Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Hoàn thiện hạch toán chi phí sán xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty TNHH Hoàng Trà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.13 KB, 43 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Kể từ khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, có sự điều
tiết vĩ mô của Nhà nước thì mọi hoạt động của doanh nghiệp đều xuất phát từ
nhu cầu của thị trường. Bước đầu làm quen với cơ chế thị trường các doanh
nghiệp đã gặp không ít khó khăn, nhưng cũng nhiều doanh nghiệp cũng đã
tìm được chỗ đứng vững chắc cho mình và phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh đó,
nhiều doanh nghiệp cũng đã phải ngừng hoạt động vì làm ăn thua lỗ và hoạt
động kinh doanh kém hiệu quả.
Doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại được nếu doanh nghiệp đó tìm được
hướng đi đúng cho mình, biết nắm bắt nhu cầu thị trường và đáp ứng các nhu
cầu đó một cách đầy đủ. Đẻ đạt được như vậy, trước hết các doanh nghiệp
phải biết chọn đúng ngành nghề kinh doanh, địa bàn hoạt động. trong cơ chế
thị trường cạnh tranh mạnh mẽ và quyết liệt thì vai trò tiêu thụ sản phẩm tại
doanh nghiệp phải được coi là yếu tố quan trong hơn bao giờ hết mà muốn
tiêu thụ được nhiều sản phẩm thì một trong những yếu tố quyết định nhất đó
là hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phải được ưu tiên đặt
lên hang đầu. Mặt khác, các doanh nghiệp phải thành lập được một đội ngũ
lãnh đạo có đầu óc tổ chức, có trình độ, nhạy bén, sáng tạo và nhiệt tình với
công việc để dễ dàng nắm bắt được tình hình tài chính của doanh nghiệp. Từ
đó tổ chức thực hiện công tác tài chính, kế toán,lên kế hoạch kinh doanh cho
mỗi kỳ một cách chính xác để đạt được kết quả cao nhất.
Trong công tác quản lý hoạt động sản xuất và tiêu thụ hàng hóa của
doanh nghiệp, hạch toán kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
đóng vai trò là một bộ phận cấu thành quan trọng cảu hệ thống công cụ quản
lý. Nó góp phần phục vụ đắc lực và có hiệu quả trong hoạt động sản xuất va
tiêu thụ hàng hóa của mỗi doanh nghiệp.
1
Xuất phát từ nhân thức trên ta thấy hạch toán chi phí sản xuất và tính
thành sản phẩm ngày càng đòi hỏi phải được củng cố và hoàn thiện cho phù
hợp với tốc độ phát triển của nền kinh tế thị trường.
Qua quá trình thực tập tại Công ty TNHH Hoàng Trà, được sự hướng


dẫn của thầy cô giáo và sự giúp đỡ của tập thể cán bộ, nhân viên Phòng Kế
toán Công ty TNHH Hoàng Trà, tôi đã chọn chuyên đề thực tập tốt nghiệp với
đề tài:
“ Hoàn thiện hạch toán chi phí sán xuất và tính giá thành sản phẩm
tại Công ty TNHH Hoàng Trà ”
Nội dung của chuyên đề gồm 3 chương chính :
Chương I – Cơ sở lý luận chung về hạch toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm của các doanh nghiệp
Chương II – Thực trạng công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm tại Công ty TNHH Hoàng Trà.
Chương III – Mộy số giải pháp nhằm hoàn thiện chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm tại Công ty TNHH Hoàng Trà.
Với mục đich vận dụng những lý thuyết, lý luận đã học vào thực tiễn,
chuyên đề xin được góp phần nhỏ bé vào việc đánh giá và hoàn thiện quy
trình hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc tăng
cường quản trị doanh nghiệp.
Do thời gian thực tập tại Công ty không nhiều nên chuyên đề chỉ giải
quyết vấn đề trên góc độ chuyên ngành kế toán đối với doanh nghiệp sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm, chắc rằng không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, rất
mong nhận được ý kiến đóng góp phê bình của các thầy cô giáo và những
người có quan tâm tới vấn đề này.
Xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, ngày 18 tháng 4 năm 2008.
Sinh viên
Phùng Phương Thúy
2
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN
XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG
DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT

1.1. CHI PHÍ SẢN XUẤT
1.1.1. Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất
Sự phát sinh và phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình
sản xuất. Nền sản xuất xã hội của bất kỳ phương thức sản xuất nào cũng găn
liền với sự vận động và tiêu hao của các yếu tố cơ bản tạo nên quá trình sản
xuất. Nói cách khác quá trình sản xuất hàng hóa là quá trình kết hợp của ba
yếu tố: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Đồng thời, quá
trình sản xuất hàng hóa cũng chính là quá trình tiêu hao của chính bản thân
các yếu tố trên. Như vậy, để tiến hành sản xuất hàng hóa, người sản xuất phải
bỏ chi phí về thù lao lao động, về tư liệu lao động và đối tượng lao động.
Cần phân biệt giữa chi phí và chi tiêu. Chi phí là biểu hiện bằng tiền
của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hóa cần thiết cho quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp phải chi ra trong một
kỳ kinh doanh. Như vậy chỉ được tính là chi phí của kì hạch toán những hao
phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra
trong kỳ chứ không phải mọi khoản chi ra trong kỳ hoạch toán. Ngược lại, chi
tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tiền vốn của doanh nghiệp, bất kể
nó được dùng vào mục đích gì. Tổng số tiền chi tiêu trong kỳ của doanh
nghiệp, bao gồm chi tiêu cho quá trình cung cấp (chi mua sắm vật tư hàng hóa
…), chi tiêu cho quá trình sản xuất kinh doanh ( chi cho sản xuất, chế tạo sản
phẩm công tác quản lý…) và chi tiêu cho quá trình tiêu thụ (chi vận chuyển ,
bốc dỡ,quảng cáo…).
3
Có thể kết luận rằng: Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền
của toàn bộ hao phí mà doanh nghiệp phải tiêu dung trong một kỳ để thực
hiện quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Thực chất, chi phí là sự chuyển
dịch vốn-chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính
giá ( sản phẩm, lao vụ, dịch vụ).
1.1.2. Phân loại chi phí sản xuất :
Chi phí sản xuất kinh doanh có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức

khác nhau tùy thuộc vào mục đích và yêu cầu của công tác quản lý. Tuy nhiên
, về mặt hạch toán, chi phí sản xuất thường được phân loại theo các tiêu thức
sau:
1.1.2.1. Phân loại theo yếu tố chi phí:
Để phục vụ cho việc tập hợp, quản lý chi phí theo nội dung kinh tế ban
đầu thống nhất của nó mà không xét đến công dụng cụ thể, địa điểm phát
sinh, chi phí được phân theo yếu tố. Cách phân loại này giúp cho việc xây
dựng và phân tích định mức vốn lưu động cũng như việc lập, kiểm tra và dự
toán chi phí. Theo quy định hiện hành ở Việt Nam, toàn bộ chi phí được chia
thành 7 yếu tố sau:
- Chi phí nguyên liệu, vật liệu : bao gồm toàn bộ giá trị nguyên,
vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ , dụng cụ
…sử dụng vào sản xuất kinh doanh ( loại trừ giá trị dùng không
hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi ).
- Chi phí nhiên liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất kinh
doanh trong kỳ ( trừ số dùng không hết nhập lại kho và phế liệu
thu hồi).
- Chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp lương : phản ánh tổng
số tiền lương và phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho toàn
bộ công nhân viên chức
4
- Chi phí BHXH, BHYT, KPCĐ: trích theo tỷ lệ quy định trên
tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả cho công nhân, viên
chức.
- Chi phí khấu hao TSCĐ: phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải trich
trong kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng cho sản xuất kinh doanh.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài
dùng vào sản xuất kinh doanh.
- Chi phí khác bằng tiền: phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa
phản ánh vào các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong

