BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
BÙI VĂN THỜI
TÁC ĐỘNG CỦA VỐN XÃ HỘI ĐỐI VỚI KẾT QUẢ KINH
DOANH CỦA DOANH NGHIỆP TRƯỜNG HỢP NGHIÊN
CỨU NGÀNH DỆT MAY KHU VỰC PHÍA NAM, VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
BÙI VĂN THỜI
TÁC ĐỘNG CỦA VỐN XÃ HỘI ĐỐI VỚI KẾT QUẢ KINH
DOANH CỦA DOANH NGHIỆP TRƯỜNG HỢP NGHIÊN
CỨU NGÀNH DỆT MAY KHU VỰC PHÍA NAM, VIỆT NAM
Chuyên ngành: Quản Trị Kinh Doanh
Mã số: 9340101
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. HỒ TIẾN DŨNG
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021
LƠI CAM ĐOAN
̀
Tơi xin cam kết luận án “Tác động của vốn xã hội đối với kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp trường hợp nghiên cứu ngành dệt may khu vực phía
Nam, Việt Nam” do bản thân tơi tự nghiên cứu.
Để hồn thành mục tiêu nghiên cứu, tơi phải lược khảo tài liệu, thu thập
dữ liệu thị trường để phân tích, đánh giá phù hợp với bối cảnh nghiên cứu
trong ngành dệt may tại Việt Nam. Các kết quả nghiên cứu này chưa được
cơng bố trong các cơng trình khác.
Tp.Hồ Chí Minh, ngày…. tháng….năm 2021
NGHIÊN CỨU SINH
BÙI VĂN THỜI
MỤC LỤC
CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ......................................................147
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................i xxv
PHỤ LỤC 1 .............................................................................................................1 – 12
PHỤ LỤC 2 ...........................................................................................................13 – 32
PHỤ LỤC 3 ...........................................................................................................33 – 46
PHỤ LỤC 4 ...........................................................................................................47 – 49
PHỤ LỤC 5 ...........................................................................................................50 – 55
PHỤ LỤC 6 ...........................................................................................................56 – 62
PHỤ LỤC 7 ...........................................................................................................63 – 67
PHỤ LỤC 8 .........................................................................................................68 – 111
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
AMOS
AVE
CCCT
CFA
CFI
Chisquare
CP
CPTPP
CR
Df
DN
DNTN
EFA
EVFTA
GFI
KBV
OIT
Pc
Pvc
Chữ viết tắt
PValue
RMSEA
SE
PLSSEM
CBSEM
SPSS
TNHH
Diễn giải tiếng Anh
Analysis of Moment Structures
Average Variance Extracted
China Champer of Commerce for
Import and Export of Textiles
Confirmatory Factor Analysis
Comparative Fix Index
Diễn giải tiếng Việt
Phân tích cấu trúc Moment
Phương sai trích trung bình
Phịng Thương mại xuất nhập
khẩu dệt may Trung Quốc
Phân tích nhân tố khẳng định
Giá trị chi bình phương
Cổ phần
Comprehensive and Progressive Hiệp định Đối tác Toàn diện
Agreement for TransPacific và Tiến bộ xun Thái Bình
Partnership
Dương
Construct Reliability
Số bậc tự do của mơ hình
Doanh nghiệp
Doanh nghiệp tư nhân
Exploratory Factor Analysis
Phân tích nhân tố khám phá
EuropeanVietnam Free Trade Hiệp định thương mại tự do
Agreement
Việt Nam – EU
Good of Fitness Index
KnowledgeBased View
Thuyết kiến thức
Organizational innovativeness
Lý thuyết đổi mới tổ chức
theory
Hệ số tin cậy tổng hợp
Tổng phương sai trích
Diễn giải tiếng Anh
Diễn giải tiếng Việt
Mức ý nghiã
Root Mean Square Error
Approximation
Standard Error
Sai số chuẩn
Partial Least Squares Structural Mơ hình cấu trúc bình phương
Equation Modeling
tối thiểu phần riêng
Covariance Based Structural Mơ hình cấu trúc tuyến tính
Equation Modeling
dựa trên phương sai
Statistical Packge for the Social
Phần mềm phân tích thống kê
Sciences
Trách nhiệm hữu hạn
TLI
VCOSA
VIF
VXH
VXLD
VXBT
VXBN
Tucker & Lewis Index
Vietnam Cotton and Spinning
Hiệp hội Bơng Sợi Việt Nam
Association
Variance Inflation Factor
Hệ số phóng đại phương sai
Social Capital
Vốn xã hội
Vốn xã hội lãnh đạo
Vốn xã hội bên trong
Vốn xã hội bên ngồi
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1: Mơ hình nghiên cứu khám phá mối quan hệ giữa Vốn xã hội lãnh đạo
với vốn xã hội bên trong và bên ngồi
TĨM TẮT LUẬN ÁN
Tên luận án: Tác động của vốn xã hội đối với kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp Trường hợp nghiên cứu ngành dệt may khu vực phía Nam, Việt Nam.
Từ khóa: Vốn xã hội, tiếp thu kiến thức, đổi mới sản phẩm, kết quả kinh doanh,
Việt Nam.
Luận án nghiên cứu về mối quan hệ giữa vốn xã hội với kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp ngành dệt may tại khu vực phía Nam, Việt Nam, thơng qua xem xét vai trị
trung gian của hai yếu tố tiếp thu kiến thức và đổi mới sản phẩm. Sử dụng phương
pháp nghiên cứu hỗn hợp gồm: (1) Nghiên cứu định tính khám phá mơ hình và hiệu
chỉnh thang đo các yếu tố; (2) Nghiên cứu định lượng nhằm kiểm định các giả thuyết
nghiên cứu. Thu thập dữ liệu trong nghiên cứu định lượng chính thức được thực hiện
bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp các nhà lãnh đạo cấp cao và cấp trung đại diện
cho 293 doanh nghiệp.
