Tải bản đầy đủ (.pdf) (287 trang)

Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Tác động của vốn xã hội đối với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp - trường hợp nghiên cứu ngành Dệt may khu vực phía Nam, Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.48 MB, 287 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

BÙI VĂN THỜI

TÁC ĐỘNG CỦA VỐN XàHỘI ĐỐI VỚI KẾT QUẢ KINH 
DOANH CỦA DOANH NGHIỆP ­ TRƯỜNG HỢP NGHIÊN 
CỨU NGÀNH DỆT MAY KHU VỰC PHÍA NAM, VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ


TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

BÙI VĂN THỜI

TÁC ĐỘNG CỦA VỐN XàHỘI ĐỐI VỚI KẾT QUẢ KINH 
DOANH CỦA DOANH NGHIỆP ­ TRƯỜNG HỢP NGHIÊN 
CỨU NGÀNH DỆT MAY KHU VỰC PHÍA NAM, VIỆT NAM

Chuyên ngành: Quản Trị Kinh Doanh
Mã số: 9340101

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
                                          NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 

                                     PGS. TS. HỒ TIẾN DŨNG




TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021


LƠI CAM ĐOAN
̀

Tơi xin cam kết luận án “Tác động của vốn xã hội đối với kết quả kinh  
doanh của doanh nghiệp ­ trường hợp nghiên cứu ngành dệt may khu vực phía 
Nam, Việt Nam” do bản thân tơi tự nghiên cứu.
Để hồn thành mục tiêu nghiên cứu, tơi phải lược khảo tài liệu, thu thập 
dữ  liệu thị  trường để  phân tích, đánh giá phù hợp với bối cảnh nghiên cứu 
trong ngành dệt may tại Việt Nam. Các kết quả  nghiên cứu này chưa được 
cơng bố trong các cơng trình khác. 
Tp.Hồ Chí Minh, ngày…. tháng….năm 2021
        NGHIÊN CỨU SINH

                                                                                       BÙI VĂN THỜI

                                                                                 


MỤC LỤC

CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ......................................................147
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................i ­ xxv
PHỤ LỤC 1 .............................................................................................................1 – 12
PHỤ LỤC 2 ...........................................................................................................13 – 32
PHỤ LỤC 3 ...........................................................................................................33 – 46

PHỤ LỤC 4 ...........................................................................................................47 – 49
PHỤ LỤC 5 ...........................................................................................................50 – 55
PHỤ LỤC 6 ...........................................................................................................56 – 62
PHỤ LỤC 7 ...........................................................................................................63 – 67
PHỤ LỤC 8 .........................................................................................................68 – 111


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
AMOS
AVE
CCCT
CFA
CFI
Chi­square
CP
CPTPP
CR
Df
DN
DNTN
EFA
EVFTA
GFI
KBV
OIT
Pc
Pvc
Chữ viết tắt
P­Value

RMSEA
SE
PLS­SEM
CB­SEM
SPSS
TNHH

Diễn giải tiếng Anh
Analysis of Moment Structures
Average Variance Extracted
China   Champer   of   Commerce   for 
Import and Export of Textiles
Confirmatory Factor Analysis
Comparative Fix Index

Diễn giải tiếng Việt
Phân tích cấu trúc Moment
Phương sai trích trung bình
Phịng Thương mại xuất nhập 
khẩu dệt may Trung Quốc
Phân tích nhân tố khẳng định

Giá trị chi bình phương
Cổ phần
Comprehensive   and   Progressive  Hiệp định Đối tác Toàn diện 
Agreement   for   Trans­Pacific  và   Tiến   bộ   xun   Thái   Bình 
Partnership
Dương
Construct Reliability
Số bậc tự do của mơ hình

Doanh nghiệp
Doanh nghiệp tư nhân
Exploratory Factor Analysis
Phân tích nhân tố khám phá
European­Vietnam   Free   Trade  Hiệp định thương mại tự  do 
Agreement
Việt Nam – EU
Good of Fitness Index
Knowledge­Based View
 Thuyết kiến thức
Organizational   innovativeness 
 Lý thuyết đổi mới tổ chức
theory
Hệ số tin cậy tổng hợp
Tổng phương sai trích
Diễn giải tiếng Anh
Diễn giải tiếng Việt
Mức ý nghiã
Root Mean Square Error 
Approximation
Standard Error
Sai số chuẩn
Partial   Least   Squares   ­   Structural  Mơ hình cấu trúc bình phương 
Equation Modeling
tối thiểu phần riêng
Covariance   Based   ­   Structural  Mơ   hình   cấu   trúc   tuyến   tính 
Equation Modeling
dựa trên phương sai
Statistical   Packge   for   the   Social 
Phần mềm phân tích thống kê

Sciences
Trách nhiệm hữu hạn


TLI
VCOSA
VIF
VXH
VXLD
VXBT
VXBN

Tucker & Lewis Index
Vietnam   Cotton   and   Spinning 
Hiệp hội Bơng Sợi Việt Nam
Association
Variance Inflation Factor
Hệ số phóng đại phương sai
Social Capital
Vốn xã hội
Vốn xã hội lãnh đạo
Vốn xã hội bên trong
Vốn xã hội bên ngồi


DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1: Mơ hình nghiên cứu khám phá mối quan hệ giữa Vốn xã hội lãnh đạo 

với vốn xã hội bên trong và bên ngồi


TĨM TẮT LUẬN ÁN 
Tên luận án: Tác động của vốn xã hội đối với kết quả  kinh doanh của doanh  
nghiệp ­ Trường hợp nghiên cứu ngành dệt may khu vực phía Nam, Việt Nam.
Từ khóa: Vốn xã hội, tiếp thu kiến thức, đổi mới sản phẩm, kết quả kinh doanh,  
Việt Nam.
Luận án nghiên cứu về mối quan hệ giữa vốn xã hội với kết quả kinh doanh của  
doanh nghiệp ngành dệt may tại khu vực phía Nam, Việt Nam, thơng qua xem xét vai trị 
trung gian của hai yếu tố  tiếp thu kiến thức và đổi mới sản phẩm. Sử  dụng phương  
pháp nghiên cứu hỗn hợp gồm: (1) Nghiên cứu định tính khám phá mơ hình và hiệu 
chỉnh thang đo các yếu tố; (2) Nghiên cứu định lượng nhằm kiểm định các giả  thuyết 
nghiên cứu. Thu thập dữ  liệu trong nghiên cứu định lượng chính thức được thực hiện 
bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp các nhà lãnh đạo cấp cao và cấp trung đại diện  
cho 293 doanh nghiệp.
Nghiên cứu này đã có những đóng góp mới về mặt khoa học và thực tiễn. Vốn xã 
hội của doanh nghiệp bao gồm ba khía cạnh là vốn xã hội lãnh đạo, vốn xã hội bên 
trong và vốn xã hội bên ngồi tác động gián tiếp lên kết quả  kinh doanh. Đồng thời  
nghiên cứu cũng khám phá vai trị trung gian của hai yếu tố  tiếp thu kiến thức và đổi  
mới sản phẩm trong việc truyền dẫn tác động đến kết quả kinh doanh. Hơn nữa, nghiên 
cứu này cũng rút ra được các hàm ý quản trị  dành cho các nhà lãnh đạo của các doanh  
nghiệp ngành dệt may và các nhà hoạch định chính sách, đặc biệt là hiệp hội ngành  
nghề dệt may các cấp từ trung ương đến địa phương.


