Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN một số biện pháp rèn kỹ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.8 KB, 20 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“Một số biện pháp rèn kỹ năng
làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4”

Lệ Thủy


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“Một số biện pháp rèn kỹ năng
làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4”

Họ và tên: Nguyễn Thị Hà Thu
Chức vụ: Giáo viên chuyên biệt
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Sơn Thủy

Lệ Thủy


I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trường Tiểu học là nơi đầu tiên trẻ em được học tập tiếng Việt, chữ viết với phương
pháp nhà trường, phương pháp học tập tiếng mẹ đẻ một cách khoa học nhất. Học sinh
tiểu học chỉ có thể học tập các mơn học khác khi có kiến thức tiếng Việt. Bởi đối với
người Việt, tiếng Việt là phương tiện giao tiếp, là công cụ trao đổi thông tin và chiếm
lĩnh tri thức. Mơn Tiếng Việt trong chương trình Tiểu học có nhiệm vụ hồn thành năng


lực hoạt động ngơn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện trong
4 dạng hoạt động, tương ứng với 4 kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. Từ đó các em có thể học
tập và giao tiếp trong môi trường học tập lứa tuổi, giúp học sinh có cơ sở để tiếp thu kiến
thức lớp trên.
Trong mơn Tiếng Việt có nhiều phân mơn (Tập đọc, Tập viết, Chính tả, Tập làm văn,
Luyện từ và câu, Kể chuyện), mỗi phân môn chứa đựng một bộ phận kiến thức nhất
định, chúng bổ trợ cho nhau để người học học tốt tiếng Việt. Trong đó Tập làm văn là
phân mơn mang tính chất tổng hợp, sáng tạo, thực hành, thể hiện đậm nét dấu ấn cá
nhân. Tập làm văn, viết văn, hành văn là cái đích cuối cùng cao nhất của việc học Tiếng
Việt ở tiểu học. Đối với học sinh tiểu học, biết nói đúng, viết đúng, diễn đạt mạch lạc đã
là khó; để nói, viết hay, có cảm xúc, giàu hình ảnh lại khó hơn nhiều. Cái khó ấy chính là
cái đích mà phân mơn Tập làm văn địi hỏi người học cần dần đạt tới. Từ đó, các em
được mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mỹ và hình
thành nhân cách.
Chương trình Tập làm văn ở tiểu học chủ yếu là dạy văn miêu tả. Ngay từ lớp 2, lớp
3, các em đã được làm quen với văn miêu tả khi được tập quan sát, trả lời câu hỏi. Lên
lớp 4, các em hiểu thế nào là văn miêu tả, biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn ý, viết đoạn
văn và liên kết đoạn văn thành một bài văn miêu tả đồ vật, cây cối hoặc con vật - những
đối tượng gần gũi và thân thiết của các em.
Để hoàn thành bài văn miêu tả đối với học sinh lớp 4 thường rất khó khăn. Do đặc
điểm tâm lý, khả năng tập trung chú ý quan sát của học sinh tiểu học chưa tinh tế, năng
lực sử dụng ngôn ngữ chưa phát triển tốt, dẫn đến khi viết văn miêu tả, học sinh còn
thiếu vốn hiểu biết về đối tượng miêu tả, ... hoặc không biết cách diễn đạt điều muốn tả.
Đối với giáo viên đây cũng là loại bài khó dạy. Giáo viên còn thiếu linh hoạt trong
vận dụng phương pháp và chưa sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt động học tập của
học sinh. Vì vậy, khơng phải giờ dạy văn miêu tả nào cũng đạt hiệu quả mong muốn và
không phải giáo viên nào cũng dạy tốt kiểu bài văn miêu tả. Việc tìm tịi phương pháp để
hướng dẫn học sinh quan sát, tìm ý, lập dàn ý, tưởng tượng, ... còn nhiều hạn chế.
Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy lớp 4, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài:
“Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4” để nghiên cứu



với hy vọng góp phần nâng cao trình độ chun mơn của bản thân và góp phần nâng
cao chất lượng dạy - học văn miêu tả ở lớp 4.
2. Điểm mới của đề tài
Thông qua đề tài nghiên cứu này, nhằm giúp giáo viên:
- Rèn kĩ năng quan sát, tìm ý, lập dàn ý.
- Rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu, viết đoạn, liên kết đoạn, diễn đạt lưu loát, mạch lạc.
- Rèn kĩ năng viết văn giàu hình ảnh, cảm xúc.
- Bồi dưỡng tình cảm u mến, gắn bó, biết trân trọng những gì xung quanh các em.
- Có tiền đề tốt để học viết văn miêu tả lớp 5.
- Nhìn nhận lại sâu sắc hơn việc dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4 để vận dụng
phương pháp, biện pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách linh hoạt.
- Tự tìm tịi, nâng cao tay nghề, đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy Tập làm văn nói
chung và trong dạy học sinh viết văn miêu tả nói riêng.
- Nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học.
3. Phạm vi và đối tượng áp dụng
3.1. Phạm vi áp dụng
- Các dạng văn miêu tả lớp 4: Miêu tả đồ vật, miêu tả cây cối, miêu tả con vật.
- Thực trạng dạy - học viết văn miêu tả của học sinh lớp 4 trường tôi công tác năm học
2020 – 2021.
3.2. Đối tượng áp dụng
- Thể loại văn miêu tả lớp 4.
- Học sinh lớp 4B tại đơn vị tôi đang giảng dạy.
- Thời gian nghiên cứu: Tháng 10 năm 2020 đến tháng 5 năm 2021.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Thực trạng dạy học văn miêu tả lớp 4.
1.1. Thuận lợi
- Nhà trường luôn quan tâm, chỉ đạo thực hiện cơng tác chun mơn có hiệu quả, góp
phần nâng cao tay nghề cho GV.

- Giáo viên đều được trang bị đầy đủ SGK, sách giáo viên, sách tham khảo, các phương
tiện dạy học như máy chiếu để dạy giáo án điện tử.
- Đội ngũ giáo viên có năng lực, yêu nghề đã áp dụng các phương pháp dạy học phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh một cách linh hoạt và hiệu quả.
- Từ lớp 2, 3 học sinh được tập quan sát và trả lời câu hỏi để làm quen với văn miêu tả, đã
biết cách luyện tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên để tự chiếm lĩnh tri thức.
- Đối tượng miêu tả khá gần gũi với đời sống hằng ngày của học sinh như: đồ dùng học tập,
cây bàng, con gà, ...


