Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: Rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.17 KB, 36 trang )

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.Lí do chọn đề tài
Để đáp ứng yêu cầu khoa học của thời đại trong bối cảnh Việt Nam hội nhập
vào cộng đồng, khu vực và quốc tế. Việc đổi mới nội dung và phương pháp dạy
học nhằm nâng cao chất lượng cho học sinh là yêu cầu bức thiết của thực tế dạy
học hiện nay trong các nhà trường. Mơn Tiếng Việt là mơn có vị trí đặc biệt
quan trọng, mơn học chiếm 40,7% quỹ thời gian dạy học của tồn cấp. Mơn học
góp phần tích cực rèn các kĩ năng giao tiếp. Giao tiếp là chìa khố để học tập và
chiếm lĩnh tri thức của lồi người... Trong mơn Tiếng Việt thì tập đọc là phân
môn cơ sở, phân môn trọng yếu, phân môn chiếm nhiều số tiết dạy, phân môn
không chỉ tập trung rèn kĩ năng đọc cho học sinh mà còn giúp các em được tiếp
xúc với một thế giới mới để nâng cao tầm hiểu biết, nâng cao về những xúc cảm
tình cảm với cuộc sống con người, hơn nữa trong chương trình hiện nay, phân
mơn tập đọc với loại hình văn bản (ngữ liệu bài học) mới đa dạng, phong phú
gồm các văn bản nghệ thuật được trích ra từ các tác phẩm văn học trong và
ngoài nước. Các loại văn bản khác thuộc phong cách báo, khoa học, hành chính
sẽ là cơ hội để giúp các em hiểu thêm về các vấn đề xã hội, kinh tế, văn hoá phù
hợp với mơi trường và lứa tuổi các em.
Với tình hình thực tế hiện nay cho thấy việc đọc đúng, đọc diễn cảm của học
sinh lớp 4 còn chưa đạt u cầu. Có nhiều lí do dẫn đến thực trạng này, có cả
chủ quan lẫn khách quan do: Nội dung chương trình sách giáo khoa, do nhận
thức của con người, do nhu cầu học của người học, do phương pháp dạy học, do
sự thiếu hiểu biết, thiếu nhiệt tình của giáo viên,...
Qua những năm thực hiện việc thay sách giáo khoa, với vai trị giáo viên dạy
mơn Tiếng Việt, tơi luôn trao đổi học tập kinh nghiệm ở các ban ngành quản lí,
với đồng nghiệp, trên phương diện thơng tin đại chúng và đặc biệt tôi nghiên
cứu kĩ các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng dạy Tập đọc cho

1



học sinh lớp 4 để từ đó có biện pháp tốt nhất giúp học sinh đọc tốt, đọc hay
nhằm phần nào giải quyết được thực trạng trên góp phần nâng cao chất lượng
đọc cho học sinh lớp 4.
Giao tiếp là một nhu cầu rất cần thiết, nó là một vốn sống cơ bản không thể
thiếu được của mỗi con người. Đó là q trình giao tiếp giữa người với người,
nhằm trao đổi tư tưởng, tình cảm, cảm xúc, vốn kinh nghiệm sống... của mỗi con
người.
Con người ta giao tiếp với nhau bằng nhiều phương tiện, nhưng phương tiện
thông thường và quan trọng nhất là phương tiện ngơn ngữ.
Để q trình giao tiếp của của học sinh đạt hiệu quả và cũng đồng nghĩa với
việc dạy học Tiếng Việt của giáo viên đạt kết quả cao, muốn vậy người giáo
viên phải vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp và hình thức tổ chức
dạy học sao cho phù hợp với khả năng sử dụng ngôn ngữ của học sinh Tiểu học.
Như vậy dạy Tiếng Việt ở Tiểu học thực chất là giao tiếp bằng ngôn ngữ qua
hệ thống câu hỏi và bài tập. Trong phân môn Tiếng Việt chủ yếu là sử dụng hệ
thống câu hỏi và bài tập. Riêng đối với phân mơn Tập đọc Tiểu học nói chung
và lớp 4 nói riêng người dạy thường dùng các câu hỏi để giúp học sinh tìm hiểu
và đọc diễn cảm bài Tập đọc.Vì vậy giờ Tập đọc chủ yếu rèn kĩ năng đọc (đọc
đúng, đọc hiểu, đọc diễn cảm).Làm thế nào để học sinh đọc đúng, đọc hay, hiểu
được văn bản đọc? Làm thế nào để phối hợp đọc thành tiếng và đọc hiểu.Làm
thế nào để cho những gì các em đọc được tác động chính vào cuộc sống của các
em...đó là trăn trở của mỗi giáo viên trong mỗi giờ Tập đọc và cũng là lí do
khiến tơi lựa chọn đề tài: Rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4.
2. Phạm vi của đề tài
Để dạy tốt phân mơn Tập đọc có nhiều vấn đề cần nói đến đó là nội dung,
chương trình, phương pháp, đồ dùng, phương tiện dạy học, cách tổ chức một
giờ học,...Trong giới hạn cho phép và thực tế giảng dạy, tôi đã chọn và nghiên
cứu, tích luỹ kinh nghiệm về việc:
Rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4
3. Mục đích của đề tài

2


Xuất phát từ những lí do và cơ sở đã trình bày ở trên, tơi chọn viết sáng kiến
kinh nghiệm này nhằm đưa ra một chút kinh nghiệm giúp học sinh lớp 4 có kĩ
năng đọc tốt đồng thời giúp các em cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong các
tác phẩm văn học, các văn bản nghệ thuật,...Từ đó hình thành nhân cách cho các
em, tạo điều kiện cho các em tự tin, mạnh dạn trong học tập, trong cuộc sống.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, thực hiện sáng kiến tôi đã sử dụng những
phương pháp sau:
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế.
- Phương pháp thu thập nghiên cứu tài liệu, sách giáo khoa, sách giáo viên
Tiếng Việt lớp 4, các tạp chí, sách tham khảo có liên quan.
- Phương pháp thống kê, đối chiếu, thực nghiệm.
- Phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Để nắm bắt được kết quả trong quá trình nghiên cứu dạy phân môn Tập
đọc, tôi đã tiến hành điều tra và nghiên cứu
- Đối tượng giáo viên.
- Học sinh khối lớp 4 trường tơi dạy.
- Nghiên cứu chương trình phân mơn Tập đọc lớp 4.
- Nghiên cứu tài liệu bồi dưỡng giáo viên.
- Nghiên cứu phương pháp dạy Tập đọc lớp 4.

3


PHẦN II. NỘI DUNG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
A.Cơ sở lý luận:

Hiện nay chúng ta đang trên đường hội nhập với các nước trên khu vực và
thế giới nhằm thúc đẩy sự phồn vinh của nền kinh tế, văn hố. Cơng cuộc phát
triển đó đã và đang đặt ra những yêu cầu cấp bách với mọi ngành, mọi giới. Đại
hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định mục tiêu tổng quát chiến
lược phát triển kinh tế xã hội từ năm 2001 – 2010 là “Đưa đất nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần
của nhân dân, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước Cơng
nghiệp hố -Hiện đại hố”
Q trình Cơng nghiệp hoá- Hiện đại hoá phụ thuộc vào nhân tố con người –
sản phẩm của ngành giáo dục. Con người ở đây là con người có trí tuệ, có trình
độ khoa học kỹ thuật, có sức khoẻ... Những phẩm chất cao q đó khơng gì
ngồi giáo dục mới có. Vì vậy việc đổi mới giáo dục phổ thơng, trong đó có bậc
Tiểu học là hết sức cần thiết. Giáo dục đang trở thành mối quan tâm lớn của toàn
xã hội. Đặc biệt là giáo dục Tiểu học- cấp học nền móng trong hệ thống giáo dục
quốc dân với nhiệm vụ xây dựng tình cảm, đạo đức, trí tuệ thẩm mỹ và thể chất
cho trẻ.
Cùng với giáo dục phổ thông, giáo dục Tiểu học có rất nhiều đổi mới nhằm
giáo viên và học sinh cập nhật với kiến thức các nước trong khu vực cũng như
trên thế giới, đem lại bộ mặt mới, sức sống mới cho giáo dục.
Môn Tiếng Việt trong trường Tiểu học cũng góp phần đắc lực trong việc thực
hiện mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ theo đặc trưng của mơn mình. Việc dạy Tiếng
Việt trong nhà trường nhằm đào tạo cho học sinh kỹ năng sử dụng Tiếng Việt
văn hóa và hiện đại để suy nghĩ, giao tiếp và học tập.

