Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

SKKN một số biện pháp rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.37 KB, 11 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU:
1.1. Lý do chọn sáng kiến:
Trong chương trình giáo dục Tiểu học, mơn Tiếng Việt là mơn học quan
trọng, chiếm vị trí chủ yếu trong chương trình. Môn học này cung cấp cho học
sinh một khối lượng kiến thức cơ bản nhằm đáp ứng những mục tiêu, nhiệm vụ
của từng bài học, vừa là công cụ để học tập các mơn học khác. Đó là q trình trẻ
học tập và nghiên cứu tiếng mẹ đẻ để trang bị cho mình vốn sống trong suốt cuộc
đời.
Tập đọc là phân mơn thuộc bộ mơn Tiếng Việt, có vai trị cực kì quan trọng. Nó
đảm nhiệm việc hình thành và phát triển kỹ năng đọc, một kỹ năng quan trọng hàng
đầu của học sinh bậc Tiểu học trong những năm đầu cấp. Kỹ năng đọc có nhiều mức
độ: đọc đúng, đọc nhanh (lưu lốt, trơi chảy), đọc có ý thức (thơng hiểu nội dung
những điều mình đọc hay cịn được gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Khi học sinh
đọc tốt, viết tốt thì các em mới có thể tiếp thu các môn học khác một cách dễ dàng
hơn.
Đối với học sinh lớp 2, việc rèn đọc vô cùng quan trọng, nó giúp các em hiểu
đúng nội dung văn bản, các em cần đạt hai kỹ năng cơ bản là: Kỹ năng đọc đúng và kỹ
năng đọc hiểu. Đọc đúng giúp cho học sinh bồi dưỡng tâm hồn, tư tưởng, tình cảm,
giúp các em có thể tự học. Qua đó giáo dục các em lịng u sách, ham đọc, ham học,
ham hiểu biết.
Đối với học sinh lớp 2 ở Trường tôi đang dạy để dạy cho các em đọc một cách
trơi chảy, rõ ràng cịn là cả một vấn đề hết sức khó khăn và phức tạp chứ chưa nói đến
đọc diễn cảm. Một số em đọc chưa lưu loát, chưa biết ngắt, nghỉ đúng dấu chấm, dấu
phẩy, nhiều em phát âm chưa rõ phụ âm đầu s/x; l/n; nh/d; d/gi … đặc biệt là âm nh/d,
lẫn lộn giữa thanh hỏi và thanh nặng, giữa các vần như: ăn/ăng; anh/ênh (vì cịn có
học sinh các nơi khác theo ba mẹ đến tạm trú làm ăn,..). Mặc dù ở lớp 1 các em được
tiếp thu với 4 kỹ năng: nghe - nói - đọc - viết mà chủ yếu là đọc, viết. Song do đặc
điểm tâm lý lứa tuổi và do trong hè các em chưa chú ý rèn luyện, nên dẫn đến hiệu
quả học môn Tiếng Việt chưa cao. Học sinh vẫn có một số đánh vần ê - a, ngắc ngứ
trong quá trình đọc sau thời gian nghỉ hè. Đây là vấn đề mà tôi luôn băn khoăn, trăn
trở. Tôi luôn tự đặt ra câu hỏi: “Phải làm thế nào để trò đọc đúng, đọc tốt đây?”. Xuất


phát từ những yêu cầu, lý do trên sau khi nghiên cứu và thực hiện có hiệu quả nên tơi
mạnh dạn chọn sáng kiến: “Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh
lớp 2”.


