MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU ………………………………………………………3
B. PHẦN NỘI DUNG …………………………………………………… 4
I. Tóm tắt nội dung bài viết trong khoảng 1200 từ …………………… 4
II. Chỉ ra sự giống và khác nhau trong quan điểm về m ối quan h ệ gi ữa
pháp luật và đạo đức của tác giả trên với tác giả Nguyễn Văn Năm
trong bài viết: “Nhận thức về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo
đức”
(Tạp
chí
Luật
học,
số
4/2006)
………………………………………………………6
1. Những điểm giống nhau ………………………………………... 6
2. Những điểm khác nhau ………………………………………… 6
III. Nhận xét về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức ở Vi ệt Nam
hiện nay ……………………………………………………………………….. 8
C. KẾT LUẬN …………………………………………………………. 9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
A. PHẦN MỞ ĐẦU:
Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức là những vấn đề không m ới.
Trong xã hội hiện nay, pháp luật và đạo đức được nói đến nh ư một “cặp
bài trùng” luôn song hành tồn tại, có sự tác động qua lại, th ậm chí làm
biến đổi lẫn nhau.1 Chính vì thế, điều chỉnh xã hội bằng pháp luật kết hợp
với đạo đức là một vấn đề cần thiết, tất yếu của m ỗi quốc gia. V ới mong
muốn được tìm hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa pháp luật và đ ạo đ ức, ở
bài tập học kì này em đã lựa chọn đề số 7 với nội dung: Thông qua bài
viết: “Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong hệ
thống điều chỉnh xã hội” của tác giả Hồng Thị Kim Quế (Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật số 7/1999), em hãy:
1. Tóm tắt nội dung bài viết trong khoảng 1200 từ (không quá 3
trang A4)
2. Chỉ ra sự giống và khác nhau trong quan điểm về mối quan hệ
giữa pháp luật và đạo đức của tác giả trên với tác giả Nguyễn Văn Năm
trong bài viết: “Nhận thức về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức” (Tạp
chí Luật học, số 4/2006).
3. Nhận xét về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức ở Việt Nam
hiện nay.
Trong quá trình làm bài tập học kì, khơng thể tránh khỏi những sai sót và
hạn chế, em mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cơ trong tổ
bộ mơn để em có thể hiểu rõ hơn vấn đề, đồng thời giúp em có thêm kinh
nghiệm cho những bài tập lần sau.
1 Nguyễn Thị Mai, Tác động của pháp luật và đạo đức đến đời sống hiện nay , Tạp chí Nghề luật
số 3/2017
2
Em xin chân thành cảm ơn!
B. PHẦN NỘI DUNG
I. Tóm tắt nội dung bài viết trong khoảng 1200 từ:
Bài viết “Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
trong hệ thống điều chỉnh xã hội” của tác giả Hồng Thị Kim Quế có đề cập tới
những nội dung sau:
Thứ nhất, tác giả đề cập đến vị trí, vai trị của pháp luật và đạo đức trong
hệ thống các quy phạm điều chỉnh xã hội. Các quy phạm xã hội có chức năng
duy trì sự ổn định và trật tự xã hội, hệ thống các quy phạm xã hội ở nước ta hiện
nay bao gồm: qua phạm pháp luật, đạo đức, tập quán, luật tục, phong tục, hương
ước, quy phạm của các cộng đồng dân cư, quy phạm của các tổ chức xã hội và
các tổ chức tôn giáo. Tác giả đã khẳng định trong hệ thống các quy phạm điều
chỉnh xã hội thì pháp luật và đạo đức giữ vị trí trung tâm, có vai trị quan trọng
nhất. Pháp luật và đạo đức có phạm vi điều chỉnh rộng, bao quát tất cả các lĩnh
3
vực quan hệ xã hội. Dưới dạng phổ quát nhất, đạo đức là tổng thể những nguyên
tắc, quan niệm, chuẩn mực xã hội về điều thiện, điều ác, về danh dự, lương tâm,
lẽ cơng bằng, … . Ở đâu có con người thì ở đó có đạo đức, có quan hệ đạo đức.