4


Thông qua việc dạy học môn Tiếng Việt, nhà trường rèn luyện cho các em
năng lực tư duy, phương pháp suy nghĩ, giáo dục cho các em những tư tưởng
tình cảm lành mạnh, trong sáng. Có thể nói khơng có Tiếng Việt sẽ khơng có

một hoạt động nào trong nhà trường. Điều đó thể hiện rõ: Học sinh muốn tiếp
thu tri thức khoa học phải bằng con đường nghe, đọc. Thầy giáo muốn đánh giá
kết quả học tập của học sinh cũng phải thơng qua con đường nói và viết của các
em. Ngược lại thông qua việc sử dụng Tiếng Việt để học tập các mơn khác, trình
độ của các em cũng tăng lên, những tri thức và kỹ năng được học tập trong môn
Tiếng Việt cũng được củng cố và khắc sâu thêm.
Trong 9 môn học của bậc tiểu học thì mơn Tiếng Việt là mơn mang tính khoa
học tổng hợp bao gồm nhiều phân mơn nhỏ: Chính tả, Tập đọc, Tập viết, Luyện
từ và câu, Tập làm văn, Kể chuyện. Mỗi phân mơn có một đặc thù riêng, nhưng
Tập đọc là phân môn cực kỳ quan trọng. Biết đọc là có thêm một cơng cụ mới
để học tập, giao tiếp. Đây là công cụ mà chỉ người biết chữ mới có. Phân mơn
Tập đọc sẽ giúp cho học sinh một phương diện tiếp xúc với các môn học khác –
là cửa ngõ để học sinh đi đến việc cảm thụ văn học, từ đó mở cánh cửa vào địa
hạt của người biết đọc, biết viết để có thể có điều kiện tiến lên nắm lấy kho tàng
tri thức và văn hố của lồi người tàng trữ trong sách vở.
Ngồi ra thơng qua phân mơn Tập đọc, giáo dục cho các em những tình cảm,
mĩ cảm như yêu thiên nhiên, cảnh vật và con người. Hay nói rộng ra là tình u
q hương đất nước. Chính vì vậy, dạy Tập đọc ở cấp Tiểu học nói chung và ở
lớp 4 nói riêng, nó chiếm một vị trí cực kì quan trọng, đòi hỏi nhiều ở năng lực
của giáo viên: đọc đúng, đọc diễn cảm, khả năng cảm thụ, truyền thụ văn học,...
giúp cho học sinh rèn luyện kỹ năng: Nghe, nói, đọc, viết, thức tỉnh về nhận
thức, rung động về tình cảm, nảy nở những ước mơ đẹp, khơi dậy năng lực hành
động, sức mạnh cũng như bồi dưỡng tâm hồn.
B.Cơ sở thực tiễn:
Mục tiêu của dạy Tập đọc là hình thành và phát triển kĩ năng đọc cho học
sinh. Dạy tốt phân môn Tập đọc tức là dạy cho học sinh có kĩ năng đọc tốt, đó
chính là đọc phải có chất lượng: đọc rành mạch, lưu lốt, có biểu cảm, đọc hiểu
5



nội dung, ý nghĩa văn bản. Vậy mục đích cuối cùng của Tập đọc là bước đầu cho
học sinh tiếp xúc với ngôn ngữ nghệ thụât văn bản, tiếp nhận và xử lý được các
thơng tin. Chính vì thế dạy đọc diễn cảm, đọc hiểu có vai trị đặc biệt trong dạy
đọc nói riêng và dạy học ở Tiểu học nói chung.
Qua thực tế giảng dạy và tìm hiểu việc dạy Tập đọc ở lớp 4, tôi thấy đa số
giáo viên đều coi trọng việc đổi mới phương pháp dạy học, biết lựa chọn các
phương pháp phù hợp với nội dung từng bài, biết kết hợp giữa phương pháp
truyền thống với phương pháp “ Lấy học sinh làm trung tâm” sử dụng nhiều
phương pháp hợp lý. Nhưng bên cạnh đó cịn khơng ít giáo viên lúng túng khi
dạy theo phương pháp mới, chưa thực sự mạnh dạn áp dụng triệt để phương
pháp mới nên giờ dạy vẫn theo phương pháp cũ hoặc đổi mới nửa vời. Giờ tập
đọc coi nhẹ phần luyện đọc, vẫn sa đà vào giảng giải áp đặt cách đọc với học
sinh, hạn chế sự sáng tạo của các em, hiệu quả đọc chưa cao. Các lượng kiến
thức chưa được xử lý linh hoạt cho từng đối tượng học sinh. Việc đọc mẫu của
giáo viên còn đều đều, đọc lướt nhanh. Khai thác chưa triệt để đồ dùng cho việc
hướng dẫn luyện đọc. Cũng có những học sinh đọc bài nhiều lần ở nhà hoặc trên
lớp nhưng chưa chú ý đến việc đọc đúng chính âm, cịn đọc ngọng, chưa thể
hiện được cách nhấn giọng, biểu cảm các lời thoại phù hợp với nội dung của
từng bài. Học sinh đọc không thành câu, đọc ê a, đọc “vẹt”, đọc cho hết bài mà
không thấy cái hay trong từng câu, từng đoạn của bài mình đọc.
Xuất phát từ thực tế trên và sự nhận thức được tầm quan trọng của đổi mới
phương pháp dạy học khiến tôi đi sâu vào nghiên cứu các biện pháp “Rèn kĩ
năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4 ” với mong muốn giúp các em có kiến
thức và có kĩ năng giao tiếp tốt trong cuộc sống.
C. Thực trạng của vấn đề
Tôi đã điều tra thực trạng cơ bản để nắm vững chất lượng việc dạy của giáo
viên và việc học tập của học sinh. Việc làm này là hết sức quan trọng cho bất kì
một nghiên cứu nào. Có thực hiện điều tra cơ bản người giáo viên mới có cơ sở
đánh giá chung, phân tích từng yếu tố cụ thể, thể hiện ưu điểm, nhược điểm của


6


học sinh. Từ đó có biện pháp phát huy ưu điểm , khắc phục nhược điểm của giáo
viên.
Ngay từ đầu năm học, trong mỗi giờ Tập đọc tôi đã chú ý đến kĩ năng đọc
đúng, đọc diễn cảm cho học sinh, coi đó là một u cầu cơ bản khơng thể thiếu
khi nhận xét, đánh giá kĩ năng đọc của học sinh. Song trong thực tế giảng dạy và
qua việc dự giờ các lớp cùng khối những tuần đầu năm học , tôi thấy học sinh
thực hiện phần đọc đúng, đọc diễn cảm chưa được tốt.
Về phía giáo viên: Ngồi khả năng đọc mẫu tương đối tốt thì việc hướng dẫn
học sinh đọc đúng, đọc diễn cảm một đoạn văn, đoạn thơ cịn qua loa, chưa cụ
thể.
Về phía học sinh : Đa số các em biết đọc trơn văn bản, bước đầu nắm được
nội dung toàn bài, ý của mỗi đoạn. Một số em biết đọc phân biệt lời của các
nhân vật, biết thể hiện ngữ điệu song chưa được hay. Còn lại đa số các em đọc
giọng đều đều, chưa tìm đúng giọng đọc của bài, chưa biết thay đổi giọng đọc ở
từng đoạn phù hợp với nội dung, tâm trạng của nhân vật. Việc nhấn mạnh các từ
ngữ quan trọng trong câu, đoạn cũng còn nhiều hạn chế.
D. Giải quyết vấn đề:
I. Nghiên cứu hệ thống chương trình Tập đọc lớp 4:
Ở lớp 4 Tập đọc được dạy trong 62 tiết/ 1 năm, học trong 31 tuần, mỗi tuần
có 2 tiết tập đọc. Các bài mở đầu mỗi tuần thường là thơ, văn bản khoa học, văn
bản miêu tả,... được xếp theo 10 chủ điểm.
- Thương người như thể thương thân (tuần 1, 2, 3).
- Măng mọc thẳng (tuần 4, 5, 6).
- Trên đôi cánh ước mơ (tuần 7, 8, 9).
- Có trí thì nên (tuần 11, 12, 13).
- Tiếng sáo diều (tuần 14, 15, 16, 17).
- Người ta là hoa đất (tuần 19, 20, 21).