2
Vì trong giai đoạn hiện nay chúng ta đã và đang thực hiện mơ hình trường học
mới VNEN mức 1là tiền đề để chuẩn bị cho công tác thay sách phù hợp với công
cuộc đổi mới của đất nước nên địi hỏi người giáo viên phải tìm tịi nghiên cứu
chương trình SGK, các tài liệu hướng dẫn, chọn và sử dụng phương pháp giảng dạy
nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập của học sinh. Giáo viên
đóng vai trị là người tổ chức hướng dẫn giúp học sinh tự hoạt động để tiếp cận với tri
thức và rèn kĩ năng theo yêu cầu. Mỗi giáo viên phải xác định rõ nội dung công việc
của từng bài dạy, chọn hình thức tổ chức hoạt động sao cho phù hợp và phân bố thời
gian thật hợp lý nhằm giúp học sinh có điều kiện để tìm hiểu tiếp cận tri thức, rèn kĩ
năng theo yêu cầu.
1.2. Điểm mới của sáng kiến.
- Luyện cho học sinh phát âm đúng, nắm được cấu tạo của những âm, vần mà
mình thường hay nhầm lẫn.
- Rèn luyện cho học sinh trong quá trình đọc phát âm chuẩn xác hơn giữa các
phụ âm đầu như s/x; l/n; nh/d; d/gi, giữa thanh hỏi/ thanh nặng, giữa các vần như:
ăn/ăng; anh/ênh.
1.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, áp dụng sáng kiến:
- Đối tượng: Học sinh lớp 2 tại đơn vị trường Tiểu học đang công tác.
- Phạm vi nghiên cứu: Do điều kiện, thời gian, năng lực có hạn nên sáng kiến
kinh nghiệm của tôi chỉ tập trung nghiên cứu trong năm học 2019 - 2020
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng kỹ năng đọc lớp 2:
2.1.1. Thuận lợi
- Trong các tiết Tập đọc, giáo viên đã biết vận dụng các phương pháp và hình

thức dạy học một cách linh hoạt, cho học sinh được luyện đọc nhiều, luyện đọc cá
nhân, đọc trong nhóm, đọc trước lớp. Qua hoạt động đọc, các bạn trong nhóm và
giáo viên đã kịp thời động viên, sửa lỗi phát âm đảm bảo tốc độ đọc. Ở các tiết
học, giáo viên đã lồng ghép các trị chơi, các hình thức thi đua nhằm tạo hứng thú
học tập cho học sinh.
- Mặt khác, Ban giám hiệu nhà trường luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
hoạt động dạy học của thầy và trị.
- Một số em ln có ý thức trong các hoạt động học tập.
- Phụ huynh luôn quan tâm đến việc học của con em, mua đủ sách vở, dụng cụ học
tập cho các em


3
2.1.2. Khó khăn.
- Qua thực tế giảng dạy tơi thấy rằng học sinh mới lên lớp 2 việc đọc của các
em chưa được tốt vì về hè các em khơng luyện đọc, tốc độ đọc còn chậm, ngắt
nghỉ chưa đúng. Một số em còn đọc sai phụ âm đẩu s/x; l/n; nh/d; d/gi; dấu
ngã/dấu nặng… Ví dụ: ngơi nhà/ngơi dà; ăn cơm/ăng cơm. Một số em do ảnh
hưởng của phương ngữ nên đọc cịn sai các vần như: anh/ân; ơm/ơm.Ví dụ:
xanh/xăn. Số em đọc trơi chảy thì chưa thể hiện được chất giọng của nhân vật,
chưa biết ngắt nhịp khi đọc thơ.
- Do đặc điểm tâm lý của trẻ 7-8 tuổi còn hiếu động, khả năng tập trung
chưa cao. Một số em chưa thực sự hứng thú với môn học nên cịn lơ là, thiếu sự
tập trung, chú ý.
- Hồn cảnh gia đình các em chưa đồng đều, cha mẹ đi làm ăn xa gửi con
lại cho ơng bà. Ơng bà đã già yếu không thể chỉ bảo cháu học tập. Điều đó cũng
ảnh hưởng đến chất lượng đọc của các em.
Trước những vướng mắc đó, bản thân tơi rất lo lắng và trăn trở: làm sao để
học sinh đọc tốt hơn. Chính vì những suy nghĩ đó tơi mạnh dạn đưa ra một số giải
pháp rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh lớp 2 qua phân môn Tập đọc.