kỳ.
1.1.2.2. Phân loại theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm:
Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản phẩm và để thuận
tiện cho việc tính giá thành toàn bộ, chi phí được phân theo khoản mục. Cách
phân loại này dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng
đối tượng. Theo quy định hiện hành, giá thành sản phẩm bao gồm 5 khoản
mục chi phí sau :
- Chi phí nguyên vật liêu trực tiếp.
- Chi phí phân công trực tiếp.
- Chi phí sản xuất chung.
- Chi phí bán hàng
- Chi phí quản lý doanh nghiệp
1.2.2.3 Phân loại theo cách thức kết chuyển chi phí:
Theo cách thức kết chuyển, toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh được
chia thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kì. Chi phí sản phẩm là những chi
phí gắn liền với các sản phẩm được sản xuất ra hoặc được mua, còn chi phí
thời kỳ là những chi phí làm giảm lợi tức trong một kỳ nào đó, nó không phải
là một phần giá trị sản phẩm được sản xuất ra hoặc dược mua nên được xem
5
là các phí tổn, cần được khấu trừ ra từ lợi nhuận của thời kỳ mà chúng phát
sinh.
6
1.2.2.4. Phân loại theo quan hệ của chi phí với khối lượng công việc, sản
phẩm hoàn thành:
Để thuận lợi cho việc lập kế hoạch và kiểm tra chi phí, đồng thời làm
căn cứ để đề ra các quyết định kinh doanh, toàn bộ chi phi sản xuất kinh
doanh lại được phân theo quan hệ với khối lượng công việc hoàn thành. Theo
cách này, chi phí được chia thành biến phí và định phí.
Biến phí là những chi phí thay đổi về tổng số, về tỉ lệ so đối với khối
lượng công việc hoàn thành, chẳng hạn chi phí về nguyên liệu, nhân công trực

tiếp… . Cần lưu ý rằng, các chi phí biến đổi nếu tính trên một đơn vị sản
phẩm thì lại có tính cố định.
Định phí là những chi phí không đổi về tổng số so với khối lượng công
việc hoàn thành, chẳng hạn chi phí về khấu hao tài sản cố định, chi phí thuê
mặt bằng, phương tiện kinh doanh, v.v… Các chi phí này nếu tính cho một
đơn vị sản phẩm thì lại biến đổi nếu số lượng sản phẩm biến đổi.
1.1.3. Xác định đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất.
Xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là công việc đầu tiên và
quan trọng của tổ chức hạch toán quá trình sản xuất. Tổ chức hạch toán quá
trình sản xuất sản xuất bao gồm hai giai đoạn kế tiếp nhau và có quan hệ mật
thiết với nhau. Đó là giai đoạn hạch toán chi tiết chi phí sản xuất phát sinh
theo từng sản phẩm, nhóm sản phẩm, đơn đặt hàng, giai đoạn công nghệ,
phân xưởng … và giai đoạn tính giá thành sản phẩm, chi tiết sản phẩm theo
đơn vị tính giá thành quy định. Việc phân chia này xuất phát từ yêu cầu quản
lý, kiểm tra và phân tích chi phí, yêu cầu hạch toán kinh doanh nội bộ và theo
đặc điểm tổ chức sản xuất, đặc điểm quy trình công nghệ của từng doanh
nghiệp và yêu cầu tính giá thành sản phẩm theo đơn vị tính giá thành quy
định. Có thể nói, việc phân chia quá trình hạch toán thành hai giai đoạn là do
sự khác nhau cơ bản về giới hạn tập hợp chi phí trong hạch toán chi phí sản
xuất – tức là đối tượng hạch toán chi phí sản xuất – và sản phẩm hoàn thành
cần phải tính giá thành một đơn vị - tức là đối tượng tình giá thành.
7
Như vậy, xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất chính là việc
xác định giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là xác định nơi phát sinh chi
phí và chịu chi phí. Trên cơ sở đối tượng hạch toán chi phí, kế toán lựa chọn
phương pháp hạch toán (tập hợp) chi phí thích ứng. Phương pháp hạch toán
chi phí sản xuất là một phương pháp hay hệ thống các phương pháp được sử
dụng để tập hợp và phân loại các chi phí sản xuất trong phạm vi giới hạn của
đối tượng hạch toán chi phí. Về cơ bản, phương pháp hạch toán chi phí sản
xuất bao gồm các phương pháp bao gồm hạch toán chi phí theo sản phẩm,