ABSTRACT OF THE THESIS
Thesis title: The impact of social capital on business performance of enterprises ­ 
Case study of textile and garment industry in South Vietnam.
Keywords:   Social   capital,   knowledge   acquisition,   product   innovation,   business 

performance, Vietnam.
The thesis explores the relationship between social capital and business performance 
of   enterprises   in   the   textile   industry   in   South   Vietnam.   Through   considering   the 
intermediate role of two factors  of knowledge acquisition  and product innovation.  We 
employ mixed research methods including (1) Qualitative approach is used to explore the 
research model and adjust measurement; (2) After that, Quantitative research is applied to 
test research hypotheses. Data is mainly collected by directly interviewing senior leaders 
representing 293 enterprises across industries.
The study contributes to both in terms of literature and management practice. Social 
capital of business includes three aspects: social capital from leadership, internal social 
capital, and external social capital that indirectly affect business performance. At the same 
time, the study also explores the mediating role of two factors of knowledge acquisition 
and  product   innovation   in  transmission   affecting  business   performance.  Moreover,  this 
study   also   draws   out   governance   implications   for   leaders   of   textile   businesses   and 
policymakers, across levels of the industry.


13

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ NGHIÊN CỨU
Trong Chương 1, trình bày lý do nghiên cứu của đề tài thơng qua việc phân tích bối 
cảnh lý thuyết và bối cảnh thực tiễn ngành dệt may tại Việt Nam. Qua đó, khái qt các  
nghiên cứu liên quan về vốn xã hội và kết quả kinh doanh nhằm tìm ra khe hổng nghiên  
cứu.
Kế  tiếp, trình bày mục tiêu, câu hỏi, phương pháp, đối tượng và phạm vi nghiên  
cứu. Sau cùng, tác giả trình bày ý nghĩa của nghiên cứu và kết cấu của luận án.

1.1. Lý do nghiên cứu của đề tài
1.1.1


Bối cảnh lý thuyết nghiên cứu
Lịch sử phát triển nhân loại của mỗi quốc gia nói riêng và thế giới nói chung, các  

loại hình vốn khác nhau ln tồn tại, tích lũy và phát triển. Trong đó, bên cạnh các loại 
hình vốn khác nhau như  vốn kinh tế, vốn con người, vốn tài ngun, riêng vốn xã hội 
ln hiện diện và đóng góp vào đời sống tinh thần cũng như  vật chất trong cuộc sống  
mỗi con người. Thật ra, các nhà khoa học bắt đầu quan tâm đến khái niệm vốn xã hội  
khi lý giải hiện tượng hai cộng đồng dân cư  có tài sản (vốn kinh tế), các nguồn lực  
(vốn con người, vốn cơng nghệ) và mơi trường (vốn tài ngun) tương đương nhau 
nhưng một bên phát triển và một bên suy tàn. Chính điều này, các nhà khoa học đã đúc  
kết và tiến hành làm hồn thiện khái niệm vốn xã hội (VXH), từ  đó, xem xét mối quan 
hệ  giữa VXH với các loại hình vốn khác. Có thể  nói, VXH đóng vai trị như  một chất  
keo kết dính các nguồn vốn khác lại với nhau, phối hợp nhau để  tăng cường hiệu quả 
sử  dụng của các nguồn vốn, đóng góp vào việc tăng trưởng kinh tế  ( Lins và cộng sự, 
2017; Dasgupta, 2005).
Vốn xã hội đã có lịch sử phát triển lâu đời tại các quốc gia có kinh tế  phát triển.  
Thành quả kinh doanh của doanh nghiệp (DN) được tăng lên đáng kể khi vận dụng vốn  
xã hội. Đặc biệt, các DN hoạt động trong ngành dệt may cần đầu tư  nhiều vốn, kỹ 
thuật, cơng nghệ và con người để đảm nhiệm cho nhiều cơng đoạn sản xuất khác nhau  
cũng như ln sử dụng nhiều nguồn lực để đổi mới sản phẩm, thích ứng theo xu hướng 


14
mới của người tiêu dùng. Do đó, DN trong ngành dệt may ln cần sử  dụng VXH như 
làm chất xúc tác kết nối hệ thống các DN từ  khâu kéo sợi, dệt, nhuộm, may đến việc  
tiêu thụ sản phẩm. Chính VXH hỗ trợ doanh nhân có nhiều cơ hội hơn để tiếp cận các  
nguồn lực cần thiết phục vụ  cho hoạt động kinh doanh (Dai và cộng sự, 2015). Các  
nguồn lực mà các doanh nhân có được thơng qua mạng lưới quan hệ cá nhân của họ và 
các kết nối xã hội cho phép họ xác định các cơ hội kinh doanh (Bhagavatula và cộng sự,  
2010), từ  đó, đóng góp chung vào kết quả  kinh doanh (Akintimehin và cộng sự, 2019;  