- Vẻ đẹp muôn màu (tuần 22, 23, 24).
- Những người quả cảm (tuần 25, 26, 27).
- Khám phá thế giới (tuần 29, 30, 31).
7


- Tình yêu cuộc sống (tuần 32, 33, 34).
(Các tuần 10, 18, 28, 35 dành cho ôn tập).
Phân môn Tập đọc được thiết kế trên hai trục chính: Chủ điểm và thể loại.
Trục chủ điểm gồm trục ngang – quan hệ giữa các chủ điểm của lớp 4, và trục
dọc – các chủ điểm đã học ở các lớp dưới.
Trên trục dọc các chủ điểm lớp 4 mang tính tổng hợp nâng cao các chủ điểm
đã học từ lớp 1, 2, 3, Trục dọc còn yêu cầu cao hơn các lớp dưới. Ví dụ trong
Tập đọc, ngồi việc tìm ý bài văn cịn chú trọng câu hỏi tìm đặc điểm nghệ
thuật, phát biểu sự cảm nhận của cá nhân... Các bài tập đọc phục vụ tốt cho việc
học các phân mơn khác cùng học trong thời gian đó.
II. Nghiên cứu về nội dung dạy tập đọc lớp 4:
- Trên cơ sở kỹ năng đọc thành tiếng, đọc thầm đã được rèn luyện ở các lớp
1, 2, 3, phân môn Tập đọc lớp 4 tiếp tục củng cố và nâng cao kỹ năng đọc một
cách đầy đủ, toàn diện cho học sinh nhằm hoàn thiện yêu cầu cần đạt: Đọc rành
mạch, lưu lốt bài văn (khoảng 90 tiếng/phút), đọc có biểu cảm bài văn, bài thơ
ngắn; hiểu nội dung, ý nghĩa của bài đọc.
- Thông qua 63 bài đọc thuộc các loại hình nghệ thuật, báo chí, khoa học
trong đó có 45 bài văn xuôi, 1 vở kịch, 17 bài thơ ( Có 2 bài thơ ngắn được dạy
trong 1 tiết). Phân môn Tập đọc ở lớp 4 tiếp tục củng cố, rèn luyện kỹ năng đọc
trơn, đọc thầm đã được phát triển từ các lớp dưới , đồng thời rèn luyện thêm về
kỹ năng đọc diễn cảm (thể hiện được tình cảm, thái độ thơng qua giọng đọc phù
hợp với sự việc, hình ảnh, cảm xúc, tính cách nhân vật trong bài).
Qua phần hướng dẫn sư phạm cuối mỗi bài tập đọc (gồm các nội dung giải
nghĩa từ, câu hỏi và bài tập tìm hiểu bài). Phân mơn Tập đọc lớp 4 còn tiếp tục

giúp học sinh rèn luyện kỹ năng đọc hiểu văn bản, cụ thể là:
+ Nhận biết đề tài, cấu trúc của bài .
+ Biết cách tóm tắt bài.
+ Hiểu được ý nghĩa của bài.
+ Biết phát hiện giá trị của một số biện pháp nghệ thuật trong các văn bản
văn chương.
8


+ Làm quen với thao tác đọc lướt để nắm ý, chọn ý.
Phân mơn Tập đọc cịn xây dựng cho học sinh thói quen tìm đọc sách ở thư
viện, dùng sách công cụ (từ điển sổ tay từ ngữ, ngữ pháp) và ghi chép những
thông tin cần thiết khi đọc.
Nội dung các bài tập đọc lớp 4 được mở rộng và phong phú hơn so với các
bài tập đọc ở lớp dưới. Các bài tập đọc tập trung phản ánh một số vấn đề cơ bản
về đạo đức, phẩm chất, sở thích, thú vui lành mạnh,... của con người thơng qua
ngơn ngữ văn học và những hình tượng giàu thẩm mĩ, nhân văn, các bài tập đọc
có tác dụng giáo dục tư tưởng, tình cảm và trau dồi tri thức cho học sinh. Hệ
thống các chủ điểm vừa mang tính khái qt vừa có tính hình tượng góp phần
cung cấp cho học sinh những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội, con người trong
nước và thế giới. Qua bài tập đọc học sinh còn được cung cấp thêm về vốn từ
ngữ, vốn diễn đạt những hiểu biết về tác phẩm văn học (như đề tài, nhân vật, cốt
truyện,...), từ đó nâng cao trình độ văn hố nói chung và trình độ Tiếng Việt nói
riêng.
III. Phương pháp dạy Tập đọc cho học sinh lớp 4:
Mỗi bài tập đọc gồm 2 phần lớn: tìm hiểu nội dung và luyện đọc. Hai phần
này có thể tiến hành cùng một lúc đan xen vào nhau hoặc cũng có thể tách hai
phần tuỳ theo từng loại bài mà giáo viên lựa chọn. Dù dạy theo cách nào thì hai
phần này ln có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Phần tìm hiểu bài giúp cho
học sinh hiểu kĩ nội dung nghệ thuật của bài, từ đó các em đọc đúng, đọc diễn

cảm.
Ngược lại học sinh đọc hay, đọc diễn cảm để thể hiện nội dung của bài, thể
hiện nội dung của bài, thể hiện những hiểu biết của mình về bài đọc.
Như vậy việc dạy đọc diễn cảm trong bài tập đọc là rất quan trọng góp phần
làm giàu vốn kiến thức văn học cho học sinh, từ đó góp phần hình thành ở các
em những phẩm chất, nhân cách tốt.
Trong quá trình tìm hiểu bài học sinh phải biết trả lời câu hỏi, làm bài tập để
tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của từng đoạn. Từ đó mới hiểu nội dung bài và
tìm ra cách đọc tốt nhất. Muốn hiểu bài tốt các em phải biết chia đoạn. Kĩ năng
9


này khơng dễ hình thành ở học sinh Tiểu học. Chính vì vậy địi hỏi người giáo
viên phải từng bước hình thành cho học sinh. Sau khi chia bài thành các đoạn,
giáo viên phải tiếp tục tổ chức, điều khiển, hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội
dung của từng đoạn bằng các phương pháp như: đàm thoại, trực quan, giảng
giải, thảo luận, nêu vấn đề,... và có sử dụng thêm một loạt các kĩ thuật khác như
giải nghĩa từ, phát hiện các thủ pháp nghệ thuật. Còn với học sinh cần làm
những công việc như: trả lời câu hỏi, hay làm các bài tập cho trước để tìm hiểu
đoạn. Tiếp theo học sinh cần tìm được những từ khó cần giải nghĩa. Các em phải
khái quát được ý từng đoạn và tìm hiểu thêm về các vấn đề khác có liên quan
đến nội dung đoạn. Trong quá trình khai thác tìm hiểu nội dung bài, giáo viên
cần phối hợp thật linh hoạt các phương pháp và luôn sáng tạo, luôn thay đổi các
câu hỏi gợi mở, dẫn dắt học sinh tìm hiểu bài cũng như dẫn dắt học sinh khai
thác nội dung trong ảnh minh hoạ.
Để bài đạt kết quả cao giáo viên cần phải quan tâm đến cách tổ chức có hệ
thống và lơgic các nội dung bài sao cho giờ học không bị ngắt quãng, gián đoạn.
Giáo viên phải lấy học sinh làm trung tâm. Vai trò của giáo viên ở mỗi tiết học
chỉ là người tổ chức, dẫn dắt học sinh tự tìm ra tri thức. Ngồi ra cần phải có
những yếu tố khác như cơ sở vật chất, đồ dùng, tranh ảnh,... và trình độ giáo