theo đơn đặt hàng, theo giai đoạn công nghệ, theo phân xưởng, theo nhóm sản
phẩm,…. Nội dung chủ yếu của các phương pháp hạch toán chi phí sản xuất
là kế toán mở thẻ ( hoặc sổ ) chi tiết hạch toán chi phí sản xuất theo từng đối
tượng đã xác định, phản ánh các chi phí phát sinh có liên quan đến đối tượng,
hàng tháng tổng hợp chi phí theo từng đối tượng. Mỗi phương pháp hạch toán
chỉ thích ứng với một loại đối tượng hạch toán chi phí nên tên gọi của các
phương pháp này là biểu hiện đối tượng mà nó cần tập hợp và phân loại chi
phí.
1.2. GIÁ THÀNH SẢN PHẨM :
1.2.1. Bản chất và nội đung kinh tế của giá thành sản phẩm:
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản chi
phí về lao động sống và lao động vật hóa có liên quan đến khối lượng công
tác, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành.
Giá thành sản phẩm là một phạm trù sản xuất hàng hóa, phản ánh lượng
giá trị của những hao phí về lao động sống và lao động vật hóa đã thực sự chi
ra cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm
những chi phí tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp mà không bao gồm những chi
phí phát sinh trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Những chi phí đưa vào
giá thành sản phẩm phản ánh được giá trị thực của tư liệu sản xuất tiêu dùng
cho sản xuất, tiêu thụ và các khoản chi tiêu khác có liên quan tới việc bù đắp
giản đơn hao phí lao động sống. Mọi cách tính toán chủ quan đều có thể dẫn
8
đến việc phá vỡ các quan hệ hàng hóa tiền tệ, không xác định được hiệu quả
kinh doanh và không thực hiện được tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở
rộng.
1.2.2. Phân loại giá thành :
Để đáp ứng được các yêu cầu của quản lý, hạch toán và kế hoạch hóa
giá thành cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hóa, giá thành được xem
xét dưới nhiều góc độ, nhiều phạm vi tính toán khác nhau. Về lý luận cũng
như trên thực tế, ngoài các khái niệm giá thành xã hội và giá thành cá biệt,

còn có cả khái niệm giá thành công xưởng, giá thành toàn bộ…
1.2.2.1. Phân loại theo thời điểm và nguồn số liệu để tính giá thành
Chỉ tiêu giá thành được chia thành giá thành kế hoạch, giá thành định
mức và gía thành thực tế:
- Giá thành kế hoạch : được xác định trước khi bước vào kinh
doanh trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức, các
dự toán chi phí của kỳ kế hoạch.
- Giá thành định mức: cũng như giá thành kế hoạch, giá thành định
mức cũng được xác định trước khi bắt đầu sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên,
khác với giá thành kế hoạch được xây dựng trên cơ sở các định mức bình
quân tiên tiến và không biến đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch, giá thành định
mức được xác định trên cơ sở các định mức về chi phí hiện hành tại từng thời
điểm nhất định trong kỳ kế hoạch ( thường là ngày đầu tháng ) nên giá thành
định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt
được trong quá trình thực thiện kế hoạch giá thành.
- Giá thành thực tế : là chỉ tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình
sản xuất sản phẩm dựa trên cơ sở các chi phí thực tế phát sinh trong quá trình
sản xuất sản phẩm
9
Cách phân loại này có tác dụng trong việc quản lý và giám sát chi phí,
xác định được các nguyên nhân vượt ( hụt ) định mức chi phí trong kỳ hạch
toán. Từ đó, điều chỉnh kế hoạch hoặc định mức chi phí cho phù hợp.
1.2.2.2 Phân loại theo phạm vi phát sinh chi phí :
Theo phạm vi phát sinh chi phí, chỉ tiêu giá thành được chia thành giá
thành sản xuất và giá thành tiêu thụ:
- Giá thành sản xuất ( còn gọi là giá thành công xưởng ) : là chỉ
tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc
sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất.
- Giá thành tiêu thụ (còn gọi là giá thành toàn bộ hay giá thành
đầy đủ) : là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh

liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Giá thành tiêu thụ
được tính theo công thức:
Giá thành toàn bộ
của sản phẩm
=
Giá thành sản xuất
của sản phẩm
+
Chi phí quản lý
doanh nghiệp
+
Chi phí
bán hàng
Cách phân loại này có tác dụng giúp cho nhà quản lý biết được kết quả
kinh doanh ( lãi, lỗ ) của từng mặt hàng, từng loại dịch vụ mà doanh nghiệp
kinh doanh. Tuy nhiên, do những hạn chế nhất định khi lựa chọn tiêu thức
phân bổ chi phí bán hàng và chi phí quản lý cho từng mặt hàng, từng loại dịch
vụ nên cách phân loại này chỉ còn mang ý nghĩa học thuật, nghiên cứu.
10
1.2.3. Đối tượng và phương pháp tính giá thành sản phẩm:
1.2.3.1. Xác định đối tượng tính giá thành sản phẩm:
Do có sự khác nhau cơ bản về giới hạn tập hợp chi phí trong hạch toán
chi phí sản xuất và sản phẩm hoàn thành cần phải tính thành một đơn vị, việc
hạch toán quá trình sản xuất có thể phân thành hai giai đoạn là giai đoạn hạch
toán chi phí sản xuất và giai đoạn tính giá thành sản phẩm. Để tính giá thành
sản phẩm, ta phải xác định đựoc đối tượng tinh giá thành. Về thực chất,xác
định đối tượng tính giá thành chính là việc xác định sản phẩm, bán hàng thành
phẩm, công việc, lao vụ nhất định đòi hỏi phải tính giá thành một đơn vị. Đối
tượng đó có thể là sản phẩm cuối cùng của quá trình sản xuất hay đang trên
dây truyền sản xuất tùy theo yêu cầu của hạch toán kinh tế nội bộ và tiêu thụ

sản phẩm.
Để phân biệt được đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng
tính giá thành ngay cả khi chúng đồng nhất là một, cần dựa vào đặc điểm quy
trình công nghệ sản xuất ( giản đơn hay phức tạp ), vào loại hình sản xuất
( đơn chiếc, hàng loạt ), vào yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức kinh doanh
( cao, thấp )….
1.2.3.2.Xác định phương pháp tính giá thành sản phẩm:
Do có sự khác nhau giữa đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối
tượng tính giá thành mà có sự phân biệt giữa phương pháp hạch toán chi phí
và phương pháp tính giá thành sản phẩm. Về cơ bản, phương pháp tính giá
thành bao gồm các phương pháp sau:
- Phương pháp trực tiếp ( còn gọi là phương pháp giản đơn):
phương pháp này được áp dụng trong các doanh nghiệp thuộc
loại hình sản xuất giản đơn, số lượng mặt hàng ít, sản xuất với
khối lượng lớn và chu kỳ sản xuất ngắn như các nhà máy điện,
nước, các doanh nghiệp khai thác ( quặng, than, gỗ…). Đối
tương hạch toán chi phí ở các doanh nghiệp này là từng loại sản
phẩm, dịch vụ. Giá thành sản phẩm theo phương pháp này được
11
tính bằng cách lấy trực tiếp tổng số chi phí sản xuất sản phẩm
cộng (+) hoặc trừ (-) số chênh lệch giữa giá trị sản phẩm dở
dang đầu kỳ so với cuối kỳ chia cho số lượng hoàn thành.
- Phương pháp tổng cộng chi phí: áp dụng với các doanh nghiệp
mà quá trình sản xuất sản phẩm được thực hiện ở nhiều bộ phận
sản xuất, nhiều giai đoạn công nghệ, đối tượng tập hợp chi phí
sản xuất là các bộ phận chi tiết sản phẩm hoặc giai đoạn công
nghệ hay bộ phận sản xuất. Giá thành sản phẩm được xác định
bằng cách cộng chi phí sản xuất của các bộ phận, chi tiết sản
phẩm hay tổng chi phí sản xuất của các giai đoạn, bộ phận sản
xuất tạo nên thành phẩm .