Xã hội ngày càng phát triển, càng hiện đại thì vai trị của những yếu tố đạo đức
càng được đề cao. Mọi hành vi của con người đều phải được đánh giá từ tiêu chí
pháp luật và đạo đức. Yếu tố tích cực, sự tác động trực tiếp lên hành vi của con
người là một trong những điểm khác nhau cơ bản giữa pháp luật và đạo đứcvới
các bộ phận khác của thượng tầng kiến trúc xã hội. Mặc dù mỗi loại quy phạm
xã hội có vị trí, vai trị, đặc thù điều chỉnh riêng của mình, song chúng bao giờ
cũng nằm trong một thể thống nhất, có mối quan hệ mật thiết, hỗ trợ, bổ sung
cho nhau. Pháp luật chỉ có thể thực hiện được vai trị là phương tiện hàng đầu
trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, khi có sự bổ sung, hỗ trợ của các quy
phạm xã hội khác. Pháp luật không thể và cũng không cần thiết phải điều chỉnh
hết tất cả các quan hệ xã hội. Mỗi một loại quy phạm xã hội có những ưu thế và
hạn chế của mình, tuy nhiên pháp luật và đạo đức tỏ ra có ưu thế hơn.
Thứ hai, tác giả đi bàn về sự thống nhất giữa pháp luật và đạo đức. Pháp
luật và đạo đức có chức năng chung là điều chỉnh hành vi của con người và các
mối quan hệ xã hội. Pháp luật và đạo đức có mối quan hệ hữu cơ, bổ sung, hỗ
trợ cho nhau, tạo nên sự điều chỉnh mạnh mẽ nhất đối với hành vi của con
người. Khác với các hình thái xã hội khác, pháp luật và đạo đức tác động trực
tiếp đến hành vi của con người, hướng dẫn, kiểm tra, đánh giá các hành vi đó
theo những tiêu chí nhất định. Tính thống nhất của pháp luật và đạo đức được
thể hiện trong quy định của chúng đối với cái thiện và cái ác. Đạo đức điều
chỉnh hành vi của con người trên cơ sở vận động của những mặt đối lập giữa
thiện và ác. Tính thống nhất giữa pháp luật và đạo đức ngồi ra cịn được thể
hiện ở thái độ, sự đánh giá, sự cảm nhận, cách xử lí đối với những hành vi của
con người. Tính thống nhất cịn được thể hiện ở mối tương quan giữa các hành
vi vi phạm pháp luật và vi phạm đạo đức, ở việc sử dụng kết hợp các biện pháp
4
pháp lý và các biện pháp tác động xã hội trong đấu tranh phòng và chống các vi
phạm pháp luật và vi phạm đạo đức.
Thứ ba, tác giả tiếp tục đề cập đến sự khác biệt giữa pháp luật và đạo đức.
Về phạm vi điều chỉnh của pháp luật và đạo đức khơng hồn tồn trùng hợp
nhau, mặc dù có rất nhiều quan hệ xã hội được điều chỉnh bằng cả pháp luật và
cả đạo đức. Có những lĩnh vực quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh nhưng
lại không thuộc phạm vi điều chỉnh của đạo đức và ngược lại. Pháp luật điều
chỉnh những quan hệ xã hội quan trọng, cơ bản, ít nhiều mang ý nghĩa quốc gia.
Đạo đức có thể điều chỉnh những quan hệ xã hội không phụ thuộc phạm vi điều
chỉnh của pháp luật. Đạo đức có phạm vi điều chỉnh rộng hơn pháp luật nếu
đứng trên phương diện xem đạo đức là một yếu tố tinh thần không tách rời bản
thân hành vi của con người. Về hình thức, mức độ thực hiện. So với đạo đức,
pháp luật có mức độ thể hiện cụ thể, chi tiết hơn. Pháp luật dưới dạng các văn
bản được thể hiện thành những quyền và nghĩa vụ cùng với những biện pháp xử
lí – những chế tài nhất định. Đạo đức chủ yếu được tồn tại dưới dạng bất thành
văn, thường được thể hiện trong ca dao, tục ngữ, tập quán, phong tục, luật tục,
hương ước, trong dư luận xã hội, … Đạo đức điều chỉnh hành vi con người dựa
trên những cảm xúc, quan niệm, chuẩn mực, những nguyên tắc, còn pháp luật
lại điều chỉnh trước hết ở hành vi con người theo quy định của pháp luật. Đạo
đức được đảm bảo thực hiện trước hết nhờ vào những yếu tố kích thích nội tâm
của con người – sức mạnh bên trong, từ lương tâm, từ những thói quen xử sự và
từ sức mạnh bên ngồi – dư luận xã hội. Pháp luật được đảm bảo thực hiện bằng
hoạt động tổ chức, thuyết phục và cưỡng chế của nhà nước; bằng cả sự tự giác
của con người.