2.1.3. Số liệu qua khảo sát:
Qua khảo sát chất lượng đọc đầu năm học tôi thu được số liệu cụ thể như sau:
Số em thường
Số em đọc
lẫn lộn dấu
Số em đọc
đúng, rõ
thanh, phụ
diễn cảm tốt
ràng
âm đầu và
vần
Số
Số
Số
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Tỉ lệ
lượng
lượng
lượng
5
15,1 12
36,5
8
24,2

Số em đọc còn
chậm, hay mắc
lỗi dấu thanh,

phụ âm đầu và
vần
Số
Tỉ lệ
lượng
5
15,1

Số em đọc
còn đánh
vần
Số
Tỉ lệ
lượng
3
9,1

2.2. Giải pháp:
2.2.1. Phương pháp trực quan:
Phương pháp này phù hợp với tư duy, tâm lý, lứa tuổi học sinh. Trực quan
bằng giọng đọc của giáo viên, giọng đọc của bạn. Giọng đọc mẫu của giáo viên là
hình thức trực quan sinh động và có hiệu quả cao, có tác dụng làm mẫu cho học
sinh luyện đọc. Mỗi bài văn, bài thơ viết ở thể loại khác nhau. Có bài giọng đọc
náo nức, phấn khởi; có bài giọng đọc trang nghiêm trầm lắng; có bài giọng đọc ân


4
cần, khuyên nhủ. Do đó giáo viên cần đọc đúng thể loại, ngữ điệu, tránh đọc đều
đều, không cảm xúc kết hợp biểu hiện tình cảm qua ánh mắt, nét mặt, nụ cười.
Muốn luyện đọc cho học sinh trước hết tơi phải chuẩn bị giọng đọc cho mình

thật tốt. Vì giọng đọc mẫu của giáo viên ảnh hưởng rất lớn đến việc luyện đọc của
học sinh (học sinh thường hay bắt chước giọng đọc của cơ). Vì thế tơi luyện đọc
trước bài tập đọc hơm sau mình sẽ dạy cho trị. Thậm chí có bài tơi đọc thuộc văn
bản để cảm thụ được bài văn, bài thơ một cách sâu sắc, tinh tế và tìm ra cách đọc
hấp dẫn.
Ví dụ: Bài “ Cây và hoa bên lăng Bác”
Tôi phải đọc với giọng trang trọng, thể hiện niềm tơn kính của toàn dân tộc
đối với Bác.
Đồng thời xác định những từ ngữ mà học sinh thường mắc phải và dùng bút
chì gạch chân để hơm sau rút từ khó luyện đọc cho học sinh (luyện trong nhóm
hoặc trước lớp).
Ví dụ: Bài “Cơ giáo lớp em”
Giáo viên đọc mẫu với giọng tình cảm, trìu mến, nhấn giọng ở các từ ngữ gợi
tả, gợi cảm: tươi, thoảng, thơm tho, ngắm mãi.
Khi giới thiệu bài nên dùng trực quan bằng tranh ảnh, vật thật giúp các em
háo hức tìm hiểu và cảm thụ bài đọc. Trực quan bằng một đoạn văn chép sẵn được
ngắt theo cụm từ để các em đọc ngắt hơi, nghỉ hơi đúng chỗ.
2.2.2. Phương pháp đàm thoại:
Phương pháp này phù hợp với đặc điểm tâm lí của các em. Các em thích hoạt
động lời nói giáo viên đưa ra một hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài để học sinh trả lời
tìm ra cái hay của tác phẩm. Muốn đọc ngắt giọng đúng, nhấn giọng dẫn đến đọc
diễn cảm trước tiên phải đọc tốt và cảm thụ tốt bài văn bằng những câu hỏi đàm
thoại để hiểu nội dung bài.
Phương pháp này được tiến hành dưới sự chỉ đạo của giáo viên, học sinh
luyện đọc nhiều lần.
Phương pháp dùng phiếu bài tập được sử dụng dưới một hệ thống câu hỏi và
những bài tập ngắn như đọc đúng một đoạn văn, thơ ngắn với những âm thanh,
vần dễ lẫn .
Ví dụ:- Bài tập phân biệt nh/d
+ Em hãy đọc đúng các từ sau:

Nhẹ nhàng, dịu dàng, nhí nhảnh, duyên dáng, nhảy nhót, giáo dưỡng, …
- Bài tập phân biệt thanh hỏi, ngã, nặng:
+ Em hãy đọc đúng các từ sau:
Nũng nịu, thủ thỉ, vương vãi, vại cà, lẫm chẫm,


5
2.2.3. Luyện phát âm đúng
Đây thực chất là biện pháp rèn luyện ngữ âm cho học sinh. Tôi thống kê lỗi
phát âm mà ở lớp các em hay sai, tôi quy về ba loại:
+ Sai phụ âm đầu
+ Sai vần
+ Sai dấu thanh
Để dạy cho học sinh phát âm đúng tơi khơng qn kỹ năng nghe. Ở đây vai
trị giọng đọc của giáo viên rất quan trọng. Giữa nghe và phát âm có mối quan hệ
rất chặt chẽ nên rèn kỹ năng nghe hỗ trợ rất nhiều cho kỹ năng đọc.
Để chữa lỗi phát âm sai tôi dùng biện pháp giảng giải trên cơ sở lý thuyết ngữ
âm và ý nghĩa từ. Cho học sinh luyện đọc lại từ ngữ phát âm sai ngay lúc đó nhiều
lần.
Ví dụ: Phát âm nh/d
Âm nh: Đặt đầu lưỡi lên giữa hàm trên rồi bật hơi đẩy đầu lưỡi ra ngồi. Ví
dụ: nhẹ nhàng
Âm d: Đặt đầu lưỡi ở giữa hai hàm răng rồi bật hơi đẩy đầu lưỡi ra ngồi. Ví
dụ: dịu dàng
Mặt khác là việc sửa sai qua giảng nghĩa từ
Ví dụ: tầm tã phân biệt với tầm tạ, sao phân biệt với xao, ....
Tơi cho nhóm trưởng hướng dẫn cho những bạn đọc sai, hỏi các em điểm
khác biệt rồi giảng nghĩa của từ đó để các em có thể phân biệt và nhớ lâu hơn.
2.2.4. Giáo viên hướng dẫn cho học sinh luyện đọc câu, đoạn:
Giáo viên cho học sinh đọc thầm văn bản, việc làm này tôi tạo điều kiện cho

tất cả học sinh trong lớp đều được đọc. Khi luyện đọc câu hay đọc đoạn tôi dùng
cách đọc nối tiếp để tiết kiệm thời gian và tạo nhịp khẩn trương và tất cả học sinh
đều được luyện đọc.
Sau khi học sinh đọc tốt và hiểu nội dung bài tập đọc tôi cho học sinh đọc thi
đua cá nhân hoặc đọc phân vai (đối với những văn bản có nội dung đối thoại). Các
bước luyện cho học sinh đọc tơi cụ thể hóa như sau:
+ Luyện đọc câu
Nhằm minh họa, hướng dẫn, gợi ý hoặc tạo tình huống để học sinh nhận xét,
giải thích, tự tìm ra cách đọc. Giáo viên có thể tổ chức cho từng học sinh đọc, từng
cặp học sinh đọc, đọc theo nhóm. Tạo điều kiện cho mọi học sinh trong lớp đều
được luyện đọc, đọc nhiều, đặc biệt chú ý tới các em học chưa được tốt. Để mọi
học sinh đều được đọc, đọc nhiều, khi đọc từng câu giáo viên để cho các nhóm
trưởng chỉ đạo các bạn đọc nối tiếp theo nhóm… Ở hoạt động này giáo viên đã tổ
chức cho học sinh tiếp nối nhau đọc trơn từng câu cho đến hết bài. Thơng qua hình


