Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Bài thu hoạch môn KHOA HỌC LÃNH ĐẠO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.63 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU.................................................................................................................................................. 2
B. NỘI DUNG............................................................................................................................................... 3
1. Kỹ năng lãnh đạo:................................................................................................................................... 3
a) Khái niệm kỹ năng lãnh đạo:.............................................................................................................. 3
b) Phân loại kỹ năng lãnh đạo:................................................................................................................ 4
2. Nghệ thuật lãnh đạo:............................................................................................................................... 4
a) Khái niệm nghệ thuật lãnh đạo:....................................................................................................... 4
b) Đặc trưng nghệ thuật lãnh đạo:....................................................................................................... 5
II. VỊ TRÍ, VAI TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG Q
TRÌNH CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ:...........................................6
1. Truyền cảm hứng luôn là vấn đề khiến nhiều nhà lãnh đạo bắn khoăn trăn trở, bởi nó là cơng cụ
khơng thể thiếu trên con đường dẫn tới thành công:................................................................................6
2. Ưu điểm và hạn chế của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước hiện nay:....................................9
a) Ưu điểm:........................................................................................................................................ 9
b) Hạn chế:....................................................................................................................................... 10
3. Một số yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước trong q trình cơng
nhiệp hóa, hiện đại hóa, đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế:...........................11
a)Thứ nhất, nâng cao năng lực tham mưu, đề xuất về chủ trương, đường lối, chính sách, chế độ ở tầm
chiến lược:........................................................................................................................................ 11
b) Thứ hai, nâng cao năng lực, trình độ thể chế hóa các chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị của
Đảng thành hệ thống thể chế, chế độ, chính sách của Nhà nước, các chương trình, kế hoạch thực hiện
cụ thể:............................................................................................................................................... 11
c) Thứ ba, nâng cao năng lực, trình độ lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các thể chế, chế độ, chính sách, các
chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội:.............................................................................11
d) Thứ tư, nâng cao năng lực, trình độ giám sát kiểm tra việc thực hiện các thể chế, chế độ, chính
sách, các chương trình, kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội:...................................................12
e) Thứ năm, nâng cao trách nhiệm và trình độ đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo
quản lý kế cận, bảo đảm cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước:..........................................12
C. KẾT LUẬN............................................................................................................................................. 18
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................................................ 19




2

A. MỞ ĐẦU
Với đường lối đổi mới đúng đắn và sáng tạo của Đảng cộng sản Việt
Nam, mục tiêu sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa mà Đảng ta đề ra là
xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững mơi trường hồ bình, ổn
định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa đang từng bước được hiện thực hóa.
Để đảm bảo thực hiện thành cơng sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, cơng tác nâng cao chất lượng đội ngũ lãnh đạo quản lý nhà nước có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng, quyết định sự thành bại của Đảng ta. Vì vậy, nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là nhiệm vụ quan trọng trong
thực hiện 3 khâu đột phá chiến lược mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã
đề ra.
Do vậy, việc nâng cao chất lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý là nhiệm vụ
hết sức quan trọng trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong q trình nghiên cứu mơn khoa học lãnh đạo, em lựa chọn nội dung
nghiên cứu “Nâng cao chất lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước trong
quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” là bài thu
hoạch môn học Khoa học lãnh đạo.


3

B. NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KỸ NĂNG VÀ NGHỆ THUẬT LÃNH ĐẠO:

1. Kỹ năng lãnh đạo:

a) Khái niệm kỹ năng lãnh đạo:
Lãnh đạo là quá trình tương tác năng động trong đó nhóm lãnh đạo
cùng nhau xác định đúng tầm nhìn, động viên, khích lệ những người khác
cùng chung sức thực hiện các tầm nhìn, các mục tiêu vì một tương lai tốt đẹp
hơn. Để làm được điều này địi hỏi người lãnh đạo phải có cái tâm trong sáng
vì lợi ích chung, có phương pháp nhận thức đúng dựa trên tư duy hệ thống
động, có vốn tri thức khoa học phong phú về hoạt động lãnh đạo và chuyển
hóa những tri thức đó thành các kỹ năng lãnh đạo chuyên nghiệp, hiệu quả.
Kỹ năng lãnh đạo là khả năng vận dụng những kiến thức lý thuyết,
phương thức hành động, kinh nghiệm đã có để thực hiện các hoạt động lãnh
đạo phù hợp với điều kiện cụ thể và mang lại kết quả tốt. Cần nhấn mạnh
rằng, người có kỹ năng lãnh đạo là người khơng chỉ nắm vững được tri thức
về cách thức lãnh đạo mà còn luôn biết lựa chọn và vận dụng tri thức lãnh đạo
đó nhằm làm cho hoạt động lãnh đạo đạt kết quả mong muốn. Để xác định sự
hình thành và mức độ phát triển của kỹ năng lãnh đạo cần căn cứ vào tính
đúng đắn, tính thành thạo, tính linh hoạt, mềm dẻo và tính hiệu quả của các
hành động lãnh đạo. Hành động chưa thể có kỹ năng nếu cịn mắc nhiều lỗi,
vụng về, hành động tốn nhiều thời gian, cơng sức triển khai và cịn cứng nhắc,
rập khn.
Kỹ năng lãnh đạo được hình thành trên cơ sở các tri thức về lãnh đạo nên
người có kỹ năng lãnh đạo thì khơng chỉ hành động có kết quả trong một hành
động cụ thể mà còn phải đạt được kết quả tương tự trong những điều kiện
khác nhau. Chính vì vậy, người lãnh đạo có kỹ năng là người có hiểu biết thấu
đáo về hành động (hiểu mục đích, cách làm, điều kiện cần có để thực hiện
được hành động) và có thể tiến hành hành động theo đúng yêu cầu, đạt kết
quả tốt.