Thứ tư, sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức. Sự tác động biện
chứng này được thể hiện ở vai trò của pháp luật với đạo đức và ngược lại. Pháp
luật của nhà nước ta hiện nay là một trong những hình thức vừa khẳng định, vừa
bảo vệ, vừa phát huy những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức truyền thống, vừa
5
hạn chế để đi đến loại bỏ những quan điểm, chuẩn mực đạo đức tiêu cực, phản
tiến bộ. Pháp luật ghi nhận những nguyên tắc, những chuẩn mực, những quan
điểm đạo đức theo nhiều cách khác nhau có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp tùy
thuộc vào đặc điểm của các quan hệ xã hội mà các ngành luật khác điều chỉnh.
Pháp luật không chỉ ghi nhận đạo đức mà còn là phương tiện đảm bảo cho đạo
đức được thực hiện trong cuộc sống thông qua các biện pháp tác động của Nhà
nước. Còn đạo đức là cơ sở, là môi trường thuận lợi để tiếp thu, cảm nhận và
thực hiện pháp luật. Thiếu đạo đức con người sẽ mất đi nhân tính, trong lĩnh vực
pháp luật, thiếu đạo đức sẽ làm cho người ta xử phạt người ngay, tha bổng kẻ
phạm tội. Đạo đức là phương tiện quan trọng bổ sung, hỗ trợ cho pháp luật.
Pháp luật và đạo đức có mối liên hệ mật thiết với nhau, phát huy tác dụng
khi được bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Quản lí xã hội bằng pháp luật kết hợp với
đạo đức là một yếu tố khách quan trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền ở nước ta.
II. Chỉ ra sự giống và khác nhau trong quan điểm về mối quan hệ giữa
pháp luật và đạo đức của tác giả trên với tác giả Nguyễn Văn Năm
trong bài viết: “Nhận thức về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo
đức” (Tạp chí Luật học, số 4/2006).
1. Những điểm giống nhau.
Một là, hai tác giả đều cho rằng pháp luật và đạo đức là nh ững công
cụ quan trọng trong việc điều chỉnh quan hệ xã hội. Pháp luật và đ ạo đ ức
giữ vị trí trung tâm, đều có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh hành vi
của con người và các mối quan hệ xã hội.
Hai là, đạo đức có phạm vi điều chỉnh rộng h ơn pháp luật xét trên
phương diện xem đạo đức là yếu tố tinh thần không tách r ời hành vi của
con người, ở đâu có con người ở đó có đạo đức. Pháp luật thì khó có th ể tác
6
động đến các mối quan hệ liên quan đến tư tưởng, tình cảm. Nh ưng trong
việc điều chỉnh này thì đạo đức lại có ưu thế hơn cả.
Ba là, hai tác giả đều khẳng định rằng pháp luật và đạo đ ức có m ối
liên hệ chặt chẽ với nhau, giữa chúng vừa có sự thống nhất, vừa có s ự khác
biệt và có cả sự tác động qua lại lẫn nhau.
2. Những điểm khác nhau
Hai bài viết của hai tác giả đều bàn về mối quan hệ giữa pháp lu ật
và đạo đức. Song bên cạnh những điểm giống nhau của hai bài viết thì cịn
có những điểm khác nhau sau:
Một là, hai tác giả có sự khác nhau về cách triển khai vấn đề. Về phía
tác giả Hồng Thị Kim Quế, tác giả triển khai vấn đề theo hướng nêu ra v ị
trí vai trị của pháp luật là trung tâm, tiếp đến là s ự th ống nh ất, s ự khác
biệt và cuối cùng là sự tác động qua lại giữa pháp luật và đ ạo đ ức. Còn tác
giả Nguyễn Văn Năm triển khai vấn đề theo cách nêu ra sự giống nhau,
khác nhau giữa hai công cụ điều chỉnh và sự tác động qua lại giữa pháp
luật và đạo đức.