Nghiên cứu này đã có những đóng góp mới về mặt khoa học và thực tiễn. Vốn xã
hội của doanh nghiệp bao gồm ba khía cạnh là vốn xã hội lãnh đạo, vốn xã hội bên
trong và vốn xã hội bên ngồi tác động gián tiếp lên kết quả kinh doanh. Đồng thời
nghiên cứu cũng khám phá vai trị trung gian của hai yếu tố tiếp thu kiến thức và đổi
mới sản phẩm trong việc truyền dẫn tác động đến kết quả kinh doanh. Hơn nữa, nghiên
cứu này cũng rút ra được các hàm ý quản trị dành cho các nhà lãnh đạo của các doanh
nghiệp ngành dệt may và các nhà hoạch định chính sách, đặc biệt là hiệp hội ngành
nghề dệt may các cấp từ trung ương đến địa phương.
ABSTRACT OF THE THESIS
Thesis title: The impact of social capital on business performance of enterprises
Case study of textile and garment industry in South Vietnam.
Keywords: Social capital, knowledge acquisition, product innovation, business
performance, Vietnam.
The thesis explores the relationship between social capital and business performance
of enterprises in the textile industry in South Vietnam. Through considering the
intermediate role of two factors of knowledge acquisition and product innovation. We
employ mixed research methods including (1) Qualitative approach is used to explore the
research model and adjust measurement; (2) After that, Quantitative research is applied to
test research hypotheses. Data is mainly collected by directly interviewing senior leaders
representing 293 enterprises across industries.
The study contributes to both in terms of literature and management practice. Social
capital of business includes three aspects: social capital from leadership, internal social
capital, and external social capital that indirectly affect business performance. At the same
time, the study also explores the mediating role of two factors of knowledge acquisition
and product innovation in transmission affecting business performance. Moreover, this
study also draws out governance implications for leaders of textile businesses and
policymakers, across levels of the industry.
13
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ NGHIÊN CỨU
Trong Chương 1, trình bày lý do nghiên cứu của đề tài thơng qua việc phân tích bối
cảnh lý thuyết và bối cảnh thực tiễn ngành dệt may tại Việt Nam. Qua đó, khái qt các
nghiên cứu liên quan về vốn xã hội và kết quả kinh doanh nhằm tìm ra khe hổng nghiên
cứu.
Kế tiếp, trình bày mục tiêu, câu hỏi, phương pháp, đối tượng và phạm vi nghiên
cứu. Sau cùng, tác giả trình bày ý nghĩa của nghiên cứu và kết cấu của luận án.
1.1. Lý do nghiên cứu của đề tài
1.1.1
Bối cảnh lý thuyết nghiên cứu
Lịch sử phát triển nhân loại của mỗi quốc gia nói riêng và thế giới nói chung, các
loại hình vốn khác nhau ln tồn tại, tích lũy và phát triển. Trong đó, bên cạnh các loại
hình vốn khác nhau như vốn kinh tế, vốn con người, vốn tài ngun, riêng vốn xã hội
ln hiện diện và đóng góp vào đời sống tinh thần cũng như vật chất trong cuộc sống
mỗi con người. Thật ra, các nhà khoa học bắt đầu quan tâm đến khái niệm vốn xã hội
khi lý giải hiện tượng hai cộng đồng dân cư có tài sản (vốn kinh tế), các nguồn lực
(vốn con người, vốn cơng nghệ) và mơi trường (vốn tài ngun) tương đương nhau
nhưng một bên phát triển và một bên suy tàn. Chính điều này, các nhà khoa học đã đúc
kết và tiến hành làm hồn thiện khái niệm vốn xã hội (VXH), từ đó, xem xét mối quan
hệ giữa VXH với các loại hình vốn khác. Có thể nói, VXH đóng vai trị như một chất
keo kết dính các nguồn vốn khác lại với nhau, phối hợp nhau để tăng cường hiệu quả
sử dụng của các nguồn vốn, đóng góp vào việc tăng trưởng kinh tế ( Lins và cộng sự,
2017; Dasgupta, 2005).
Vốn xã hội đã có lịch sử phát triển lâu đời tại các quốc gia có kinh tế phát triển.
Thành quả kinh doanh của doanh nghiệp (DN) được tăng lên đáng kể khi vận dụng vốn
xã hội. Đặc biệt, các DN hoạt động trong ngành dệt may cần đầu tư nhiều vốn, kỹ
thuật, cơng nghệ và con người để đảm nhiệm cho nhiều cơng đoạn sản xuất khác nhau
cũng như ln sử dụng nhiều nguồn lực để đổi mới sản phẩm, thích ứng theo xu hướng
14
mới của người tiêu dùng. Do đó, DN trong ngành dệt may ln cần sử dụng VXH như
làm chất xúc tác kết nối hệ thống các DN từ khâu kéo sợi, dệt, nhuộm, may đến việc
tiêu thụ sản phẩm. Chính VXH hỗ trợ doanh nhân có nhiều cơ hội hơn để tiếp cận các
nguồn lực cần thiết phục vụ cho hoạt động kinh doanh (Dai và cộng sự, 2015). Các
nguồn lực mà các doanh nhân có được thơng qua mạng lưới quan hệ cá nhân của họ và
các kết nối xã hội cho phép họ xác định các cơ hội kinh doanh (Bhagavatula và cộng sự,
2010), từ đó, đóng góp chung vào kết quả kinh doanh (Akintimehin và cộng sự, 2019;
Nasip và cộng sự, 2017).
Lý thuyết là cơ sở nền tảng để vận dụng vào trong thực tiễn. Trong đó, hai nền
tảng lý thuyết quan trọng về phân tích các yếu tố của lợi thế cạnh tranh liên quan đến
kết quả hay hiệu quả kinh doanh của DN, đó là mơ hình tổ chức cơng nghiệp IO
(Industrial Organization) và mơ hình dựa trên nguồn lực RBV (Resource Based View).