Nasip và cộng sự, 2017).
Lý thuyết là cơ  sở nền tảng để  vận dụng vào trong thực tiễn. Trong đó, hai nền 
tảng lý thuyết quan trọng về phân tích các yếu tố  của lợi thế  cạnh tranh liên quan đến  
kết quả  hay hiệu quả  kinh doanh của DN, đó là mơ hình tổ  chức cơng nghiệp ­ IO  
(Industrial Organization) và mơ hình dựa trên nguồn lực ­ RBV (Resource ­ Based View). 
Tổ  chức Cơng nghiệp phân tích các yếu tố  về  hoạt động hoặc những bộ  phận 
khác nhau góp phần xây dựng chiến lược tổng thể DN, mục tiêu là sản phẩm/dịch vụ 
của DN chinh phục được thị  trường. Mơ hình tổ  chức cơng nghiệp cho rằng lợi thế 
cạnh tranh có thể  đạt được khi các DN thực hiện các chiến lược áp đặt bởi các đặc 
điểm của các yếu tố bên ngồi (Porter, 1985). Trong khi đó, quan điểm dựa trên nguồn 
lực (RBV) cho rằng các yếu tố  tạo nên thành cơng phụ  thuộc vào nguồn lực và khả 
năng của từng DN. Theo quan điểm này, các DN được xem như là nơi tập hợp rất nhiều  
nguồn lực. Các lựa chọn của DN khơng được quyết định bởi những hạn chế  về  mơi 
trường, mà bằng cách đánh giá khả năng DN trong việc khai thác tốt nhất các nguồn lực  
của mình liên quan đến các cơ hội cũng như thách thức từ mơi trường bên ngồi như thế 
nào. Điều này có nghĩa là chiến lược của DN được thảo luận trên phương diện cân đối 
nguồn lực DN hiện có để sử dụng chúng theo hướng tạo ra lợi thế (Barney, 1991).
Dựa trên hai nền tảng của lý thuyết trên, hàng loạt các nghiên cứu về sự tác động  
của các yếu tố  hữu hình và vơ hình lên kết quả  kinh doanh trong các lĩnh vực xã hội, 
giáo dục, kinh tế  và văn hóa. Gần đây, các nghiên cứu  ảnh hưởng đến kết quả  kinh 
doanh của DN khơng chỉ  là các yếu tố  bên ngồi hay bên trong mà cịn kết hợp cả  hai  
như nghiên cứu về các yếu tố giá thành, phi giá thành, các yếu tố bên trong và bên ngồi 
DN (Keegan và cộng sự,1989).


15
Hiện nay, trong bối cảnh hội nhập và tồn cầu hóa, các tổ  chức và DN gặp khó  
khăn trong việc làm cho mức độ  thay đổi trong cơ cấu chính thức của họ  đáp ứng với 
mức độ  thay đổi từ  mơi trường kinh doanh. Do đó, các nghiên cứu tập trung chú ý về 
tầm quan trọng cũng như vai trị của cấu trúc quản lý khơng chính thức. Scott (1998) chỉ 

ra tầm quan trọng của mơi trường và nhấn mạnh vào các cấu trúc khơng chính thức, các  
cấu trúc tổ  chức khơng chính thức được xem là biểu hiện về  giá trị, tính linh hoạt và 
tính năng động mà nó có thể bổ sung cho các cấu trúc tổ chức chính thức.
Một loại cấu trúc khơng chính thức, có được sự  chú ý ngày càng cao gần đây, là  
mạng lưới xã hội (social networks). Các nhà nghiên cứu cho rằng mạng lưới xã hội có 
khả  năng cung cấp cho nhà quản trị  các nguồn lực có giá trị  qua đó có ảnh hưởng sâu  
sắc đến hiệu quả  của cá nhân và tổ  chức (Adler & Kwon, 2002; Nahapiet & Ghoshal, 
1998). Các nguồn lực có được từ mạng lưới xã hội được gọi chung là vốn xã hội (social  
capital). Thật ra, khái niệm vốn xã hội (VXH) được cho là xuất hiện đầu tiên vào năm 
1916 của Lyda Judson Hanifan, nhà giáo dục Mỹ, đã thảo luận về  cách những người  
hàng xóm có thể  làm việc cùng nhau để  giám sát trường học. Hanifan (1916) sử  dụng  
định nghĩa vốn xã hội để chỉ các mối quan hệ trong xã hội như tình bạn hữu, thơng cảm  
lẫn nhau và giao tiếp giữa các cá nhân hay gia đình. Từ đó, VXH được các học giả quan 
tâm nghiên cứu cũng như sử dụng trong nhiều lĩnh vực như tâm lý, giáo dục, kinh tế và 
xã hội trên phạm vi tồn thế giới.
Nếu như  vốn vật chất (physical capital) nói đến các tài sản hữu hình, ví dụ  như 
máy móc, thiết bị, cơng cụ, nhà xưởng; vốn con người (human capital) nói đến các tài 
sản cá nhân như năng lực cá nhân, kinh nghiệm làm việc, trình độ, kiến thức và kỹ năng 
(McCallum và O’Connell, 2009) thì VXH  đề  cập  đến các năng lực quan hệ  xã hội  
(relational competencies) của các cá nhân và tổ chức dựa vào nhận thức xã hội, tự quản  
trị, cam kết, thúc đẩy hợp tác, phối hợp, mạng lưới thơng tin phản hồi được thiết lập  
theo niềm tin, thiện chí và có qua có lại (McCallum và O’Connell, 2009). Như vậy, VXH 
khơng chỉ  là sự  tổng hợp các của cải vật chất, các tài sản xã hội mà cịn là chất xúc 
tác làm kết dính các tài sản xã hội này lại với nhau.
Trong   thời   gian   qua,   VXH   đã   được   nghiên   cứu   ở   ba   cấp   độ:   Cộng   đồng;   tổ 
chức/Doanh nghiệp và quốc gia. Ba cấp độ  này liên quan đến: (1) cá nhân, (2) các tổ 


16
chức, doanh nghiệp và (3) xã hội, quốc gia và tồn cầu. 