Hai là, về cách triển khai nội dung có một số điểm khác nhau sau:
+ Sự thống nhất và giống nhau giữa đạo đức và pháp luật:
Ở quan điểm này, tác giả Nguyễn Văn Năm có đề cập thêm hai vấn
đề mà ở bài viết của tác giả Hoàng Thị Kim Quế chưa nhắc tới đó là, pháp
luật và đạo đức đều mang tính quy phạm phổ biến, chúng đều là nh ững
khuôn mẫu, chuẩn mực cho hành vi của con người. Hai là, pháp lu ật và đ ạo
đức vừa mang tính xã hội vừa mang tính giai cấp. Pháp luật và đ ạo đ ức
đều là vũ khí chính trị của giai cấp nắm chính quy ền là cơng c ụ h ướng
hành vi của con người vào những khuôn khổ trật tự.
7
+ Sự khác biệt giữa đạo đức và pháp luật.
Về phạm vi điều chỉnh, tác giả Hoàng Thị Kim Quế cho rằng phạm vi
điều chỉnh của pháp luật và đạo đức khơng hồn tồn trùng h ợp nhau. Có
những lĩnh vực quan hệ xã hội được điều chỉnh bằng c ả pháp lu ật và đ ạo
đức. Có những lĩnh vực quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh nh ưng l ại
không thuộc phạm vi điều chỉnh của đạo đức và ngược lại, khơng ph ải bất
kì một vi phạm đạo đức nào cũng là vi phạm pháp lu ật. Theo tác gi ả
Nguyễn Văn Năm là, đạo đức điều chỉnh tất cả các quan hệ xã h ội mà ch ủ
thể của nó là con người có ý chí, lí trí, tình cảm. Pháp lu ật ch ỉ đi ều ch ỉnh
các quan hệ xã hội khi nó đã ổn định ở một mức độ nhất định cịn đạo đ ức
do tính chất mềm dẻo và linh động, nó điều chỉnh các quan hệ xã hội ngay
từ khi nó mới hình thành.
Về hình thức, tác giả Nguyễn Văn Năm khẳng định pháp luật có tính
xác định về hình thức, đây cũng là tính trội của pháp lu ật so v ới đ ạo đ ức.
Hình thức thể hiện của đạo đức khá phức tạp. Dưới dạng thành văn, nó
được thể hiện trong các kinh, sách tơn giáo, chính trị, văn h ọc, ngh ệ thu ật,
trong các quy định của các thiết chế xã hội, ... . Dưới d ạng không thành văn
đạo đức thể hiện thông qua ca dao, tục ngữ, hò, vè, … . Còn pháp lu ật, dù
được thể hiện thành văn hay không thành văn song nó vẫn đ ược th ể hiện
dưới những hình thức xác định. Tác giả Hồng Thị Kim Quế cũng đồng ý
cho rằng, pháp luật có mức độ thể hiện cụ thể, chi tiết h ơn. Pháp lu ật
dưới dạng các văn bản được thể hiện thành những biện pháp xử lí, chế tài
nhất định.
Về sự tác động qua lại lẫn nhau giữa pháp luật và đạo đức , theo tác
giả Nguyễn Văn Năm, đạo đức tác động đến pháp luật ở chỗ: Đạo đức tác
động đến việc hình thành các quy định trong hệ thống pháp luật. Đ ạo đ ức
như là môi trường cho sự phát sinh, tồn tại và phát triển c ủa pháp lu ật, là
8
chất liệu làm nên các quy định trong hệ thống pháp luật. Nh ững quan
điểm, quan niệm, chuần mực đạo đức đóng vai trị là tiền đề t ư tưởng chỉ
đạo việc xây dựng pháp luật. Ngược lại, pháp luật tác động đến đạo đức.
