Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Hoàn thiện kế toán bán hàng và xác định kết quả tiêu thụ tại công ty Tiên Du

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.32 KB, 77 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong điều kiện kinh tế hiện nay, với mọi doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh dù là doanh nghiệp nhà nước, tư nhân hay liên doanh thì lợi nhuận
luôn là một chỉ tiêu quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp. Tuy nhiên muốn
đạt được lợi nhuận, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải có những quyết định
sáng suốt trong sản xuất kinh doanh. Khi có nền kinh tế sản xuất hàng hoá
ra đời cùng với sự xuất hiện các quy luật trong đó quy luật cung - cầu, quy
luật giá trị và quy luật cạnh tranh. Chính vì vậy mỗi doanh nghiệp khi bước
vào sản xuất kinh doanh đều phải tự mình tìm ra những đáp án trả lời một
cách hữu hiệu nhất, đó là:
Sản xuất - kinh doanh là gì?
Sản xuất - kinh doanh cho ai?
Sản xuất - kinh doanh như thế nào?
Chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết và quản lý vĩ mô
của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp có điều
kiện để phát triển, trong đó hạch toán kế toán là một công cụ quản lý của
quá trình sản xuất kinh doanh từ các yếu tố chi phí đầu vào đến kết quả đầu
ra. đồng thời là nơi cung cấp những thông tin kịp thời chính xác cho nhà
quản lý.
Cũng như doanh nghiệp khác tồn tại trong nền kinh tế thị trường hiện
nay, công ty Tiên Du cũng là đơn vị sản xuất kinh doanh, do vậy cũng phải
hạch toán kinh tế lấy thu bù đắp chi phí sao cho có lãi.
Thực tế trong những năm vừa qua cho thấy với sự phát triển của vấn
đề kinh tế thị trường và sự cạnh tranh gay gắt, bên cạnh những doanh
nghiệp hoạt động hiệu quả, có không ít những doanh nghiệp hoạt động kém
hiệu quả, thu nhập không đủ bù đắp chi phí và có nguy cơ đứng trước sự
phá sản, giải thể.
1
Mọi doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng khác nhau thì cũng đều quan
tâm đến đầu ra của sản phẩm, hàng hoá làm sao cho phù hợp với thị hiếu
của người tiêu dùng, tạo ra kết quả thu về là cao nhất, đó mới là mục đích


cuối cùng của doanh nghiệp. Nhưng vấn đề là làm thế nào để đạt được hiệu
quả cao trong sản xuất kinh doanh.
Qua mỗi giai đoạn vận động vốn biến động cả về hình thái biểu hiện
lẫn quy mô tiêu thụ sản phẩm hàng hoá từ đó đánh giá được năng lực kinh
doanh của mỗi doanh nghiệp đồng thời là cơ sở để tích luỹ tái tạo sản xuất
kinh doanh, mở rộng tăng tốc độ luân chuyển vốn biểu thị kết quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Xuất phát từ sự cần thiết và tầm quan trọng cũng như yêu cầu đặt ra
với kế toán bán hàng và xác định kết quả tiêu thụ tại Công ty Tiên Du.
Được sự chỉ bảo hướng dẫn tận tình của thầy cô giáo khoa kế toán và đặc
biệt của cô giáo Kiều Thị Thu Hiền em đã đi vào nghiên cứu đề tài“Hoàn
thiện kế toán bán hàng và xác định kết quả tiêu thụ tại công ty Tiên Du”.
Nội dung của đề tài ngoài lời nói đầu và kết luận gồm 3 phần:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về kế toán bán hàng và xác định kết
quả tiêu thụ trong doanh nghiệp thương mại.
Chương 2: Thực trạng kế toán bán hàng và xác định kết quả tiêu thụ
tại công ty Tiên Du.
Chương 3: Hoàn thiện kế toán bán hàng và xác định kết quả tiêu thụ
tại công ty Tiên Du.
2
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN BÁN HÀNG
VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP THƯƠNG MẠI.
1.1: Những vấn đề cơ bản về kế toán bán hàng và xác định kết quả tiêu
thụ trong các doanh nghiệp thương mại.
Hoạt động thương mại hay kinh doanh hàng hoá là quá trình trao đổi hàng
hoá thông qua mua bán trên thị trường. Xét thực chất đó là quá trình trao
đổi hàng hoá của nền kinh tế xã hội.
Sự hình thành hoạt động kinh doanh hàng hoá là tất yếu do quá trình
phân công lao động xã hội và lợi thế so sánh giữa các vùng, các doanh