(1) Cấp độ  cộng đồng  có nhiều học giả  nổi tiếng nghiên cứu như  Fukuyama  
(1997), Lin (1999), Coleman (1988), Bourdieu (1986), Putnam (1995), Nahapiet & Ghosal 
(1998). Theo đó, vốn xã hội được định nghĩa như là chất lượng mối liên kết giữa các cá 
nhân, các mạng lưới quan hệ, các chuẩn mực, niềm tin nhằm chia sẻ, hỗ trợ, giúp đỡ 
lẫn nhau.
 (2) Cấp độ tổ chức/doanh nghiệp  có nhiều nghiên cứu của các tác giả Nguyen  
& Huỳnh (2012), Akintimehin và cộng sự  (2019), Polyviou và cộng sự  (2019), Tasavori  
và   cộng   sự   (2018),   Wang   và   cộng   sự   (2016),   Tian   và   cộng   sự   (2016),   Stam   (2013), 
Acquaah (2007). Các tác giả cho rằng VXH của DN chính là chất lượng mạng lưới mối  
quan hệ giữa các cá nhân, các bộ phận bên trong DN và chất lượng mạng lưới mối quan  
hệ của DN với các đối tác bên ngồi. 
(3) Cấp độ quốc gia có các nghiên cứu của Sabatini (2005) nghiên cứu VXH của  
nước Ý cung cấp một khung đo lường mới về khái niệm đa chiều VXH đồng thời cũng  
cung cấp cách thức đo lường các đóng góp tích cực của VXH với các kết quả  kinh tế. 
Một nghiên cứu khác về  VXH của nước Úc, theo đó, sau khi tham vấn sâu rộng, Cục  
Thống kê Úc (ABS, 2004) đã phát triển một khung khái niệm đa chiều về  vốn xã hội,  
cũng như một bộ chỉ số khả thi để đo lường các khía cạnh của vốn xã hội.
Các nghiên cứu về VXH ở nhiều cấp độ khác nhau sẽ giúp cho các cá nhân, các tổ 
chức, doanh nghiệp và các quốc gia thuận lợi hơn trong vấn đề  tiếp cận, tìm hiểu, 
nghiên cứu và vận dụng VXH trong cuộc sống, trong cơng việc cũng như phát triển mối  
quan hệ trong xã hội phục vụ cho lợi ích của cá nhân, doanh nghiệp và quốc gia.
Trong nghiên cứu này, tác giả tập trung nghiên cứu về VXH ở cấp độ DN mà cụ 
thể là tác động của vốn xã hội đến kết quả kinh doanh. Các nghiên cứu trước đây, khi  
nghiên cứu về  VXH trong DN, các nhà nghiên cứu tập trung vào ba yếu tố  chính gồm  
Vốn xã hội lãnh đạo (VXLD), Vốn xã hội bên ngồi (VXBN) và Vốn xã hội bên trong  
(VXBT) (Nguyen và Huỳnh, 2012; McCallum và O’Connell, 2009). Tuy nhiên, chưa tìm 
thấy các nhà nghiên cứu xem xét mối quan hệ  tác động lẫn nhau giữa các yếu tố  này.  
Hơn nữa, có nhiều tác giả đã chỉ ra rằng VXH tác động tích cực đến kết quả kinh doanh  



17
(Akintimehin và cộng sự, 2019); Nasip và cộng sự, 2017) nhưng chưa tìm thấy nghiên  
cứu nào đồng thời có xem xét mối quan hệ của VXH đối với kết quả kinh doanh thơng  
qua hai yếu tố trung gian là tiếp thu kiến thức (TTKT) và đổi mới sản phẩm (DMSP). 
Hơn nữa, nghiên cứu về VXH trong bối cảnh hội nhập, mở rộng quan hệ kinh tế 
theo mơ hình kinh tế  đặc thù của Việt Nam đang chuyển đổi và phát triển mạnh mẽ. 
Việc thực hiện nghiên cứu này có nhiều ý nghĩa vì các nghiên cứu thực nghiệm trước 
về  VXH được thực hiện nhiều  ở  các quốc gia có nền kinh tế  phát triển. Hơn nữa, tại  
Việt Nam, chưa tìm thấy các nghiên cứu có liên quan về VXH trong ngành dệt may.
Như vậy, xem xét bối cảnh nghiên cứu trong ngành dệt may cho thấy, có sự thiếu  
hụt các nghiên cứu về  mối quan hệ giữa VXH với kết quả kinh doanh (TTKD). Đồng  
thời, khám phá thêm các yếu tố  mới đóng vai trị trung gian trong mối quan hệ  này để 
mở  rộng mơ hình nghiên cứu nhằm giúp cho các DN ngành dệt may gia tăng kết quả 
kinh doanh thơng qua việc vận dụng VXH là hết sức cần thiết.
1.1.2

Bối cảnh thực tiễn ngành dệt may
Thời trang là một trong những phương tiện thay đổi dễ thấy nhất. Dệt may được  

xem như ngành cơng nghiệp thời trang, là một phần của một hiện tượng văn hóa và xã 
hội, hiểu rộng hơn được gọi là “hệ  thống thời trang”, một khái niệm bao trùm khơng 
chỉ kinh doanh thời trang mà cịn cả nghệ thuật thời trang, và khơng chỉ sản xuất mà cịn 
cả tiêu dùng. Ngày nay, thời trang được coi là một trong những ngành cơng nghiệp quan  
trọng nhất vì nó chiếm một phần quan trọng trong nền kinh tế tồn thế giới (McKinsey 
& Company, 2016). Mọi người đều có nhu cầu ăn mặc và để  đáp  ứng nhu cầu đó thì  
cần phải có quần áo. Mặc quần áo thời trang và sành điệu là cách mà mọi người đạt 
được và thể hiện địa vị của mình (Kim và cộng sự, 2015). Ngành dệt may ln là ngành  
thay đổi nhanh chóng, bởi vì mọi người thích mặc quần áo mới, các cơng ty ln quảng 
bá sản phẩm để định vị thương hiệu của họ trong tâm trí khách hàng (Rahman và cộng  
sự, 2014). Hơn nữa, người tiêu dùng thường xun trao đổi với nhau về các xu hướng và 

phong cách mới, trao đổi thơng tin và đưa ra các đề  xuất, trong đó nêu bật vai trị của  
giao tiếp xã hội trong việc lan tỏa các xu hướng thời trang (Goldsmith & Clark, 2008).
Hiện nay, thời trang đã trở thành một ngành cơng nghiệp có quy mơ lớn và mức độ 