Pháp luật ghi nhận những quan niệm, tư tưởng, chuẩn mực đạo đ ức. Góp
phần củng cố, giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức xã hội. Pháp lu ật lo ại
trừ những quan niệm, tư tưởng, đạo đức lạc hậu, trái v ới l ợi ích giai c ấp
thống trị , lợi ích chung của cộng đồng. Bên cạnh đó, pháp lu ật cịn góp
phần ngăn chặn sự thối hóa, xuống cấp của đạo đức, ngăn ch ặn vi ệc hình
thành những quan niệm đạo đức trái với thuần phong mĩ tục của dân t ộc
và tiến bộ xã hội.
Theo tác giả Hoàng Thị Kim Quế, tác giả cho rằng pháp luật x ưa nay,
đều dựa trên một cơ sở đạo đức nhất định, và là một trong những hình
thức khẳng định, ghi nhận, bảo vệ những nguyên tắc , nh ững chuẩn m ực
đạo đức thống trị trong xã hội. Pháp luật vừa bảo vệ, phát huy nh ững
nguyên tắc chuẩn mực đạo đức truyền thống , vừa hạn chế để loại bỏ
những quan niệm, chuẩn mực đạo đức tiêu cực, phản tiến bộ. Đạo đức là
cơ sở, là môi trường thuận lợi để tiếp thu, cảm nhận và thực hiện pháp
luật. Đạo đức là phương tiện quan trọng bổ sung, hỗ tr ợ cho pháp luật.
Ngoài ra, ở bài viết của tác giả Nguyễn Văn Năm tác giả còn đ ề cập
thêm đến vấn đề con đường hình thành của pháp luật và đạo đ ức. Trong
đó, pháp luật được hình thành thông qua hoạt động xây d ựng pháp lu ật
của Nhà nước, cịn đạo đức lại hình thành một cách tự phát trong đời sống
chung của cộng đồng hay một cá nhân tiêu biểu trong xã hội.
III. Nhận xét về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức ở Vi ệt Nam
hiện nay.
Trải qua nhiều những biến cố lịch sử, Việt Nam giờ đây đã và đang
dần vươn lên trở thành một quốc gia phát triển, có s ự hội nhập kinh t ế
9
với các quốc gia khác trên thế giới. Và cho dù ở bất kì th ời đại nào chăng
nữa thì pháp luật và đạo đức phương tiện không thể thiếu bảo đảm cho
sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội công c ụ quản lý nhà n ước h ữu
hiệu. Chính vì vậy, nếu pháp luật được đề cao thì đ ạo đ ức cũng sẽ đ ược
bảo vệ, duy trì và ngược lại, nếu có nền tảng đạo đ ức thì pháp lu ật ch ắc
chắn sẽ được thực hiện một cách nghiêm minh. Đảng ta đã kh ẳng định:
“Quản lí xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục nâng cao đ ạo
đức”
Pháp luật và đạo đức ln tồn tại cùng nhau, có mối liên hệ m ật
thiết với nhau. Những quan niệm, quan điểm đạo đ ức phù h ợp v ới ý chí
của nhà nước thì được thừa nhận trong pháp luật, nh ững quy t ắc đ ạo đ ức
trái với ý chí nhà nước sẽ trở thành tiền đề để hình thành nên nh ững quy
định thay thế . Chẳng hạn, quan niệm “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” trong
hôn nhân trước đây đã trở thành tiền đề để hình thành nên quy đ ịnh hơn
nhân tự nguyện trên cơ sở giữa tình yêu nam và nữ, cấm cưỡng ép kết hôn,
tảo hôn … ( Điều 4,5 Luật hôn nhân và gia đình 2014).
