theo thời gian làm việc thực tế và hệ số lương (3 bước).
Bước 1: Tính đổi thời gian làm việc thực tế của người lao động ở
các cấp bậc khác nhau về thời gian làm việc thực tế ở bậc 1 để so sánh.
Thời gian làm việc quy
đổi từng người lao động
(T

)
=
Thời gian làm việc thực
tế của người lao động
(T
tt
)
x
Hệ số lương cấp bậc
của từng người
Bước 2: Tính tiền lương của một đơn vị thời gian làm việc quy đổi.
16
Tiền lương một đơn vị thời
gian làm việc quy đổi (L

)
=
Tiền lương của cả tập thẻ
Tổng thời gian làm việc quy đổi
Bước 3: Tính tiền lương của từng người lao động.
L
nlđ
= T


x L

C ách 2 : Chia hệ số chênh lệch giữa lương thời gian và tiền lương sản
phẩm gồm ba bước:
Bước 1: Tính tiền lương theo cấp bậc công việc và thời gian làm
việc của từng người lao động.
T
lnlđ
= ∑L
cbcnv
(của một đơn vị thời gian) x T
tt
Bước 2: Tính hệ số chênh lệch giữa lương sản phẩm và tiền lương
thời gian.
H
S
=
L
sp
T
lnlđ
Bước 3: Tính tiền lương của từng người lao động.
L
nlđ
= L
tg
x HS
Cách 3: Chia theo điểm bình và hệ số lương.
Bước 1: Quy đổi điểm bình của người lao động về điểm bình bậc 1

ĐB
qđi
= ĐB
i
x H
slcbi
Bước 2: Tính tiền lương điểm bình bậc 1đ
TL
đbqđ
= L
sp
/ ∑ĐB
qđi
Bước 3: Tính tiền lương của từng người lao động.
TL
nlđi
= ĐB
qđi
x TL
đbqđ
Ưu điểm: Khuyến khích công nhân trong tổ, nhóm nâng cao trách
nhiệm trước tập thể, quan tâm đến kết quả cuối cùng của tổ.
Nhược điểm: Sản lượng của từng công nhân không trực tiếp quyết
định tiền lương của họ, do vậy ít kích thích công nhân nâng cao năng suất
lao động cá nhân, tiền lương vẫn mang tính bình quân.
17
+ Chế độ trả lương theo sản phẩm có thưởng, phạt.
Thực chất của chế độ này là sự hoàn thiền hơn của chế độ sản
phẩm trực tiếp cá nhân. Ngoài tiền lương được lĩnh theo đơn giá sản
phẩm trực tiếp người công nhân còn được hưởng thêm một khoản tiền

thưởng nhất định nếu làm tốt, hoặc có thể bị phạt khi làm ra sản phẩm
hỏng, gây lãng phí vật tư, không đủ ngày công....
Ưu điểm: Khuyến khích người lao động phát huy hết khả năng của
mình, hạn chế những sai sót của người lao động.
Nhược điểm: Người công nhân ít quan tâm đến máy móc do quá
quan tâm đến số lượng làm ra để dẫn đến tình trạng quá tải của máy móc.
+ Chế độ trả lương theo sản phẩm luỹ tiến.
Chế độ này áp dụng để trả lương cho công nhân làm việc ở khâu
trọng yếu mà việc tăng năng suất lao động ở các khâu khác hoặc trong
thời điểm cần giải quyết kịp thời hạn quy định, hoặc trước sự đe doạ của
thiên tai địch hoạ.
Theo cách trả lương này những sản phẩm nằm trong định mức
được trả theo đơn giá cố định. Những sản phẩm vượt mức sẽ được trả
theo đơn giá luỹ tiến. Tuỳ theo mức độ vượt mức mà giá luỹ tiến sẽ tăng
theo những tỷ lệ nhất định. Cách trả lương này dễ xảy ra khả năng tốc độ
tăng của tiền lương bình quân tăng nhanh hơn tốc độ tăng năng suất lao
động. Vì vậy khi các trường hợp trên không còn thì cần chuyển sang chế
độ trả lương bình thường.
Áp dụng mức trả lương này cần lưu ý:
Thứ nhất: Phải xác định chính xác mức khởi điẻm và đảm bảo mối
quan hệ hợp lý giữa các tỷ lệ tăng lên của đơn giá trên biểu luỹ tiến.
Thứ hai: Việc áp dụng chế độ này chỉ trong phạm vi nhỏ, từng thời
điểm phù hợp với điều kiện sản xuất thì mới đem lại hiệu quả. Nếu áp
dụng bừa bai rất dế dẫn đến bội chi lương.
+ Chế độ trả lương khoán.
18
Áp dụng cho những công việc mà nếu giao chi tiết bộ phận sẽ
không có lợi bằng giao toàn bộ khối lượng cho công nhân hoàn thành
trong một thời gian nhất định.
Chế độ trả lương này thuận tiện trong xây dựng cơ bản và một số