18
cạnh tranh cao trên tồn thế  giới. Đặc biệt trong lĩnh vực dệt may thời trang có mạng 
lưới cung ứng khá phức tạp cả về sự phân chia của các hoạt động sản xuất và phân tán 
địa lý. Ngành cơng nghiệp này rất đáng nghiên cứu vì bối cảnh khơng chắc chắn, ln 
cần sự đổi mới sáng tạo thường xun để  thỏa mãn các sở  thích khác nhau của người  
tiêu dùng và sự cạnh tranh gây gắt giữa các DN. Hiện nay, các cơng ty thời trang khơng  
chỉ  phải đối mặt với những thách thức đặt ra bởi nhu cầu khơng thể  tiên đốn, nhưng  
cũng phải thích  ứng với một mơi trường cạnh tranh mới (Priest, 2005). Sự  phụ  thuộc  
ngày càng tăng của thị trường các nước khối BRIC (Brazil, Nga,  Ấn Độ, Trung Quốc),  
và chi phí lao động tăng cao ở các nước mới nổi đã khiến các cơng ty thời trang tổ chức  
lại mạng lưới cung cấp của họ, tìm kiếm một sự  cân bằng mới giữa nguồn sản xuất  
địa phương và nguồn sản xuất tồn cầu (Dana & cộng sự, 2007). 
Theo số liệu tổng kết từ Hiệp hội dệt may Việt Nam năm 2019, kim ngạch xuất  
khẩu của ngành dệt may đạt 39 tỷ  USD chiếm 7.54% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu  
của cả nước (Thu Hồi, 2019). Đây là một ngành chiếm tỉ trọng xuất nhập khẩu rất lớn  
trong nền kinh tế quốc dân, giải quyết hàng triệu cơng ăn việc làm cho người lao động. 
Ngành dệt may phụ thuộc vào thị hiếu của người mua, việc sản xuất ra sản phẩm cuối  
cùng phải trải qua nhiều cơng đoạn khác nhau. Các hoạt động sản xuất cũng được triển 
khai  ở nhiều quốc gia. Đặc biệt, các DN sở hữu thương hiệu nổi tiếng, các trung gian  
thương mại như  hệ  thống bán bn, bán lẻ  lớn đóng vai trị quyết định trong việc xác 
lập mạng lưới sản xuất cũng như  việc tiêu thụ  số  lượng lớn sản phẩm thơng qua các 
thương hiệu mạnh. Hệ  thống sản xuất và phân phối phụ  thuộc lẫn nhau thơng qua 
chiến lược th gia cơng trên phạm vi tồn cầu. Theo Gereffi (2002) chuỗi giá trị  dệt  
may thời trang chia thành 5 cơng đoạn chính: (1) các nhà cung cấp sản phẩm thơ như 
bơng tự  nhiên, xơ; (2) các cơng ty dệt, nhuộm đảm nhận việc sản xuất các sản phẩm  

đầu vào như chỉ, sợi và vải; (3) các cơng ty may mặc đảm nhận việc thiết kế mẫu sản  
phẩm và sản xuất thành phẩm; 4) các trung gian thương mại đảm nhận việc xuất khẩu;  
(5) hoạt động Marketing và phân phối.
Hơn nữa, ngành cơng nghiệp dệt may có vai trị quan trọng trong sự phát triển kinh  
tế  quốc dân nhằm đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, có điều kiện 
mở  rộng thương mại quốc tế và mang lại nhiều nguồn thu cho đất nước. Điều này đã 


19
thể hiện trong việc điều tiết các chính sách của chính phủ trong thời gian qua nhằm phát 
triển ngành dệt may như sau:
Thứ nhất, Chính phủ đã phê duyệt đề án tái cấu trúc Tập đồn Dệt May Việt Nam  
(VINATEX) giai đoạn 2013 ­ 2015. Mục tiêu nhằm bảo đảm VINATEX tập trung vào 
các lĩnh vực sản xuất và kinh doanh chính. Qua đó hình thành chuỗi cung  ứng sợi, dệt,  
nhuộm và may; đồng thời nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, sức cạnh tranh và cải 
thiện hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đóng góp vào q trình phát triển kinh tế 
của đất nước. Trong năm 2014, Chính phủ  cũng đã cấp ngân sách 65,6 tỷ  đồng nhằm 
đào tạo nhân lực trong ngành dệt may Việt Nam, theo quyết định số 288/QĐ­TTg.
Thứ hai, Chính phủ xác định ngành cơng nghiệp dệt may là ngành chủ lực để phát  
triển kinh tế, giải quyết vấn đề việc làm và an sinh xã hội cho người lao động, vì nước 
ta có dân số  đơng và thu nhập cịn thấp. Điều này được thể  hiện trong các hiệp định  
thương mại tự do được ký kết giữa Việt Nam và các nước. Cụ  thể  như hiệp định đối 
tác tồn diện và tiến bộ xun Thái Bình Dương (CPTPP). Hiệp định này sẽ xóa bỏ thuế 
nhâp khâu đ
̣
̉ ối với hàng dệt may có xuất xứ từ Việt Nam khi xuất khẩu vào thị  trường  
các nước này (ngay hoặc có lộ trình). Ngồi ra, cịn có hiệp định thương mại tự do giữa 
Việt Nam và EU (EVFTA) mới đây đã được Nghị  viện châu Âu phê chuẩn vào ngày  
12/2/2020. Đây là Hiệp định thế  hệ  mới giữa Việt Nam và 28 nước thành viên EU. 
EVFTA sẽ mở ra thị trường xuất khẩu rộng lớn cho ngành dệt may của Việt Nam.

Như  vậy, ngành dệt may là ngành cơng nghiệp chủ  lực của Việt Nam, tuy nhiên,  
nguồn lực của các DN dệt may chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của ngành, 
điều đó được thể hiện như sau:
Thứ nhất, theo báo cáo tại hội nghị quốc tế  Diễn đàn Dệt May Việt Nam 2015 do  
Hiệp hội Bơng Sợi Việt Nam (VCOSA), Phịng Thương mại xuất nhập khẩu Dệt may 
Trung Quốc (CCCT) được tổ chức tại Hà Nội từ ngày 25 đến ngày 27/6/2015, thơng qua  
hội thảo, một trong những điểm yếu mà các DN dệt may trong nước cần khắc phục là  
mở  rộng mạng lưới quan hệ, chia sẻ thơng tin và thiết lập mạng lưới quan hệ đối tác  
chiến lược. Đồng thời, các DN dựa trên các nguồn lực như vốn, cơng nghệ để xác định 
điểm mạnh, lợi thế, vai trị của mình trong chuỗi liên kết nội địa. Thơng qua chuỗi liên  