- Đặc điểm tâm lí học sinh tiểu học có tâm hồn trong sáng, thơ ngây, giàu cảm xúc và sức
sáng tạo. Thế giới của các em là thế giới cổ tích. Những đồ vật, con vật, cây cối là những
người bạn thân thiết, gần gũi, các em có thể tâm sự, chia sẻ tình cảm của mình. Đặc điểm
tâm lí này rất thuận lợi cho việc khơi gợi ở các em những cảm xúc miêu tả bất ngờ, thú
vị,...
1.2. Khó khăn
- Giáo viên chưa khơi gợi được sự ham học, yêu thích miêu tả đồ vật, con vật, cây cối,...
xung quanh, chưa tạo được động cơ học văn miêu tả ở các em.
- Học sinh chưa hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn miêu tả, chưa phân biệt được sự khác
biệt giữa văn bản miêu tả với các kiểu bài văn khác.
- Khả năng quan sát và lựa chọn hình ảnh để quan sát và miêu tả chưa tinh tế.
- Vốn từ miêu tả còn nghèo nàn. Chưa có thói quen tích lũy các từ ngữ gợi tả.
- Kĩ năng lựa chọn từ ngữ, dùng từ, đặt câu, viết đoạn văn, kĩ năng diễn đạt,... còn hạn
chế. Các em chưa biết cách sắp xếp ý khi viết bài, bố cục thiếu rõ ràng, chưa khoa học.
- Chưa có thói quen sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa khi làm văn.
- Khả năng giao cảm với đối tượng miêu tả cịn hạn chế; cảm xúc, tình cảm khơng tự
nhiên, có sự gượng ép.
- Trong tiết trả bài, học sinh chưa được sửa lỗi và tự sửa lỗi kĩ càng, đầy đủ; các em cảm
thấy nặng nề, thất vọng về bài viết của mình.
- Các em chưa thực sự cảm thấy u thích mơn học.

Như chúng ta đã biết, sản phẩm của phân môn Tập làm văn là các văn bản ở dạng
nói, dạng viết theo các dạng lời nói, kiểu bài văn do chương trình quy định. Sản phẩm
của việc học văn miêu tả thường ở dạng viết. Năng lực viết chứng tỏ trình độ văn hóa,
văn minh của một người. Đối với học sinh năng lực viết chứng tỏ tư duy logic, tư duy
hình tượng đã phát triển ở một mức độ nhất định.
Lên lớp 4, các em mới bắt đầu học cách lập dàn ý, dựng đoạn và viết thành đoạn
văn hoàn chỉnh. Hơn nữa, khả năng ngơn ngữ của các em cịn hạn chế. Mỗi bài văn miêu
tả hay lại đòi hỏi khả năng tưởng tượng và sử dụng ngôn ngữ diễn đạt thật sinh động.
Thực tế cho thấy, đa số học sinh lớp 4 viết văn miêu tả chưa hay hoặc xếp ý còn lộn xộn,
lủng củng, hình ảnh trong bài văn chưa gợi tả, ít liên tưởng hoặc chỉ là sao chép các bài
văn mẫu. Vậy nguyên nhân tại đâu? Đó cũng là điều trăn trở của tôi cũng như của các
giáo viên trong khối.
Chính vì vậy, trong q trình giảng dạy, tơi ln tìm tịi, tham khảo tài liệu, trao
đổi với đồng nghiệp giàu kinh nghiệm để nắm bắt những phương pháp tối ưu nhất phục
vụ quá trình giảng dạy.
Mỗi bài văn miêu tả là sự kết tinh của những nhận xét tinh tế, là sự đúc kết việc
tiếp thu và vận dụng những kiến thức đã học. Đọc một số bài văn của học sinh, ta có thể
thấy ngay được kết quả của việc dạy và học.


Điều tra chất lượng viết văn miêu tả của học sinh của lớp 4B cuối học kì I năm
học này có số liệu cụ thể như sau:
Lớp
4B

Số lượng HS
14

HTT
2 (14,2%)


HT
9 (63,9 %)

CHT
3 (21,3%)

Thơng qua số liệu này ta có thể nhận thấy tỉ lệ học sinh Chưa hoàn thành kỹ năng
Tập làm văn cịn rất cao (21,3%). Bên cạnh đó, tỉ lệ học sinh Hoàn thành tốt lại chiếm tỉ
lện rất thấp (14,2%).
2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY HỌC VĂN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 4
2. 1. Giải pháp 1: Tạo động cơ học văn miêu tả cho học sinh
Công việc đầu tiên của dạy học Tập làm văn là tạo được động cơ, nhu cầu nói
năng, kích thích học sinh tham gia vào cuộc giao tiếp (nói, viết)
Sản phẩm của phân môn Tập làm văn là các bài văn nói hoặc viết theo các kiểu
bài do chương trình quy định. Để sản sinh các bài văn này, học sinh phải có thêm nhiều
kĩ năng khác ngồi các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt, kĩ năng dùng từ đặt câu.
Đó là các kĩ năng phân tích đề, tìm ý và lựa chọn ý, kĩ năng lập dàn ý, viết đoạn và liên
kết đoạn.
Nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn bậc tiểu học là mở rộng vốn sống, rèn luyện
tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học sinh. Trong
đó học văn miêu tả sẽ góp phần phát triển tư duy hình tượng cho các em nhờ các biện
pháp so sánh, nhân hóa ,... khi miêu tả. Nhưng làm thế nào để thực hiện được nhiệm vụ
trên mà không biến các em thành những “ thợ ” viết văn? Vậy ta cần kích thích các em
u văn và có nhu cầu viết văn.
Trước hết, hãy tạo tình huống khiến các em háo hức khám phá điều thú vị trong đối
tượng miêu tả.
Ví dụ: Giáo viên cho các em quan sát bức tranh cây hoa phượng đang ra hoa đỏ rực
và hỏi: Quan sát tranh, em thấy cây hoa có đặc điểm gì mà nhà văn Xn Diệu đã ví “
như mn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau.”?

Học sinh sẽ phân tích tìm ra đặc điểm tương đồng của bộ phận nào đó của cây hoa
với mn ngàn con bướm đậu khít nhau. Qua đây cũng rèn cho các em óc quan sát tinh
tế, sự liên tưởng và tư duy phân tích, kích thích các em suy luận.
Dạy học sinh viết văn miêu tả phải gắn liền với việc hình thành những kĩ năng sống
khác. Như dạy các em giữ gìn đồ vật, tổ chức cho học sinh trồng, chăm sóc và bảo vệ
cây... Học sinh được trau dồi vốn sống, biết suy nghĩ, có những cảm xúc, tình cảm. Từ
đó, mới dạy các em cách thể hiện suy nghĩ, tình cảm bằng ngơn ngữ nói, viết.
Khi ra đề Tập làm văn, giáo viên nên chú ý đề bài cần yêu cầu viết về những gì gần
gũi, thân thiết với học sinh, tạo ra được động cơ nói năng, kích thích các em muốn nói,