4


b) Phân loại kỹ năng lãnh đạo:
Có thể phân loại các kỹ năng mà nhà lãnh đạo cần học hỏi, rèn luyện
thành các nhóm như sau:
* Nhóm các kỹ năng cơ sở: là những kỹ năng nền tảng, tối thiểu cần có
để có thể thành cơng trong bất cứ loại cơng việc gì.
* Nhóm các kỹ năng làm việc với con người: là những kỹ năng giúp chủ
thể gây dựng, củng cố và phát triển các mối quan hệ xã hội tích cực giữa bản
thân và những người khác, khiến cho những người khác sẵn lòng hợp tác, ủng
hộ chủ thể để cùng thực hiện các mục tiêu chung hoặc mục tiêu riêng của chủ
thể đó.
* Nhóm các kỹ năng giải quyết vấn đề: là những kỹ năng giúp cho chủ
thể lãnh đạo có thể hành động hợp lý và hiệu quả, mang lại lợi ích cho tổ
chức, cộng đồng khi đối diện với hàng loạt vấn đề đã, đang và sẽ nảy sinh
trong cuộc sống đòi hỏi người lãnh đạo và các cộng sự phải giải quyết.
Sự phân loại các nhóm kỹ năng như trên cũng chỉ có tính tương đối.
Cũng rất khó tách bạch đầu là kỹ năng lãnh đạo, đâu là kỹ năng quản lý vì
muốn lãnh đạo giỏi cũng phải quản lý giỏi.
2. Nghệ thuật lãnh đạo:
a) Khái niệm nghệ thuật lãnh đạo:
Cho đến nay, quan niệm về “nghệ thuật lãnh đạo” vẫn còn nhiều tranh
luận bởi các nhà nghiên cứu về lĩnh vực này. Những người theo “thuyết
phương pháp” cho rằng nghệ thuật lãnh đạo là bộ phận không thể phân chia
phạm vi rõ ràng trong phương pháp lãnh đạo, là phương pháp có tính sáng
tạo, là “tinh hoa của phương pháp”. Quan niệm này đã chỉ ra mối quan hệ
giữa phương pháp lãnh đạo và nghệ thuật lãnh đạo, mối quan hệ dựa vào nhau
để cùng tồn tại giữa chúng, cơ sở để cả hai cùng phát triển, và cũng lấy thực
tiễn lãnh đạo làm cơ sở, thống nhất với nhau trong thực tiễn lãnh đạo, phục
tùng, phục vụ thực tiễn hoạt động lãnh đạo. Nhưng, nghệ thuật lãnh đạo
không đồng nhất với phương pháp lãnh đạo mà khác nhau về điều kiện hình
thành, hình thái biểu hiện, hiệu quả và phương thức truyền thụ. Những người

theo “thuyết kỹ năng” lại cho rằng “nghệ thuật lãnh đạo là kinh nghiệm và kỹ
năng lãnh đạo trên cơ sở tri thức khoa học nhất định”. Quan niệm này đã chỉ
ra điều kiện tiền đề không thể thiếu để hình thành nghệ thuật lãnh đạo.
Khái niệm này được khái quát qua một số khía cạnh sau: Nghệ thuật lãnh
đạo là sự tích hợp của các tố chất, những trải nghiệm và của quá trình rèn


5

luyện, học hỏi trở thành cái có ý nghĩa trong hành vi thực hiện hiệu quả các
mối quan hệ của quá trình lãnh đạo. Nghệ thuật lãnh đạo phản ánh mối quan
hệ giữa hai chủ thể: Người lãnh đạo và người chịu sự lãnh đạo, trong đó,
người lãnh đạo chủ động thể hiện hành vi của mình nhằm tạo được lợi thế tốt
nhất, đồng thời giành được sự đồng thuận tích cực nhất từ phía những người
khác của q trình ảnh hưởng đến họ trong tổ chức. Trong sự ảnh hưởng đó,
người lãnh đạo ln là người tạo được tính tích cực chủ động, người chịu sự
lãnh đạo (nhân viên cấp dưới) là người chịu sự tác động chi phối, “thụ động”
từ phía người lãnh đạo. Do vậy, để thực hiện tốt mục tiêu của tổ chức, người
lãnh đạo trong q trình tác động, gây ảnh hưởng cần có cách thức đạt đến
một nghệ thuật nhất định nhằm làm giảm sự thụ động, tăng sự đồng thuận từ
phía nhân viên cấp dưới thì cơng việc sẽ đạt kết quả tốt hơn.
b) Đặc trưng nghệ thuật lãnh đạo:
Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn lãnh đạo, các nhà nghiên
cứu cho rằng, nghệ thuật lãnh đạo có đặc trưng cơ bản sau:
- Tính khoa học: Nghệ thuật lãnh đạo gắn liền với kinh nghiệm lãnh đạo
nhưng phải dựa trên cơ sở lý luận khoa học. Người lãnh đạo phải nắm vững lý
luận lãnh đạo hiện đại mới có thể hình thành nghệ thuật lãnh đạo.
- Tính sáng tạo: Sức sống của nghệ thuật lãnh đạo chính là ở chỗ sáng
tạo, khơng có sáng tạo thì khơng có nghệ thuật lãnh đạo.
- Tính kinh nghiệm: Nếu khơng trải qua thực tiễn lãnh đạo, khơng chú

trọng tích lũy kinh nghiệm lãnh đạo phong phú thì cũng khơng thể nói đến
nghệ thuật lãnh đạo.
- Tính linh hoạt: Nghệ thuật lãnh đạo khơng có đáp án duy nhất, khơng
có mơ thức cố định.
- Tính thực tiễn: Nghệ thuật lãnh đạo khơng phải từ trên trời rơi xuống,
mà cúng khơng nằm ngồi khả năng và cuộc sống của con người, phục vụ
cuộc sống của con người. Muốn có nghệ thuật lãnh đạo, phải xuất phát từ cái
thực.