20
kết, từng đơn vị sẽ từng bước tái cơ cấu để phát triển theo định hướng chun mơn hóa  
cao, đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ của ngành dệt may trong q trình phân cơng lao 
động. Việc tham gia vào chuỗi liên kết, DN tạo dựng được niềm tin, được chia sẻ  các  
thơng tin, kiến thức quan trọng cũng như  hỗ  trợ  nhau trong q trình sản xuất kinh  
doanh. Từ  đó, DN tiết kiệm thời gian và chi phí khi giao dịch nhằm nâng cao kết quả 
kinh doanh. 
Thứ  hai, hiện tại ngành dệt may Việt Nam đang gặp nhiều thách thức lớn, bởi vì 
nhân cơng giá rẻ giờ đây đã khơng thể so sánh với các nước khác như: Lào, Bangladesh,  
hay Campuchia (Lê Thanh Thủy, 2019). Cụ  thể  qua khảo sát cho thấy cơng nghệ  sản 
xuất lại kém hơn nhiều so với các nước phát triển, hầu hết máy móc thiết bị  của các 
DN trực thuộc Tập đồn Dệt may Việt Nam đã sử dụng trên 15 năm, do đó, hiệu quả sử 
dụng rất thấp do chất lượng xuống cấp và tiêu thụ  điện năng cao (Lê Thanh Thủy,  
2019). Ngun nhân chính là do tiềm lực vốn của các DN cịn thấp, cho nên các DN trong 
ngành dệt may hầu như chỉ mới tập trung sản xuất ở các khâu tạo ra giá trị thấp. Trong  
khi đó, các khâu tạo ra giá trị cao hơn gồm có sản xuất sợi, hóa chất trợ nhuộm, in hoa 
văn cũng như  hồn tất vải vẫn phải nhập khẩu. Do đó, việc liên kết tạo thành mạng 
lưới giữa các DN là đối tác chiến lược của nhau, gắn kết giữa các DN trong các cơng 

đoạn từ  thiết kế sản phẩm, sản xuất ngun phụ  liệu, may, xuất khẩu và marketing ­  
phân phối nhằm khai thác và chia sẻ thơng tin, kiến thức và các nguồn lực có liên quan 
nhằm tận dụng nguồn lực lẫn nhau là rất quan trọng.
Thứ ba, xét về bối cảnh thực tiễn các nghiên cứu tại Việt Nam liên quan đến vốn 
xã hội, năm 2006, tạp chí Tia Sáng tổ  chức hội thảo về  chủ  đề  vốn xã hội trong q  
trình hội nhập kinh tế (Tia Sáng, 2006). Hội thảo này có sự tham gia gần 200 nhà khoa 
học đến từ các ngành nghề khác nhau. Thuật ngữ vốn xã hội đã được sử dụng nhiều tại  
các nước phương Tây. Tuy nhiên, tại Việt Nam, đa số người dân vẫn cảm thấy mới lạ 
về thuật ngữ này và cũng khơng hiểu hết các vấn đề liên quan về vốn xã hội. Theo đó, 
trình độ phát triển vốn xã hội trên thế giới đã trải qua ít nhất 03 giai đoạn: (1) giai đoạn  
tiếp cận lý thuyết về  vốn xã hội, (2) giai đoạn vận dụng và ứng dụng cơ  bản vốn xã  
hội, (3) giai đoạn ứng dụng vốn xã hội ở tầm quốc gia (Tia sáng, 2006). Cũng theo hội  
thảo, tại thời điểm năm 2006, các quốc gia phát triển đã  ứng dụng vốn xã hội  ở  giai 


21
đoạn 3 thì tại Việt Nam vẫn chưa thực sự  bước vào giai đoạn 1. Chính vì tầm quan  
trọng của vốn xã hội trong việc mang lại nhiều lợi ích giúp quốc gia phát triển phồn  
thịnh. Cụ thể như năm 2008, chính phủ Anh đã sử dụng vốn xã hội và vốn văn hóa trong 
việc hoạch định các chính sách cơng, do các loại vốn này có tầm ảnh hưởng rất lớn đến 
hành vi ứng xử của các cá nhân trong đời sống xã hội (Knott và cộng sự, 2008).
Tóm lại, ngành dệt may có tầm quan trọng lớn trong nền kinh tế của Việt Nam,  
đóng góp đến 7.54% kim ngạch xuất nhập khẩu (Thu Hồi, 2019). Ngành cơng nghiệp 
này rất đáng được nghiên cứu để cung cấp các kiến thức quan trọng bổ trợ cho các DN 
cải thiện hiệu quả hoạt động kinh doanh. Trong đó, việc sử dụng VXH nhằm mở rộng  
mạng lưới quan hệ xã hội, nâng cao chất lượng mối quan hệ bằng cách chia sẻ  thơng 
tin, kiến thức, kinh nghiệm và hỗ  trợ  qua lại nhằm giúp DN phát triển kiến thức, 
thường xun đổi mới sản phẩm, gia tăng kết quả kinh doanh là việc làm hết sức cần  
thiết. Bên cạnh đó, viêc thiêu hut các nghiên c
̣

́ ̣
ứu thực nghiệm về mơi quan hê gi
́
̣ ữa VXH 
với kết quả kinh doanh, thơng qua việc xem xét vai trị trung gian của tiếp thu kiến thức  
và đổi mới sản phẩm, đặc thù trong giai đoạn chuyển đổi mơ hình kinh tế, đa phương  
hóa và hội nhập sâu rộng của Viêt Nam. T
̣
ừ  đó, tac gia ch
́
̉ ọn đề  tài nghiên cứu   “Tác  
động của vốn xã hội đối với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp – Trường hợp  
nghiên cứu ngành dệt may tại khu vực phía Nam, Việt Nam”.

1.2. Khái qt các nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.1.1. Các nghiên cứu về vốn xã hội trong và ngồi ngước
Mạng lưới quan hệ  xã hội chính là nguồn gốc của vốn xã hội, lý thuyết vốn xã  
hội xuất phát từ thực tiễn là vốn xã hội được gắn vào các mối quan hệ ở nhiều cấp độ 
(Akintimehin, 2019).  Ứng dụng của lý thuyết vốn xã hội nhằm mục đích thấu hiểu các 
mối quan hệ xã hội, tương tác xã hội, sự tin tưởng và có đi có lại (Pratono, 2018).
Các đóng góp trong việc phát triển lý thuyết vốn xã hội, nổi bật có các tác giả như 
(Bourdieu, 1985, 1986; Coleman, 1988, 1990), sau  đó được các tác giả  như  (Putnam, 
1995; Fukuyama, 1997, 2001, 2002; Lin, 1999, 2001) phát triển thành sách và đưa vào  
chương trình giáo dục đại học. Các tác giả  có nhiều cách định nghĩa và giải thích về 