nghiệp, các quốc gia với nhau. Phân công lao động là sự định ra sự cần
thiết nhằm vừa làm thoả mãn nhu cầu lẫn nhau, vừa khai thác lợi thế so
sánh lẫn tái đầu tư, tái sản suất (sức lao động và các sản phẩm khác).
Thương mại có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân thể hiện ở
chỗ:
- Trước hết nó là một bộ phận hợp thành của tái sản xuất. Thương mại
nối liền giữa sản xuất và tiêu dùng. Dòng vận động của sản phẩm hàng hoá
qua khâu thương mại để hoặc tiếp tục cho sản xuất hoặc đi vào tiêu dùng cá
nhân. Ở vị trí cấu thành của tái sản xuất xã hội thương mại được coi như hệ
thống dẫn lưu bảo đảm tính liên tục của quá trình tái sản xuất. Khâu này bị
ách tắc sẽ dẫn đến sự khủng hoảng của sản xuất và tiêu dùng.
- Thương mại là một phần của sản xuất hàng hoá, sản phẩm hàng hoá
có mục đích là thoả mãn nhu cầu của người khác để trao đổi, mua bán,.
hoạt động thương mại gắn liền với hoạt động sản xuất hàng hoá.
Thương mại là lĩnh vực kinh doanh cũng thu hút trí lực và tiền của
nhà đầu tư đưa lại lợi nhuận. Kinh doanh thương mại có những đặc thù của
nó: Đó là quy luật hàng hoá vận động từ nơi có giá trị thấp đến nơi có giá
trị cao, quy luật mua rẻ bán đắt, quy luật của người có hàng hoá bán cho
3
người cần (quy luật cung-cầu). Bỏ tiền mua hàng hoá, sau đó bán lại cũng
có thu được lợi nhuận thậm chí siêu lợi nhuận. Vì vậy kinh doanh thương
mại cũng trở thành ngành sản xuất vật chất thứ hai.
Ở tầm vĩ mô thương mại là điều kiện tiền đề để thúc đẩy sản xuất
hàng hoá cùng các mối quan hệ hàng hoá tiền tệ. Qua hoạt động mua bán
tạo ra động lực kích thích những người sản xuất, thúc đẩy phân công lao
động, tổ chức lại sản xuất, hình thành các vùng chuyên môn hoá sản xuất
các hàng hoá lớn.
Thương mại kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, người sản
xuất sẽ tìm đủ mọi cách để cải tiến công tác, áp dụng khoa học và công
nghệ mới, giảm thiểu chi phí để thu được lợi nhuận. Đồng thời cạnh tranh

trong thương mại bắt buộc người sản xuất phải năng động, không ngừng
nâng cao tay nghề, chuyên môn hoá và tính toán, thực chất hoạt động kinh
doanh tiết kiệm các nguồn lực và nâng cao năng suất đem lại lợi nhuận cao
nhất. Đó là những nhân tố tác động làm cho lực lượng sản xuất phát triển.
Thương mại luôn kích thích nhu cầu và tạo ta nhu cầu mới. Thương
mại một mặt làm cho nhu cầu trên thị trường sát thực với nhu cầu thực tế
hơn, mặt khác nó còn làm bộ lộ tính đa dạng phong phú của nhu cầu trong
kinh doanh thương mại. Từ đó đã buộc các nhà sản xuất phải sản xuất đa
dạng về loại hình sản phẩm, kiểu dáng mẫu mã, chất lượng sản phẩm. Điều
này đã tác động ngược lại người tiêu dùng làm nổi bật những nhu cầu tiềm
tàng trong thương mại. Tóm lại thương mại làm tăng trưởng nhu cầu và đó
là gốc rễ của sự phát triển sản xuất kinh doanh. Thông qua phát triển
của hoạt động thương mại làm cho nền kinh tế trong nước gắn liền với kinh
tế thế giới thực hiện chính sách kinh tế mở, góp phần mở rộng và phát triển
quan hệ quốc tế.
Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung với nét đặc trưng nổi bật là từ sản
xuất tới tiêu thụ sản phẩm hoàn toàn do nhà nước quyết định, các doanh
nghiệp không cần quan tâm tới sản phẩm của mính có được thị trường chấp
4
nhận tiêu dùng hay không mà chỉ quan tâm tới việc sản xuất cái sẵn có.
Theo chỉ tiêu kế hoạch nhà nước giao cho, doanh nghiệp không quan tâm
tới hiệu quả sản xuất kinh doanh được hay mất lỗ hay lãi đã có nhà nước
chịu.
Chính vì cơ chế quản lý như vậy nên các doanh nghiệp thường ỷ lại
trông chờ vào nhà nước làm mất đi tính tự chủ nhạy bén trong việc sản xuất
cung cấp sản phẩm-hàng hóa ra thị trường. đối với các doanh nghiệp
thương mại thì họ thực hiện nhiệm vụ mua bán lưu thông hàng hoá theo
yêu cầu của nhà nước. Nhà nước độc quyền trong việc phân phối hàng hoá
thông qua các doanh nghiệp thương mại do nhà nước làm chủ, điều này đã
gây nên sự hạn chế, mất cân đối giữa cung và cầu trên thị trường dẫn đến