6

II. VỊ TRÍ, VAI TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC TRONG Q TRÌNH CƠNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ HỘI
NHẬP QUỐC TẾ:

1. Truyền cảm hứng luôn là vấn đề khiến nhiều nhà lãnh đạo bắn
khoăn trăn trở, bởi nó là cơng cụ khơng thể thiếu trên con đường dẫn tới
thành công:
Truyền cảm hứng để các nhân viên cùng đồng lịng phấn đấu vì một
mục tiêu là một trong những nhiệm vụ vô cùng quan trọng của người lãnh
đạo. Các nghiên cứu đều chỉ ra rằng, cảm hứng và động lực của nhân viên là
yếu tố quan trọng dẫn tới kết qua công việc và thành công của tổ chức. Truyền
cảm hứng sẽ giúp chuyển hóa tầm nhìn và các giá trị thành những kết quả
trong đời sống thực. Nền tảng của việc truyền cảm hứng là tạo dựng các cam
kết của các cá nhân đối với tầm nhìn chung. Người lãnh đạo khơng thể buộc
người khác cam kết với một tầm nhìn nào đó, mà chỉ có thể hỗ trợ người khác
tự xác lập cam kết của bản thân họ. Bất cứ điều gì liên quan đến niềm tin và
giá trị sâu thẳm trong con người sẽ khơi dậy được trong con người đó sự hứng
khởi và cam kết. Do đó, truyền cảm hứng đúng nghĩa là quá trình đi từ trái

tim đến trái tim; từ niềm tin và giá trị sâu thẳm của người lãnh đạo đến với
niềm tin và giá trị sâu thẳm của người khác.
Muốn vậy, người lãnh đạo phải thấu hiểu các niềm tin và các giá trị,
mong muốn, khát khao mà người khác đang theo đuổi và tìm cách gắn kết
chúng với tầm nhìn.
Bên cạnh đó đội ngũ cán bộ, cơng chức đóng vai trị quan trọng trong
xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước, trong hoạt động công vụ. Hiệu lực,
hiệu quả của bộ máy nhà nước nói chung và của hệ thống chính trị nói riêng
xét cho cùng được quyết định bởi phẩm chất, năng lực và hiệu quả công tác
của đội ngũ cán bộ, công chức. Chính vì vậy, đây là vấn đề cực kỳ quan trọng
được Đảng, Nhà nước ta quan tâm trong suốt quá trình từ khi xây dựng nhà
nước dân chủ nhân dân đến nay. Trong đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước,
bộ phận tinh hoa, nòng cốt là lực lượng cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý
nhà nước. Không phải ngẫu nhiên mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã
đề ra nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức Nhà nước vừa có trình độ
chun mơn và kỹ năng nghề nghiệp cao, vừa có giác ngộ về chính trị, có tinh
thần trách nhiệm, tận tụy cơng tâm. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
VIII cũng đã đề ra mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức các cấp từ
Trung ương đến cơ sở, đặc biệt là cán bộ đứng đầu, có phẩm chất và năng lực,


7

có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, đủ
về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng
giữa các thế hệ cán bộ, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa giữ vững độc lập tự chủ, đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong các nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X, Đảng ta đều đề ra nhiệm vụ
xây dựng cho được một đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu mới, trước hết là đội
ngũ cốt cán của Đảng và Nhà nước các cấp, đặc biệt là ở cấp chiến lược, thật

sự vững vàng về chính trị, có bản lĩnh, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh
đạo.
Trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 - 2020 được thông qua
tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta đã đề ra 3 đột phá chiến
lược, trong đó có “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao”. Chiến lược chỉ rõ: phát triển và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là
yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ
cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mơ hình tăng trưởng và lợi thế cạnh tranh quan
trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Trong xây
dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chiến lược nhấn mạnh phải
đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, lao động
lành nghề và cán bộ khoa học công nghệ đầu đàn.
Trong quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020
ban hành kèm theo Quyết định số 1216/QĐ-TTg, ngày 22-7-2011, của Thủ
tướng Chính phủ cũng đề ra các quan điểm và mục tiêu phát triển nguồn nhân
lực nhằm thực hiện thành công các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội giai đoạn 2011 - 2020; phát triển nhân lực Việt Nam phải gắn liền với
yêu cầu hội nhập quốc tế. Phát triển nguồn nhân lực nhằm bảo đảm nhu cầu
về số lượng, cơ cấu và trình độ, đáp ứng yêu cầu nhân lực, thực hiện thành
công đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ
tổ quốc, phát triển nhanh những ngành, lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế so
sánh quốc tế; đồng thời nêu ra được những giải pháp phát triển nhân lực, hình
thành đội ngũ nhân lực chất lượng cao theo chuẩn mực khu vực và từng bước
tiến tới chuẩn mực quốc tế.
Như vậy, để thực hiện thành công sự nghiệp công nhiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế,
Đảng ta đặc biệt quan tâm đến xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước.



8

Vai trị của đội ngũ cán bộ, cơng chức lãnh đạo, quản lý trong sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường và hội
nhập kinh tế quốc tế.
- Đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là cán bộ, công chức lãnh đạo quản
lý là lực lượng tham mưu cho Đảng trong hoạch định chiến lược, kế hoạch,
chủ trương, chính sách, bước đi, giải pháp thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta. Đồng thời, chính đây là lực lượng lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức
thực hiện các nội dung, nhiệm vụ của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
- Từ mục đích, đặc điểm của nền kinh tế thị trường, Đảng ta khẳng định
trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và trong bối cảnh hội nhập quốc tế, đội ngũ lãnh đạo, quản lý nhà nước lại
càng có vai trị quan trọng để xây dựng thể chế, cơ chế và tạo lập đồng bộ các
yếu tố thị trường và nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước.
- Đây cũng là đội ngũ tham mưu cho Đảng và Chính phủ về đổi mới
các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, như: đổi mới
công tác kế hoạch hóa, dự báo chiến lược, cải tiến hệ thống thuế, xây dựng hệ
thống ngân hàng thương mại, tín dụng…
- Vai trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý còn thể hiện ở việc đề
xuất các chủ trương, chính sách, pháp luật để thực hiện xã hội hóa các hoạt
động sự nghiệp, dịch vụ cơng, những vấn đề xã hội, đồng thời giúp Nhà nước
tổ chức kiểm tra, kiểm soát, tạo điều kiện để các hoạt động xã hội hóa sự
nghiệp, dịch vụ cơng phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nội dung, nhiệm vụ hội nhập kinh tế quốc tế rất phong phú, sâu rộng
và phức tạp, bao gồm nhiều lĩnh vực, lại có sự khác biệt giữa nước ta với các
nước trên thế giới, nên rất cần phải có sự tham mưu, đề xuất của đội ngũ cán
bộ, công chức, nhất là cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý trong việc xây