Tổ chức Cơng nghiệp phân tích các yếu tố về hoạt động hoặc những bộ phận
khác nhau góp phần xây dựng chiến lược tổng thể DN, mục tiêu là sản phẩm/dịch vụ
của DN chinh phục được thị trường. Mơ hình tổ chức cơng nghiệp cho rằng lợi thế
cạnh tranh có thể đạt được khi các DN thực hiện các chiến lược áp đặt bởi các đặc
điểm của các yếu tố bên ngồi (Porter, 1985). Trong khi đó, quan điểm dựa trên nguồn
lực (RBV) cho rằng các yếu tố tạo nên thành cơng phụ thuộc vào nguồn lực và khả
năng của từng DN. Theo quan điểm này, các DN được xem như là nơi tập hợp rất nhiều
nguồn lực. Các lựa chọn của DN khơng được quyết định bởi những hạn chế về mơi
trường, mà bằng cách đánh giá khả năng DN trong việc khai thác tốt nhất các nguồn lực
của mình liên quan đến các cơ hội cũng như thách thức từ mơi trường bên ngồi như thế
nào. Điều này có nghĩa là chiến lược của DN được thảo luận trên phương diện cân đối
nguồn lực DN hiện có để sử dụng chúng theo hướng tạo ra lợi thế (Barney, 1991).
Dựa trên hai nền tảng của lý thuyết trên, hàng loạt các nghiên cứu về sự tác động
của các yếu tố hữu hình và vơ hình lên kết quả kinh doanh trong các lĩnh vực xã hội,
giáo dục, kinh tế và văn hóa. Gần đây, các nghiên cứu ảnh hưởng đến kết quả kinh
doanh của DN khơng chỉ là các yếu tố bên ngồi hay bên trong mà cịn kết hợp cả hai
như nghiên cứu về các yếu tố giá thành, phi giá thành, các yếu tố bên trong và bên ngồi
DN (Keegan và cộng sự,1989).
15
Hiện nay, trong bối cảnh hội nhập và tồn cầu hóa, các tổ chức và DN gặp khó
khăn trong việc làm cho mức độ thay đổi trong cơ cấu chính thức của họ đáp ứng với
mức độ thay đổi từ mơi trường kinh doanh. Do đó, các nghiên cứu tập trung chú ý về
tầm quan trọng cũng như vai trị của cấu trúc quản lý khơng chính thức. Scott (1998) chỉ
ra tầm quan trọng của mơi trường và nhấn mạnh vào các cấu trúc khơng chính thức, các
cấu trúc tổ chức khơng chính thức được xem là biểu hiện về giá trị, tính linh hoạt và
tính năng động mà nó có thể bổ sung cho các cấu trúc tổ chức chính thức.
Một loại cấu trúc khơng chính thức, có được sự chú ý ngày càng cao gần đây, là
mạng lưới xã hội (social networks). Các nhà nghiên cứu cho rằng mạng lưới xã hội có
khả năng cung cấp cho nhà quản trị các nguồn lực có giá trị qua đó có ảnh hưởng sâu
sắc đến hiệu quả của cá nhân và tổ chức (Adler & Kwon, 2002; Nahapiet & Ghoshal,
1998). Các nguồn lực có được từ mạng lưới xã hội được gọi chung là vốn xã hội (social
capital). Thật ra, khái niệm vốn xã hội (VXH) được cho là xuất hiện đầu tiên vào năm
1916 của Lyda Judson Hanifan, nhà giáo dục Mỹ, đã thảo luận về cách những người
hàng xóm có thể làm việc cùng nhau để giám sát trường học. Hanifan (1916) sử dụng
định nghĩa vốn xã hội để chỉ các mối quan hệ trong xã hội như tình bạn hữu, thơng cảm
lẫn nhau và giao tiếp giữa các cá nhân hay gia đình. Từ đó, VXH được các học giả quan
tâm nghiên cứu cũng như sử dụng trong nhiều lĩnh vực như tâm lý, giáo dục, kinh tế và
xã hội trên phạm vi tồn thế giới.
Nếu như vốn vật chất (physical capital) nói đến các tài sản hữu hình, ví dụ như
máy móc, thiết bị, cơng cụ, nhà xưởng; vốn con người (human capital) nói đến các tài
sản cá nhân như năng lực cá nhân, kinh nghiệm làm việc, trình độ, kiến thức và kỹ năng
(McCallum và O’Connell, 2009) thì VXH đề cập đến các năng lực quan hệ xã hội
(relational competencies) của các cá nhân và tổ chức dựa vào nhận thức xã hội, tự quản
trị, cam kết, thúc đẩy hợp tác, phối hợp, mạng lưới thơng tin phản hồi được thiết lập
theo niềm tin, thiện chí và có qua có lại (McCallum và O’Connell, 2009). Như vậy, VXH
khơng chỉ là sự tổng hợp các của cải vật chất, các tài sản xã hội mà cịn là chất xúc
tác làm kết dính các tài sản xã hội này lại với nhau.
Trong thời gian qua, VXH đã được nghiên cứu ở ba cấp độ: Cộng đồng; tổ
chức/Doanh nghiệp và quốc gia. Ba cấp độ này liên quan đến: (1) cá nhân, (2) các tổ
16
chức, doanh nghiệp và (3) xã hội, quốc gia và tồn cầu.
(1) Cấp độ cộng đồng có nhiều học giả nổi tiếng nghiên cứu như Fukuyama
(1997), Lin (1999), Coleman (1988), Bourdieu (1986), Putnam (1995), Nahapiet & Ghosal
(1998). Theo đó, vốn xã hội được định nghĩa như là chất lượng mối liên kết giữa các cá
nhân, các mạng lưới quan hệ, các chuẩn mực, niềm tin nhằm chia sẻ, hỗ trợ, giúp đỡ
lẫn nhau.
(2) Cấp độ tổ chức/doanh nghiệp có nhiều nghiên cứu của các tác giả Nguyen
& Huỳnh (2012), Akintimehin và cộng sự (2019), Polyviou và cộng sự (2019), Tasavori
và cộng sự (2018), Wang và cộng sự (2016), Tian và cộng sự (2016), Stam (2013),
Acquaah (2007). Các tác giả cho rằng VXH của DN chính là chất lượng mạng lưới mối
quan hệ giữa các cá nhân, các bộ phận bên trong DN và chất lượng mạng lưới mối quan
hệ của DN với các đối tác bên ngồi.
(3) Cấp độ quốc gia có các nghiên cứu của Sabatini (2005) nghiên cứu VXH của
nước Ý cung cấp một khung đo lường mới về khái niệm đa chiều VXH đồng thời cũng
cung cấp cách thức đo lường các đóng góp tích cực của VXH với các kết quả kinh tế.