6
thức luyện đọc này vừa giúp học sinh có điều kiện rèn kỹ năng đọc, vừa tạo hứng
thú học tập, phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong tiết học. Nên chú ý
luyện đọc nhiều lần các câu dài có nhiều dấu phẩy hoặc các câu có những chỗ cần
ngắt giọng theo yêu cầu của nội dung. Trước khi luyện đọc từng câu, giáo viên cần
hướng dẫn trước cho học sinh những chỗ cần nghỉ hơi, để ý những lỗi mà học sinh
thường vấp phải.
Ví dụ: Bài “ Bàn tay dịu dàng”
Luyện đọc từ: nhẹ nhàng, nặng trĩu
Học sinh tơi thường sai: nhẹ nhàng/dẹ dàng; dịng sơng/dịng xông.
Tôi thường gọi những em mắc lỗi nh/d, s/x, ngã/nặng, ăn/ăng để luyện đọc.
Tôi gọi những em đọc tốt đọc mẫu, các em đọc sai đọc theo. Nếu đọc đúng tôi sẽ
khen ngợi. Nếu không đúng tôi hướng dẫn cách phát âm cho học sinh bằng cách
phát âm tiếng đó một cách cụ thể. Qua đó để học sinh có thể phân biệt và cố gắng

đọc đúng.
Với các lỗi khác, tôi cũng hướng dẫn tương tự như trên. Bước đầu luyện cho
học sinh cũng gặp khó khăn và mất thời gian nhưng về sau thì các em quen dần và
dễ sửa hơn. Việc làm này không chỉ diễn ra trong một bài mà thường xuyên ở các
bài tập đọc. Nên học sinh tôi dần dần cũng bớt nhầm lẫn và đọc đúng hơn. Trong
quá trình luyện đọc câu với những câu dài tôi thường viết lên bảng phụ rồi gọi học
sinh luyện đọc, hướng dẫn cho học sinh ngắt nghỉ đúng. Nếu học sinh đọc khơng
đúng thì giáo viên đọc mẫu để học sinh luyện đọc theo.
+ Luyện đọc đoạn
Sau khi giáo viên chia đoạn, học sinh các nhóm tự phân đoạn rồi gọi các bạn
trong nhóm lần lượt đọc từng đoạn. Trong quá trình luyện đọc đoạn, giáo viên theo
dõi lắng nghe học sinh đọc. Nếu phát hiện lỗi sai hay bạn ngắt nghỉ chưa đúng thì
nhóm trưởng cho bạn dừng lại đọc lại. Nếu thấy khó sửa thì nhóm trưởng báo cáo
cho giáo viên. Giáo viên cho học sinh đó đọc lại và sửa lỗi đó cho học sinh. Đặc
biệt ở luyện đọc đoạn khi đọc đoạn dài có một số em sẽ đọc thừa hoặc thêm từ vào
câu. Ở trường hợp này giáo viên cho học sinh đọc lại câu đó và giúp học sinh nhận
ra mình đã đọc thừa hay thiếu để học sinh nhớ lâu và lưu ý lần sau cần cẩn thận
hơn.
Đối với những bài thơ, giáo viên hướng dẫn cách đọc, ngắt giọng, nhấn giọng
những từ ngữ gợi tả, gợi cảm.
Ví dụ: Khổ thơ 3 bài “ Bê Vàng đi tìm bạn”
Bê Vàng đi tìm cỏ/


7
Lang thang/ quên đường về/
Dê Trắng thương bạn quá/
Chạy khắp nẻo /tìm Bê
Đến bây giờ Dê Trắng/
Vẫn gọi hồi:/ “ Bê!// Bê!”//