dựng thể chế, chế độ, chính sách khi đất nước hội nhập sâu vào đời sống kinh
tế quốc tế.
Trong mơi trường xã hội có nhiều biến động như hiện nay, áp lực cạnh
tranh về kinh tế giữa các quốc gia, các tổ chức ngày càng lớn, khoa học - công
nghệ phát triển như vũ bão, môi trường tự nhiên biến đổi khó lường... thì
khơng một quốc gia, một tổ chức nào có thể tồn tại và phát triển mà khơng
cần thay đổi, thậm chí có những thời điểm phải tạo ra sự thay đổi để thích
ứng. Vì vậy, người lãnh đạo không thể ngăn chặn sự thay đổi mà chỉ có thể
tìm cách lãnh đạo, quản lý sự thay đổi. Theo John Kotter, vai trò của nhà lãnh


9

đạo là đảm trách những mục tiêu mang tính thách thức có liên quan tới thay
đổi. Họ tập trung vào việc thay đổi hành vi, trong khi các nhà quản lý tập
trung vào việc duy trì các tình huống ổn định.
Lãnh đạo sự thay đổi là một trong những công việc rất khó khăn và nhạy
cảm bởi nó tác động đến tâm lý của nhiều người, thường xuyên gặp phải sự
kháng cự vì con người thường lo sợ trước sự thay đổi. Người lãnh đạo là
người khởi xướng và thực hiện thay đổi cần phải có kỹ năng lãnh đạo sự thay
đổi, phải nắm rõ quy trình và cách thức thực hiện thay đổi như thế nào, theo
nguyên tắc nào để đạt được hiệu quả cao nhất. Nếu không, sự thay đổi sẽ thất
bại, người lãnh đạo sẽ mất uy tín trước mọi người.
2. Ưu điểm và hạn chế của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà
nước hiện nay:
a) Ưu điểm:
Có thể khẳng định rằng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước ta
hiện nay ra đời và trưởng thành trong sự nghiệp đấu tranh xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, vì thế có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với Đảng, Tổ
quốc và nhân dân, hết lịng phục vụ nhân dân, ln có ý thức vươn lên khắc

phục khó khăn, giữ vững phẩm chất, đạo đức là công bộc của dân. Bước vào
thời kỳ đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền, nền kinh tế thị trường, mở
cửa và hội nhập quốc tế, đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước đã có những bước
chuyển biến tích cực, kiến thức và năng lực thực tiễn quản lý kinh tế, quản lý
xã hội ngày một nâng lên, dần thích ứng với cơ chế thị trường và u cầu địi
hỏi của tình hình mới. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước đã tích cực
tham mưu cho Đảng, Chính phủ và Quốc hội hoạch định chính sách ở tầm
chiến lược, cụ thể: tham mưu xây dựng chủ trương, đường lối, chính sách,
pháp luật, bảo vệ và phát triển đất nước trên tất cả các lĩnh vực; thể chế hóa,
cụ thể hóa các chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị của Đảng thành hệ
thống thể chế, chính sách của Nhà nước, các chương trình, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Đồng thời, cũng chính đội ngũ này lãnh đạo, chỉ
đạo tổ chức thực hiện và giám sát, kiểm tra việc thực hiện. Ngoài ra, đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước cịn đóng góp tích cực vào việc đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kế cận của Đảng và Nhà nước ta.
Đặc biệt, khi nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO) đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính
phủ đã tích cực chủ động triển khai thực hiện có kết quả Nghị quyết Trung


10

ương 8 (khóa X) về một số chủ trương, chính sách lớn để kinh tế phát triển
nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của WTO và Nghị quyết số
16/2007/NQ-CP thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW. Nỗ lực và quyết tâm
cao, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước đã tham mưu cho Đảng và
Nhà nước trong việc đề ra các nhiệm vụ và giải pháp hữu hiệu để tận dụng cơ
hội, vượt qua thách thức, thực hiện tốt các chủ trương chính sách của Đảng về
hội nhập quốc tế, góp phần thắng lợi vào những thành công trong phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước 5 năm qua. Những thành tựu mà nền kinh tế

nước ta đạt được trong bối cảnh khủng hoảng và suy thối kinh tế tồn cầu rất
đáng được ghi nhận.
Lãnh đạo là quá trình dẫn dắt tổ chức và cùng tổ chức liên tục
vượt qua các thách thức mới mà với vốn kiến thức và kinh nghiệm cũ chưa đủ
để xử lý nó. Điều đó đồng nghĩa với việc trong quá trình lãnh đạo, nhà lãnh
đạo phải liên tục học hỏi để lấp đầy sự thiếu hụt kiến thức, kỹ năng của bản
thân, đồng thời phải lãnh đạo, chỉ đạo, khích lệ, ủng hộ q trình học hỏi và
sáng tạo trì thức mới để cùng nhau vượt qua thách thức.
b) Hạn chế:
Bên cạnh những ưu điểm và đóng góp to lớn, đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý nhà nước vẫn cịn khơng ít những bất cập, hạn chế cần phải khắc
phục. Cụ thể, bước vào thời kỳ đổi mới, một bộ phận đáng kể cán bộ công
chức lãnh đạo, quản lý nhà nước không theo kịp, không đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ, thiếu kiến thức về chuyên mơn, bất cập về nhiều mặt. Chúng ta cịn
thiếu cán bộ lãnh đạo, quản lý có trình độ, năng lực chuyên môn, năng lực tổ
chức, quản lý giỏi; thừa cán bộ lãnh đạo, quản lý kém cả phẩm chất đạo đức,
sức khỏe cũng như năng lực công tác. Sự yếu kém của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý, cũng như chất lượng nguồn nhân lực hiện nay là một thách thức
lớn trong q trình hội nhập quốc tế. Chính vì vậy, yêu cầu nâng cao chất
lượng, trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước đáp ứng
u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế thị
trường và mở cửa hội nhập quốc tế là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách trong
giai đoạn hiện nay.
Nguyên nhân của nhiều cuộc đổi mới không thành công đều bắt nguồn
từ việc người lãnh đạo chỉ dừng ở việc xây dựng kế hoạch và chương trình
hành động thay vì phải có một tầm nhìn hợp lý trong dài hạn. Tuy nhiên, tầm
nhìn dù có đúng đến mấy thì tự nó cũng khơng thể phát huy hết tác dụng định