Một nghiên cứu khác về VXH của nước Úc, theo đó, sau khi tham vấn sâu rộng, Cục
Thống kê Úc (ABS, 2004) đã phát triển một khung khái niệm đa chiều về vốn xã hội,
cũng như một bộ chỉ số khả thi để đo lường các khía cạnh của vốn xã hội.
Các nghiên cứu về VXH ở nhiều cấp độ khác nhau sẽ giúp cho các cá nhân, các tổ
chức, doanh nghiệp và các quốc gia thuận lợi hơn trong vấn đề tiếp cận, tìm hiểu,
nghiên cứu và vận dụng VXH trong cuộc sống, trong cơng việc cũng như phát triển mối
quan hệ trong xã hội phục vụ cho lợi ích của cá nhân, doanh nghiệp và quốc gia.
Trong nghiên cứu này, tác giả tập trung nghiên cứu về VXH ở cấp độ DN mà cụ
thể là tác động của vốn xã hội đến kết quả kinh doanh. Các nghiên cứu trước đây, khi
nghiên cứu về VXH trong DN, các nhà nghiên cứu tập trung vào ba yếu tố chính gồm
Vốn xã hội lãnh đạo (VXLD), Vốn xã hội bên ngồi (VXBN) và Vốn xã hội bên trong
(VXBT) (Nguyen và Huỳnh, 2012; McCallum và O’Connell, 2009). Tuy nhiên, chưa tìm
thấy các nhà nghiên cứu xem xét mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa các yếu tố này.
Hơn nữa, có nhiều tác giả đã chỉ ra rằng VXH tác động tích cực đến kết quả kinh doanh
17
(Akintimehin và cộng sự, 2019); Nasip và cộng sự, 2017) nhưng chưa tìm thấy nghiên
cứu nào đồng thời có xem xét mối quan hệ của VXH đối với kết quả kinh doanh thơng
qua hai yếu tố trung gian là tiếp thu kiến thức (TTKT) và đổi mới sản phẩm (DMSP).
Hơn nữa, nghiên cứu về VXH trong bối cảnh hội nhập, mở rộng quan hệ kinh tế
theo mơ hình kinh tế đặc thù của Việt Nam đang chuyển đổi và phát triển mạnh mẽ.
Việc thực hiện nghiên cứu này có nhiều ý nghĩa vì các nghiên cứu thực nghiệm trước
về VXH được thực hiện nhiều ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Hơn nữa, tại
Việt Nam, chưa tìm thấy các nghiên cứu có liên quan về VXH trong ngành dệt may.
Như vậy, xem xét bối cảnh nghiên cứu trong ngành dệt may cho thấy, có sự thiếu
hụt các nghiên cứu về mối quan hệ giữa VXH với kết quả kinh doanh (TTKD). Đồng
thời, khám phá thêm các yếu tố mới đóng vai trị trung gian trong mối quan hệ này để
mở rộng mơ hình nghiên cứu nhằm giúp cho các DN ngành dệt may gia tăng kết quả
kinh doanh thơng qua việc vận dụng VXH là hết sức cần thiết.
1.1.2
Bối cảnh thực tiễn ngành dệt may
Thời trang là một trong những phương tiện thay đổi dễ thấy nhất. Dệt may được
xem như ngành cơng nghiệp thời trang, là một phần của một hiện tượng văn hóa và xã
hội, hiểu rộng hơn được gọi là “hệ thống thời trang”, một khái niệm bao trùm khơng
chỉ kinh doanh thời trang mà cịn cả nghệ thuật thời trang, và khơng chỉ sản xuất mà cịn
cả tiêu dùng. Ngày nay, thời trang được coi là một trong những ngành cơng nghiệp quan
trọng nhất vì nó chiếm một phần quan trọng trong nền kinh tế tồn thế giới (McKinsey
& Company, 2016). Mọi người đều có nhu cầu ăn mặc và để đáp ứng nhu cầu đó thì
cần phải có quần áo. Mặc quần áo thời trang và sành điệu là cách mà mọi người đạt
được và thể hiện địa vị của mình (Kim và cộng sự, 2015). Ngành dệt may ln là ngành
thay đổi nhanh chóng, bởi vì mọi người thích mặc quần áo mới, các cơng ty ln quảng
bá sản phẩm để định vị thương hiệu của họ trong tâm trí khách hàng (Rahman và cộng
sự, 2014). Hơn nữa, người tiêu dùng thường xun trao đổi với nhau về các xu hướng và
phong cách mới, trao đổi thơng tin và đưa ra các đề xuất, trong đó nêu bật vai trị của
giao tiếp xã hội trong việc lan tỏa các xu hướng thời trang (Goldsmith & Clark, 2008).
Hiện nay, thời trang đã trở thành một ngành cơng nghiệp có quy mơ lớn và mức độ
18
cạnh tranh cao trên tồn thế giới. Đặc biệt trong lĩnh vực dệt may thời trang có mạng
lưới cung ứng khá phức tạp cả về sự phân chia của các hoạt động sản xuất và phân tán
địa lý. Ngành cơng nghiệp này rất đáng nghiên cứu vì bối cảnh khơng chắc chắn, ln
cần sự đổi mới sáng tạo thường xun để thỏa mãn các sở thích khác nhau của người
tiêu dùng và sự cạnh tranh gây gắt giữa các DN. Hiện nay, các cơng ty thời trang khơng
chỉ phải đối mặt với những thách thức đặt ra bởi nhu cầu khơng thể tiên đốn, nhưng
cũng phải thích ứng với một mơi trường cạnh tranh mới (Priest, 2005). Sự phụ thuộc
ngày càng tăng của thị trường các nước khối BRIC (Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc),
và chi phí lao động tăng cao ở các nước mới nổi đã khiến các cơng ty thời trang tổ chức
lại mạng lưới cung cấp của họ, tìm kiếm một sự cân bằng mới giữa nguồn sản xuất
địa phương và nguồn sản xuất tồn cầu (Dana & cộng sự, 2007).