viết về nội dung mà đề bài đã yêu cầu. Trong tiết Kiểm tra viết (sách Tiếng Việt 4 tập 2 –
trang 92) có 4 đề bài gợi ý, giáo viên cần dựa vào đó ra đề nhằm gợi cảm xúc cho các em
trước khi viết bài.
Ví dụ: + Đề 1: Hãy tả một cây ở trường gắn với nhiều kỉ niệm cuả em.
+ Đề 2: Hãy tả một cây do chính tay em vun trồng.
+ Đề 3: Em thích lồi hoa nào nhất? Hãy tả loại hoa đó.
2. 2. Giải pháp 2: Giúp học sinh hiểu rõ đặc điểm của văn miêu tả.
Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên định nghĩa: Miêu tả là dùng ngôn ngữ
hoặc một phương tiện nghệ thuật nào đó làm cho người khác có thể hình dung dược cụ
thể sự vật, sự việc hoặc thế giới nội tâm của con người.
Nhà văn Phạm Hổ viết: “ Miêu tả là khi đọc những gì chúng ta viết, người đọc
như thấy cái đó hiện ra trước mắt mình: một con người, con vật, một dịng sơng, ... người
đọc cịn có thể nghe được cả tiếng nói, tiếng kêu, tiếng nước chảy, thậm chí cịn có thể
ngửi thấy mùi sữa, mùi hương hoa hay mùi rêu, mùi ẩm mốc, ...nhưng đó mới chỉ là
miêu tả bên ngồi, cịn sự miêu tả bên trong nữa là miêu tả tâm trạng vui, buồn, yêu, ghét
của con người, con vật và cả cây cỏ”
(Viết văn miêu tả và văn kể chuyện)
Như vậy, miêu tả là thể loại văn dùng lời nói có hình ảnh và có cảm xúc làm
cho người nghe người đọc hình dung một cách rõ nét, cụ thể về người, vật, cảnh vật, sự

việc như nó vốn có trong đời sống. Một bài văn miêu tả hay khơng những phải thể hiện
rõ nét, chính xác, sinh động đối tượng miêu tả mà còn thể hiện được trí tưởng tượng,
cảm xúc và đánh giá của người viết với đối tượng được miêu tả. Bởi vì trong thực tế
không ai tả mà để tả, mà thường tả để gửi gắm suy nghĩ, cảm xúc, sự đánh giá, những
tình cảm yêu ghét cụ thể của mình. Các bài văn miêu tả ở tiểu học chỉ yêu cầu tả những
đối tượng mà học sinh u mến, thích thú. Vì vậy, qua bài làm của mình, các em phải gửi
gắm tình yêu thương với những gì mình miêu tả.
Đối tượng của văn miêu tả trong chương trình lớp 4 gồm có: Miêu tả đồ vật, cây
cối, con vật.
- Tả đồ vật:
Đối tượng của văn miêu tả đồ vật ở lớp 4 là những vật học sinh thường thấy trong
đời sống hàng ngày gần gũi với các em, vì vậy cũng dễ trở thành gần gũi với các em. Đó
có thể là cái trống, cái bút, quyển vở, cặp sách, cái đồng hồ báo thức, … Chúng là những
đồ vật vô tri, vơ giác nhưng gần gũi và có ích đối với học sinh.
Mỗi đồ vật đều có hình dáng, màu sắc, kích thước, chất liệu cụ thể. Học sinh miêu
tả những đặc điểm này trong bài văn của mình. Với những đồ vật có nhiều bộ phận, các
em cần tập trung tả những bộ phận quan trọng nhất. Đó chính là những nét tiêu biểu để
phân biệt đồ vật này với đồ vật khác.


Đồ vật lại thường gắn liền với cuộc sống con người nên khi miêu tả phải nói tới
cơng dụng, lợi ích của đồ vật cũng như tình cảm của con người đối với nó. Có như vậy,
đồ vật mới hiện lên một cách sinh động và có hồn.
- Tả cây cối:
Đối tượng của văn miêu tả cây cối là những cây trồng xung quanh học sinh. Đó có
thể là một cây hoa, cây ăn quả hay cây cho bóng mát,…- những cây có ích và gần gũi
với các em. Mỗi loại cây có một hình dáng, đặc điểm, lợi ích nhất định. Vì vậy, khi miêu
tả chúng, học sinh phải làm nổi bật những đặc điểm này. Tả cây ăn quả cần tập trung
miêu tả hình dáng của cây, mùi vị của quả; tả cây lấy hoa cần tả hương sắc của hoa; tả
cây cho bóng mát phải làm rõ dáng cây, tán lá, …

Cây cối luôn sống trong thiên nhiên. Khi miêu tả, cần gắn chúng với miêu tả sơ
lược xung quanh như mặt trời, đám mây, chim chóc, ao hồ và cả con người. Ta cũng cần
chú ý tới lợi ích của chúng và tình cảm u mến gắn bó của người tả với cây.
- Tả con vật:
Đối tượng của văn miêu tả con vật là những con vật quen thuộc gần gũi với học
sinh. Đó là những con gà mái, gà trống, cún con, chú mèo,… Mỗi con vật đều có đặc
điểm về hình dáng, đặc tính giống nòi riêng. Khi miêu tả, ta miêu tả cái chung, và cả
những nét tiêu biểu như màu sắc, vóc dáng, tính nết. Những con vật miêu tả là những
con vật gần gũi thân thiết và có nhiều lợi ích nên bài văn phải thể hiện được sự chăm
sóc, tình cảm yêu mến của học sinh đối với chúng.
Ở Tiểu học, phân mơn Tập làm văn có nhiệm vụ rèn kĩ năng nói theo nghi thức
lời nói, nói, viết các ngôn bản thông thường, viết một số văn bản nghệ thuật như miêu tả.
Viết văn miêu tả, học sinh phải có kĩ năng đặc thù quan sát, diễn đạt một cách có hình
ảnh. Tập làm văn cũng góp phần rèn luyện tư duy hình tượng, từ óc quan sát đến trí
tưởng tượng, từ khả năng tái hiện các chi tiết đã quan sát được. Khả năng tư duy logic
của học sinh cũng được phát triển trong q trình phân tích đề, lập dàn ý viết đoạn ….
Trong quá trình sản sinh văn bản cũng giúp học sinh có kĩ năng phân tích, tổng hợp,
phân loại, lựa chọn. Thơng qua viết văn miêu tả học sinh có sự hiểu biết và tình cảm u
mến, gắn bó với đồ vật, cây cỏ, thiên nhiên với con người và vạn vật xung quanh: từ một
quyển sách, đến một cây hoa, một chú gà trống… Từ đây, tâm hồn, nhân cách của các
em sẽ được hình thành và phát triển .
Để dạy tốt các bài Tập làm văn miêu tả ở Tiểu học, giáo viên cần vận dụng các tri
thức về miêu tả,… hiểu biết về thể loại văn học; cần hiểu rõ tính đặc thù của kĩ năng viết
văn miêu tả. Để “vẽ được bằng lời” phải dạy tìm ý trong văn miêu tả bằng cách dạy quan
sát và ghi chép các nhận xét. Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh biết cách vận dụng
các giác quan để quan sát, biết cách lựa chọn vị trí và thời gian quan sát, biết cách liên
tưởng và tưởng tượng khi nhận xét sự vật và phải biết diễn đạt điều quan sát được một
cách gợi tả, gợi cảm, tức là có hình ảnh và cảm xúc…