11


hướng, thúc đẩy mọi người. Do đó, nhà lãnh đạo phải có kỹ năng chia sẻ,
truyền cảm hứng về tầm nhìn đến các cộng sự và cả những người ngồi tổ
chức. Bằng việc sử dụng các ẩn dụ, câu chuyện, biểu tượng, khẩu hiệu và
truyền thông với ngọn lửa nhiệt huyết, người lãnh đạo sẽ làm cho tầm nhìn vơ
hình trở nên sống động để mọi người có thể cảm nhận nó bằng tất cả giác
quan.
3. Một số yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý
nhà nước trong q trình cơng nhiệp hóa, hiện đại hóa, đất nước, xây dựng
nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế:
a)Thứ nhất, nâng cao năng lực tham mưu, đề xuất về chủ trương,
đường lối, chính sách, chế độ ở tầm chiến lược:
- Phải nắm và hiểu đầy đủ các chủ trương, đường lối, chính sách, chế độ
của Đảng và Chính phủ đã, đang được xác định trong quá khứ, hiện tại và tương
lai.
- Hiểu rõ những khó khăn, thuận lợi trong việc thực hiện để tham mưu
các giải pháp nhằm thúc đẩy việc thực hiện các chủ trương, chính sách đó tốt
hơn.
- Hiểu rõ những tác động của việc thực hiện chủ trương, đường lối,
chính sách, chế độ đến các địa phương, đến vùng, miền, khu vực và toàn cầu.
b) Thứ hai, nâng cao năng lực, trình độ thể chế hóa các chủ trương,
đường lối, nghị quyết, chỉ thị của Đảng thành hệ thống thể chế, chế độ, chính
sách của Nhà nước, các chương trình, kế hoạch thực hiện cụ thể:
Phải thấu hiểu đầy đủ các chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị
của Đảng ban hành nhằm mục đích gì để đưa vào thực tiễn cuộc sống với
những tính tốn cụ thể về giải pháp, nguồn lực lao động, điều kiện cơ sở vật
chất, kỹ thuật, thời gian thực hiện...
c) Thứ ba, nâng cao năng lực, trình độ lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các
thể chế, chế độ, chính sách, các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội:

- Nâng cao năng lực, trình độ lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng chương trình,
kế hoạch tuyên truyền, phổ biến và thực hiện các thể chế, chế độ, chính sách
của Nhà nước mới được sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành. Phải bảo đảm tính
khả thi và hiệu quả thiết thực của các bản chương trình, kế hoạch, tránh phơ
trương, hình thức, tốn kém và lãng phí. Đặc biệt, phải chú ý đến nguồn nhân
lực thực hiện, đồng thời lường trước những khó khăn, bất trắc, những tình


12

huống phức tạp có thể xảy ra làm cho chương trình, kế hoạch khó triển khai
thực hiện được để có các đối sách và những giải pháp khắc phục.
- Ngoài ra, cán bộ, cơng chức lãnh đạo, quản lý cịn phải lãnh đạo, chỉ
đạo việc xây dựng kế hoạch cụ thể thực hiện những chương trình, kế hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phù hợp với các u cầu
Cơng nghiệp hóa hiện đại hóa, đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường, mở
cửa hội nhập kinh tế quốc tế.
d) Thứ tư, nâng cao năng lực, trình độ giám sát kiểm tra việc thực hiện
các thể chế, chế độ, chính sách, các chương trình, kế hoạch tổng thể phát
triển kinh tế xã hội:
- Công tác giám sát, kiểm tra có vai trị cực kỳ quan trọng trong lãnh
đạo, quản lý, nếu không giám sát, kiểm tra thì có thể coi như khơng có sự lãnh
đạo, quản lý. Để nâng cao chất lượng công tác giám sát, kiểm tra của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với việc thực hiện các thể chế, chế độ chính sách,
cũng như các chương trình, kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, trên
thực tế, cần phải nâng cao trình độ, năng lực giám sát, kiểm tra của bản thân
đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý. Muốn vậy phải có chun mơn nghiệp vụ,
phải am hiểu và nắm chắc các quy định. Phải hiểu một cách sâu sắc rằng mục
đích của giám sát, kiểm tra là nhằm phòng ngừa những sai phạm, phát hiện ra
những bất hợp lý để sửa đổi, bổ sung, hồn thiện các thể chế, chế độ, chính

sách cho phù hợp với thực tế cuộc sống.
- Phải xây dựng kế hoạch giám sát, kiểm tra thường xuyên. Trong kế
hoạch kiểm tra, giám sát phải nêu rõ mục đích, yêu cầu, nội dung, nhiệm vụ,
phạm vi, đối tượng, thời gian, địa điểm, phương pháp, cách thức, cũng như
nhân sự tham gia giám sát, kiểm tra,… Đặc biệt, chú ý đến việc lựa chọn
những cán bộ có trình độ năng lực chun mơn, kinh nghiệm cao, có phẩm
chất đạo đức và bản lĩnh chính trị tốt. Đồng thời, đánh giá rất thận trọng,
chính xác các kết luận, kết quả kiểm tra và kiến nghị giải pháp, biện pháp
khắc phục, đề xuất, khuyến cáo sau mỗi đợt giám sát, kiểm tra.
e) Thứ năm, nâng cao trách nhiệm và trình độ đào tạo, bồi dưỡng, phát
triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý kế cận, bảo đảm cho sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước:
Yêu cầu này đòi hỏi phải đề cao trách nhiệm của cán bộ, công chức
lãnh đạo, quản lý nhà nước trong việc phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng những
cán bộ kế cận của mình, tạo mọi điều kiện cho những cán bộ, công chức dưới