Do được Nhà nước xây dựng dựa trên các quan điểm đ ức c ủa nhân
dân, pháp luật không chỉ thể hiện được tư tưởng cách m ạng, đạo đ ức
truyền thống dân tộc mà còn thể hiện được ý chí, nguy ện vọng và ln
hướng về nhân dân
“ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. …” ( Điều 2, Hiến pháp
1992)
Đạo đức điều chỉnh tất cả các quan hệ xã h ội mà ch ủ th ể của nó là
con người có ý chí, lí trí, tình cảm, ngược lại pháp luật ch ỉ đi ều ch ỉnh các
quan hệ xã hội khi nó đã ổn định ở một mức độ nh ất đ ịnh. H ơn n ữa, đạo
đức mang tính truyền miệng nhiều hơn nên đã dần ăn sâu vào tâm trí m ỗi
người nên khó có thể thay đổi còn với pháp luật m ỗi khi xã h ội thay đ ổi thì
10
pháp luật lại nhanh chóng đáp ứng được sự thay đổi đó. Quan niệm trọng
nam khinh nữ xưa nay đã dẫn đến việc một số người cố đẻ đến con th ứ ba
thậm chí thứ tư, thứ năm. Điều này được coi là tiền đề để Nhà n ước đ ưa ra
những chính sách về dân số.
Pháp luật là cơng cụ truyền bá những quan điểm, quan ni ệm t ư
tưởng, chuẩn mực đạo đức, nhờ đó chúng nhanh chóng trở thành nh ững
chuẩn mực mang tính bắt buộc chung đối với tất cả mọi người. Góp ph ần
củng cố, giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức xã hội đồng th ời lo ại b ỏ
những quan niệm, tư tưởng, đạo đức lạc hậu, trái với lợi ích chung c ủa
cộng đồng2. Điều 30, Hiến pháp 1992 quy định “ … Nhà nước thống nhất
quản lý sự nghiệp văn hóa. Nghiêm cấm truyền bá tư tưởng và văn hóa
phản động, đồi trụy; bài trừ mê tín, hủ tục …”. Tại khoản 2 Điều 71 Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Con có nghĩa vụ và
quyền chăm sóc, ni dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ mất năng lực
hành vi dân sự, ốm đau, già yếu, khuyết tật; trường hợp gia
đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc, ni dưỡng cha mẹ”.
Quy phạm pháp luật này đã góp phần giữ gìn truy ền th ống hiếu th ảo,
uống nước nhớ nguồn, …
Tuy nhiên, để phát huy hơn nữa hiệu quả của mối quan hệ giữa
pháp luật và đạo đức, cần tăng cường công tác phổ biến pháp lu ật, giáo
dục đạo đức, đồng thời cũng cần nâng cao ý thức đạo đức, trình độ pháp lí,
phát triển kinh tế - xã hội.
C. KẾT LUẬN
Qua việc tóm tắt bài viết của tác giả Hoàng Thị Kim Quế cùng với so
sánh với bài viết của tác giả Nguyễn Văn Năm cho thấy, pháp luật và đạo đức
ln song hành, tồn tại, có khi bổ sung, hỗ trợ nhau trong việc điều chỉnh cũng
2 Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Tr ường Đại học Luật Hà Nội, 2019
11
như quản lí xã hội. Xã hội có phát triển, đời sống nhân dân có đ ược nâng
cao hay khơng phụ thuộc vào chính sách pháp luật và ý th ức đạo đ ức, ý
thức tuân thủ pháp luật của mỗi người. Do đó, cần phải khơng ngừng đổi
mới và có sự hoạch định chính sách phù hợp với sự phát triển c ủa đ ời
sống xã hội, có như vậy mới đảm bảo xã hội công bằng, dân ch ủ và văn
minh, thúc đẩy xã hội phát triển phù hợp với tiến trình chung c ủa tồn
nhân loại.3
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Thị Kim Quế, “Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp luật và
đạo đức trong hệ thống điều chỉnh xã hội” ,Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
số 7/1999
2. Nguyễn Văn Năm ,“Nhận thức về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo
đức”, Tạp chí Luật học, số 4/2006.
3. Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Trường Đại h ọc
Luật Hà Nội, 2019.
4. Nguyễn Thị Mai, “Tác động của pháp luật và đạo đức đến đời sống hiện
nay”, Tạp chí Nghề luật số 3/2017.
3 Nguyễn Thị Mai, Tác động của pháp luật và đạo đức đến đời sống hiện nay , Tạp chí Nghề luật
số 3/2017
12
5. Hiến pháp 1992.
6. Luật hơn nhân và gia đình 2014.
13