Bài văn miêu tả được xây dựng trên cơ sở những hình ảnh, những ấn tượng về đối
tượng mà người viết thu lượm, cảm nhận được thông qua các giác quan trực tiếp của
mình. Bài văn miêu tả thể loại mang tính chất nghệ thuật cao, mang tính sáng tạo, tính cá
thể của người viết. Ngơn ngữ trong văn miêu tả là thứ ngôn ngữ nghệ thuật giàu sức gợi
tả, gợi cảm và là ngôn ngữ của những biện pháp tu từ. Tả là mô phỏng, tô vẽ lại, là so
sánh ví von, nhân hố bằng hình ảnh … chứ khơng phải là kể lể .
Văn miêu tả mang tính chất thông báo thẩm mĩ. Dù miêu tả đối tượng nào, dù có
bám sát thực tế đến đâu thì văn miêu tả cũng không bao giờ sao chép, chụp ảnh máy móc
những sự vật hiện tượng mà là kết quả của sự nhận xét, tưởng tượng, đánh giá hết sức
phong phú. Đó là sự miêu tả thể hiện được cái mới, cái riêng biệt của đối tượng thông
qua cảm nhận của mỗi người .
Chẳng hạn, Trần Đăng Khoa nhìn trăng bằng con mắt tinh tế, bằng tình yêu của
tâm hồn trẻ thơ, hồn nhiên, trong sáng:
Trăng hồng như quả chín
Lửng lơ lên trước nhà …
… Trăng tròn như mắt cá
Chẳng bao giờ chớp mi…
… Trăng bay như quả bóng
Bạn nào đá lên trời …
Nhà văn Thép Mới lại lấy cảm hứng của của anh chiến sĩ đang mơ về tương lai của
đất nước khi ngắm trăng trong đêm Trung thu độc lập đầu tiên: Trăng sáng mùa thu
văng vặc chiếu khắp thành phố, làng mạc, núi rừng, …
Cùng là vầng trăng, hay một sự vật những mỗi người cảm nhận theo cách riêng
của mình, mà những người khác khơng phát hiện được hoặc chưa phát hiện được.
Với mỗi học sinh, mỗi bài Tập làm văn là một một sản phẩm của từng cá nhân các
em trước một đề tài. Sản phẩm này ít nhiều in dấu ấn riêng của từng em trong cách suy
nghĩ, cách tả, cách diễn đạt, … Giáo viên cần có thái độ tơn trọng sự độc lập suy nghĩ,
sáng tạo nếu nó khơng biểu lộ những lệch lạc.
Văn miêu tả không hạn chế sự tưởng tượng, không ngăn cản sự sáng tạo của
người viết, nhưng không có nghĩa là cho phép người viết “bịa” một cách tuỳ ý. Để tả

hay, tả đúng thì phải tả chân thật. Giáo viên cần uốn nắn để học sinh tránh thái độ giả
tạo, sáo rỗng …
2. 3. Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh cách quan sát đối tượng miêu tả, cách
lựa chọn hình ảnh, nội dung miêu tả.
* Khi quan sát đối tượng miêu tả cần chú ý :
- Quan sát tổng thể đối tượng; chú ý cả trạng thái động và tĩnh; quan sát bằng tất cả giác
quan thính giác, thị giác, xúc giác,...
- Lựa chọn điểm đặc trưng, đặc biệt, tiêu biểu của đối tượng để quan sát thật kĩ


- Quan sát và so sánh điểm giống và khác nhau với các đối tượng khác có ở xung quanh
bằng sự liên tưởng hay quan sát trước đó.
- Quan sát hình ảnh, hoạt động và những tác động của đối tượng đến các sự vật xung
quanh.
- Ghi chép cẩn thận, đầy đủ khi quan sát.
* Khi lựa chọn hình ảnh miêu tả và nội dung miêu tả cần:
- Căn cứ vào hình ảnh đã lựa chọn khi quan sát
- Căn cứ vào nội dung đã ghi chép
- Chọn lọc những hình ảnh, chi tiết, hoạt động đặc sắc, đặc trưng riêng, đẹp và khác biệt
của đối tượng để miêu tả chi tiết.
- Lựa chọn hình ảnh, hoạt động khác của đối tượng để tả khái quát, bổ trợ tạo nên hình
ảnh tổng thể về đối tượng; có thể lồng ghép các hình ảnh, sự việc gắn bó mật thiết với
đối tượng.
* Khi sắp xếp ý, đoạn cần phải:
- Căn cứ vào nội dung đã lựa chọn để sắp xếp từng ý( theo một thứ tự nào đó: từ ngồi
vào trong, từ trước ra sau, từ xa đến gần, từ trên xuống dưới,...)
- Sắp xếp các ý theo đoạn với thứ tự đã lựa chọn cho phù hợp. Để viết được bài văn, học
sinh cần tập viết đoạn. Trong chương trình TLV, bài tập viết đoạn chiếm số lượng nhiều.
Đoạn văn được phân loại theo chức năng: đoạn mở bài, đoạn thân bài, đoạn kết bài.
Cách phân loại này chi phối cách xây dựng các kiểu bài viết đoạn mở bài, viết đoạn thân

bài và đoạn kết bài. Mỗi đoạn văn theo chức năng này lại được phân loại nhỏ hơn: mở
bài trực tiếp, mở bài gián tiếp, kết bài mở rộng, kết bài tự nhiên( khơng mở rộng).
Ví dụ khi dạy học sinh viết đoạn miêu tả đặc điểm bên ngoài chiếc cặp, giáo viên
cần hướng dẫn học sinh:
+ Đề bài u cầu viết đoạn văn có nội dung gì? ( Tả đặc điểm, hình dáng bên
ngồi chiếc cặp)
+ Hãy quan sát và ghi nhớ các đặc điểm bên ngoài của chiếc cặp
. Cặp còn mới hay đã cũ ?
. Cặp hình gì? Kích thước thế nào?
. Cặp màu gì? Làm bằng vải hay da?
. Quai cặp như thế nào?
. Mặt cặp, nắp cặp được trang trí thế nào?
. Khóa cặp nằm ở đâu, đóng mở cặp có âm thanh gì?...)
+ Viết đoạn văn miêu tả chiếc cặp đó. Chú ý viết đoạn văn có bố cục 3 phần:
. Câu mở đoạn: giới thiệu khái quát đặc điểm của chiếc cặp.
. Các câu thân đoạn: tả các chi tiết của chiếc cặp.
. Câu kết đoạn: nêu tác dụng của chiếc cặp hoặc cảm nhận của em về chiếc cặp đó.
2. 4. Giải pháp 4: Giúp học sinh tích luỹ vốn từ miêu tả và làm giàu tưởng tượng


của các em trong làm văn miêu tả.
Muốn lựa chọn từ ngữ để đặt câu, viết thành những câu văn có hình ảnh, học sinh
phải có vốn từ phong phú. Do vậy, giáo viên cần giúp học sinh tích luỹ vốn từ miêu tả và
làm giàu tưởng tượng của các em trong làm văn miêu tả:
* Tích luỹ vốn từ:
- Vốn từ được tích luỹ từ nhiều nguồn: giao tiếp hàng ngày; đọc sách, báo; xem,
nghe truyền hình truyền thanh; trao đổi với bạn bè; cô giáo cung cấp;..
- Ghi chép khi được nhận các từ ngữ dùng để miêu tả theo các chủ đề, cụ thể như:
+ Các từ thường dùng trong miêu tả cây cối: xanh mướt, mơn mởn; khẳng khiu;
xum xuê; rực rỡ; đo đỏ;