13

quyền mình được rèn luyện, thử thách để trưởng thành và phát triển. Muốn
thế cần phải sát sao nắm chắc được trình độ, năng lực, sở trường, sở đoản của
những cán bộ, công chức trong cơ quan, đơn vị, tin tưởng và mạnh dạn giao
việc cho họ để họ có điều kiện rèn luyện, thử thách qua công việc thực tế,
đồng thời thường xuyên kiểm tra, đánh giá một cách cơng tâm kết quả cơng
việc họ thực hiện. Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng họ theo tiêu chuẩn chức
danh cụ thể. Để có thể phát hiện và đào tạo, bồi dưỡng được những cán bộ,
công chức lãnh đạo kế cận thì bản thân những cán bộ lãnh đạo, quản lý đương
nhiệm phải có tâm, có tầm, phải khách quan, vô tư, không thiên vị, phải biết
“dụng nhân như dụng mộc”, tất cả vì cơng việc, vì sự phát triển bền vững của
cơ quan, đơn vị. Đồng thời, phải nhận thức một cách sâu sắc rằng không phát

hiện và đào tạo, bồi dưỡng được đội ngũ cán bộ kế cận thay mình là thiếu sót,
là chưa làm trịn bổn phận của cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý.
Bên cạnh đó đánh giá cán bộ là khâu đầu tiên và là khâu rất quan trọng
trong cơng tác cán bộ, vì đánh giá có đúng thì mới lựa chọn và sắp xếp cán bộ
được hợp lý, mới sử dụng họ được tốt nhất. Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị
quyết Trung ương 3 khóa VIII về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta đã nhận định: “Tuy nhiên, đánh
giá cán bộ là khâu tiền đề quan trọng nhất nhưng vẫn là khâu khó và yếu nhất,
khó nhất là đánh giá cái “tâm”, cái “tầm” và bản lĩnh chính trị của cán bộ;
đánh giá cán bộ cịn hình thức, chưa phản ánh đúng thực chất cán bộ; chưa lấy
hiệu quả công việc làm thước đo chủ yếu trong đánh giá cán bộ; cịn cảm tính,
hình thức, xuề xoa, chiếu lệ; thiếu tính chiến đấu, thiếu tinh thần xây dựng
trong đánh giá cán bộ”. Vậy làm thế nào để đánh giá được đúng cán bộ, để
biết được cái hay (sở trường) và cái dở (sở đoản) của người cán bộ thuộc
phạm vi mình phụ trách để từ đó mới có cơ sở để lựa chọn, bố trí, sắp xếp và
sử dụng cán bộ có hiệu quả. Ngồi việc qn triệt các quan điểm, u cầu có
tính chất ngun tắc của việc đánh giá, cũng như phương pháp đánh giá thì
những nội dung cần được quan tâm trong đánh giá cán bộ có ý nghĩa quyết
định. Đánh giá cán bộ là đánh giá nhân cách của cán bộ, thông qua công việc
được giao và hiệu quả thực hiện công việc. Trước khi tuyển dụng, bố trí, đề
bạt cán bộ cần đánh giá đúng và khách quan, đánh giá qua mức độ nhận thức,
sự biểu hiện dứt khoát và đúng đắn về thái độ và hành vi của cá nhân trong
lĩnh vực hệ tư tưởng, chính trị, đánh giá quan điểm sống và làm việc, hệ thống
động cơ, quan 1 điểm về quản lý con người, về định hướng giá trị,đánh giá
qua khả năng nhận thức, bảo vệ và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin


14

và tư tưởng Hồ Chí Minh, đánh giá về năng lực hoạt động thực tiễn cần chú ý

đến sự cần mẫn, chăm chỉ hay thờ ơ, khối lượng và chất lượng công việc, khả
năng linh hoạt, sáng tạo; sự nhạy cảm về tổ chức, tính “linh cảm” trước một
vấn đề đặt ra buộc người lãnh đạo, quản lý cần phải giải quyết. Đó là khả
năng nắm bắt được đặc điểm tâm lý của người khác như tâm lý cấp trên, cấp
dưới, tâm lý chung của nhân dân nơi địa bàn mình phụ trách.
Để đánh giá chính xác cán bộ, cần phải xem xét về lai lịch trong quá khứ
cũng như q trình trưởng thành của họ. Nói cách khác phải biết kết hợp giữa
quá khứ, hiện tại và tương lai của họ thành một thể thống nhất, liên tục, sau
đó mới tiến hành khảo sát và nhận biết con người từ thể thống nhất này. Ngoài
ra, các nhà lãnh đạo cần phải biết thu thập những hành vi, dấu hiệu điển hình
bên ngồi để nhận ra các đặc điểm trong nhân cách của cán bộ.
Đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý cần dựa theo các tiêu chí được quy
định tại Quy định số 89-QĐ/TW ngày 4-8-2017 của Bộ Chính trị về Khung
tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp. Cụ thể, đánh giá theo các nhóm tiêu chí sau: (1) nhóm tiêu
chí về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong,
lề lối làm việc; (2) nhóm tiêu chí về kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ
được giao. Trong đó, có những tiêu chí chung và tiêu chí đặc thù cho từng
nhóm chức danh cán bộ.
Tóm lại, đánh giá đúng đắn cán bộ là một trong những yêu cầu quan
trọng hàng đầu, vì chỉ có trên cơ sở đánh giá đúng thì mới sử dụng đúng
người, sắp xếp bố trí đúng người, đúng việc, mới có thể lựa chọn được cán bộ
xứng đáng với vị trí cơng việc mà họ sẽ đảm nhiệm. Trong việc đánh giá cán
bộ thì chủ thể đánh giá người lãnh đạo, người làm công tác tổ chức cán bộ) có
vai trị quan trọng. Họ phải là người chí cơng vơ tư, có kiến thức và kinh
nghiệm đánh giá con người. Người làm công tác cán bộ phải biết và xử lý sự
lừa dối, người không trung thực, đồng thời phải biết đánh giá và trọng dụng
người trung thực, cần phải quán triệt quản điểm của Đảng: “Hằng năm hoặc
khi chuẩn bị đề bạt, luân chuyển, điều động cơng tác đối với cán bộ, tiêu chí
quan trọng để đánh giá, xếp loại tổ chức và cán bộ, đảng viên là chương trình

hành động của tập thể và cá nhân, kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao; kết
quả thực hiện cam kết rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, tự phê
bình và phê bình; sự nêu gương của cán bộ lãnh đạo, quản lý; hiệu quả đấu
tranh, khắc phục suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
* Sử dụng cán bộ cần chú ý một số chế độ, quy định về sử dụng cán bộ