Theo số liệu tổng kết từ Hiệp hội dệt may Việt Nam năm 2019, kim ngạch xuất
khẩu của ngành dệt may đạt 39 tỷ USD chiếm 7.54% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
của cả nước (Thu Hồi, 2019). Đây là một ngành chiếm tỉ trọng xuất nhập khẩu rất lớn
trong nền kinh tế quốc dân, giải quyết hàng triệu cơng ăn việc làm cho người lao động.
Ngành dệt may phụ thuộc vào thị hiếu của người mua, việc sản xuất ra sản phẩm cuối
cùng phải trải qua nhiều cơng đoạn khác nhau. Các hoạt động sản xuất cũng được triển
khai ở nhiều quốc gia. Đặc biệt, các DN sở hữu thương hiệu nổi tiếng, các trung gian
thương mại như hệ thống bán bn, bán lẻ lớn đóng vai trị quyết định trong việc xác
lập mạng lưới sản xuất cũng như việc tiêu thụ số lượng lớn sản phẩm thơng qua các
thương hiệu mạnh. Hệ thống sản xuất và phân phối phụ thuộc lẫn nhau thơng qua
chiến lược th gia cơng trên phạm vi tồn cầu. Theo Gereffi (2002) chuỗi giá trị dệt
may thời trang chia thành 5 cơng đoạn chính: (1) các nhà cung cấp sản phẩm thơ như
bơng tự nhiên, xơ; (2) các cơng ty dệt, nhuộm đảm nhận việc sản xuất các sản phẩm
đầu vào như chỉ, sợi và vải; (3) các cơng ty may mặc đảm nhận việc thiết kế mẫu sản
phẩm và sản xuất thành phẩm; 4) các trung gian thương mại đảm nhận việc xuất khẩu;
(5) hoạt động Marketing và phân phối.
Hơn nữa, ngành cơng nghiệp dệt may có vai trị quan trọng trong sự phát triển kinh
tế quốc dân nhằm đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, có điều kiện
mở rộng thương mại quốc tế và mang lại nhiều nguồn thu cho đất nước. Điều này đã
19
thể hiện trong việc điều tiết các chính sách của chính phủ trong thời gian qua nhằm phát
triển ngành dệt may như sau:
Thứ nhất, Chính phủ đã phê duyệt đề án tái cấu trúc Tập đồn Dệt May Việt Nam
(VINATEX) giai đoạn 2013 2015. Mục tiêu nhằm bảo đảm VINATEX tập trung vào
các lĩnh vực sản xuất và kinh doanh chính. Qua đó hình thành chuỗi cung ứng sợi, dệt,
nhuộm và may; đồng thời nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, sức cạnh tranh và cải
thiện hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đóng góp vào q trình phát triển kinh tế
của đất nước. Trong năm 2014, Chính phủ cũng đã cấp ngân sách 65,6 tỷ đồng nhằm
đào tạo nhân lực trong ngành dệt may Việt Nam, theo quyết định số 288/QĐTTg.
Thứ hai, Chính phủ xác định ngành cơng nghiệp dệt may là ngành chủ lực để phát
triển kinh tế, giải quyết vấn đề việc làm và an sinh xã hội cho người lao động, vì nước
ta có dân số đơng và thu nhập cịn thấp. Điều này được thể hiện trong các hiệp định
thương mại tự do được ký kết giữa Việt Nam và các nước. Cụ thể như hiệp định đối
tác tồn diện và tiến bộ xun Thái Bình Dương (CPTPP). Hiệp định này sẽ xóa bỏ thuế
nhâp khâu đ
̣
̉ ối với hàng dệt may có xuất xứ từ Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường
các nước này (ngay hoặc có lộ trình). Ngồi ra, cịn có hiệp định thương mại tự do giữa
Việt Nam và EU (EVFTA) mới đây đã được Nghị viện châu Âu phê chuẩn vào ngày
12/2/2020. Đây là Hiệp định thế hệ mới giữa Việt Nam và 28 nước thành viên EU.
EVFTA sẽ mở ra thị trường xuất khẩu rộng lớn cho ngành dệt may của Việt Nam.
Như vậy, ngành dệt may là ngành cơng nghiệp chủ lực của Việt Nam, tuy nhiên,
nguồn lực của các DN dệt may chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của ngành,
điều đó được thể hiện như sau:
Thứ nhất, theo báo cáo tại hội nghị quốc tế Diễn đàn Dệt May Việt Nam 2015 do
Hiệp hội Bơng Sợi Việt Nam (VCOSA), Phịng Thương mại xuất nhập khẩu Dệt may
Trung Quốc (CCCT) được tổ chức tại Hà Nội từ ngày 25 đến ngày 27/6/2015, thơng qua
hội thảo, một trong những điểm yếu mà các DN dệt may trong nước cần khắc phục là
mở rộng mạng lưới quan hệ, chia sẻ thơng tin và thiết lập mạng lưới quan hệ đối tác
chiến lược. Đồng thời, các DN dựa trên các nguồn lực như vốn, cơng nghệ để xác định
điểm mạnh, lợi thế, vai trị của mình trong chuỗi liên kết nội địa. Thơng qua chuỗi liên
20
kết, từng đơn vị sẽ từng bước tái cơ cấu để phát triển theo định hướng chun mơn hóa
cao, đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ của ngành dệt may trong q trình phân cơng lao
động. Việc tham gia vào chuỗi liên kết, DN tạo dựng được niềm tin, được chia sẻ các
thơng tin, kiến thức quan trọng cũng như hỗ trợ nhau trong q trình sản xuất kinh
doanh. Từ đó, DN tiết kiệm thời gian và chi phí khi giao dịch nhằm nâng cao kết quả
kinh doanh.