công việc trong nông nghiệp, khi làm những công việc đột xuất.
Ưu điểm: Người công nhân biết trước khối lượng tiền lương mà họ
sẽ nhận được sau khi hoàn thành công việc. Vì vậy họ chủ động sắp xếp
công việc của mình. Người giao việc thì yên tâm về khối lượng công việc
hoàn thành.
Nhược điểm: Để đảm bảo thời gian hoàn thành dễ gây hiện tượng
làm bừa, làm ẩu. Vì vậy công tác nghiệm thu phải được tiến hành một
cách chặt chẽ.
* Hình thức khoán thu nhập.
Những doanh nghiệp thực hiện hình thức này họ quan niệm: Tiền
lương là một phần thu nhập năm trong thu nhập chung của doanh nghiệp.
Theo hình thức này các doanh nghiệp phải xây dựng một tỷ lệ hợp lý để
xác định tổng tiền lương thực tế trả cho người lao động trong tổng số thu
nhập của họ.
Tổng quỹ lương
thực tế
=
Tổng thu nhập thực tế
(chưa loại trừ lương)
x Tỷ lệ chia tiền công
Với hình thức này, tiền lương thực tế của người lao động chỉ xác định
được sau khi kết thúc kỳ hạch toán. Vì vậy việc trả lương cho người lao
động trong kỳ thực chất là tạm phân phối thu nhập.
Điều kiện sử dụng hình thức này là người lao động phải có đầy đủ quyền
để kiểm tra tổng thu nhập của người lao động.
C) Các chế độ liên quan tới tiền lương.
* Chế độ trả lương khi ngừng việc.
Theo thông tư LL/LĐ - TT ngày 14/4/1962 của Bộ lao động, chế
độ này áp dụng cho người làm việc thường xuyên buộc phải ngừng làm
việc do nguyên nhân khách quan (bão lụt, mưa, mất điện ... ), do người

khác gây ra hoặc khi chế thử, sản xuất sản phẩm. Cụ thể:
19
- 70% lương khi không làm việc.
- ít nhất 80% lương nếu phải làm việc khác có mức lương thấp hơn.
- 100% lương nếu ngừng do sản xuất, chế thử
* Trả lương khi làm ra sản phẩm xấu, hỏng.
Về nguyên tắc.
Bản thân người lao động làm ra sản phẩm hỏng, xấu sẽ không được
trả lương. Nếu sản phẩm hỏng, xấu đã được phân loại theo nội quy chất
lượng sản phẩm thì người lao động sẽ được trả lương theo đơn giá sản
phẩm thấp hơn. Cụ thể:
- 0% nếu làm ra sản phẩm hỏng quá quy định.
- 70% tiền lương nếu làm ra sản phẩm xấu.
- 100% tiền lương nếu làm ra sản phẩm thử.
Nếu sửa lại hàng xấu thì người lao động được hưởng 100% lương
theo sản phẩm nhưng không được tính lương cho thời gian sửa sản phẩm.
Nếu sản phẩm hỏng, xấu trong định mức thì vẫn được hưởng nguyên lượng.
20
* Chế độ nghỉ phép.
Hàng năm công nhân được nghỉ tối thiểu 12 ngày phép, nếu làm
việc từ 5 năm liên tục thì được hưởng thêm 1 ngày. Nếu làm việc từ 30
năm trở lên được hưởng thêm 6 ngày. Khi người lao động nghỉ phép thì
họ vẫn được hưởng lương phép. Tiền lương nghỉ phép bằng 100% lương
cấp bậc. Nếu không nghỉ phép họ được nhận thêm một khoản bằng 100%
lương cấp bậc đối với những ngày phép được hưởng bên cạnh tiền lương
hàng tháng của mình. Công thức tính lương phép như sau:
Tiền lương phép =
Lương tối thiểu x Hệ số cấp bậc x Số ngày nghỉ phép
22
8. Việc hình thành và quản lý quỹ tiền lương