+ Các từ thường dùng trong miêu tả đồ vật: tròn xoe, nhỏ nhắn,...
+ Các từ thường dùng trong miêu tả con vật: tinh nhanh, rón rén, oai vệ,...
- Các từ miêu tả đó thường là những từ láy, gợi lên hình ảnh, âm thanh,. . để miêu
tả cho sinh động.
* Giúp học sinh làm giàu thêm trí tưởng tượng:
Tưởng tượng trong miêu tả rất quan trọng. Có tưởng tượng mới có hình ảnh hoàn
chỉnh về đối tượng miêu tả. Tưởng tượng như một sự hình dung về đối tượng mà ta
nhắm mắt lại thì đối tượng sẽ hiện ra rõ nét hơn, cụ thể hơn, gần gũi hơn. Tưởng tượng
giúp ta thấy được nét đặc sắc của đối tượng, thấy được những điểm tương đồng với đối
tượng khác, thấy được mối quan hệ của đối tượng với sự vật hiện tượng xung quanh, với
những kỉ niệm hay kí ức mang dấu ấn sâu sắc trong lòng người viết. Từ tưởng tượng,
học sinh sẽ cảm nhận được đối tượng miêu tả bằng tình cảm, tình u của chính mình,
thấy được tầm quan trọng của đối tượng được tả đối với chính mình và cả với những
người xung quanh. Miêu tả gắn với tưởng tượng là một cách bộc lộ cảm xúc, tình cảm và
khả năng cảm thụ cái đẹp của người viết văn miêu tả. Tưởng tượng làm cho đối tượng
miêu tả hoàn thiện hơn, sống động và gần gũi hơn.
Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tưởng tượng theo cách như sau:
- Không trực tiếp quan sát, tập trung tất cả các giác quan vào đối tượng.
- Nhắm mắt, hình dung về đối tượng: hình ảnh, hoạt động của đối tượng, những ảnh
hưởng, tác động của đối tượng đến sự vật xung quanh.
- So sánh đối tượng được miêu tả với các đối tượng khác tương đồng.
- Phân tích, đánh giá cái hay, cái đẹp có ở đối tượng.
- Nhân hố hay tự nhiên hố một vài hình ảnh đặc sắc ở đối tượng.
- Dự đoán trựớc khả năng và những điều tốt đẹp mà đối tượng có thể vươn tới.
- Liên tưởng với những điều mình đã biết; đã nghe, đọc, cảm nhận được về đối tượng từ
trước tới nay.
- Ghi chép lại những gì mình đã tưởng tượng để lựa chọn, chắt lọc đưa vào bài viết của
mình.



2. 5. Giải pháp 5: Hướng dẫn xây dựng đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài và xây
dựng bố cục bài văn.
Bài tập luyện viết văn miêu tả là những bài tập viết thành đoạn, bài.
Khi học sinh thực hiện viết bài văn miêu tả cần có thời gian suy nghĩ tìm cách
diễn đạt( dùng từ, đặt câu, sử dụng các biện pháp tu từ so sánh, nhân hoá,...). Vì vậy, yêu
cầu đặt ra là lời văn cần rõ ý, miêu tả sinh động, bộc lộ được cảm xúc, bố cục bài văn
chặt chẽ, hợp lí trong từng đoạn, trong toàn bài để tạo ra một “chỉnh thể”.
Các bài tập được xây dựng trên cơ sở quy trình sản sinh ngơn bản và chứa đựng
trong nó nhiều bài tập hình thành những kĩ năng bộ phận (xác định yêu cầu nói, viết và
tìm ý, sắp xếp ý thành bài đến viết đoạn văn, liên kết đoạn văn thành bài,...) Kĩ năng viết
của học sinh được rèn luyện chủ yếu qua các bài tập viết đoạn văn trước khi viết một bài
văn hồn chỉnh. Do đó, trong q trình thực hiện các bài tập rèn luyện kĩ năng viết, giáo
viên cần giúp học sinh thực hiện tốt những yêu cầu trong các nhóm bài tập sau:
* Nhóm bài tập tiền sản sinh ngơn bản: gồm các bài tập phân tích đề bài, xác định
nội dung viết, tìm ý, sắp xếp ý để chuẩn bị thực hiện yêu câu viết (miêu tả). Việc phân
tích tìm hiểu đề giúp học sinh xác định được yêu cầu, nội dung, giới hạn của đề bài. Với
mỗi đề bài cụ thể, khi phân tích tìm hiểu đề, các em phải trả lời được câu hỏi: Viết để
làm gì? Viết về cái gì? Viết cho ai? Thái độ cần được bộc lộ trong bài viết như thế nào?
Tình cảm của người viết phải thể hiện được qua cách miêu tả.
* Nhóm bài tập sản sinh ngơn bản gồm bài tập viết đoạn và bài tập viết bài văn:
+ Bài tập viết đoạn văn: rèn cho học sinh kĩ năng tạo lập được đoạn văn đảm bảo
sự liên kết chặt chẽ về ý. Các đoạn văn được luyện viết là đoạn mở bài (trực tiếp, gián
tiếp), đoạn kết bài (mở rộng, không mở rộng). Các đoạn phải có sự liền mạch về ý
(khơng rời rạc, lộn xộn), các ý trong đoạn được diễn tả theo một trình tự nhất định nhằm
minh hoạ, cụ thể hố ý chính (có mở đầu, triển khai và kết thúc).
*Hướng dẫn học sinh viết các đoạn văn:
- Đoạn văn mở bài: Học sinh được học hai cách mở bài: mở bài trực tiếp và mở
bài gián tiếp. Giáo viên nên để học sinh lựa chọn cách mở bài mà mình cho là hợp lí nhất
và phù hợp với khả năng của từng em. Mở bài gián tiếp có thể xuất phát từ một vấn đề
khác rồi mới dẫn vào vấn đề mình cần nói tới, có thể bắt đầu bằng một sự kiện, hoàn

cảnh xuất hiện vật định miêu tả; hoặc bắt đầu bằng những câu thơ, ca dao.. . có liên quan
đến yêu cầu của đề bài.
- Thân bài: Có thể gồm một số đoạn văn, là toàn bộ nội dung miêu tả được viết
theo từng phần, từng ý đã được sắp xếp khi quan sát, chuẩn bị viết bài. Trong đó, thể
hiện được hình ảnh về đối tượng miêu tả với ngôn từ và các biện pháp nghệ thuật mà
người viết vận dụng để miêu tả.
- Đoạn văn kết bài: Kết bài tuy chỉ là một phần nhỏ trong một bài văn nhưng lại rất
quan trọng bởi đoạn kết bài thể hiện được nhiều nhất tình cảm của người viết với đối