viên phải cao. Nếu phối hợp được các yếu tố đó thì giờ dạy sẽ tăng hiệu quả, học
sinh hứng thú học.
IV. Tiến hành khảo sát:
Ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành việc khảo sát chất lượng học sinh khối
4.Tôi đã trực tiếp tổ chức thi đọc diễn cảm trước lớp.
Đề bài: Tre Việt Nam (Tiếng Việt lớp 4- tập một- trang 41).
Kiểm tra đọc: Đọc đoạn: “Nòi tre đâu chịu mọc cong ... tre già măng mọc có
gì lạ đâu.”
Thời gian: 1 phút.
Kết quả như sau:

lớp

sĩ số

Giỏi
SL

4A

30

5

%
16,7

Khá
SL
10


%
33,3
10

Trung bình
SL
%
15
50,0

yếu
SL
0

%
0


4B
4C

30
30

2
3

6,7
10


7
8

23,3
26,7

20
19

66,7
63,3

1
0

3,3
0

Căn cứ vào kết quả khảo sát, tôi thấy số em đọc vào loại khá, giỏi ít . Trong
số những em đọc khá giỏi thì đa số mới chỉ dừng lại ở mức phát âm đúng, trôi
chảy. Chỉ một số rất ít em đọc diễn cảm. Vậy nguyên nhân do đâu? Qua khảo sát
thực tế, qua giao tiếp hàng ngày và qua dự giờ của một số giáo viên tôi đã tìm ra
một số nguyên nhân sau đây:
- Trước tiên là do lỗ hổng ở lớp dưới. Ở lớp dưới các em đọc hơi yếu. Khi
học lên lớp trên ngày một khó hơn địi hỏi các em phải cố gắng nhiều hơn. Các
em không những không cố gắng mà sự cố gắng có phần nào giảm sút. Lỗi là do
giáo viên ít uốn nắn các em, gia đình kém phần quan tâm.
- Nguyên nhân tiếp theo là: đa số con em ít đọc sách, báo,... thậm chí những
bài trong sách giáo khoa cũng không được đọc lại.

- Và một nguyên nhân cơ bản nhất là: giờ tập đọc bấy lâu nay chưa thực sự
cuốn hút học sinh. Trong quá trình giảng dạy giáo viên cịn ít chú ý đến khâu
luyện đọc mà chủ yếu đi sâu vào giảng bài. Bên cạnh đó cũng có những giáo
viên chú ý tới khâu luyện đọc cho học sinh nhưng mới chỉ dừng lại ở mức độ
luyện đọc trôi chảy mà chưa luyện đọc diễn cảm.
Từ việc nắm bắt được nguyên nhân trên, trong q trình giảng dạy tơi đã
mạnh dạn áp dụng việc cải tiến phương pháp giảng dạy bằng kinh nghiệm thực
tế của mình và đã thu được kết quả tốt. Sau đây tơi xin trình bày một số kinh
nghiệm tơi đã thực hiện.
V. Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4:
Với môn Tiếng Việt ở Tiểu học, mục tiêu được đặc biệt chú trọng là hình
thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe- nói- đọcviết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Như
vậy, yêu cầu học Tiếng Việt với học sinh tiểu học là yêu cầu quan trọng hàng
đầu. Yêu cầu rèn kỹ năng đọc bao hàm: đọc thông (đọc thành tiếng, đọc thầm và
đọc lướt) – đọc hiểu. Ở lớp 4, việc luyện đọc đã chú ý nhiều hơn đến yêu cầu
11


biểu cảm và câu hỏi tìm hiểu bài cũng chú trọng khai thác các chi tiết có giá trị
nghệ thuật nhiều hơn. Tôi đã tiến hành hướng dẫn học sinh như sau:
1.Hướng dẫn đọc thông:
1.1. Đọc thành tiếng:
a. Đọc thành tiếng để củng cố kĩ năng đọc đúng: giáo viên cần chú ý nghe
học sinh đọc để nắm được trình độ, từ đó nhận xét, gợi ý, hướng dẫn về cách
đọc đúng, cách phát âm, về ngắt nghỉ hơi hay tốc độ đọc sao cho thích hợp, giúp
học sinh có khả năng đọc tốt hơn.
Từ trước đến nay giáo viên chúng ta đã rất chú ý đến việc rèn đọc đúng cho
học sinh nhưng kết quả chưa cao. Tất nhiên do nhiều nguyên nhân, trong đó có
nguyên nhân: “ Phương pháp uốn nắn của giáo viên”.
Do đặc thù từng vùng miền mà việc phát âm tiếng mẹ đẻ có những đặc trưng

riêng, dẫn tới việc phát âm chưa chuẩn. Đặc biệt tỉnh Hải Dương chúng ta, việc
đọc lẫn giữa l/n là phổ biến.
Qua dự giờ một số giáo viên, tôi thấy khi các em phát âm sai, giáo viên
thường nhắc học sinh là “ Em đọc lại” hoặc “Cong lưỡi lên”,... Nói chung chung
như vậy các em rất khó sửa.
Tơi xin nêu ra phương pháp hướng dẫn học sinh phát âm âm đầu l/n mà học
sinh phát âm chưa chuẩn đó là:
+ Âm đầu l: Hướng dẫn phát âm: Đầu lưỡi đặt ở vị trí hàm trên, đầu lưỡi
cong lên, lưỡi chuyển động theo chiều đi xuống.
VD: Lung linh, lanh lợi, lực lưỡng,...
+ Âm dầu n: Hướng dẫn phát âm: Đầu lưỡi đặt mặt sau của răng, bật hơi,
lưỡi thẳng, đầu lưỡi hơi tụt lại.
VD: Nền nếp, nết na, nóng nực,...
Giáo viên kiên trì luyện cho học sinh từng âm nhiều lần trong ngày và trong
tất cả các môn học để các em nhớ và phát âm chuẩn một cách tự động.
+ Về âm lượng đọc:
Đọc thành tiếng là thể hiện nói trước đơng người chính vì vậy tơi đã giúp học
sinh hiểu được mình đọc khơng chỉ đọc cho mình nghe mà cịn đọc cho tất cả
12


các bạn trong lớp cùng nghe. Các em cần đọc rõ ràng, mạch lạc sao cho mọi
người xung quanh nghe rõ mình đọc gì?
Nếu học sinh đọc q nhỏ, tơi tìm ngun nhân (do thiếu tự tin, e ngại trước
đơng người, không biết lấy hơi,...), tôi thường xuyên gọi em đó đọc và khích lệ,
động viên em mạnh dạn, nhắc nhở em bình tĩnh. Ví dụ: “Em đọc to hơn một
chút nữa thì giọng đọc của em sẽ rất hay”, “Em hãy đọc một câu khác to hơn
cho cả lớp nghe”. Sau đó tơi cho cả lớp khen em đó.
Nếu có học sinh đọc quá to: cần nhắc nhở hướng dẫn học sinh điều chỉnh
giọng đọc ở mức vừa phải.

+ Về ngắt nghỉ hơi:
Trong khi học sinh đọc, tôi luôn quan sát lắng nghe từ đó thấy được cách đọc
của học sinh qua mỗi bài đọc, để rồi hướng dẫn chỉnh sửa cho các em cách đọc
đúng, ngắt nghỉ hơi chính xác. Khi đọc nhiều em cịn đọc thừa tiếng, thiếu tiếng,
phát âm sai phụ âm, ngắt nghỉ hơi tuỳ tiện. Tôi chú ý nhận xét cách đọc một
cách cụ thể rõ ràng chỉ ra chỗ học sinh đọc chưa đúng và hướng dẫn cách sửa:
Ví dụ: Dạy bài: “Trung thu độc lập” Tiếng Việt tập 1- trang 66.
Học sinh đọc: “Đêm nay anh đứng gác/ ở trại. Trăng ngàn/ và gió núi bao la
khiến lịng anh man mác/ nghĩ tới trung thu và nghĩ tới các em.”.
Hướng dẫn đọc ngắt đúng các cụm từ: “Đêm nay/ anh đứng gác ở trại. Trăng
ngà và gió núi bao la /khiến lịng anh man mác nghĩ tới trung thu/ và nghĩ tới
các em”.
Giáo viên có thể gọi học sinh đọc tốt đọc mẫu lại câu trên để học sinh đọc
ngắt nghỉ sai đọc lại cho đúng.
+ Về tốc độ đọc:
Đọc nhanh (lưu lốt, trơi chảy) là rất cần thiết vì lớp 4 học sinh đọc phải đảm
bảo tối thiểu 90 tiếng/ phút. Tốc độ đọc của học sinh phải song song với tiếp
nhận ý thức luyện đọc. Tránh đọc “vẹt”, đọc lướt mà khơng hiểu mình đọc gì.
Đọc đến đâu chắc đến đó, đọc cho mọi người nghe kịp hiểu nội dung bài. Tôi
đã hướng dẫn học sinh đọc đúng tốc độ bằng cách đọc mẫu cho các em để các
em xác định được tốc độ đọc đúng. Thường xuyên yêu cầu các em chọn một
13


đoạn, một bài được giới hạn trong thời gian quy định (dựa vào số lượng từ trong
đoạn bài đó).
Ví dụ: Bài “Mẹ ốm” Tiếng Việt 4 tập 1, trang 9.
Gồm 187 tiếng, đọc trong khoảng 2 phút 1 giây.
Hay bài: “Đôi giày ba ta màu xanh” Tiếng Việt 4 tập 1, trang 81.
Đoạn 2: “Sau này làm công tác Đội ở một phường ...nhảy tưng tưng.”