nền kinh tế bị trì trệ, kìm hãm lún sâu vào sự khủng hoảngs. Chính sách
kinh tế mới của nhà nước đã tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi song
cũng chứa đầy những khó khăn thử thách đòi hỏi những doanh nghiệp
thương mại phải có cái nhìn toàn diện trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của mình. Các doanh nghiệp phải hoạt động với phương châm hạch toán
kinh doanh được ăn lỗ chịu và tự chịu trách nhiệm trước nhà nước và pháp
luật về hoạt động của mình. Vì vậy mỗi doanh nghiệp đều phải năng động
nhạy bén thích nghi với môi trường kinh doanh mới với mục tiêu hướng
tới là thị trường, thị trường là sản xuất và phát triển, là đích để các doanh
nghiệp chinh phục và khai thác. Để đạt được điều đó các doanh nghiệp phải
làm tốt công tác bán hàng, tiếp cận thị trường để tiêu thụ sản phẩm. Đối với
các doanh nghiệp thương mại thì hoạt động bán hàng cực kỳ quan trọng.
Trong doanh nghiệp thương mại bán hàng là hoạt động chủ yếu cuối cùng
và quan trọng nhất, nó giúp cho vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhanh
chóng chuyển từ hình thái hàng hoá sang hình thái tiền tệ và là cơ sở để xác
định kết quả kinh doanh sau này.
Đối với bản thân các doanh nghiệp: thực hiện tốt công tác bán hàng
giúp doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh làm cho tốc độ chu chuyển vốn lưu
5
động nhanh làm cho doanh nghiệp bớt số vốn huy động từ bên ngoài từ đó
giảm được chi phí về vốn. Doanh nghiệp có tiêu thụ được hàng hoá thì mới
có doanh thu để bù đắp các chi phí, thực hiện được nghĩa với nhà nước và
các đối tượng các có liên quan, cao hơn nưa là thực hiện nghĩa vụ thặng dư,
từ đó giúp các nhà quản trị lãnh đạo biết được tinh hình hoạt động của
doanh nghiệp mình và đưa ra các quyết định phù hợp. Trên góc độ toàn bộ
nền kinh tế quốc dân, doanh nghiệp đóng vai trò là một đơn vị kinh tế cơ
sở, sự lớn mạnh của doanh nghiệp góp phần ổn định và phát triển của toàn
bộ nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện mục tiêu chung của
quốc gia. Hàng hoá của doanh nghiệp thương mại được lưu thông trên thị
trường đồng nghĩa với việc xã hội thừa nhận kết quả lao động của doanh