Nếu học sinh đọc quá to, đọc nhát gừng, đọc sai ngắt nghỉ, giáo viên phải
kiên trì hướng dẫn và yêu cầu các bạn đọc tốt ở trong nhóm giúp đỡ bạn đọc dễ
sai.
+ Luyện đọc trong phần tìm hiểu bài
Khi học sinh đọc đúng, đọc trơi chảy thì học sinh mới hiểu nội dung của bài.
Vì vậy trong q trình tìm hiểu bài tơi cho học sinh luyện đọc nhiều rồi mới đưa ra
câu hỏi .
Ví dụ: Bài “ Quà của bố”
Tôi cho một vài học sinh đọc đoạn văn một trong bài rồi mới nêu câu hỏi:
“Quà của bố đi câu về có những gì?” để học sinh thảo luận trả lời câu hỏi. Để trả
lời câu hỏi 2 tôi yêu cầu học sinh đọc thầm, một học sinh đọc to đoạn văn hai và
trả lời câu hỏi “Quà của bố đi cắt tóc về có những gì?”. Khi đã nghe bạn đọc và
bản thân mình đọc thầm đoạn văn thì các em dễ dàng trả lời câu hỏi đó.
Qua phần tìm hiểu bài một lần nữa kỹ năng đọc lại được rèn luyện thêm và
đọc đúng, có thời gian để suy nghĩ các em đã có thể hiểu được văn bản và trả lời
đúng nội dung câu hỏi.
+ Luyện đọc diễn cảm
Sau phần tìm hiểu nội dung bài, tôi thường cho học sinh luyện đọc lại bài với
yêu cầu cao hơn. Học sinh đọc diễn cảm với nhiều hình thức khác nhau. Các em
được chọn đoạn mình thích và đọc trong nhóm cho các bạn nghe. Phần thi đọc tôi
tránh gọi những em đọc tốt để thi đọc mà gọi những học sinh đọc tương đương
nhau để nhận thấy sự tiến bộ của từng em. Trong q trình luyện đọc tơi thường
khuyến khích, động viên các em kịp thời, không chê bai nặng nề làm cho các em
tự ti ảnh hưởng đến quá trình luyện đọc.
Đối với những bài văn có lời đối thoại, tơi cho học sinh đọc phân vai thể hiện
giọng nhân vật dưới sự hướng dẫn cụ thể của giáo viên.
Ví dụ: Khi dạy bài “ Chuyện bốn mùa” tôi hướng dẫn học sinh cách phân vai
Người dẫn chuyện: nhẹ nhàng, chậm rãi
Giọng Đơng nói với Xn: trầm trồ, thán phục
Giọng Xn: nhẹ nhàng

Giọng Hạ: tinh nghịch, nhí nhảnh
Giọng Đơng nói về mình: lặng xuống vẻ buồn tủi
Giọng Thu: thủ thỉ


8
Giọng bà Đất: vui vẻ, rành rọt.
Nếu các em thể hiện chưa đúng giọng nhân vật hay lệch giọng thì tôi hướng
dẫn cho các em đọc đúng bằng cách đọc mẫu, chỉnh sửa ở những từ, câu mà các
em đọc sai.
Đối với bài thơ khi đọc các em biết phải nhấn mạnh các từ quan trọng trong
câu, ngắt, nghỉ hơi đúng chỗ.
Ví dụ: Bài thơ “Cây dừa”
Cây dừa xanh/ tỏa nhiều tàu
Dang tay đón gió,/ gật đầu gọi trăng.//
Thân dừa/ bạc phếch tháng năm, /
Quả dừa – /đàn lợn con/ nằm trên cao.//
Yêu cầu cần đạt được ở phần luyện đọc diễn cảm đó là:
- Biết nhấn mạnh các từ quan trọng trong câu.
- Nhấn giọng ở các từ ngữ gợi tả, gợi cảm.
- Biết thể hiện ngữ điệu phù hợp với từng loại câu.
- Biết đọc giọng phân biệt lời kể của tác giả với lời nhân vật.
Ngoài các tiết tập đọc ở buổi sáng, tơi cịn rèn kỹ năng đọc cho học sinh vào
các tiết luyện buổi chiều với yêu cầu cao hơn.
2.2.5. Kết quả đạt được
Trong quá trình giảng dạy phân mơn Tập đọc bản thân tơi đã nhiệt tình, chịu
khó, tìm tịi, suy nghĩ đưa ra các hoạt động dạy luyện đọc như đã nói trên cộng với
sự nỗ lực vươn lên của học sinh nên chất lượng đọc lớp tôi được nâng lên rõ rệt.
Số học sinh đọc to, lưu loát các bài tập đọc tăng lên hơn hẳn so với đầu năm. Số
em đọc hay, thể hiện được giọng đọc của các nhân vật cũng nhiều hơn. Những em