22
vốn xã hội. Hầu hết, quan điểm của các tác giả  cho rằng (1) VXH gắn liền với mạng 
lưới xã hội (Bourdieu, 1986), mạng lưới quan hệ xã hội là một thành tố quan trọng của  
VXH (Putnam, 2000); (2) VXH chính là kết quả  của sự đầu tư, nhờ  có vốn xã hội mà 

làm gia tăng các loại vốn khác như vốn con người, vốn kinh tế (Bourdieu, 1986), thơng 
qua mối quan hệ, từng cá nhân tự xây dựng và làm phong phú nguồn vốn xã hội để  sử 
dụng cho lợi ích của bản thân (Fukuyama, 2002); (3) VXH là niềm tin (trust), sự có qua  
có lại (recipocity), điều này có nghĩa là trong mối quan hệ  mọi người phải có trách  
nhiệm, lịng tin, hỗ trợ qua lại và kỳ vọng lẫn nhau (Colemam, 1988; Portes,1998).
Nhiều nghiên cứu xem xét vốn xã hội trên ba khía cạnh (Nahapiet & Ghosal, 1998;  
Adler và Kwon, 2002), cụ  thể  như: (1) Khía cạnh hay vốn cấu trúc (structural capital)  
được đo lường bởi kích cỡ  của mạng lưới (network size) quan hệ  rộng hay hẹp, tần  
suất kết nối, địa vị của các thành viên tham gia mạng lưới; (2) Khía cạnh hay vốn quan  
hệ  (relational capital) được đo lường bởi chất lượng của mối quan hệ  (xây dựng mối  
quan hệ thân thiết, tương tác lẫn nhau giữa các nhân viên, bầu khơng khí làm việc thân  
thiện), sự  cam kết, tơn trọng lẫn nhau; (3) Khía cạnh hay vốn nhận thức (cognitive  
capital) được đo lường bởi mọi người có chung mục tiêu và tầm nhìn, có hồi bảo 
chung, ngơn ngữ giao tiếp, chia sẻ thơng tin. 
Trong ba khía cạnh Nahapiet & Ghosal đề  cập đến VXH là cách lý giải khác dựa 
trên quan điểm của Coleman (1990). Trong đó, vốn nhận thức và vốn quan hệ  chính là  
yếu tố chất lượng mạng lưới; vốn cấu trúc chính là cấu trúc mạng lưới. Nhờ đó mà sau 
này, các nghiên cứu về VXH trong DN, các tác giả tập trung phân tích cấu trúc và chất 
lượng mạng lưới (Landry & cộng sự, 2000).
Các nghiên cứu về  VXH  ở  cấp độ  tổ  chức và DN tập trung  ở  cấu trúc và chất 
lượng mạng lưới theo ba loại vốn, cụ thể là Vốn xã hội bên trong ­ VXBT, Vốn xã hội 
bên ngồi ­ VXBN và Vốn xã hội lãnh đạo ­ VXLD (Nguyen và Huỳnh, 2012). Vận dụng 
quan điểm dựa trên tri thức (KBV ­ Knowledge – Based View), Yli­Renko và cộng sự 
(2001) đã khẳng định vai trị của VXH hỗ trợ cho các DN thuận lợi hơn trong q trình 
khai thác kiến thức kinh doanh (kiến thức về sản phẩm, thị trường và cơng nghệ) từ bên  
ngồi. Kiến thức bên ngồi này có được thơng qua vốn xã hội được tích lũy từ các khách 
hàng chủ chốt, tăng cường tiếp thu kiến thức bằng cách cải thiện khả năng lĩnh hội các 


23

kiến thức mới có giá trị  từ  mơi trường bên ngồi thơng qua trao đổi, chia sẻ  và chuyển 
giao tri thức. Hơn nữa, nghiên cứu của Suseno và Ratten (2007) cịn chỉ ra rằng VXBT và 
VXBN đóng góp vào q trình thúc đẩy DN phát triển kiến thức, góp phần cải thiện 
hiệu quả liên minh giữa các DN.
Đổi mới để phát triển bền vững được xem là yếu tố sống cịn của các tổ chức. Nó  
được nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực như kinh tế, xã hội, kỹ thuật, Marketing, quản trị và 
một số những lĩnh vực liên quan. Đồng thời, có nhiều các phương pháp tiếp cận về  lý 
thuyết   đổi   mới   (Gopalakrishnan   và   Damanpour,   1997).   Các   nghiên   cứu   về   đổi   mới 
chứng minh rằng q trình đổi mới của các cơng ty phụ thuộc mạnh mẽ vào các bên liên 
quan bên ngồi (trường đại học, đối thủ  cạnh tranh, nhà cung cấp, người tiêu dùng) 
(Arora và cộng sự, 2001, Shan và cộng sự 1994). Q trình đổi mới bắt nguồn từ thơng 
tin và kiến thức, bởi vì đổi mới địi hỏi sự kết hợp của nhiều cơ sở tri thức hiện có và  
tri thức mới cần có của DN (Lausen và cộng sự, 2012). Ý tưởng trung tâm của lý thuyết  
vốn xã hội là mức độ tương tác xã hội cao mang lại lợi ích về mặt tiếp cận thơng tin có  
giá trị, đúng người, đúng lúc và đúng chỗ  (Burt, 1997). Sự  quan tâm đến đổi mới sản  
phẩm xuất phát từ  lợi ích của nó đóng góp vào thành tích chung là kết quả  kinh doanh  
(Cuevas­Rodríguez và cộng sự, 2014). 
Một số nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ  ra rằng  ở cấp độ  DN, đổi mới sản phẩm  
càng triệt để  thì hiệu quả  đạt được càng cao của DN (Cuevas­Rodríguez và cộng sự,  
2014; Salomo và cộng sự, 2008). Điều này là do đổi mới sản phẩm cung cấp giải pháp  
vượt trội mang lại nhiều lợi ích đến khách hàng, lợi thế cạnh tranh của sản phẩm được  
nâng tầm dẫn đến thành cơng trong kinh doanh và cải thiện vị thế của DN trên thương 
trường (Nijssen và cộng sự, 2006). Thơng qua mạng lưới quan hệ  bên trong và bên 
ngồi, nhiều nghiên cứu thực nghiệm cũng đã khẳng định VXBT và VXBN của DN có  
vai trị rất quan trọng trong việc thúc đẩy đổi mới sản phẩm (Laursen và cộng sự, 2012;  
Tsai và Ghoshal, 1998).
Đặc biệt, ngành dệt may là một bối cảnh thích hợp cho nghiên cứu này vì những 
lý do khác nhau. Đầu tiên, ngành cơng nghiệp thời trang được đặc trưng bởi tốc độ đổi  
mới bền vững bởi vì các cơng ty ln tìm cách sáng tạo và đổi mới sản phẩm hàng năm  
(Cillo và cộng sự, 2010). Thứ hai, đổi mới phong cách trong lĩnh vực dệt may thời trang  