nghiệp và hơn thế nữa doanh nghiệp đã khẳng định chỗ đứng của mình trên
thị trường. Mặt khác thực hiện được tốt quá trình bán hàng đã góp phần
điều hoà quá trình sản xuất tiêu dùng, giữa tiền hàng, giữa cung và cầu, là
điều kiện đảm bảo sự phát triển cân đối trong ngành cũng như toàn bộ nền
kinh tế quốc dân.
1.2: Các phương thức bán hàng.
1.2.1: Phương thức bán buôn.
Bán buôn là quá trình bán hàng cho các đơn vị thương mại, sản xuất để
tiếp tục các quá trình sản xuất hay chuyển bán. Như vậy đối tượng bán
buôn là rất đa dạng. Có thể là sản xuất, có thể là thương mại, có thể là trong
nước hay nước ngoài.
Đặc trưng của buôn bán là hàng hoá vẫn nằm trong lĩnh vực lưu thông,
bán hàng theo phương thức này thường bán với khối lượng lớn và có nhiều
hình thức để thanh toán.
1.2.2:Phương thức bán lẻ
Bán lẻ là giai đoạn cuối cùng của sự vận động hàng hoá từ nơi sản xuất
đến nơi tiêu dùng, hàng hoá bán lẻ chuyển sang lĩnh vực tiêu dùng, khi đó
giá trị hàng hoá đã được thực hiện, bán lẻ là giai đoạn cuối cùng.
6
1.2.3: Giao hàng cho các đại lý ký gửi hàng hoá
Giao hàng gửi đại lý chính thức là phương thức biến tướng của phương
thức bán buôn, chuyển hàng. Hàng ký gửi được coi là hàng “gửi bán” và
vẫn thuộc sở hữu của doanh nghiệp đến khi tiêu thụ. Căn cứ vào hợp đồng
đã ký kết, cán bộ phòng kinh doanh lập phiếu xuất kho hay biên bản bàn
giao hàng cho đại lý bán sẽ lập quyết toán và gửi cho doanh nghiệp về số
hàng đã bán, số tiền bán hàn trừ hoa hồng đại lý. Khi đó hàng đã được coi
là tiêu thụ và kết toán căn cứ vào biên bản giao hàng cho đại lý, quyết toán
đã lập để ghi sổ kế toán.
Phương thức bán hàng này giúp doanh nghiệp tiế cận và khoai thác thị
trường tốt, mở rộng phạm vi kinh doanh mà không phải đầu tư thêm vốn.

1.2.4: Bán hàng trả góp
Bán hàng trả góp là một biến tướng của phát triển bán hàng trả chậm khi
giao hàng cho người mua thì hàng được coi là tiêu thụ ngay và doanh
nghiệp bị mất quyền sở hữu hàng hoá đó. Doanh nghiệp lập hoá đơn bán
hàng và hợp đồng thanh toán để căn cứ giao hàng và nhận tiền lần đầu.
Phần còn lại người mua chấp nhận trả tiền ở kỳ tiếp theo nhưng không phải
chịu mức lãi suất nhất định. Phần lãi suất thu trên tiền hàng trả dần dùng để
bù đắp chi phí tăng trong phần thanh toán và dự phòng rủi ro có thể xảy ra.
Thông thường số tiền phải trả ở các kỳ là bằng nhau bao gồm một phần
doanh thu gốc và một phần lãi suất trả chậm. Phương thức này giúp doanh
nghiệp khai thác triệt để mọi thị trường tiềm năng. Ngoài ra còn có một
phương thức tiêu thụ khác như: biếu tặng, cho, thưởng... bằng hàng hoá.
7
1.3: Một số khái niệm liên quan đến bán hàng và xác định kết quả tiêu
thụ.
1.3.1: Khái niệm doanh thu bán và cung cấp dịch vụ và cách xác định
doanh thu?
Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là tổng giá trị các lợi ích
kinh tế doanh nghiệp thu được trong kỳ kế toán phát sinh từ các hoạtu động
sản xuất kinh doanh thông thường của doanh nghiệp góp phần làm tăng
vốn chủ sở hữu.
Theo quy định tại điểm 10,16,24 của chuẩn mực kế toán Việt Nam
số 14 vè doanh thu và thu nhập khác ban hành theo quyết định số
149/2001/QĐ-BTC ngày 31 tháng 12 năm 2001 của Bộ Tài Chính cũng
quy định hàng hoá hoặc dịch vụ được trao đổi để lấy hàng hoá hoặc dịch vụ
được trao đổi để lấy hàng hoá hoặc dịch vụ khác không tương tự thì việc
trao đổi đó được coi là một giao dịch tạo ra doanh thu. Trường hợp này
doanh thu được xác định bằng giá trị hợp lý của hàng hoá hoặc dịch vụ
nhận về, sau khi điều chỉnh các khoản tiền hoặc tương đương tiền trả thêm
hoặc thu thêm. Khi không xác định được giá trị hợp lý của hàng hoá hoặc