tượng miêu tả. Thực tế cho thấy học sinh thường hay liệt kê cảm xúc của mình làm phần
kết bài khơ cứng, gị bó, thiếu chân thực. Các em thường làm kết bài khơng mở rộng, điều
đó khiến bài văn chưa có sự hấp dẫn. Do đó, giáo viên cần hướng dẫn, gợi ý để học sinh
biết cách và viết được phần kết bài mở rộng bằng cảm xúc của mình một cách tự nhiên.
Giáo viên có thể dùng câu hỏi gợi mở để khơi gợi cảm xúc của học sinh trong quá khứ,
hiện tại, tương laị; hoặc trong hoàn cảnh nào đó đối với đối tượng được tả.
VD: Tả cái trống trường: Ngày mới vào lớp 1, khi nghe tiếng trống trường, em có
cảm giác gì? Bây giờ học lớp 4 rồi, ngày nào cũng nghe tiếng trống, em càng thấy như
thế nào?...
Hoặc Tả cây ăn quả: Hình ảnh cây sai trĩu quả gợi cho em cảm nghĩ gì? Mỗi khi ăn
quả em nhớ đến điều gì?
+ Bài tập viết bài văn: thường được thực hiện trong cả một tiết học. Chúng luyện
cho học sinh triển khai nhiệm vụ giao tiếp thành một bài. Bài văn phải có bố cục chặt
chẽ, có lời văn phù hợp với yêu cầu nội dung và thể loại, các đoạn văn trong bài phải
liên kết với nhau thành một bài văn hoàn chỉnh, được bố cục chặt chẽ theo ba phần:
Mở bài: Giới thiệu đối tượng miêu tả, thể hiện tình cảm, quan hệ của người miêu
tả với đối tượng miêu tả.
Thân bài: Dùng lời văn để tả, tái hiện, sao chụp chân dung của đối tượng miêu tả
ở những góc nhìn nhất định. Có thể sử dụng các biện pháp nghệ thuật để lột tả hình ảnh
một cách sinh động.

Kết luận: Nêu những nhận thức, suy nghĩ, tình cảm, thái độ trực tiếp của người
miêu tả và của mọi người nói chung đối với đối tượng miêu tả.
Nhóm bài tập viết đoạn, bài là những bài tập khó nhất, địi hỏi sự sáng tạo nhất,
yêu cầu học sinh phải vận dụng một cách tổng hợp sự hiểu biết, cảm xúc về cuộc sống,
về các đối tượng được tả và các kĩ năng ngơn ngữ đã được hình thành trước đó để tạo lập
được đoạn, bài. Đây là một quá trình chuyển từ ý đến lời. Giáo viên phải luyện cho học
sinh diễn đạt đúng những gì muốn tả. Ý có thể được diễn tả thành những lời khác nhau.
Học sinh phải biết lựa chọn cách diễn đạt có hiệu quả nhất.
Để rèn luyện kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh, giáo viên phải giúp học sinh
xác định được mục đích của bài viết, chủ đề của bài viết và duy trì chủ đề này trong suốt
bài viết để bài văn khơng lan man.
Thật khó khi phân định đúng, sai ở một bài văn. Mà ta đánh giá bài văn đó có hay
khơng, có đặc sắc khơng? Vì thế, bài văn phải bộc lộ tình cảm chân thành, hồn nhiên của
các em ở từng câu, từng đoạn của bài, và cô đọng lại ở phần kết bài. Do vậy, giáo viên
cần chú ý rèn cho học sinh cách tưởng tượng, bộc lộ cảm xúc trong bài văn một cách
thường xuyên, liên tục; từ tiết đầu tiên của mỗi loại bài đến những tiết xây dựng đoạn
văn, tiết viết bài và cả trong tiết trả bài.
2. 6. Giải pháp 6: Luyện tập cách sử dụng các biện pháp tu từ, biện pháp nghệ


thuật trong viết văn.
Để bồi dưỡng kĩ năng diễn đạt, học sinh sẽ thực hành một số bài tập luyện viết
như: với các từ cho sẵn, viết thành câu, luyện dùng từ bằng cách sửa lỗi dùng từ; từ ý đã
cho viết thành câu gợi tả, gợi cảm, viết có sử dụng biện pháp tu từ theo yêu cầu, làm các
bài tập mở rộng thành phần câu... để cách diễn đạt được sinh động, gợi tả, gợi cảm hơn.
Giáo viên cần tiến hành theo mức độ tăng dần, bước đầu chỉ yêu cầu học sinh đặt câu
đúng, sau yêu cầu cao hơn là phải đặt câu có sử dụng biện pháp so sánh, nhân hố, có
dùng những từ láy, từ ngữ gợi tả hình ảnh, âm thanh hay những từ biểu lộ tình cảm.
VD: Một học sinh tả chiếc bàn học:
Mỗi lúc học bài mệt em thường áp mặt lên mặt bàn để cảm nhận hương thơm dìu

dịu của một người bạn thân đã cần mẫn, miệt mài cùng em giải những bài tốn khó.
Miêu tả như vậy vừa sinh động, tinh tế vừa rất tình cảm và sẽ cuốn hút người đọc,
người nghe.
Tuy nhiên, không phải học sinh nào cũng biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật
khi miêu tả và cũng khơng phải tự các em có sẵn tâm hồn văn chương như vậy. Học sinh
có thể phát hiện tốt chi tiết có sử dụng biện pháp nghệ thuật gì nhưng khi viết văn lại khó
vận dụng được. Giáo viên cần có biện pháp nào giúp các em? Tôi đã giúp các em bằng
cách như sau:
VD: Mỗi hoa chỉ là một phần tử của cả xã hội thẳm tươi; người ta quên đoá hoa,
chỉ nghĩ đến cây, đến hàng, đến những tán lớn xoè ra như muôn ngàn con bướm thắm
đậu khít nhau.
- Cho học sinh phát hiện biện pháp nghệ thuật trong câu trên.
- Nêu tác dụng của việc so sánh như vậy.
- Giải thích vì sao có thể so sánh hoa phượng với mn ngàn con bướm thắm
( mà không phải một con).
- Tập vận dụng so sánh tương tự: so sánh hoa phượng với hình ảnh khác theo cảm
nhận của các em, hoặc so sánh lồi hoa hay cây khác với hình ảnh nào đó. Chú ý giúp
học sinh nhận ra những cách so sánh thú vị, giàu sức gợi tả và những so sánh khơng có
giá trị.
- u cầu các em ghi chép vào sổ tay những câu văn, thơ có sử dụng hiệu quả biện
pháp nghệ thuật đó.
2. 7. Giải pháp 7: Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài tập làm văn.
Kĩ năng TLV trước hết được chia thành kĩ năng nói, kĩ năng viết. Ở lớp đầu cấp,
khẩu ngữ của các em phát triển hơn cịn kĩ năng viết mới được hình thành nên bị ảnh
hưởng của khẩu ngữ, các em nói thế nào, viết thế ấy, mắc các lỗi được tính vào lỗi vi
phạm phong cách. Về sau, kĩ năng viết sẽ phát triển và sẽ ảnh hưởng tích cực trở lại với
khẩu ngữ. Lên lớp 4,5 kĩ năng viết ngày càng phát triển. TLV có vai trị hàng đầu trong
việc phát triển kĩ năng này. Đặc biệt, khi học viết văn miêu tả, học sinh lớp 4 bước đầu