Gồm 129 tiếng, đọc trong khoảng 1 phút 43 giây,.....
Việc quy định thời gian tối thiểu cho từng đoạn, bài sẽ giúp cho học sinh có ý
thức rèn đọc đúng tốc độ.
b. Đọc thành tiếng để luyện đọc hay (hoặc diễn cảm)
Tôi đã căn cứ vào nội dung, phong cách văn bản để dẫn dắt, gợi mở học sinh
tìm ra cách đọc nhằm diễn tả nội dung một cách tốt nhất.
Qua điều tra thực trạng, tơi thấy việc hướng dẫn HS đọc diễn cảm địi hỏi
giáo viên phải kiên trì, dày cơng nghiên cứu kỹ chương trình, từng chủ điểm đặc
biệt là từng bài dạy – từng tác phẩm.
Kỹ năng đọc diễn cảm thường được luyện tập thông qua các văn bản nghệ
thuật, sau khi HS đã đạt được yêu cầu về đọc đúng, rõ ràng, rành mạch, đã tìm
hiểu bài và nắm được nội dung, ý nghĩa bài đọc. Muốn đọc diễn cảm một văn
bản, người đọc phải lựa chọn được giọng điệu, ngữ điệu phù hợp với tình huống
miêu tả, thể hiện được tình cảm, thái độ, đặc điểm của nhân vật hay tình cảm
thái độ của tác giả đối với nhân vật và nội dung miêu tả trong văn bản. Vì vậy
việc trước tiên cần làm đối với giáo viên và học sinh trước khi học một bài Tập
đọc là:
b.1. Bước chuẩn bị bài:
*. Đối với giáo viên:
- GV cần đọc kĩ tác phẩm, tìm hiểu xuất xứ, tác giả.
- GV cần nắm được nội dung, bố cục, biện pháp nghệ thuật và những ý tưởng
của người viết.

14


- Tập đọc bài, biểu cảm bài văn, bài thơ bằng nhiều cách: đọc thầm, đọc
thành tiếng. GV cần tập đọc cho đến khi đọc được giọng đọc chuẩn xác nhất,
hay nhất trước khi đọc mẫu cho HS.
*. Đối với HS :

- Trước khi học 1 bài Tập đọc các em cần đọc bài ở nhà, đọc chú giải từ khó
và các câu hỏi. Điều này sẽ giúp các em đọc bài được một cách lưu loát, nắm bắt
nội dung bài nhanh hơn, giảm bớt khó khăn cho giáo viên trong giờ học chỉ có
35- 40 phút. Giaó viên sẽ khơng mất nhiều thời gian cho phần luyện đọc, tìm
hiểu bài, tạo điều kiện và tăng thời lượng cho rèn đọc nâng cao- đọc diễn cảm.
- Việc quan trọng và cần thiết nhất là hướng dẫn học sinh luyện đọc diễn cảm
trong giờ Tập đọc để từng bước đạt được những u cầu nói trên. Sau đây tơi xin
nêu các bước luyện đọc diễn cảm cho học sinh:
b.2. Các bước luyện đọc diễn cảm cho HS:
- Thông thường trong phần luyện đọc diễn cảm, giáo viên chỉ định HS đọc
nối tiếp theo đoạn. Sau mỗi đoạn giáo viên gọi học sinh nhận xét để tìm đúng
giọng đọc, từ ngữ cần nhấn giọng. Giáo viên chốt lại cách đọc, có thể ghi bảng
hoặc sử dụng các băng giấy. Nếu HS thể hiện chưa đúng, chưa hay, giáo viên
yêu cầu em đó đọc lại. Tiếp theo có thể gọi học sinh khác đọc để củng cố đoạn,
giáo viên kết hợp với học sinh nhận xét, đánh giá cho điểm từng em.
Ví dụ: bài “Chợ Tết” Tiếng Việt 4- tập 2 có thể chia làm 4 đoạn (xem 4 dòng
thơ là một đoạn)
+ Đoạn 1: Tả cảnh đẹp của thiên nhiên hơm có phiên chợ.
GV cần hướng dẫn học sinh tìm đúng giọng đọc của đoạn này: Đọc chậm rãi,
nhấn giọng những từ ngữ gợi tả, gợi cảm (đỏ dần, ôm ấp, viền trắng, tưng bừng).
Khi học sinh biết đọc diễn cảm toàn bài, giáo viên tổ chức cho các em thi đọc
diễn cảm (hoặc đọc thuộc lòng) 1 đoạn tiêu biểu trong bài.
Ví dụ: Bài “Sầu riêng”- Tiếng Việt 4- tập 2. giáo viên cho học sinh thi đọc
diễn cảm đoạn 1 của bài với giọng tả nhẹ nhàng, chậm rãi. Nhấn giọng những từ
ngữ ca ngợi hương vị đặc biệt sức hấp dẫn của quả sầu riêng như: hết sức đặc

15


biệt, thơm đậm, rất xa, lâu tan, ngào ngạt, thơm mùi thơm, béo cái béo, ngọt, kỳ

lạ.
b.3. Hình thức tổ chức:
Hình thức tổ chức có thể theo cặp, nhóm 3 đến 4 em. Các em tự chọn bạn
đọc hay nhất nhóm mình để thi với các nhóm khác. Giáo viên và học sinh bình
xét cho điểm và khen ngợi những em đọc hay. Các mức độ để đánh giá học sinh
đọc hay (đọc diễn cảm) là:
a/ Biết nhấn mạnh các từ ngữ quan trọng trong câu (từ ngữ gợi tả, gợi
cảm, từ ngữ chìa khố làm nổi bật ý chính).
Ví dụ: Bài “Trong quán ăn “Ba cái bống””- Tiếng Việt 4- tập 1- trang 158.
GV cần hướng dẫn HS phát hiện ra các từ cần nhấn giọng. Chẳng hạn:
- Đoạn 1: Nhấn giọng dưới từ: “im thin thít” để thể hiện rõ sự thông minh của
Bu- ra- ti- nô.
Nhấn giọng dưới từ: “tống” để thấy rõ sự hùng hổ của Ba- ra- ba ở lúc đầu.
- Đoạn 2: Nhấn giọng dưới từ: “sợ tái xanh cả mặt, cầm cập, ấp úng” để
làm toát lên vẻ ấp úng, khiếp đảm của Ba- ra- ba vào lúc sau.
- Đoạn 3: Nhấn giọng từ: “mười đồng tiền vàng, nộp ngay, đếm đi đếm lại,
thở dài, ngay dưới mũi”để làm cho người nghe hiểu rõ hơn về sự ranh mãnh của
cáo A- li- xa.
Nhấn giọng dưới từ: “Ném bốp, há hốc” để thể hiện sự tức giận, ngạc nhiên
của lão Ba- ra- ba khi biết mình mắc mưu của Bu- ra- ti- nơ.
Nhấn giọng dưới từ: “lổm ngổm, lao” để thể hiện sự thông minh nhanh nhẹn
của Bu- ra- ti- nô.
b/ Biết thể hiện ngữ điệu (Sự thay đổi về tốc độ, cao độ, cường độ, trường
độ) phù hợp với từng loại câu (câu kể, câu hỏi, câu cảm, câu khiến)
Ví dụ 1: Bài “Trong quán ăn “Ba cá bống””- Tiếng Việt 4- tập 1- trang 158.
GV cần hướng dẫn thay đổi tốc độ của đoạn giới thiệu và phần nội dung. Cụ thể:
đoạn giới thiệu đọc chậm còn phần nội dung đọc nhanh, bất ngờ, hấp dẫn.
Ví dụ 2: Bài “Thắng biển”- Tiếng Việt 4- tập 2- trang 76 GV cần hướng dẫn
HS thay đổi tốc độ theo từng đoạn
16