24
đã được xác định rõ ràng trong q trình đổi mới liên tục như  đường cắt (rộng thùng  
thình hoặc bó sát), họa tiết (hoa hoặc nghệ thuật hiện đại), màu sắc (sáng màu hoặc tối 
màu), vải (tự  nhiên hoặc tổng hợp) và chiều dài (váy mini, so với váy dài). Những lựa 
chọn này xác định mức độ sáng tạo trong phong cách của bất kỳ bộ sưu tập cụ thể nào  
(Pesendorfer, 1995). Thứ ba, đổi mới sản phẩm là chiến lược cạnh tranh mang tính chất  
sống cịn trong ngành dệt may vì nó tác động mạnh lên kết quả kinh doanh.
Ngồi ra, nhiều nghiên cứu cũng đã khẳng định tác động của VXH lên kết quả 
kinh doanh. Trong đó, Akintimehin và cộng sự (2019) khuyến nghị rằng các DN nên tận  
dụng các nguồn VXBT cũng như  cố gắng xây dựng VXBN của họ vì chúng có thể  trở 
nên quan trọng đối với sự thành cơng trong kinh doanh. Một nghiên cứu khác khám phá 
mối quan hệ giữa định hướng kinh doanh (tức là tính chủ động, đổi mới, chấp nhận rủi  
ro) và vốn xã hội đối với kết quả kinh doanh. Kết quả cho thấy việc chấp nhận rủi ro  
và VXH có liên quan tích cực đến kết quả kinh doanh (Nasip và cộng sự, 2017).
Tại Việt Nam, hội thảo do Tạp chí Tia Sáng (Bộ Khoa Học Cơng Nghệ) tổ  chức 
với chủ đề về vốn xã hội. Kể từ  khi tổ chức hội thảo cho đến nay, các nghiên cứu về 
VXH được phân chia ra 2 nhóm chính: (1) Nhóm tổng kết, phân tích, so sánh quan điểm  
VXH của các nhà nghiên cứu nước ngồi nhằm mục đích giới thiệu, khuyến khích cộng  
đồng, nhà nước quan tâm đến việc xây dựng và sử dụng VXH để phát triển kinh tế; (2)  
Ứng dụng lý thuyết VXH trong các nghiên cứu thực nghiệm để  xây dựng mơ hình đo 
lường VXH của DN trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Thứ  nhất, nhóm nghiên cứu giới thiệu lý thuyết VXH. Đây là nhóm có nhiều tác  
giả  quan tâm như  nghiên cứu về  VXH nhằm mục đích phát triển kinh tế  (Trần Hữu  
Dũng, 2006). Tác giả đã giới thiệu lý thuyết VXH và khuyến khích việc sử dụng VXH  
để  phát triển kinh tế. Nghiên cứu này đã chứng minh trong một xã hội mọi người có  
lịng tin,  ứng xử chuẩn mực tức là giàu có về  VXH sẽ giúp giảm tội phạm, giảm móc  
nối, giảm phí giao dịch và tăng mức đầu tư  trong nền kinh tế. Một nghiên cứu khác là 
tìm hiểu về  khái niệm VXH (Trần Hữu Quang, 2006). Tác giả  cũng đã giới thiệu các  

nghiên cứu trước đây về  VXH, thảo luận về  chất lượng mối quan hệ  biểu hiện qua  
niềm tin, chuẩn mực và hợp tác lẫn nhau. 


25
Ngồi ra, cịn có các tác giả  khác, nổi bật là nghiên cứu của Nguyễn Tuấn Anh  
(2011) về VXH ở nơng thơn Việt Nam. Tác giả cũng đã lược khảo những nghiên cứu về 
VXH của các học giả nổi tiếng, phân tích và so sánh các quan điểm khác nhau về VXH.  
Đồng thời, tác giả cũng phân tích điểm tích cực và tiêu cực của VXH. Cuối cùng, tác giả 
cũng nêu quan điểm của mình về  việc nghiên cứu và vận dụng VXH  ở  các vùng nơng 
thơn là cần thiết. Hầu hết, các nghiên cứu về VXH này chỉ tóm tắt lý thuyết, so sánh và  
nêu quan điểm của tác giả về VXH. Các nghiên cứu này chưa tạo ra luận điểm làm cơ 
sở cho các nghiên cứu thực nghiệm.
Thứ hai, sử dụng VXH trong nghiên cứu thực nghiệm. Số lượng nghiên cứu thực  
nghiệm về  VXH trong DN cịn rất ít. Có thể  kể  ra một số các nghiên cứu nổi bật của  
các tác giả Appold & Thanh (2004) đã khẳng định ảnh hưởng của vốn xã hội trong các 
DN nhỏ tại Tp.Hà Nội. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng VXH giúp DN có được thơng tin 
nhanh hơn, tiết giảm chi phí giao dịch, hạn chế rủi ro. Một nghiên cứu khác của Nguyen 
và Huỳnh (2012) về VXH của các DN trong lĩnh vực bất động sản tại Tp.Hồ Chí Minh.  
Theo đó, kết quả nghiên cứu cũng cho rằng VXH đã hỗ trợ tích cực các hoạt động đầu 
vào, q trình và đầu ra của DN; khuyến khích DN cũng như  các nhà hoạch định chính 
sách sử dụng VXH để phát triển kinh doanh. Ngồi ra, tác giả cịn nêu hàm ý để cho các  
DN trong ngành bất động sản cần dành nhiều thời gian để  thiết lập và nâng cao chất 
lượng mối quan hệ, mở  rộng mạng lưới quan hệ  nhằm hỗ  tr ợ  cho hoạt  động kinh  
doanh.
Tóm lai, các nghiên c
̣
ứu thực nghiệm về VXH và kết quả của nó được thực hiện  
ở  ngồi nước rất nhiều, tại Việt Nam số lượng các nghiên cứu thực nghiệm về  VXH  
cịn rất hạn chế. Thêm vào đó, chưa tim thây nghiên c

̀
́
ứu nào khám phá mối quan hệ 
giữa VXH với kết quả kinh doanh, thơng qua xem xét vai trị trung gian của cả hai yếu 
tố tiếp thu kiến thức và đổi mới sản phẩm, cung nh
̃
ư xem xét mơi quan hê tac đơng lân
́
̣ ́ ̣
̃ 
nhau giữa ba yếu tố  VXLD, VXBT và VXBN của DN trong ngành dệt may tại Việt 
Nam.
1.1.2. Khe hổng nghiên cứu
Thứ  nhất,  ở  cấp độ  DN, nhiều nghiên cứu đã thực hiện trong việc đo lường tác  


×