được học diễn đạt lưu lốt, giàu hình ảnh.
Mặt khác, sự liên kết nội dung là liên kết bên trong khó nhận thấy, nhiều người
thường chú ý đến hình thức ngôn từ mà không coi trọng đến lôgic của các ý trong bài.
Trong khi chữa văn cho học sinh, nhiều giáo viên thường chú ý chữa lỗi chính tả, chữa
lời mà không chữa ý.
Người giáo viên cần hiểu rõ mục tiêu của tiết trả bài để thực hiện một cách
nghiêm túc, kĩ lưỡng, tránh làm “lấy lệ”, không thể qua loa, đại khái. Muốn làm được
như vậy, giáo viên phải tiến hành như thế nào?
* Chuẩn bị:
- Chấm bài thật kĩ, thấy rõ ưu, nhược điểm của từng bài viết; chữa lỗi tiêu biểu cần
khắc phục ngay cho các em.
- Ghi lại các lỗi của học sinh theo từng loại: Lỗi chính tả, lỗi dùng từ, lỗi đặt câu,
lỗi diễn đ ạ t , . . Gh i lại các từ, câu, đoạn văn hay.
- Thống kê và phân loại bài theo mức độ: tốt, khá, trung bình, chưa đạt yêu cầu.
Nhận xét chung về ưu, nhược điểm trong bài viết của học sinh.
* Trong giờ trả bài:
Đây là tiết học thực hiện nhóm bài tập kiểm tra điều chỉnh. Giáo viên yêu cầu học
sinh đọc lại đoạn đã viết, tự kiểm tra đối chiếu với mục đích yêu cầu đặt ra lúc đầu để tự
đánh giá, sửa chữa bài viết của mình. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh xem xét cả nội
dung và hình thức diễn đạt. Có thể phải cho học sinh luyện viết lại đoạn, bài.
- Tiến hành đúng như quy trình đã hướng dẫn (Linh hoạt về thời gian thực hiện
các bước, hình thức tổ chức sửa lỗi như thảo luận nhóm, tuỳ theo kết quả bài viết của
học sinh).
- Lưu ý: Học sinh phải thấy được lỗi trong bài văn của mình và của bạn; sửa được
lỗi đó và ghi nhớ nó; hiểu rõ và có nhu cầu học hỏi những từ, câu, đoạn văn hay, giàu
hình ảnh và sức gợi tả. Tơi muốn nhấn mạnh rằng: Trước khi cho học sinh học hỏi những
từ, câu, đoạn văn hay cần lưu ý cho các em đọc lên (thành tiếng và đọc thầm) một cách
diễn cảm thì tất cả các em mới cảm nhận được sự thú vị của cái hay đó.
Tuy nhiên, ta cũng khơng nên địi hỏi q cao ở học sinh. Tuỳ vào đối tượng học
sinh mà đặt ra các em sửa lỗi hay học từ, câu, đoạn hay ở mức độ nào. Giáo viên cần

kiên trì, bền bỉ, khơng thể nóng vội, kịp thời ghi nhận những tiến bộ của học sinh dù là
nhỏ nhất.
Do vậy, khi học sinh biết viết văn miêu tả và viết được hay là khi các em đã bước
đầu hiểu được đặc điểm của văn miêu tả, biết cách quan sát đối tượng, tích luỹ được vốn
từ miêu tả nhất định, biết xây dựng đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài; cách diễn đạt và
xây dựng bố cục bài văn; biết cách tưởng tượng và sử dụng các biện pháp tu từ, biện
pháp nghệ thuật trong viết văn; được sửa lỗi kĩ lưỡng sau mỗi bài viết. Từ đó, các em
viết bài dễ dàng hơn, thích thú hơn, có cảm xúc hơn, chất lượng bài viết được nâng cao.


2.8. Giải pháp 8: Thực hiện dạy học theo quan điểm tích hợp và giáo dục bảo vệ mơi
trường.
Dạy văn miêu tả đòi hỏi sự nhiệt huyết của giáo viên rất cao thì mới thấy được sự
tiến bộ của học sinh, mới khơi gợi được ở các em niềm say mê, thích thú. Các em khơng
chỉ viết tốt bài theo đề giáo viên u cầu mà cịn có nhu cầu miêu tả những đối tượng
u thích khác. Khơng chỉ trong tiết TLV mới dạy học sinh học viết văn, ta còn hướng
dẫn các em trong các tiết học khác của môn Tiếng Việt như dạy các em cảm thụ trong
giờ Tập đọc, dạy dùng từ, đặt câu trong tiết LTVC, kích thích nhu cầu miêu tả một đồ vật
nào đó trong khi tiếp xúc trò chuyện, hay các giờ ngoại khoá. Trong một lần hướng dẫn
các em xếp hàng vào lớp, bất chợt tơi nhìn thấy cây bằng lăng giữa sân trường ở bông
hoa đầu tiên. Tôi hỏi các em:
- Sân trường hơm nay có điều gì vừa mới, vừa lạ và rất đẹp? Các em quan sát
nhanh và đều nhận thấy điều tôi muốn hỏi.
- Bông hoa ấy đẹp như thế nào và cho em cảm xúc gì? Các em rất hào hứng nói
lên suy nghĩ của mình.
Tơi giáo dục ý thức bảo vệ cây xanh bằng cách hỏi các em như sau:
- Bông hoa đẹp thế kia, em có nên ngắt để tặng một người em yêu quý khơng? Vì
sao?
Như vậy, trong một thời điểm ngắn, tơi đã đạt được nhiều mục đích: Các em xếp
hàng nhanh mà khơng căng thẳng; kích thích các em phát triển khả năng quan sát, nhận

xét tinh tế, khả năng dùng ngôn ngữ để diễn đạt.. .Trong khoảng thời gian sau đó, tơi tin
rằng nhiều em cịn suy nghĩ và vận dụng vốn từ của mình để tả về bơng hoa đó theo cảm
nhận riêng.
Bên cạnh đó, cần dạy học tích hợp với các môn học khác làm giàu vốn sống, vốn
hiểu biết của các em. VD: Thông qua học về chủ đề “ Thực vật và động vật” của môn
Khoa học, học sinh có thêm hiểu biết về đặc điểm một số lồi thực vật, động vật, hiểu
được cách chăm sóc và ích lợi của chúng. Vì vậy, khi làm bài văn miêu tả( cây cối, con
vật), các em sẽ tả cặn kẽ, sinh động và thể hiện tình cảm của mình một cách chân thật
hơn.
2.9. Giải pháp 9: Khen ngợi, động viên học sinh kịp thời.
Để kích thích học sinh học tập nói chung, học văn miêu tả giáo viên hãy dành cho
các em những lời khen thích đáng. Các em sẽ phấn khởi, tự tin hơn và phát huy được khả
năng tiềm tàng của bản thân, từ đó loại bỏ được những lo âu, tự ti cố hữu.
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã áp dụng tương đối thành công khi dạy văn
miêu tả cho học sinh lớp 4B do tôi chủ nhiệm.
 Kết quả đạt được:
Qua một q trình lao động, tìm tịi sáng tạo để thực hiện từng giờ môn Tập làm văn
môt cách bài bản, có kế hoạch. Tơi nhận được một số kết quả như sau.