- Đoạn 1: Câu đầu đọc chậm rãi, những câu sau nhanh dần thể hiện sự đe
doạ của cơn bão biển.
- Đoạn 2: Giọng gấp gáp căng thẳng gợi ra cảnh tượng biển cả giận dữ,
điên cuồng tấn công con đê.
- Đoạn 3: Giọng hối hả, gấp gáp hơn thể hiện cuộc chiến đấu với biển cả
rất gay go, quyết liệt, sự dẻo dai ý chí quyết thắng của những thanh niên xung
kích.
- Câu kết giọng đọc khẳng định, tự hào.
c/ Biết đọc phân biệt lời kể của tác giả và lời của nhân vật
Ví dụ: Bài Trong quán ăn “Ba cá bống” – Tiếng Việt 4- tập 1- trang 158. Cần
phân biệt lời của các nhân vật như sau:
- Lời người dẫn truyện: đọc chậm rãi ở phần đầu, phần sau nhanh hơn, bất
ngờ, li lì.
- Lời Bu- ra- ti- nô: thét, doạ nạt.
- Lời lão Ba- ra- ba: lúc đầu hùng hổ, sau ấp úng.
- Lời cáo A- li- xa: chậm rãi, ranh mãnh.
d/ Biết đọc phân biệt lời của các nhân vật sao cho phù hợp các đặc điểm
lứa tuổi và tính cách của từng nhân vật (người già, trẻ em người tốt, kẻ xấu).
Ví dụ: Bài “Người ăn xin”- Tiếng Việt 4- tập 1- trang 30
+ Cậu bé: - Ơng đừng giận cháu, cháu khơng có gì để cho ơng cả.
(Giọng xót thương ơng lão, một cách chân thành)
+ Ông lão: Cháu ơi, cảm ơn cháu! Như vậy là cháu đã cho ông rồi.
(Giọng xúc động trầm ấm của người cao tuổi)
- Bài “Khuất phục tên cướp biển”- Tiếng Việt 4- tập 2- trang 66. HS cần chú
ý đọc phân biệt lời tên cướp cục cằn hung tợn, lời bác sĩ Ly điềm tĩnh nhưng
kiên quyết, đầy sức mạnh
e/ Biết thể hiện ngữ điệu phù hợp với tình huống miêu tả trong văn bản
hay thái độ, cảm xúc của tác giả (vui, buồn, trang nghiêm, giận giữ)

Ví dụ: Bài thơ “Mẹ ốm”- Tiếng Việt 4- tập 1. Khổ thơ 1,2 giọng đọc trầm
buồn, khổ thơ 4, 5 đọc giọng vui hơn.
17


Một điều quan trọng GV cần chú ý là tư thế, tác phong của người đọc. HS
cần bình tĩnh, tự nhiên, giọng đọc có độ âm vang vừa phải, khơng quá to hoặc
quá nhỏ. Một sắc thái rạng rỡ, vui tươi trên nét mặt một nụ cười hay một thoáng
trầm tư phù hợp với từng câu, đoạn trong bài sẽ góp phần tăng thêm cái hay, cái
đẹp của tác phẩm dễ đi vào lịng người. Ánh mắt khơng phải lúc nào cũng nhìn
chằm chằm vào sách mà đơi lúc nhìn vào người nghe, lơi cuốn sự chú ý của mọi
người.
Tóm lại: Để phát huy tính tích cực và sáng tạo của HS trong quá trình tập đọc
diễn cảm, GV tổ chức cho HS luyện tập “tự bộc lộ” trên cơ sở đọc mẫu của GV
và kết quả của việc luyện đọc, tìm hiểu bài. Qua đó mà chỉ dẫn, điều chỉnh về
cách đọc cho HS khi thấy cần thiết, GV có thể đọc mẫu nhằm minh hoạ, gợi ý
hoặc tạo tình huống cho HS nhận xét, giải thích, tự tìm ra cách đọc.
Chẳng hạn: Đối với văn bản nghệ thuật: Tôi hướng dẫn học sinh đọc diễn
cảm thông qua việc dẫn dắt gợi mở học sinh thể hiện tình cảm, thái độ qua giọng
đọc phù hợp với hình ảnh, cảm xúc trong bài thơ, sự việc, tính cách nhân vật
trong bài văn, vở kịch,...
*Một số điểm chú ý trong quá trình luyện đọc cho học sinh:
- Nếu có học sinh nào phát âm chưa đúng, hoặc đoạn nào chưa diễn cảm,
chưa thực hiện được giọng đọc của từng nhân vật thì tuyệt đối khơng bắt dừng
lại ngay để sửa vì làm thế học sinh sẽ mất hết cảm hứng khi đọc, dẫn đến việc
đọc diễn cảm khó thành cơng. Phần nhận xét ghi điểm của học sinh, giáo viên
nên động viên hoặc cố tìm ra những ưu điểm của các em bên cạnh những nhược
điểm để nhận xét nhằm giúp các em có hướng phấn đấu để đọc cho tốt, tạo hứng
thú khi đọc. Tránh tình trạng lúc nào cũng chê như: “Em đọc nhỏ quá”, “Em đọc
chậm lắm”, “Em đọc kém quá”,.... Đọc là đặc trưng của phân môn Tập đọc nên

mỗi giờ tập đọc cần tối đa rèn luyện đọc cá nhân 2/3 số học sinh trở lên. Có thể
đọc cá nhân riêng lẻ hoặc nối tiếp từng đoạn, đọc đồng thanh (nhóm, tổ, lớp) khi
cần thiết như: Khắc sâu ấn tượng về nhịp điệu của đoạn văn, đoạn thơ; giúp học
sinh ghi nhớ dễ dàng đoạn bài cần thuộc lịng, thay đổi hoạt động tạo khơng khí
hào hứng cho lớp học. Có thể phối hợp nhiều học sinh đọc cá nhân- đọc theo
18


vai. Cuối cùng gọi một học sinh đọc thật diễn cảm để khắc sâu ấn tượng. Làm
thế nào để cho tất cả các học sinh đều thích đọc.
- Giáo viên cần chú trọng hình thức đọc cá nhân để rèn luyện uốn nắn cho
từng HS, kết hợp hình thức đọc theo nhóm để nhiều học sinh được tham gia và
tham gia nhiều lần đọc trong một tiết học. Xen kẽ hợp lí đọc đồng thanh để tạo
khơng khí lơi cuốn HS yếu, học sinh còn rụt rè vào hoạt động đọc. Đảm bảo
toàn bộ học sinh đều được tham gia luyện đọc và càng được đọc nhiều lần càng
tốt. Có thể hạn chế hình thức đọc phân vai, giảm yêu cầu đọc diễn cảm nếu khả
năng đọc của học sinh còn chưa chắc chắn.
- GV dành thời gian nhiều hơn cho phần luyện đọc rõ ràng, rành mạch.Ví dụ:
Bài Tập đọc “Dế mèn bênh vực kẻ yếu” (tuần 1), GV cần tập trung cho học
sinh tập đọc đoạn. Những học sinh yếu, kém đọc đoạn 1 (dễ và ngắn hơn).
Những học sinh trung bình đọc đoạn 2, đoạn 3 (tương đối dài hơn), HS khá đọc
đoạn 4 (lời đối thoại đọc khó hơn).
1.2. Đọc thầm:
Giữa hai hình thức đọc thành tiếng và đọc thầm, ta cần chú ý coi trọng hình
thức đọc thầm ở mức độ thích hợp. Bởi đọc thầm với tốc độ nhanh và hiệu quả
cao (nắm bắt đúng, đủ thông tin cơ bản, cảm thụ tốt văn bản nghệ thuật) là mục
đích, là yêu cầu cơ bản của hoạt động đọc nói chung. Giáo viên cần căn cứ vào
kĩ năng đọc- hiểu của lớp 4 để hướng dẫn học sinh luyện tập các thao tác thích
hợp trong giờ tập đọc.
a. Đọc thầm để tìm hiểu bài theo yêu cầu đề ra (trả lời câu hỏi hoặc thực

hiện bài tập ngắn trong sách giáo khoa). Giáo viên cần giao nhiệm vụ cụ thể cho
học sinh nhằm định hướng rõ việc đọc- hiểu (đọc đoạn văn hay khổ thơ nào đọc
để biết, hiểu nhớ hay suy nghĩ và trao đổi về điều gì...)
Ví dụ:- Đọc thầm đoạn cuối bài ( Từ : Thị thơm thị giấu người thơm... hết
bài) và trả lời câu hỏi: Bài thơ gợi cho em nhớ đến những truyện cổ nào? Chi
tiết nào cho em biết điều đó?
(Truyện cổ nước mình – TV4 tập 1- tr 19)