Phương pháp tổng cộng chi phí được áp dung phổ biến trong các doanh
nghiệp khai thác, dệt, nhuộm, cơ khi chế tạo, may mặc …
- Phương pháp hệ số : được áp dụng trong những doanh nghiệp
mà trong cùng một quá trình sản xuất cùng sử dụng một thứ
nguyên liệu và một lượng lao động nhưng thu được đồng thời
nhiều loại sản phẩm khác nhau và chi phí không tập hợp riêng
cho từng loại sản phẩm được mà phải tập hợp chung cho cả quá
trình sản xuất. Theo phương pháp này, trước hết, kế toán căn cứ
vào hệ số quy đổi để quy đổi các loại sản phẩm về sản phẩm
gốc rồi từ đó, dựa vào tổng chi phí có liên quan đến giá thành
các loại sản phẩm đã tập hợp để tính ra giá thành sản phẩm gốc
và giá thành từng loại sản phẩm:
Giá thành đơn vị
sản phẩm gốc
=
Tổng giá thành của tất cả các loại sản phẩm
Tổng số sản phẩm gốc (kể cả quy đổi)

12
Giá thành đơn vị
sản phẩm từng loại
=
Giá thành đơn vị
sản phẩm gốc
x
Hệ số quy đổi sản
phẩm từng loại
Q
0
= ΣQ

i
H
i

Trong đó: - Q
0
: Tổng số sản phẩm gốc đã quy đổi
- Q
i
: Số lượng sản phẩm i(i = 1,n)
- H
i :
Hệ số quy đổi sản phẩm i(i=1,n)

Tổng giá thành
sản xuất của các
loại sản phẩm
=
Giá trị sản
phẩm dở
dang đầu kỳ
+
Tổng chi phí sản
xuẩt phát sinh
trong kỳ
-
Giá trị sản
phẩm dở
dang cuối kỳ
- Phương pháp tỷ lệ : áp dụng trong các doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản

phẩm có quy cách, phẩm chất khác nhau như may mặc, dệt kim, đóng giầy, cơ
khi chế tạo ( dụng cụ, phụ tùng…)…Để giảm bớt khối lượng hạch toán, kế
toán thường tiến hành tập hợp chi phí sản xuất theo nhóm sản phẩm cùng loại.
Căn cứ vào tỷ lệ chi phí giữa chi phí sản xuất thực tế với chi phí sản xuất kế
hoạch ( hoặc định mức ), kế toán sẽ tính ra giá thành đơn vị và tổng giá thành
sản phẩm từng loại.
=x x
Tỷ lệ
=
Tổng giá thành thực tế của các loại sản phẩm
x 100
chi phí Tổng giá thành kế hoạch (hoặc định mức)của các loại sp
- Phương pháp loại trừ giá trị sản phẩm phụ: áp dụng đối với doanh nghiệp
mà trong cùng một quá trình sản xuất, bên cạnh các sản phẩm chính thu được
13
Giá thành thực tế đơn
vị SP từng loại
Tỷ lệ
chi phí
Giá thành kế hoạch (hoặc định mức)
đơn vị sản phẩm từng loại
còn có thể thu được sản phẩm phụ ( các doanh nghiệp chế biến đường, rượu,
bia, mỳ ăn liền….). Để tính giá trị sản phẩm chinh, kế toán phải loại trừ giá trị
sản phẩm phụ ra khỏi tổng chi phí sản xuất sản phẩm. Giá trị sản phẩm phụ có
thể được xác định theo nhiều phương pháp như giá có thể sử dụng được, giá
được tính, giá kế hoạch, giá nguyên liệu ban đầu ..
Tổng giá
thành sản
phẩm chính
=

Giá trị sản
phẩm chính dở
dang đầu kỳ
+
Tổng chi phí
sản xuất phát
sinh trong kỳ
-
Giá trị sản
phẩm phụ thu
hồi ước tính
-
Giá trị sản
phẩm chính
dở dang
cuối kỳ
- Phương pháp liên hợp: là phương pháp áp dụng trong những doanh
nghiệp có tổ chức sản xuất, tính chất quy trình công nghệ và tính chất sản
phẩm làm ra đòi hỏi việc tính giá thành phải kết hợp nhiều phương pháp khác
nhau như doanh nghiệp hóa chất, dệt kim, đóng giầy, may mặc … Trên thực
tế, kế toán có thể kết hợp các phương pháp trực tiếp với tổng cộng chi phí,
tổng cộng chi phí với tỉ lệ, hệ số với loại trừ sản phẩm phụ…
1.2.4 Phương pháp tính giá thành sản phẩm trong một số loại hình
doanh nghiệp chủ yếu :
Trên cơ sở các phương pháp chung để tính giá thành sản phẩm, kế toán
cần lựa chon và áp dụng vào từng loại hình doanh nghiệp cho phù hợp với đặc
điểm tổ chức sản xuất, đặc điểm quy trình công nghệ cũng như vào đối tượng
hạch toán chi phí. Sau đây là các phương pháp tính giá thành sản phẩm áp
dụng trong một số loại hình doanh nghiệp chủ yếu:
1.2.4.1. Doanh nghiệp sản xuất giản đơn