15

Sử dụng cán bộ trong lãnh đạo có hiệu quả là một cơng việc khó khăn,
phức tạp. Khi sử dụng cán bộ cần thực hiện một số chế độ cụ thể như sau:
Một là, chế độ thưởng phạt nghiêm minh:
Thực chất đây là những quy định động viên về mặt vật chất và tinh thần
đối với những cá nhân có thành tích, có đóng góp lớn cho tổ chức, cho xã hội,
làm việc có hiệu quả cao, có uy tín và có tác dụng với những người xung
quanh, đồng thời nhằm phê bình, khiển trách, xử phạt những cá nhân mắc sai
lầm, hiệu quả hoạt động kém, có ảnh hưởng tiêu cực đến chính trị tư tưởng,
kinh tế.
Chế độ thưởng phạt được xây dựng theo từng mức độ và được cụ thể
hóa trong từng tổ chức, từng lĩnh vực. Tuy nhiên, chế độ thưởng phạt trong sử
dụng người tài cần được chú trọng không chỉ ở tiền thưởng, các danh hiệu mà
còn ở chế độ tiền lương, chế độ làm việc, nhà ở...
Hai là, chế độ quản lý, kiểm tra:
Để người tài phát huy được hết khả năng, sở trường của mình, trước hết
phụ thuộc vào chế độ sử dụng, chế độ quản lý. Chế độ quản lý với cơ chế cũ,
cứng nhắc, hình thức khơng những khơng phát huy được nhân tài mà cịn kìm
hãm sự đóng góp của nhân tài, làm thui chột nhân tài.
Chế độ kiểm tra khơng chỉ dừng ở mục đích đánh giá đúng về đóng góp
của nhân tài để khen thưởng hay kỷ luật đúng đắn, kịp thời, phát huy được
tính tích cực ở người tài mà còn hướng vào việc giám sát các tổ chức những

người lãnh đạo sử dụng nhân tài như thế nào, tránh được những yếu tố tiêu
cực trong công tác cán bộ. Ở Việt Nam hiện nay có nhiều hình thức kỷ luật
như kỷ luật của Đảng, xử lý kỷ luật của chính quyền, xử lý pháp luật. Thực
hiện chế độ kiểm tra nhằm đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng trong công tác
cán bộ đặc biệt là hướng vào mục tiêu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
phát huy cái hay của người, hạn chế cái dở của người.
Ba là, chế độ luân chuyển:
Luân chuyển là một chế độ trong sử dụng cán bộ của Đảng, ngày 7-102017 Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 98-QĐTW về luân chuyển cán bộ
lãnh đạo và quản lý. Đây là quy định đầu tiên của Bộ Chính trị về ln chuyển
cán bộ, cụ thể hóa Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về Chiến lược cán bộ
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và Nghị quyết số
11-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo và
quản lý. Với mục đích tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chủ trương, nghị
quyết của Đảng về công tác cán bộ và luân chuyển cán bộ, góp phần xây dựng


16

đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ trong từng giai đoạn; đổi mới mạnh mẽ
công tác luân chuyển cán bộ, bảo đảm dân chủ, khách quan, công khai, minh
bạch, cơng bằng; ngăn chặn tiêu cực, tham nhũng, lợi ích nhóm, quan hệ dịng
họ, thân quen... Quy định nêu rõ: Kết hợp luân chuyển với điều động, bố trí
hợp lý đội ngũ cán bộ trong tồn hệ thống chính trị; tăng cường cán bộ cho
những nơi khó khăn có nhu cầu, khắc phục tình trạng nơi thừa, nơi thiếu và
cục bộ, khép kín trong cơng tác cán bộ; tiếp tục thực hiện chủ trương luân
chuyển cán bộ kết hợp chặt chẽ với bố trí một số chức danh lãnh đạo chủ chốt
cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương và cán bộ không giữ chức vụ
quá hai nhiệm kỳ liên tiếp.
Bốn là, chế độ nhiệm kỳ:
Là chế độ quy định thời gian bắt đầu và kết thúc cương vị của một cán

bộ lãnh đạo quản lý hay một thành viên, một chuyên gia nào đó. Nghị quyết
Đại hội IX của Đảng cũng quy định cương vị lãnh đạo chủ chốt từ cấp huyện
trở lên không được quá hai nhiệm kỳ liên tiếp. Sử dụng nhân tài có nhiệm kỳ
sẽ phát huy ở mức cao nhất năng lực, sức sáng tạo của con người. Điều này
cũng tránh được những hạn chế của chế độ suốt đời.
Tóm lại, sử dụng cán bộ trong lãnh đạo là một trong những chức năng
cơ bản của hoạt động lãnh đạo. Đây là vấn đề vơ cùng khó khăn phức tạp, địi
hỏi vừa phải có tính khoa học, vừa phải có tính nghệ thuật. Để làm tốt cơng
tác này địi hỏi người lãnh đạo ở mọi cấp độ phải có động cơ, lập trường đúng
đắn, có nhiều quan điểm vì con người, vì sự phát triển của con người và tổ
chức. Mặt khác, còn phải có năng lực tổ chức, phải được đào tạo, bồi dưỡng
về chun mơn, nghiệp vụ tổ chức, có khả năng trực giác, kiến thức sâu sắc
về con người và kỹ năng hiểu, đánh giá con người.
* Sử dụng quyền lực trong lãnh đạo
Quan niệm về quyền lực trong lãnh đạo
Quyền lực là một hiện tượng xã hội xuất hiện cùng với sự ra đời của xã
hội lồi người và có ma lực rất mạnh. Thông thường, những người lãnh đạo
giỏi là người biết sử dụng quyền lực một cách hợp lý, phù hợp và biết rằng
khi nào thì nên ra lệnh, ra lệnh như thế nào và khi nào thì ủy quyền. Có thể
hiểu quyền lực trong lãnh đạo là khả năng gây ảnh hưởng của chủ thể lãnh
đạo này tới nhận thức, thái độ và hành vi của đối tượng lãnh đạo nhằm đạt
được các mục đích bên trong lãnh đạo.
Quyền lực cá nhân: Được thể hiện trên cơ sở: tài năng chuyên môn; sự
thân thiện với khách thể quyền lực, sức thu hút, hấp dẫn của chủ thể quyền