a. Mặt mạnh:
Tơi nhận thấy ngồi nhiệm vụ chính là biết làm một bài văn, học sinh được chủ
động, tự do thể hiện cái “tơi” của mình một cách rõ ràng bộc bạch cái riêng của mình một
cách trọn vẹn. Dạy Tập làm văn là dạy các em tập suy nghĩ riêng, tập sáng tạo, tập thể
hiện trung thực con người mình qua từng bài học cụ thể.
Qua đánh giá tôi thấy tất cả các em làm bài đạt yêu cầu, số lượng học sinh làm tốt
bài văn miêu tả tăng đáng kể .
b. Mặt hạn chế:
Thời gian làm bài không dài( khoảng 30- 25 phút), nên các em khi viết bài luôn
mang tâm trạng vội vàng, sợ hết giờ. Vì vậy, các em chưa có sự chọn lựa, trau chuốt từ

ngữ, câu văn,... nên phần nào hạn chế hiệu quả của bài viết.
Kết quả kiểm tả chất lượng viết văn miêu tả của học sinh của lớp 4B cuối năm học
này có số liệu cụ thể như sau:
Lớp
4B

Số lượng HS
14

HTT
6 (42,6%)

HT
8 (57,4 %)

CHT
0 (0%)

Căn cứ vào kết quả trên, so với điểm cuối học kì 1 đến cuối học kì 2 thì kĩ năng
Tập làm văn của học sinh đã tiến bộ hẳn. Số lượng học sinh hoàn thành và hồn thành
tốt khá cao, khơng cịn học sinh chưa hồn thành kiến thức kỹ năng mơn học.
Kết quả trên cho thấy “Một số biện pháp rèn kỹ năng làm văn miêu tả cho học
sinh lơp 4” mà tôi đã triển khai đã đạt được hiệu quả tốt và mang tính khả thi cao.
Thơng qua dạy học, tơi nhận ra rằng dạy - học Tập làm văn cần nắm vững những
cơ sở lí luận và phương pháp luận của nó khi đó giáo viên mới hiểu được ý đồ lựa chọn
nội dung cụ thể ở các bài, của tác giả Sách giáo khoa cũng như quy trình và phương
pháp học từng bài trong Sách giáo khoa, Chuẩn kiến thức kĩ năng ,.....Từ đó tổ chức,
hướng dẫn và điều khiển tốt mọi hoạt động của mình, của học sinh, tạo ra chất lượng và
hiệu quả giáo dục cao.
Muốn làm được như vậy giáo viên phải được trang bị những tri thức về phương

pháp dạy học tích cực và tạo được điều kiện để các em hoàn thành những kĩ năng cần
thiết của phương pháp dạy học này. Tuỳ từng bài mà giáo viên lựa chọn áp dụng những


biện pháp phù hợp để làm thế nào cho giờ học Tập làm văn có hứng thú và đạt kết quả
cao nhất.
III. PHẦN KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa của đề tài
Dạy học sinh viết văn miêu tả có một ý nghĩa to lớn vì nó có cả
nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
Phân môn Tập làm văn là một phân môn thực hành và giàu sức
sáng tạo cá nhân. Có nhiều cách viết bài văn miêu tả và cũng có nhiều
biện pháp để dạy văn miêu tả. Trên cơ sở kinh nghiệm giảng dạy, mỗi
giáo viên đều có những cách thức dạy học riêng nhằm thực hiện tốt
nội dung chương trình đã quy định.
Tuy nhiên, để thành cơng khi dạy văn miêu tả, mỗi giáo viên đều
phải thực hiện tốt các yêu cầu sau:
- Nắm chắc mục tiêu môn học, bài học.
- Ln tìm tịi, trau dồi kiến thức và trình độ hiểu biết của bản
thân.
- Linh hoạt trong phương pháp giảng dạy.
- Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
- Luôn thực hiện quan điểm tích hợp trong dạy học.
- Phối hợp với các hoạt động ngồi giờ để tích lũy vốn hiểu biết và
bồi dưỡng tâm hồn giàu cảm xúc cho các em.
- Luôn kiểm tra, đánh giá mức độ và kịp thời ghi nhận sự tiến bộ của
học sinh.
- Chuyển sự đánh giá kết quả học tập của giáo viên thành kĩ năng
tự đánh giá của học sinh.
2. Kiến nghị - Đề xuất.

Trong quá trình thực hiện và đưa vào thực tế trong phạm vi đề tài ở tiết Tập làm văn miêu tả lớp 4. Bản thân tôi đã rút
ra nhiều kinh nghiệm và khẳng định đây là hình thức dạy học làm chuyển hố q trình học tập của học sinh. Như vậy cần
phải thực hiện một số giải pháp sau:
- Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý: quan sát bằng nhiều giác quan: mắt, mũi, tay, tai… qua đó học sinh phát hiện,
khám phá đầy đủ các đặc điểm của sự vật, làm cho chúng hiện ra đầy đủ, rõ ràng tránh được những bài văn miêu tả chung
chung mờ nhạt.
- Khi hướng dẫn học sinh quan sát cần gợi mở, dẫn dắt theo một trình tự hợp lý, để học sinh tự mình quan sát, tự mình cảm
nhận tính chất mn hình mn vẻ của sự vật. Đây là điều kiện chủ yếu làm nền tảng giúp cho bài viết trở nên chân thật, tự


nhiên và đây cũng là cơ sở cho sự phát huy trí tưởng tượng và năng lực sáng tạo của học sinh (sáng tạo trong cách nhìn, cách
nghĩ, cách diễn đạt nội dung…).
Đặc biệt, giáo viên phải sử dụng tranh. ảnh trong văn miêu tả cụ thể, từng vùng, từng miền khác nhau mà giáo viên lựa chọn
tranh ảnh cho phù hợp để cho các em quan sát tốt hơn.
- Tích luỹ và lựa chọn vốn từ ngữ khi miêu tả cũng là biện pháp không kém phần quan trọng giúp cho học sinh nhớ lại một từ
ngữ, một hình ảnh, biết lựa chọn từ ngữ hay, thích hợp, phong phú vào bài văn để thêm phần hấp dẫn.
Bài văn miêu tả hay thì khơng thể thiếu cảm xúc của người viết, có thể hiện được cảm xúc trong bài
văn thì mới thu hút người đọc, người nghe.
Song, để quá trình đó diễn ra tốt, địi hỏi người giáo viên phải nắm vững yêu cầu cơ bản và biết vận dụng linh hoạt
sáng tạo trong từng tiết học với từng đối tượng được tả. Bởi vậy, dạy tập làm văn giáo viên khơng chỉ dựa vào sách giáo khoa
mà cịn cần đến những tư liệu tham khảo để mở rộng hiểu biết về nội dung phương pháp và vốn từ ngữ trong từng văn cảnh
để cung cấp gợi ý cho học sinh. Có như vậy thì chất lượng giáo dục mới từng bước nâng lên.

Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ mà tơi rút ra trong q trình Rèn kĩ năng viết văn
miêu tả cho học sinh lớp 4. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài này sẽ
không tránh khỏi những mặt hạn chế, thiếu sót. Vì vậy, tơi mong đươc sự giúp đỡ, đóng
góp ý kiến quý báu của cấp trên và các bạn đồng nghiệp để đề tài này được hoàn thiện và
đạt kết quả tốt hơn, đồng thời được áp dụng rộng rãi trong việc Rèn kĩ năng viết văn miêu
tả cho học sinh lớp 4.





×