đọc chậm, rời rạc từng tiếng đã mạnh dạn, tự tin đọc tốt hơn.
• Kết quả

Số em đọc
diễn cảm tốt
Số
lượng
14

Tỉ lệ
42,4

Số em đọc còn
Số em thường
chậm, hay
lẫn lộn dấu
Số em đọc
mắc lỗi dấu
thanh, phụ âm
còn đánh vần
thanh, phụ âm
đầu và vần
đầu và vần
Số
Số
Số
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Tỉ lệ

lượng
lượng
lượng
48,6
2
6,0
1
3,0
0
0
3. PHẦN KẾT LUẬN

Số em đọc
đúng, rõ
ràng
Số
lượng
16

3.1. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm:


9
- Việc rèn luyện kỹ năng đọc đúng cho học sinh lớp 2 là một việc làm cần
thiết nhằm hình thành cho các em những kỹ năng khi đọc và hiểu một bài văn, bài
thơ. Tạo cơ sở để học sinh học tốt môn Tiếng Việt và các môn học khác ở lớp trên.
- Đồng thời nhờ đọc đúng, hiểu đúng học sinh được bồi dưỡng về vốn hiểu
biết, trau dồi kỹ năng sử dụng ngôn ngữ, sử dụng tiếng mẹ đẻ.
Qua việc rèn kỹ năng đọc đúng để phát hiện và khắc phục những lỗi mà các
em thường mắc phải. Tạo cho các em tính cẩn thận và tự tin hơn khi đọc và thể

hiện trước mọi người. Các em sẽ dần từ bỏ thói quen sử dụng phương ngữ, giúp
cho việc học các phân mơn Tiếng Việt có kết quả cao hơn.
Là một giáo viên giảng dạy lớp 2 ở trường Tiểu học, tôi nhận ra rằng: Để rèn
kỹ năng đọc đúng cho các em học sinh lớp 2 thì trong q trình dạy phân mơn Tập
đọc, người giáo viên cần phải:
- Ngay từ đầu năm học giáo viên cần quan tâm đến mọi đối tượng học sinh để
hiểu rõ về hoàn cảnh cũng như về năng lực học tập. Tiến hành khảo sát học sinh để
phân loại và tiến hành theo dõi và có hướng rèn đọc cho từng đối tượng học sinh.
- Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến việc các em đọc chưa tốt và có hướng khắc
phục.
- Luyện giọng đọc tốt cho bản thân (Giọng đọc mẫu của cơ khơng chuẩn,
khơng hay thì khơng thể luyện cho học sinh đọc tốt được).
- Giúp học sinh chuẩn bị tâm thế để đọc. Khi đọc cần phải đứng ngay ngắn,
cầm sách đúng quy định. Khoảng cách từ mặt đến sách vừa phải, cổ và đầu thẳng.
Đọc to, rõ ràng đủ để cô giáo và các bạn cùng nghe.
- Sưu tầm các tranh ảnh, nội dung có liên quan đến bài dạy.
- Giáo viên cần có sự tâm huyết với nghề, với trị. Khơng được nản chí,
bng tay trước sự chậm tiến của học sinh. Đối với các em còn yếu, chưa đạt yêu
cầu cần phụ đạo thêm cho các em vào những tiết ôn luyện, động viên các em tin
vào sức mình và có sự động viên kịp thời, khích lệ học sinh bằng những lời khen,
những tràng pháo tay của bạn và cả ánh mắt nhìn của cô. Phân công các bạn giỏi,
khá kèm cặp thêm. Liên hệ với phụ huynh học sinh để giúp đỡ các em học sinh có
thời gian ở nhà và quan tâm đến con em mình hơn.
- Giáo viên phải biết tìm tịi, nghiên cứu, học hỏi và vận dụng các phương
pháp tối ưu nhất vào bài dạy nhằm phù hợp với đối tượng học sinh của mình.
- Trước những cố gắng, sự tiến bộ của học sinh giáo viên phải biết động viên,
khuyến khích các em kịp thời với các hình thức như: tuyên dương, khen ngợi ở