Doanh nghiệp sản xuất giản đơn là những doanh nghiệp chi sản xuất
một hoặc một số ít mặt hàng với khối lượng lớn, chu kỳ sản xuất ngắn, sản
phẩm dở dang không có hoặc có không đáng kể như các doanh nghiệp khai
thác than, quạng, hải sản…; các doanh nghiệp sản xuất động lực ( điện, hơi
nước, khí nén, khí đốt… ). Do số lượng mặt hàng ít nên đối tượng hạch toán
14
chi phí sản xuất tiến hành theo sản phẩm, mỗi mặt hàng sản xuất được mở
một sổ ( hoặc thẻ ) hạch toán chi phi sản xuất. Công việc tính giá thành
thường được tiến hành vào cuối tháng theo phương pháp trực tiếp ( giản đơn )
hoặc phương pháp kết hợp.
1.2.4.2. Doanh nghiệp sản xuất theo đơn đặt hàng
Đối với các doanh nghiệp sản xuất theo đơn đặt hàng của khách hàng,
đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là từng đơn đặt hàng cụ thể. Đối tượng
tính giá thành sản phẩm là sản phẩm của từng đơn đặt hàng. Phương pháp tính
giá thành tùy theo tính chất và số lượng sản phẩm của từng đơn sẽ áp dụng
phương pháp thích hợp như phương pháp trực tiếp, phương pháp hệ số,
phương pháp tổng cộng chi phí hay phương pháp liên hợp …
Đặc điểm của việc hạch toán chi phí trong các doanh nghiệp này là
toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh đều được tập hơp theo đơn đặt hàng, không
kể số lượng sản phẩm của đơn đặt hàng đó nhiều hay ít, quy trình công nghệ
giản đơn hay phức tạp. Đối với các chi phí trực tiếp ( nguyên, vật liệu; nhân
công trực tiếp ) phát sinh trong kỳ liên quan trực tiếp đến đơn đặt hàng nào thì
hạch toán trực tiếp theo đơn đặt hàng đó theo các chứng từ gốc ( hay bảng
phân bổ chi phí ). Đối với chi phí sản xuất chung, sau khi tập hợp xong sẽ
phân bổ cho từng đơn theo tiêu chuẩn phù hợp ( giờ công sản xuất, nhân công
trực tiếp … ).
Việc tính giá thành ở trong các doanh nghiệp này chỉ tiến hành
khi đơn đặt hàng hoàn thành nên kỳ tính giá thành thường không nhất trí với
kỳ báo cáo. Đối với những đơn đặt hàng đến kỳ báo cáo chưa hoàn thành thì
toàn bộ chi phí đã tập hợp theo đơn đó đều coi là sản phẩm dở dang cuối kỳ