dịch vụ nhận về thì doanh thu được xác định bằng giá trị hợp lý của hàng
hoá hoặc dịch vụ đem trao đổi, sau khi điều chỉnh các khoản tiền hoặc
tương đương tiền trả nợ thêm hoặc thu thêm.
Chuẩn mực này cũng chỉ rõ, tiêu chuẩn nhận biết giao dịch tạo ra doanh
thu được áp dụng trong từng giao dịch. Trong một số trường hợp tiêu chuẩn
nhận biết giao dịch cần áp dụng tách biệt cho từng bộ phận của một giao
dịch đơn lẻ để phản ánh bản chất của giao dịch đó. Tiêu chuẩn nhận biết
giao dịch còn được áp dụng cho hai hay nhiều giao dịch đồng thời có quan
hệ với nhau về mặt thương mại. Trong trường hợp này phải xem xét chúng
trong mối quan hệ tổng thể.
Doanh thu bán hàng được ghi nhận đồng thời thoả mãn tất cả 5 điều kiện
sau:
8
- Doanh nghiệp đã chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với
quyền hoặc hàng hoá cho người mua.
- Doanh nghiệp không còn nắm giữa quyền quản lý hàng hoá như người
sở hữu hàng hoá hoặc quyền kiểm soát hàng hoá.
- Doanh nghiệp được xác định tương đối chắc chắn.
- Doanh nghiệp đã thu được hoặc sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch
bán hàng.
- Xác định được chi phí liên quan đến giao dịch bán hàng.
Thời điểm chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở
hữu hàng hoá cho người mua trong từng trường hợp cụ thể. Trong hầu hết
các trường hợp, thời điểm chuyển giao phần lớn rủi ro với quyền sở hữu thì
doanh nghiệp không được coi là hoạt động bán hàng và doanh thu không
được ghi nhận. Doanh nghiệp còn phải chịu rủi ro gắn liền với quền sở hữu
hàng hoá dưới nhiều hình thức khác nhau như:
- Doanh nghiệp còn phải chịu trách nhiệm để đảm bảo cho tài sản được
hoạt động bình thường mà điều này không nằm trong các điều khoản bảo
hành thông thường.

- Khi việc thanh toán tiền bán hàng còn chưa chắc chắn vì phụ thuộc vào
người mua hàng đó.
- Khi hàng hoá được giao còn chờ lắp đặt và việc lắp đặt là một phần
quan trọng của hợp đồng mà doanh nghiệp chưa hoàn thành.
- Khi người mua có quyền huỷ bỏ việc mua hàng vì một lý do nào đó
được nêu trong hợp đồng mua bán và doanh nghiệp chưa chắc chắn về khả
năng bán hàng đó bị trả lại hay không.
Nếu doanh nghiệp chỉ còn chịu một phần nhỏ rủi ro gắn liền với quyền
sở hữu hàng hoá thì việc bán hàng được xác định và doanh thu được ghi
nhận.
Đối với việc giao dịch và cung cấp dịch vụ doanh thu được ghi nhận khi
kết quả của giao dịch đó được xác định một cách đáng tin cậy. Trong
9
trường hợp giao dịch về cung cấp dịch vụ liên quan đến nhiều kỳ thì doanh
thu được ghi nhận trong kỳ theo kết quả phân công việc đã hoàn thành vào
ngày lập bảng cân đối kế toán của kỳ đó. Kết quả của giao dịch cung cấp
dịch vụ được thoả mãn 4 điều kiện sau:
- Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn.
- Có khả năng thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch cung cấp dịch vụ
đó.
- Xác định được phần công việc đã hoàn thành vào ngày lập bảng cân
đối kế toán.
- Xác định được chi phí phá sinh cho giao dịch và chi phí để hoàn
thành giao dịch cung cấp dịch vụ đó.
Doanh nghiệp có thể ước tính doanh thu cung cấp dịch vụ khi thoả thuận
được với bên đối tác giao dịch những điều kiện sau;
- Trách nhiệm và quyền của mỗi bên trong việc cung cấp hoặc nhận
dịch vụ.
- Giá thanh toán.
- Thời hạn và phương thức thanh toán.