17

lực bởi sự trung thành với nhóm, tổ chức xã hội và các mục tiêu hành động
của nhóm, tổ chức và thể hiện khả năng nắm bắt được nhu cầu, nguyện vọng

của khách thể quyền lực... Quyền lực cá nhân là cơ sở giúp chủ thể quyền lực
tạo ra sự đồn kết, thống nhất trong nhóm, tổ chức, phát huy được sức sáng
tạo của khách thể quyền lực, lôi cuốn, kích thích họ tích cực hoạt động. Tuy
nhiên, quyền lực cá nhân không đảm bảo cho việc thực hiện nhiệm vụ một
cách nhanh chóng, sự lạm dụng nó dễ dẫn đến sự dễ dãi, thiếu tính kỷ luật
trong tổ chức và tình trạng đùn đẩy trách nhiệm khi giải quyết những cơng
việc khó khăn, nhạy cảm.
Quyền lực chính trị: Được thể hiện trên cơ sở sự kiểm soát đối với q
trình ra quyết định; sự liên minh, liên kết thơng qua sức mạnh của nhóm để
tạo quyền lực cho cá nhân, chẳng hạn: sự liên minh của các cá nhân trong
biểu quyết quyết định của nhóm, tổ chức; sự kết nạp các khách thể quyền lực
vào các nhóm (thơng thường làm giảm sự chống đối của khách thể quyền
lực), như, sự thu hút người lao động vào hoạt động quản lý ở các mức độ khác
nhau của một công ty, điều này làm tăng quyền lực của họ song vấn đề cốt lõi
là làm giảm khả năng chống đối của họ đối với các quyết định quản lý; việc
thể chế hóa bằng các quy định có tính chính thức (được thừa nhận). Cũng như
quyền lực địa vị, quyền lực chính trị khẳng định quyền lực được thừa nhận
của chủ thể quyền lực, nó đảm bảo tính hợp pháp cho một quyết định quản lý.
Quyền lực chính trị cũng là cơ sở để tạo nên sự lạm dụng, tính chất quan liêu,
quyền uy của chủ thể quyền lực.
Quyền lực địa vị là loại quyền lực có cơ sở từ bên ngồi, từ trên xuống,
tức là từ cơ quan tổ chức của chủ thể quyền lực mà tạo ra. Chẳng hạn, ở Việt
Nam, quyền lực địa vị được Nhà nước giao cho cá nhân và tập thể trong hệ
thống chính trị, có sự chuẩn y về mặt pháp lý gắn liền với các vị trí trong hệ
thống. Nhà nước đảm bảo các phương tiện cho chủ thể quyền lực có đủ sức
mạnh để thực thị các quyền ấy. Quyền lực địa vị đảm bảo tính hợp pháp của
chủ thể quyền lực, tăng cường sức mạnh cưỡng bức của các quyết định đối
với khách thể quyền lực. Nó đảm bảo tính kịp thời, nhanh chóng, tiết kiệm
thời gian trong thực hiện các nhiệm vụ đề ra. Tuy nhiên, sự lạm dụng, hoặc
thiếu hiểu biết về quyền lực địa vị là cơ sở dẫn đến tình trạng quan liêu của

chủ thể quyền lực, các quyết định thiếu tính khoa học, khơng phát huy được
trí tuệ của khách thể quyền lực, không nắm bắt được nhu cầu, nguyện vọng
của người dưới quyền, dễ tạo nên trạng thái căng thẳng, mẫu thuẫn trong
nhóm, tổ chức.


18

C. KẾT LUẬN
Nâng cao năng lực lãnh đạo. Trước hết, phải tiếp tục đổi mới phong
cách lãnh đạo, phương pháp ra nghị quyết theo hướng ngắn, gọn, thiết thực,
mang tính khả thi cao, xác định khâu trọng tâm, trọng điểm để tổ chức thực
hiện. Chú trọng việc xây dựng qui chế làm việc, qui chế phối hợp hoạt động
giữa các khối, các ngành, giảm bớt sự chỉ đạo bằng giấy tờ, hội họp. Tăng
cường công tác kiểm tra của Đảng, giữ gìn kỷ luật, kỷ cương trong Đảng coi
trọng cơng tác thanh tra của các cơ quan Nhà nước, đoàn thể trong việc chấp
hành các Nghị quyết của Đảng pháp luật của Nhà nước. Xây dựng một đội
ngũ cán bộ cốt cán từ trường đến phòng đến sở thật sự là hạt nhân lãnh đạo.
Phải tiếp tục kiện toàn các cơ quan tham mưu, tăng cường công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ có trình độ đại học, sau đại học chuyên ngành, chuyên
sâu từng lĩnh vực để có tầm nghiên cứu và thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu,
góp phần làm tốt vai trò tham mưu. Một vấn đề cũng hết sức quan trọng
thuộc về trách nhiệm của Đảng và Nhà nước cấp trên, đó là cần có chính
sách, chế độ tốt hơn, hợp lý hơn trong công tác cán bộ. Thực tế cho thấy:
Chính sách, chế độ cơng bằng, hợp lý là một trong những nguyên nhân khơi
dậy lịng nhiệt thành, sức cống hiến và sự đồn kết của đội ngũ cán bộ;
khuyến khích sự suy nghĩ sáng tạo, phát huy trách nhiệm và quyền hạn cá
nhân, tạo điều kiện cho cán bộ trở thành người lãnh đạo và quản lý giỏi.



19

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Cao cấp lý luận
chính trị: Khoa học lãnh đạo, Nxb.Lý luận chính trị, H.2018.
2. Nguyễn Bá Dương: Khoa học lãnh đạo - Lý thuyết và kỹ năng,
Nxb.Lý luận chính trị, H.2015.
3. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011,t5.



×