10

lớp, thưởng hoa học tốt, được làm nhóm trưởng, thưởng bút chì, bút màu, truyện,
bình chọn xuất sắc cuối tuần … Chính những lời động viên và những món q nhỏ
khiến các em có ý thức rèn luyện để được khen, thưởng như các bạn. Song bên
cạnh đó, đối với các em đọc còn chậm, hay sai giáo viên cần lắng nghe, biết phát
hiện những tiến bộ nhỏ để khen ngợi. Tránh chê trách trước lớp làm tổn thương
các em, khiến các em nhụt chí.
- Rèn kỹ năng đọc đúng không chỉ ở các tiết tập đọc mà ở các tiết học khác
cũng khuyến khích các em luyện đọc nhất là những em học sinh yếu.
+ Cần phát huy luyện đọc theo cặp, theo nhóm để học sinh luyện tập lẫn
nhau.
- Trong q trình giảng dạy nên tổ chức trị chơi học tập để thay đổi khơng
khí học tập gây hứng thú cho học sinh.
- Cho học sinh làm các bài tập để phân biệt các lỗi phương ngữ, tạo điều kiện
để cho các em có cơ hội được nói và làm quen nhiều hơn với từ ngữ phổ thông và
được lồng ghép trong các tiết dạy phân mơn chính tả.
- Phối hợp với Liên đội, Nhà trường mở những tủ sách nhỏ đặt ở các vị trí
thích hợp để giờ ra chơi các em có thể đọc. Ở thư viện nhỏ của lớp cũng để những
quyển truyện tranh phù hợp cho các em đọc. Từ đó hình thành thói quen ham thích
đọc sách để các em đọc tốt hơn.
3.2. Kiến nghị, đề xuất
Đối với giáo viên: Cần tằng cường hơn nữa trong công tác tự bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ, thông qua dự giờ đồng nghiệp, thảo luận, chia sẽ theo từng
chuyên đề, theo hướng nghiên cứu bài học, qua nghiên cứu tài liệu, sách, báo, các
kênh thông tin nghe, nhìn. Tham gia có hiệu quả các buổi tập huấn, chủ động trong
trao đổi chia sẽ, xây dựng các chuyên đề về đổi mới dạy học, trong đó có nội dung
về rèn kĩ năng đọc cho học sinh.
Đối với nhà trường: Cần tổ chức các buổi phổ biến các chuyên đề, sáng
kiến kinh nghiệm hay để giáo viên tham khảo, học hỏi và linh hoạt trong vận dụng
ở khối lớp học đang giảng dạy.
Đối với phụ huynh học sinh: Cần quan tâm hơn nữa tới việc tự học, tự rèn

các kĩ năng trong học tập, đặc biệt là kĩ năng đọc của các em ở nhà nhiều hơn nữa.


11
Ngoài ra cần phải kiểm tra sát sao việc tự học, tự rèn ở nhà của các em. Ln có
thơng tin với giáo viên về tình hình học tập của con để phối hợp rèn kĩ năng tiếng
Việt nói chung và kĩ năng đọc đúng nói riêng cho các em.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi đã áp dụng trong việc luyện đọc đúng
cho học sinh lớp 2 và đã đạt được một số kết quả nhất định. Những kinh nghiệm
mà bản thân tơi trình bày ở trên chắc chắn cịn nhiều thiếu sót. Tơi kính mong hội
đồng khoa học nhà trường, phòng giáo dục và các bạn đồng nghiệp góp ý thêm để
bản thân tơi đúc rút kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh hiệu quả hơn và
tạo tiền đề cho những năm học sau.
Xin chân thành cảm ơn !



×