Thứ hai, hiện tại ngành dệt may Việt Nam đang gặp nhiều thách thức lớn, bởi vì
nhân cơng giá rẻ giờ đây đã khơng thể so sánh với các nước khác như: Lào, Bangladesh,
hay Campuchia (Lê Thanh Thủy, 2019). Cụ thể qua khảo sát cho thấy cơng nghệ sản
xuất lại kém hơn nhiều so với các nước phát triển, hầu hết máy móc thiết bị của các
DN trực thuộc Tập đồn Dệt may Việt Nam đã sử dụng trên 15 năm, do đó, hiệu quả sử
dụng rất thấp do chất lượng xuống cấp và tiêu thụ điện năng cao (Lê Thanh Thủy,
2019). Ngun nhân chính là do tiềm lực vốn của các DN cịn thấp, cho nên các DN trong
ngành dệt may hầu như chỉ mới tập trung sản xuất ở các khâu tạo ra giá trị thấp. Trong
khi đó, các khâu tạo ra giá trị cao hơn gồm có sản xuất sợi, hóa chất trợ nhuộm, in hoa
văn cũng như hồn tất vải vẫn phải nhập khẩu. Do đó, việc liên kết tạo thành mạng
lưới giữa các DN là đối tác chiến lược của nhau, gắn kết giữa các DN trong các cơng
đoạn từ thiết kế sản phẩm, sản xuất ngun phụ liệu, may, xuất khẩu và marketing
phân phối nhằm khai thác và chia sẻ thơng tin, kiến thức và các nguồn lực có liên quan
nhằm tận dụng nguồn lực lẫn nhau là rất quan trọng.
Thứ ba, xét về bối cảnh thực tiễn các nghiên cứu tại Việt Nam liên quan đến vốn
xã hội, năm 2006, tạp chí Tia Sáng tổ chức hội thảo về chủ đề vốn xã hội trong q
trình hội nhập kinh tế (Tia Sáng, 2006). Hội thảo này có sự tham gia gần 200 nhà khoa
học đến từ các ngành nghề khác nhau. Thuật ngữ vốn xã hội đã được sử dụng nhiều tại
các nước phương Tây. Tuy nhiên, tại Việt Nam, đa số người dân vẫn cảm thấy mới lạ
về thuật ngữ này và cũng khơng hiểu hết các vấn đề liên quan về vốn xã hội. Theo đó,
trình độ phát triển vốn xã hội trên thế giới đã trải qua ít nhất 03 giai đoạn: (1) giai đoạn
tiếp cận lý thuyết về vốn xã hội, (2) giai đoạn vận dụng và ứng dụng cơ bản vốn xã
hội, (3) giai đoạn ứng dụng vốn xã hội ở tầm quốc gia (Tia sáng, 2006). Cũng theo hội
thảo, tại thời điểm năm 2006, các quốc gia phát triển đã ứng dụng vốn xã hội ở giai
21
đoạn 3 thì tại Việt Nam vẫn chưa thực sự bước vào giai đoạn 1. Chính vì tầm quan
trọng của vốn xã hội trong việc mang lại nhiều lợi ích giúp quốc gia phát triển phồn
thịnh. Cụ thể như năm 2008, chính phủ Anh đã sử dụng vốn xã hội và vốn văn hóa trong
việc hoạch định các chính sách cơng, do các loại vốn này có tầm ảnh hưởng rất lớn đến
hành vi ứng xử của các cá nhân trong đời sống xã hội (Knott và cộng sự, 2008).
Tóm lại, ngành dệt may có tầm quan trọng lớn trong nền kinh tế của Việt Nam,
đóng góp đến 7.54% kim ngạch xuất nhập khẩu (Thu Hồi, 2019). Ngành cơng nghiệp
này rất đáng được nghiên cứu để cung cấp các kiến thức quan trọng bổ trợ cho các DN
cải thiện hiệu quả hoạt động kinh doanh. Trong đó, việc sử dụng VXH nhằm mở rộng
mạng lưới quan hệ xã hội, nâng cao chất lượng mối quan hệ bằng cách chia sẻ thơng
tin, kiến thức, kinh nghiệm và hỗ trợ qua lại nhằm giúp DN phát triển kiến thức,
thường xun đổi mới sản phẩm, gia tăng kết quả kinh doanh là việc làm hết sức cần
thiết. Bên cạnh đó, viêc thiêu hut các nghiên c
̣
́ ̣
ứu thực nghiệm về mơi quan hê gi
́
̣ ữa VXH
với kết quả kinh doanh, thơng qua việc xem xét vai trị trung gian của tiếp thu kiến thức
và đổi mới sản phẩm, đặc thù trong giai đoạn chuyển đổi mơ hình kinh tế, đa phương
hóa và hội nhập sâu rộng của Viêt Nam. T
̣
ừ đó, tac gia ch
́
̉ ọn đề tài nghiên cứu “Tác
động của vốn xã hội đối với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp – Trường hợp
nghiên cứu ngành dệt may tại khu vực phía Nam, Việt Nam”.
1.2. Khái qt các nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.1.1. Các nghiên cứu về vốn xã hội trong và ngồi ngước
Mạng lưới quan hệ xã hội chính là nguồn gốc của vốn xã hội, lý thuyết vốn xã
hội xuất phát từ thực tiễn là vốn xã hội được gắn vào các mối quan hệ ở nhiều cấp độ
(Akintimehin, 2019). Ứng dụng của lý thuyết vốn xã hội nhằm mục đích thấu hiểu các
mối quan hệ xã hội, tương tác xã hội, sự tin tưởng và có đi có lại (Pratono, 2018).
Các đóng góp trong việc phát triển lý thuyết vốn xã hội, nổi bật có các tác giả như
(Bourdieu, 1985, 1986; Coleman, 1988, 1990), sau đó được các tác giả như (Putnam,
1995; Fukuyama, 1997, 2001, 2002; Lin, 1999, 2001) phát triển thành sách và đưa vào
chương trình giáo dục đại học. Các tác giả có nhiều cách định nghĩa và giải thích về
22
vốn xã hội. Hầu hết, quan điểm của các tác giả cho rằng (1) VXH gắn liền với mạng
lưới xã hội (Bourdieu, 1986), mạng lưới quan hệ xã hội là một thành tố quan trọng của
VXH (Putnam, 2000); (2) VXH chính là kết quả của sự đầu tư, nhờ có vốn xã hội mà
làm gia tăng các loại vốn khác như vốn con người, vốn kinh tế (Bourdieu, 1986), thơng
qua mối quan hệ, từng cá nhân tự xây dựng và làm phong phú nguồn vốn xã hội để sử
dụng cho lợi ích của bản thân (Fukuyama, 2002); (3) VXH là niềm tin (trust), sự có qua
có lại (recipocity), điều này có nghĩa là trong mối quan hệ mọi người phải có trách
nhiệm, lịng tin, hỗ trợ qua lại và kỳ vọng lẫn nhau (Colemam, 1988; Portes,1998).