chuyển kỳ sau. Đối với những đơn đặt hàng hoàn thành thì tổng chi phí đã tập
hợp được theo đơn đó chính là tổng giá thành sản phẩm của đơn và giá thành
đơn vị sẽ tính bằng cách lấy tổng giá thành sản phẩm của đơn chia cho số
lượng sản phẩm trong đơn.
15
Tuy nhiên, trong một số trường hợp cần thiết, theo yêu cầu công tác
quản lý cần xác định khối lượng công việc hoàn thành trong kỳ thì đối với
nhưng đơn đặt hàng chỉ mới hoàn thành một phần, việc xác định sản phẩm dở
dang của đơn đó có thể dựa vào giá thành kế hoạch ( hay định mức ) hoặc
theo mức độ hoàn thành của đơn.
1.2.4.3. Doanh nghiệp có tổ chức bộ phận sản xuất – kinh doanh phụ:
Sản xuất phụ là ngành được tổ chức ra để phục vụ cho sản xuất kinh
doanh. Sản phẩm, lao vụ của sản xuất kinh doanh phụ được sử dụng phục vụ
cho các nhu cầu sản xuất kinh doanh chính, phần còn lại có thể cung cấp cho
bên ngoài.
Phương pháp tính giá thành sản phẩm, lao vụ của sản xuất kinh doanh
phụ tùy thuộc vào đặc điểm công nghệ và mối quan hệ giữa các bộ phận sản
xuất phụ trong doanh nghiệp, cụ thể :
 Trường hợp không có sự phục vụ lẫn nhau giữa các bộ phận sản xuất,
kinh doanh phụ hoặc giá trị và khối lượng phục vụ không đáng kể:
chi phí sản xuất sẽ được tập hợp riêng theo từng bộ phận, từng hoạt
động sản xuất kinh doanh phụ. Giá thành sản phẩm, lao vụ của từng
bộ phận sẽ được tính theo phương pháp trực tiếp.
 Trường hợp có sự phục vụ lẫn nhau đáng kể giữa các bộ phận sản
xuất kinh doanh phụ: với các doanh nghiệp có tổ chức nhiều bộ phận
sản xuất phụ và giữa chúng có sự phục vụ lẫn nhau thì có thể áp dụng
các phương pháp khác tính giá thành sau đây :
• Phương pháp đại số : là phương pháp xây dựng và giải các phương
trình đại số để tính giá thành sản phẩm, lao vụ của sản xuất kinh
doanh phụ phục vụ các đối tượng.

• Phương pháp phân bổ lẫn nhau theo giá thành ban đầu : theo
phương pháp này, trước hết tính giá thành đơn vị ban đầu của từng bộ
16
phận sản xuất kinh doanh phụ và xác định giá trị phục vụ lẫn nhau
giữa chúng.
• Phương pháp phân bổ lẫn nhau theo giá thành kế hoạch: trình tự
tính giá thành tương tự như phương pháp trên, chỉ khác thay giá thành
đơn vị ban dầu bằng giá thành đơn vị kế hoạch để tính giá trị phục vụ
lẫn nhau giữa các phân xưởng sản xuất kinh doanh phụ. Tiếp theo xác
định giá trị phục vụ cho các đối tượng khác theo giá thành đơn vị
mới.
1.2.4.4. Doanh nghiệp áp dụng hệ thống hạch toán định mức:
Trên cơ sở hệ thống định mức tiêu hao lao động, vật tư hiện hành và dự
toán về chi phí sản xuất chung, kế toán sẽ xác định giá thành định mức của
từng loại sản phẩm. Đồng thời, hạch toán riêng các thay đổi, cá chênh lệch so
với định mức phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm và phân tích toàn
bộ chi phí thực tế phát sinh trong kỳ thành ba loại : theo định mức, chênh lệch
do thay đổi định mức và chênh lệch so với định mức. Từ đó, tiến hành xác
định giá thành thực tế của sản phẩm bằng cách:
Giá thành
thực
tế sản phẩm
=
Giá trị định
mức sản
phẩm
±
Chênh lệch do
thay đổi định
mức

±
Chênh lệch so
với định mức
Việc tính toán giá thành định mức được tiến hành trên cơ sở đinh mức
tiên tiến hiện hành ngày đầu kỳ ( thường là ngày đầu tháng ). Tùy theo tính
chất quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm và đặc điểm sản phẩm mà áp
dụng các phương pháp tính giá thành định mức khác nhau ( theo sản phẩm
hoàn thành,theo chi tiết, bộ phận sản phẩm ) rồi tổng hợp lại. Việc thay đổi
định mức được tiến hành vào ngày đầu tháng để thuận lợi cho việc thực hiện
định mức cũng như kiểm tra việc thi hành định mức. Trường hợp thay đổi
định mức diễn ra vào ngày giữa tháng thì đầu tháng sau mới phải điều chỉnh
17

×