19


- Đọc thầm đoạn 2 và trả lời câu hỏi: Cậu bé đã làm gì để chứng tỏ tình
cảm của cậu với ông lão ăn xin?
( Người ăn xin – TV4 tập 1 - Tr 30)
Yêu cầu đọc thầm phải gắn với những nhiệm vụ cụ thể, không cắt rời lệnh, ví
dụ: yêu cầu học sinh đọc thầm, học sinh đọc xong mới nêu câu hỏi, từng bước
hình thành thói quen chú ý khi đọc thầm để thu nhận thông tin, để “nhập thân”
và cảm thụ văn bản nghệ thuật.
b. Đọc lướt để nắm nội dung, tóm tắt ý hoặc chọn ý.
Ví dụ:
- Đọc lướt đoạn cuối bài để phát hiện từ ngữ được lặp laị nhiều lần?
( Tre Việt Nam – TV tập 1 – tr 41)
- Đọc lướt tồn bài và trả lời câu hỏi: Vì sao tác giả lại gọi hoa phượng là
“ Hoa học trò” ?
( Hoa học trò – TV4 tập 2 – tr 43 )
- Đọc lướt toàn truyện, kể tên những nhân vật có trong truyện? Đó là những
ai?
(Những hạt thóc giống – TV4 – tr 46 )
- Đọc lướt đoạn 1 trả lời câu hỏi: Cẩu Khây có sức khoẻ và tài năng như thế
nào?

( Bốn anh tài- TV4 tập 2 – tr 4 )
Giáo viên cần từng bước đề ra nhiệm vụ hay yêu cầu từ dễ đến khó để học
sinh làm quen dần với cách đọc thầm nhanh: mở rộng trường nhìn, đọc lướt từng
câu, đoạn hoặc cả bài, giúp học sinh có ý thức đọc thầm và tự giác đọc thầm các
bài học khơng cần giáo viên nhắc nhở.
Tóm lại muốn có kết quả cao trong q trình giảng dạy nhất là khâu đọc
cho học sinh phải tốn rất nhiều thời gian. Nó là cả một q trình lâu dài, kiên trì,
bền bỉ mới có được.
2. Hướng dẫn tìm hiểu bài (đọc- hiểu)
Ngoài nhiệm vụ rèn đọc cho học sinh, tập đọc cịn có nhiệm vụ tích luỹ kiến
thức đa dạng phong phú cho các em. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài nhằm
20


mục đích trau dồi kĩ năng đọc- hiểu, nắm bắt thơng tin, góp phần nâng cao năng
lực cảm thụ văn học và tạo cơ sở cho học sinh luyện đọc diễn cảm. Nhưng dạy
học như thế nào để tránh biến giờ tập đọc thành giờ giảng văn, hoặc để giờ tập
đọc trở nên nhàm chán, khô khan không gây hứng thú cho học sinh.
Như một nhà triết học cổ Hi Lạp có nói: “Dạy học khơng phải là chất đầy
một cái thùng rỗng mà làm bừng sáng lên những ngọn lửa”. Có nghĩa là dạy học
phải phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh để hoạ sinh tự tìm tịi
khám phá những kiến thức mới của bài học.
Để hướng dẫn học sinh tìm tịi kiến thức bài đạt kết quả tốt, ngay từ khi yêu
cầu học sinh tiếp cận văn bản nhằm mục đích đọc đúng (luyện đọc). Giáo viên
cần giúp các em hiểu nghĩa của một số từ ngữ có tác dụng góp phần nâng cao kĩ
năng đọc- hiểu (từ ngữ được chú giải trong sách giáo khoa, từ ngữ phổ thông mà
học sinh chưa quen, từ ngữ đóng vai trị quan trọng để hiểu nội dung bài đọc).
Dựa vào các câu hỏi, các bài tập trong sách giáo khoa, lấy học sinh là trung tâm
để thiết kế cho phù hợp.
Trong thực tế nhiều giáo viên đã sử dụng nguyên văn tất cả các câu hỏi, bài

tập định hướng trong sách giáo khoa mà không lường trước học sinh có trả lời
được hay khơng?
Khi hướng dẫn tìm hiểu bài, giáo viên giao nhiệm vụ, nêu câu hỏi gợi ý, học
sinh trả lời, khi không nhận được kết quả như dự định thì giáo viên gọi em khác
trả lời. Khơng có em nào làm đúng thì giáo viên làm thay cho học sinh và giảng
như giảng văn. Chính vì vậy việc dạy đọc- hiểu cho học sinh kết quả chưa cao.
Như vậy dạy theo phương pháp mới, giáo viên nói ít, giảng ít nhưng việc
chuẩn bị bài phải công phu hơn, phải thiết kế định hướng tổ chức bài dạy tốt để
học sinh có thể thi cơng tự tìm kiến thức. Giáo viên phải nghiên cứu soạn thảo
các câu hỏi và bài tập phù hợp với mục tiêu bài học và đối tượng học sinh.
Sau khi nghiên cứu các bài tập đọc ở sách giáo khoa Tiếng Việt 4, tôi thấy
giáo viên và học sinh được tiếp xúc với nhiều văn bản nghệ thuật có phong cách
hơi khác lại, hoặc hơi khó hiểu, hoặc khó mà làm cho học sinh hứng thú khi khai
thác, tìm hiểu. Ví dụ: Rất nhiều mặt trăng, Tiếng cười là liều thuốc bổ...; (tập 1);
21


Một số bài có vẻ khơ khan như tuần 4 gồm các bài: Một người chính trực; Một
nhà thơ chân chính (truyện) ,... (tập 1). Nhưng cũng có nhiều bài rất hấp dẫn
như: “Gà trống và cáo”, “Nếu chúng mình có phép lạ”, ... (tập 1); “Hoa học trị”,
“Đường đi Sa Pa”,... (tập 2). Vậy làm thế nào để chỉ ra được cái hay cái hấp dẫn
của chúng? Quả thực nếu không biết cách khai thác, những sắc màu huyền diệu
của ngơn từ nghệ thuật sẽ biến mất, chỉ cịn lại trần trụi những nội dung thông
báo khô cứng.
Tôi đã hướng dẫn học sinh đọc- hiểu thông qua hệ thống câu hỏi và bài tập
trong sách giáo khoa. Bên cạnh những câu hỏi u cầu học sinh tìm thơng tin
nhận biết phần nội dung bài, các bài đọc cịn có những câu hỏi để học sinh tập
dượt kĩ năng đọc- hiểu. Biện pháp hướng dẫn thực hiện các câu hỏi bài tập đó
như sau:
2.1. Biện pháp tìm hiểu từ ngữ:

Giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách hiểu, cách cảm nghĩa của từ ngữ
được dùng trong một văn cảnh cụ thể của bài văn, bài thơ. Ví dụ câu hỏi:
- Vì sao tác giả gọi hoa phượng là “hoa học trò”?
(Hoa học trò – TV4 tập 2, trang 43)
Với câu hỏi này giáo viên cần hướng dẫn học sinh dựa vào những điều tác
giả muốn nói trong từng đoạn văn (ra hoa vào đúng mùa thi, báo hiệu mùa hè
sắp đến,...). Từ đó, các em phát biểu cách hiểu của mình về hoa phượng - hoa
học trị.
Trường hợp loại câu hỏi cho biết ý nghĩa rồi yêu cầu học sinh tìm từ ngữ biểu
đạt ý nghĩa đó. Ví dụ: Nguyễn Hiền ham học và chịu khó như thế nào?
(Ơng Trạng thả diều - TV tập1 trang 104)
Như vậy, giáo viên cần chú ý rèn cho học sinh kĩ năng tìm hiểu từ ngữ để
giúp các em có khái niệm ban đầu về đặc điểm của ngôn ngữ nghệ thuật. Từ đó
khi đọc văn, các em biết chú ý tìm hiểu và thưởng thức vẻ đẹp trong ngôn từ của
văn bản.
2.2.Biện pháp cảm nhận hình ảnh:

22


Giáo viên hướng dẫn học sinh cảm nhận được những hình ảnh gợi ra từ ngơn
từ nghệ thuật. Có những câu hỏi yêu cầu học sinh chỉ ra những hình ảnh mà các
em cảm nhận được khi đọc bài văn bài thơ.
Ví dụ:
- Em Thích hình ảnh nào về cây tre và búp măng non? Vì sao?
( Tre Việt Nam – TV4 tập 1 – tr 41)
- Trăng trung thu độc lập có gì đẹp?
( Trung thu độc lập- TV 4 tập 1 – tr 66)
- Em thích những gì ở vương quốc Tương Lai?
( Ở vương quốc Tương Lai – TV4 tập 1- tr 70)

Hay những câu hỏi yêu cầu học sinh tìm ra chi tiết tạo nên hình ảnh.
Ví dụ:
- Chi tiết nào nói lên sự cảm động và niềm vui của Lái khi nhận đôi giày?
( Đôi giày ba ta màu xanh TV4 – tập 1 –tr81)
- Chi tiết “ nung trong lửa” tượng trưng cho điều gì?
( Chú Đất Nung , trang 134, TV tập 1)
- Em thấy những hình ảnh, chi tiết nào trong truyện ngộ nghĩnh và lí thú?
( Trong quán ăn “ Ba cá bống”- TV 4 T1- tr158)
Với những câu hỏi trên, việc chú ý hướng dẫn học sinh luyện tập cách cảm
nhận là rất quan trọng. Nó giúp học sinh phát huy trí tưởng tượng, khả năng cảm
thụ văn học dần hình thành và phát triển.
Một loại câu hỏi ở mức độ cao hơn là tái hiện lại hình ảnh cảnh vật mà em đã
hình dung và cảm nhận được. Ví dụ:
- Qua các câu mở bài và kết bài, tác giả muốn nói điều gì về cánh diều tuổi
thơ?
+ Cánh diều là kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ.
+ Cánh diều khơi gợi những mơ ước đẹp cho tuổi thơ.
+ Cánh diều đem đến bao niềm vui cho tuổi thơ.
( Cánh diều tuổi thơ- TV4 – tập 1- tr146)
+ Nếu vẽ một bức tranh minh hoạ bài thơ này, em sẽ vẽ như thế nào?
23


(Tuổi ngựa- TV4- tập 1-tr 149)
Giáo viên cần hướng dẫn các em miêu tả bằng lời văn của mình những hình
ảnh cảm nhận được từ câu chữ trong bài văn, bài thơ.
2. 3.Biện pháp khai thác hàm ý lời nói:
Tác phẩm văn học vốn hàm súc và nhiều tầng nghĩa. Việc đọc hiểu văn bản
nghệ thuật thực chất là công việc khai thác hàm ý ẩn sâu trong câu chữ, hình
ảnh, hình tượng của tác phẩm. Đối với học sinh yêu cầu này là khó. Tuy nhiên ở

một vài bài tập đọc với ngữ cảnh thuận lợi vẫn đưa ra những yêu cầu học sinh
khá giỏi tìm hàm ý của câu văn, câu thơ. Ví dụ: Bài “Bè xi sơng La” – (TV 4 –
tập 1- tr26). Học sinh phải trả lời câu hỏi: “Hình ảnh: “ Trong đạn bom đổ nát;
Bừng tươi nụ ngói hồng” nói lên điều gì?.
Hay trong bài “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”: học sinh trả lời
câu hỏi: Theo em cái đẹp thể hiện trong bài thơ này là gì?
Giáo viên hướng dẫn học sinh dựa vào ngữ cảnh để trả lời.
Tương tự, với hai dòng thơ cuối bài của bài tập đọc: “Truyện cổ nước mình”
(trang 19, tập 1):
“Tơi nghe truyện cổ thầm thì
Lời ơng cha dạy cũng vì đời sau”
Học sinh phải trả lời câu hỏi: “Em hiểu ý hai dòng thơ cuối bài như thế
nào?”. Để trả lời câu hỏi trên, hướng dẫn học sinh đọc kĩ đoạn thơ để tìm ra căn
cứ, để các em suy đoán ra điều mà hai câu thơ cuối đoạn muốn nói .
Giáo viên cần chú ý việc hướng dẫn học sinh khai thác hàm ý của lời nói một
cách hợp lý, đảm bảo tính vừa sức sẽ giúp học sinh làm quen dần với kĩ năng
đọc hiểu, khám phá ra những tầng nghĩa sâu xa của tác phẩm văn học khi các em
học lên cấp trên.
2.4. Biện pháp phát biểu, nhận xét nhân vật, chi tiết, biện pháp nghệ thuật:
Trong nhiều bài tập đọc có những câu hỏi khuyến khích học sinh phát biểu
nhận xét của riêng mình như:
- Theo em, câu nói cộc tuếch của Đất Nung có ý nghĩa gì?
( Chú Đất Nung - tập 1 - tr 138)
24


- Nêu cảm nghĩ của em về nhân vật Ga- vrốt.
( Ga- v rốt ngoài chiến luỹ- TV tập 2- tr 80)
- Em thích hình ảnh nào trong bài? Vì sao?
( Dịng sơng mặc áo – TV4 Tập 2 –tr118)

- Em thích hình ảnh so sánh nào? Vì sao?
( Con chuồn chuồn nước – TV4 tập 2- tr127)
Với những câu hỏi trên, giáo viên cần chú trọng luyện cho học sinh biết nhận
xét nhân vật, chi tiết, biện pháp nghệ thuật trong bài văn, ln đặt học sinh trong
những tình huống có vấn đề, khuyến khích các em bộc lộ cách hiểu, cách nghĩ,
cách cảm của mình về một vấn đề nào đó của cuộc sống phù hợp với lứa tuổi
của các em.
2.5. Biện pháp nhận biết tư tưởng tình cảm của tác giả:
Mỗi một tác phẩm văn học là một thông điệp của tác giả gửi tới bạn đọc. Vì
vậy, giáo viên cũng phải chú ý việc luyện cho học sinh biết chia sẻ cảm xúc tâm
tình với tác giả, có ý thức tìm hiểu khám phá những điều tác gửi gắm trong tác
phẩm. Nhiều câu hỏi yêu cầu học sinh bộc lộ cảm nhận của mình về tâm trạng,
cảm xúc, thái độ của tác giả. Ví dụ:
- Tình yêu quê hương đất nước của tác giả thể hiện qua những câu văn nào?
(Con chuồn chuồn nước – TV4 tập 2- tr127)
- Vì sao đi trên bè, tác giả lại nghĩ đến mùi vôi xây, mùi lán cưa và những
mái ngói hồng? ( Bè xi sơng La- TV4-tập 2- tr26)
Với các câu hỏi trên, giáo viên chú ý định hướng cho học sinh, khi đọc một
văn bản nghệ thuật phải biết đồng cảm với tác giả, biết dựa vào một số từ ngữ,
hình ảnh, chi tiết nghệ thuật trong bài để hiểu điều tác giả muốn gửi gắm. Đôi
khi, học sinh cũng phải tự cảm nhận suy nghĩ cảm xúc của tác giả tốt lên từ
tồn bộ bài. Qua đó, rèn cho học sinh óc khái qt hố - một thao tác tư duy
quan trọng để học tập.
2.6. Biện pháp giảm độ khó, thiết kế hệ thống câu hỏi phù hợp với đối
tượng học sinh của lớp.

25



×