Nhiều nghiên cứu xem xét vốn xã hội trên ba khía cạnh (Nahapiet & Ghosal, 1998;
Adler và Kwon, 2002), cụ thể như: (1) Khía cạnh hay vốn cấu trúc (structural capital)
được đo lường bởi kích cỡ của mạng lưới (network size) quan hệ rộng hay hẹp, tần
suất kết nối, địa vị của các thành viên tham gia mạng lưới; (2) Khía cạnh hay vốn quan
hệ (relational capital) được đo lường bởi chất lượng của mối quan hệ (xây dựng mối
quan hệ thân thiết, tương tác lẫn nhau giữa các nhân viên, bầu khơng khí làm việc thân
thiện), sự cam kết, tơn trọng lẫn nhau; (3) Khía cạnh hay vốn nhận thức (cognitive
capital) được đo lường bởi mọi người có chung mục tiêu và tầm nhìn, có hồi bảo
chung, ngơn ngữ giao tiếp, chia sẻ thơng tin.
Trong ba khía cạnh Nahapiet & Ghosal đề cập đến VXH là cách lý giải khác dựa
trên quan điểm của Coleman (1990). Trong đó, vốn nhận thức và vốn quan hệ chính là
yếu tố chất lượng mạng lưới; vốn cấu trúc chính là cấu trúc mạng lưới. Nhờ đó mà sau
này, các nghiên cứu về VXH trong DN, các tác giả tập trung phân tích cấu trúc và chất
lượng mạng lưới (Landry & cộng sự, 2000).
Các nghiên cứu về VXH ở cấp độ tổ chức và DN tập trung ở cấu trúc và chất
lượng mạng lưới theo ba loại vốn, cụ thể là Vốn xã hội bên trong VXBT, Vốn xã hội
bên ngồi VXBN và Vốn xã hội lãnh đạo VXLD (Nguyen và Huỳnh, 2012). Vận dụng
quan điểm dựa trên tri thức (KBV Knowledge – Based View), YliRenko và cộng sự
(2001) đã khẳng định vai trị của VXH hỗ trợ cho các DN thuận lợi hơn trong q trình
khai thác kiến thức kinh doanh (kiến thức về sản phẩm, thị trường và cơng nghệ) từ bên
ngồi. Kiến thức bên ngồi này có được thơng qua vốn xã hội được tích lũy từ các khách
hàng chủ chốt, tăng cường tiếp thu kiến thức bằng cách cải thiện khả năng lĩnh hội các
23
kiến thức mới có giá trị từ mơi trường bên ngồi thơng qua trao đổi, chia sẻ và chuyển
giao tri thức. Hơn nữa, nghiên cứu của Suseno và Ratten (2007) cịn chỉ ra rằng VXBT và
VXBN đóng góp vào q trình thúc đẩy DN phát triển kiến thức, góp phần cải thiện
hiệu quả liên minh giữa các DN.
Đổi mới để phát triển bền vững được xem là yếu tố sống cịn của các tổ chức. Nó
được nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực như kinh tế, xã hội, kỹ thuật, Marketing, quản trị và
một số những lĩnh vực liên quan. Đồng thời, có nhiều các phương pháp tiếp cận về lý
thuyết đổi mới (Gopalakrishnan và Damanpour, 1997). Các nghiên cứu về đổi mới
chứng minh rằng q trình đổi mới của các cơng ty phụ thuộc mạnh mẽ vào các bên liên
quan bên ngồi (trường đại học, đối thủ cạnh tranh, nhà cung cấp, người tiêu dùng)
(Arora và cộng sự, 2001, Shan và cộng sự 1994). Q trình đổi mới bắt nguồn từ thơng
tin và kiến thức, bởi vì đổi mới địi hỏi sự kết hợp của nhiều cơ sở tri thức hiện có và
tri thức mới cần có của DN (Lausen và cộng sự, 2012). Ý tưởng trung tâm của lý thuyết
vốn xã hội là mức độ tương tác xã hội cao mang lại lợi ích về mặt tiếp cận thơng tin có
giá trị, đúng người, đúng lúc và đúng chỗ (Burt, 1997). Sự quan tâm đến đổi mới sản
phẩm xuất phát từ lợi ích của nó đóng góp vào thành tích chung là kết quả kinh doanh
(CuevasRodríguez và cộng sự, 2014).
Một số nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng ở cấp độ DN, đổi mới sản phẩm
càng triệt để thì hiệu quả đạt được càng cao của DN (CuevasRodríguez và cộng sự,
2014; Salomo và cộng sự, 2008). Điều này là do đổi mới sản phẩm cung cấp giải pháp
vượt trội mang lại nhiều lợi ích đến khách hàng, lợi thế cạnh tranh của sản phẩm được
nâng tầm dẫn đến thành cơng trong kinh doanh và cải thiện vị thế của DN trên thương
trường (Nijssen và cộng sự, 2006). Thơng qua mạng lưới quan hệ bên trong và bên
ngồi, nhiều nghiên cứu thực nghiệm cũng đã khẳng định VXBT và VXBN của DN có
vai trị rất quan trọng trong việc thúc đẩy đổi mới sản phẩm (Laursen và cộng sự, 2012;
Tsai và Ghoshal, 1998).
Đặc biệt, ngành dệt may là một bối cảnh thích hợp cho nghiên cứu này vì những
lý do khác nhau. Đầu tiên, ngành cơng nghiệp thời trang được đặc trưng bởi tốc độ đổi
mới bền vững bởi vì các cơng ty ln tìm cách sáng tạo và đổi mới sản phẩm hàng năm
(Cillo và cộng sự, 2010). Thứ hai, đổi mới phong cách trong lĩnh vực dệt may thời trang
24
đã được xác định rõ ràng trong q trình đổi mới liên tục như đường cắt (rộng thùng
thình hoặc bó sát), họa tiết (hoa hoặc nghệ thuật hiện đại), màu sắc (sáng màu hoặc tối
màu), vải (tự nhiên hoặc tổng hợp) và chiều dài (váy mini, so với váy dài). Những lựa
chọn này xác định mức độ sáng tạo trong phong cách của bất kỳ bộ sưu tập cụ thể nào
(Pesendorfer, 1995). Thứ ba, đổi mới sản phẩm là chiến lược cạnh tranh mang tính chất
sống cịn trong ngành dệt may vì nó tác động mạnh lên kết quả kinh doanh.