a) Quỹ tiền lương:
Quỹ tiền lương của một doanh nghiệp là toàn bộ số tiền lương doanh
nghiệp phải trả cho tất cả lao động mà mình quản lý sử dụng. Theo nghị
định số 235/HĐBT ngày 19/9/1985 của Hội đồng bộ trưởng, quỹ tiền
lương gồm:
- Tiền lương tháng, ngày theo hệ thống thang, bảng lương Nhà nước.
- Tiền lương trả theo sản phẩm.
- Tiền lương công nhật cho lao động khi làm ra sản phẩm xấu, hỏng.
- Tiền lương trả cho người lao động trong thời gian ngừng việc, do
thiết bị máy móc ngừng hoạt động vì nguyên nhân khách quan.
- Tiền lương trả cho người lao động trong thời gian điều động công
tác hoặc huy động làm nghĩa vụ với Nhà nước, với xã hội.
- Tiền lương trả cho người lao động nghỉ phép định kỳ, nghỉ theo
chế độ Nhà nước.
- Tiền lương cho những người đi học nhưng vẫn thuộc biên chế.
- Các loại tiền thưởng thường xuyên.
- Các phụ cấp theo chế độ quy định và phụ cấp khác được ghi trong
quỹ lương.
21
Nhà nước xây dựng quy định rõ ràng trong việc xác định quỹ tiền
lương của doanh nghiệp, điều này giúp cho việc xác định quỹ lương, chi
phí tiền lương trong chi phí sản xuất, chi phí quản lý, chi phí lưu thông rõ
ràng hơn và việc quản lý quỹ lương thuận tiện hơn.
Để xác định quỹ lương mỗi doanh nghiệp phải xây dựng cho mình
đơn giá tiền lương phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, đồng thời phải có sự đồng ý của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền. Nhà nước quy định:
+ Nhà nước quy định đơn giá tiền lương với các sản phẩm trọng
yếu do Nhà nước định giá.
+ Các bộ, nghành, địa phương quyết định đơn giá tiền lương cho

một số sản phẩm đặc thù của mình.
+ Các sản phẩm không thuộc diện trên thì doanh nghiệp tự xác
định đơn giá tiền lương song phải đăng ký với cơ quan Nhà nước.
Doanh nghiệp trước khi xây dựng đơn giá tiền lương thì phải xác
định được nhiệm vụ và quỹ lương của năm kế hoạch. Sau đó dựa vào đặc
điểm của doanh nghiệp mình chọn một trong các phương pháp định giá
tiền lương sau:
Quỹ tiền lương năm kế hoạch được xác định như sau:
∑V
kh
= [ L
db
x tiền lương
min
x (H
cb
+ H
pc
) + V
vc
] x 12
Trong đó:
V
kh
: Quỹ lương năm kế hoạch.
L
đb
: Lao động định biên.
TL
min

: Mức lương tối thiểu doanh nghiệp lựa chọn trong hệ số
khung quy định.
H
cb
: Hệ số lương cấp bậc công việc bình quân.
H
pc
: Hệ số các khoản phụ cấp lương bình quân được tính trong đơn
giá tiền lương.
V
vc
: Quỹ lương của bộ máy gián tiếp mà số lao động này chưa tính
trong định mức lao động tổng hợp.
22
Các phương pháp xác định đơn giá tiền lương.
+ Đơn giá tiền lương tính trên đơn vị sản phẩm.
ĐG
sp
= TL
cb
x T
sp
Trong đó:
ĐG
sp
: Đơn giá tiền lương tính trên đơn vị sản phẩm.
TL
cb
: Lương cấp bậc.
T

sp
: Hao phí thời gian trên một sản phẩm hoặc sản phẩm quy đổi.
Phương pháp này áp dụng cho các doanh nghiệp có ít chủng loại sản
phẩm, sản phẩm mang tính truyền thông và có hệ thống định mức lao
động chi tiết đầy đủ. Phương pháp này đơn giản trong việc tính tiền lương
của mỗi cá nhân.
Qũy tiền lương
thực hiện
=
Đơn giá
tiền lương
x
Tổng sản phẩm,
hàng hoá thực hiện
+
Quỹ lương
bổ xung
+ Đơn giá tiền lương tính trên tổng doanh thu trừ tổng chi phí
ĐG
DT – CP
=
V
kh
DT
kh
- CP
kh
CPkh: Chi phí kế hoạch (gồm toàn bộ các khoản chi phí hợp lệ
trong giá thành sản phẩm, các khoản nộp ngân sách, chi khác dự toán được)
DT

kh
: Doanh thu kế hoạch.
V
kh
: Quỹ tiền lương năm kế hoạch.
ĐG
dt – cp
: Đơn giá tính trên doanh thu trừ tổng chi phí.
Cách này áp dụng cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nhiều loại
sản phẩm nhưng chưa có định mức lao động từng loại.
Qũy tiền lương
thực hiện
=
Đơn giá
tiền lương
x
Tổng doanh thu
thực hiện
-
Tổng chi phí
thực hiện
+ Đơn giá tiền lương tính trên lợi nhuận.
ĐG
ln
=
V
kh
P
kh
23