Ngồi ra, nhiều nghiên cứu cũng đã khẳng định tác động của VXH lên kết quả
kinh doanh. Trong đó, Akintimehin và cộng sự (2019) khuyến nghị rằng các DN nên tận
dụng các nguồn VXBT cũng như cố gắng xây dựng VXBN của họ vì chúng có thể trở
nên quan trọng đối với sự thành cơng trong kinh doanh. Một nghiên cứu khác khám phá
mối quan hệ giữa định hướng kinh doanh (tức là tính chủ động, đổi mới, chấp nhận rủi
ro) và vốn xã hội đối với kết quả kinh doanh. Kết quả cho thấy việc chấp nhận rủi ro
và VXH có liên quan tích cực đến kết quả kinh doanh (Nasip và cộng sự, 2017).
Tại Việt Nam, hội thảo do Tạp chí Tia Sáng (Bộ Khoa Học Cơng Nghệ) tổ chức
với chủ đề về vốn xã hội. Kể từ khi tổ chức hội thảo cho đến nay, các nghiên cứu về
VXH được phân chia ra 2 nhóm chính: (1) Nhóm tổng kết, phân tích, so sánh quan điểm
VXH của các nhà nghiên cứu nước ngồi nhằm mục đích giới thiệu, khuyến khích cộng
đồng, nhà nước quan tâm đến việc xây dựng và sử dụng VXH để phát triển kinh tế; (2)
Ứng dụng lý thuyết VXH trong các nghiên cứu thực nghiệm để xây dựng mơ hình đo
lường VXH của DN trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Thứ nhất, nhóm nghiên cứu giới thiệu lý thuyết VXH. Đây là nhóm có nhiều tác
giả quan tâm như nghiên cứu về VXH nhằm mục đích phát triển kinh tế (Trần Hữu
Dũng, 2006). Tác giả đã giới thiệu lý thuyết VXH và khuyến khích việc sử dụng VXH
để phát triển kinh tế. Nghiên cứu này đã chứng minh trong một xã hội mọi người có
lịng tin, ứng xử chuẩn mực tức là giàu có về VXH sẽ giúp giảm tội phạm, giảm móc
nối, giảm phí giao dịch và tăng mức đầu tư trong nền kinh tế. Một nghiên cứu khác là
tìm hiểu về khái niệm VXH (Trần Hữu Quang, 2006). Tác giả cũng đã giới thiệu các
nghiên cứu trước đây về VXH, thảo luận về chất lượng mối quan hệ biểu hiện qua
niềm tin, chuẩn mực và hợp tác lẫn nhau.
25
Ngồi ra, cịn có các tác giả khác, nổi bật là nghiên cứu của Nguyễn Tuấn Anh
(2011) về VXH ở nơng thơn Việt Nam. Tác giả cũng đã lược khảo những nghiên cứu về
VXH của các học giả nổi tiếng, phân tích và so sánh các quan điểm khác nhau về VXH.
Đồng thời, tác giả cũng phân tích điểm tích cực và tiêu cực của VXH. Cuối cùng, tác giả
cũng nêu quan điểm của mình về việc nghiên cứu và vận dụng VXH ở các vùng nơng
thơn là cần thiết. Hầu hết, các nghiên cứu về VXH này chỉ tóm tắt lý thuyết, so sánh và
nêu quan điểm của tác giả về VXH. Các nghiên cứu này chưa tạo ra luận điểm làm cơ
sở cho các nghiên cứu thực nghiệm.
Thứ hai, sử dụng VXH trong nghiên cứu thực nghiệm. Số lượng nghiên cứu thực
nghiệm về VXH trong DN cịn rất ít. Có thể kể ra một số các nghiên cứu nổi bật của
các tác giả Appold & Thanh (2004) đã khẳng định ảnh hưởng của vốn xã hội trong các
DN nhỏ tại Tp.Hà Nội. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng VXH giúp DN có được thơng tin
nhanh hơn, tiết giảm chi phí giao dịch, hạn chế rủi ro. Một nghiên cứu khác của Nguyen
và Huỳnh (2012) về VXH của các DN trong lĩnh vực bất động sản tại Tp.Hồ Chí Minh.
Theo đó, kết quả nghiên cứu cũng cho rằng VXH đã hỗ trợ tích cực các hoạt động đầu
vào, q trình và đầu ra của DN; khuyến khích DN cũng như các nhà hoạch định chính
sách sử dụng VXH để phát triển kinh doanh. Ngồi ra, tác giả cịn nêu hàm ý để cho các
DN trong ngành bất động sản cần dành nhiều thời gian để thiết lập và nâng cao chất
lượng mối quan hệ, mở rộng mạng lưới quan hệ nhằm hỗ tr ợ cho hoạt động kinh
doanh.
Tóm lai, các nghiên c
̣
ứu thực nghiệm về VXH và kết quả của nó được thực hiện
ở ngồi nước rất nhiều, tại Việt Nam số lượng các nghiên cứu thực nghiệm về VXH
cịn rất hạn chế. Thêm vào đó, chưa tim thây nghiên c
̀
́
ứu nào khám phá mối quan hệ
giữa VXH với kết quả kinh doanh, thơng qua xem xét vai trị trung gian của cả hai yếu
tố tiếp thu kiến thức và đổi mới sản phẩm, cung nh
̃
ư xem xét mơi quan hê tac đơng lân
́
̣ ́ ̣
̃
nhau giữa ba yếu tố VXLD, VXBT và VXBN của DN trong ngành dệt may tại Việt
Nam.
1.1.2. Khe hổng nghiên cứu
Thứ nhất, ở cấp độ DN, nhiều nghiên cứu đã thực hiện trong việc đo lường tác