P
kh
: Lợi nhuận kế hoạch của doanh nghiệp.
ĐG
ln
: Đơn giá tiền lương tính trên lợi nhuận.
V
kh
: Quỹ tiền lương năm kế hoạch.
Phương pháp này áp dụng với doanh nghiệp kinh doanh ổn định dự toán
được tổng thu, tổng chi và lợi nhuận
Quỹ lương thực hiện = Đơn giá tiền lương x
Lợi nhuận thực
hiện
+ Đơn giá tiền lương tính trên tổng doanh thu.
ĐG
ln
=
V
kh
DT
kh
Phương pháp này áp dụng cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
không ổn định và không thể áp dụng phương pháp tính đơn giá tiền lương
nào trong các phương pháp trên.
Quỹ lương thực
hiện
=
Đơn giá tiền
lương

x
Tổng doanh thu thực
hiện
9. Hạch toán tiền lương, thanh toán lương
Như đã trình bày, tiền lương giữ một vai trò quan trọng trong
doanh nghiệp. Khi công tác hạch toán lao động tiền lương được tổ chức
tốt thì không chỉ doanh nghiệp đạt đựơc mục đích của mình là phấn đấu
hạ chi phí tiền lương trong giá thành sản phẩm mà bản thân người lao
động đứng trên góc độ kinh tế thì họ cũng được hưởng phần công sức mà
họ đã bỏ ra. Để làm tốt điều này công tác hạch toán tiền lương phải tiền
hành theo hai phương pháp: hạch toán chi tiết và hạch toán tổng hợp.
a) Hạch toán chi tiết.
Mục địch của hạch toán chi tiết tiền lương trong doanh nghiệp là
đưa ra một thông tin cụ thể về thời gian lao động, kết quả lao động và tiền
lương cho cá nhân từng người lao động.
Đặc điểm của hậch toán chi tiết tiền lương là phức tạp và mất nhiều
24
thời gian, đồng thời nó động chạm tới quyền lợi thiết thực của mỗi cá
nhân người lao động nên cần phải hạch toán chính xác, tránh sai sót,
nhầm lẫn.
Để quản lý tiền lương lao động, các doanh nghiệp sử dụng sổ sách
lao động. Sổ này do phòng lao động tiền lương lập nhằm mục đích nắm
chắc tình hình phân bổ, sử dụng lao động hiện có.
* Hạch toán số lượng lao động.
Lao động trong doanh nghiệp gồm nhiều loại như dài hạn, tạm
thời, trực tiếp hay gián tiếp, .. Lao động trong doanh nghiệp lại biến đổi
hàng năm. Vì vậy doanh nghiệp phải theo dõi lao động của mình để cung
cấp thông tin cho quản lý. Việc theo dõi này được phản ánh trên sổ danh
sách lao động của doanh nghiệp.
Sổ danh sách lao động được mở cho toàn doanh nghiệp và từng bộ

phận sản xuất trong daonh nghiệp. Tuy sổ thể hiện rõ các thông tin như:
Số lượng lao động hiện có, tình hình tăng, giảm lao động, di chuyển lao
động, trình độ lao động, tuổi đời, tuổi nghề ...
Căn cứ ghi sổ là chứng từ ban đầu về tuyển dụng, thuyên chuyển
công tác, nâng bậc,... Các chứng từ này được phòng tổ chức lập mỗi khi
có các quyết định tưong ứng. Mọi biến động đều phải ghi chép kịp thời
vào sổ danh sách lao động để trên cơ sở đó làm căn cứ cho việc tính
lương phải trả và các chế độ khác cho người lao động đựơc kịp thời,
chính xác.
Sổ lao động là căn cứ để vào danh sách người lao động trong bảng
chấm công và chứng từ hạch toán kết quả lao động cho người lao động ở
các bộ phận.
* Hạch toán thời gian lao động
Đối với các bộ phận lao động yêu cầu tính trả lương thời gian thì
cơ sở để tính lương là bảng “chấm công” (mẫu số 01 – LDTL). Bảng
chấm công dùng để theo dõi thời gian làm việc của từng người lao động
trong tháng do từng tổ, đội, phòng ban ghi hàng ngày. Việc ghi chép ở
các phòng ban do cán bộ phụ trách hoặc tổ trưởng ghi theo quy định về
chấm công. Cuối tháng căn cứ vào thời gian lao động thực tế (số ngày
25

×