Để ước tính doanh thu cung cấp dịch vụ, doanh nghiệp phải có hệ thống
kế hoạch tài chính và kế toán phù hợp. Khi cần thiết, doanh nghiệp có
quyền xem xét và sửa đổi cách tính doanh thu trong quá trình cung cấp dịch
vụ. Phần công việc đã hoàn thành được xác định theo ba phương pháp sau
tuỳ thuộc vào bản chất của dịch vụ:
- Đánh giá phần công việc đã hoàn thành.
- So sánh tỷ lệ % giữa khối lượng công việc đã hoàn thành với tổng
công việc phải hoàn thành.
- Tỷ lệ % chi phí phát sinh so với tổng chi phí để hoàn thành toàn bộ
giao dịch cung cấp dịch vụ.
10
Cần chú ý rằng, doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ được ghi nhận
chỉ khi đảm bảo doanh nghiệp đạt được lợi ích kinh tế từ giao dịch bán
hàng hay cung cấp dịch vụ còn phụ thuộc vào yếu tố không chắc chắn này
đã xử lý xong. Nếu doanh thu đã được ghi nhận trong trường hợp chưa thu
được tiền thì khi xác định khoản tiền nợ thu này là không thu được thì phải
thanh toán vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ và không được ghi
giảm doanh thu. Khi xác định khoản phải thu là không chắc chắn thu được
thì phải lập dự phòng nợ phải thu khó đòi mà không ghi giảm doanh thu.
Các khoản nợ phải thu khó đòi khi xác định thật sự là không đòi được thì
được bù đắp bằng nguồn dự phòng nợ phải thu khó đòi.
Doanh thu và chi phí liên quan đến cùng một giao dịch phải được ghi
nhận đồng thời theo nguyên tắc phù hợp. Các chi phí bao gồm cả chi phí
phát sinh sau ngày giao hàng như chi phí bảo hành và chi phí khác thường
được xác định chắc chắn khi các điều kiện ghi nhận doanh thu được thoả
mãn. Các khoản tiền nhận trước của khách hàng không được ghi nhận là
doanh thu mà phải ghi nhận là khoản nợ tại thời điểm nhận tiền trước của
khách hàng. Khoản nợ phải trở về số tiền phải nhận trước của khách hàng
chỉ được ghi nhận là khoản doanh thu khi đồng thời thoả mãn các điều kiện
ghi nhận về ghi nhận doanh thu. Khi kết quả của một giao dịch hoặc cung

cấp dịch vụ không được chắc chắn thì doanh thu được ghi nhận tương ứng
với chi phí đã được ghi nhận và có thể thu hồi. Trong giai đoạn đầu về một
giao dịch về cung cấp dịch vụ khi chưa xác định được kết quả một cách
chắc chắn thì doanh thu được ghi nhận bằng chi phí đã ghi nhận và có thể
thu hồi được. Nếu chi phí liên quan đến dịch vụ đó chắc chắn không thu
hồi được thì không ghi nhận doanh thu, và chi phí đã phát sinh được hạch
toán vào chi phí các chi phí sẽ phát sinh thì doanh thu sẽ được ghi nhận.
1.3.2: Các khoản giảm trừ doanh thu
11
Hàng bán bị trả lại: Là số sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ lao vụ đã tiêu
thụ bị khách hàng trả lại do các nguyên nhân như vi phạm hợp đồng kinh
tê, hàng bị mất, kém phẩm chất không đúng chủng loại, quy cách.
Giảm giá hàng bán :là khoản tiền được người bán chấp nhận một cách
đặc biệt trên giá đã thỏa thuận vì lý do thuộc lỗi của người bán hàng kém
phẩm chất hay không đúng quy cách ghi trong hợp đồng kinh tế.
Chiết khấu thương mại: là khoản tiền người mua được hưởng do mua
hàng hóa, sản phẩm với số lượng nhiều hay thường xuyên sử dụng nhiều
dịch vụ lao vụ của đơn vị.
1.3.3: Doanh thu thuần (DTT): là số chênh lệch giữa doanh thu bán hàng
với các khoản giảm giá hàng bán, chiết khấu thương mại, doanh thu của số
hàng bán trả lại,thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế GTTT theo
phương pháp trực tiếp.
DTT =
DT bán
hàng -
Chiết khấu
TM -
Giảm giá
hàng bán -
Hàng bán

trả lại -
Thuế
TTĐB,XNK,GTGT
1.3.4: Giá vốn hàng bán và các phương pháp tính giá vốn.
Giá vốn hàng bán: có thể là giá thành công xưởng thực tế của sản phẩm
xuất bán hay giá thành thực tế của lao vụ, dịch vụ cung cấp hoặc giá mua
thực tế của hàng hóa tiêu thụ.
Trong doanh nghiệp giá vốn được xác định để làm căn cứ ghi sổ dựa trên
quy định theo từng đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp.
Các phương pháp tính giá vốn: Để cho việc giá vốn hàng hoá vừa đảm
bảo độ chính xác, tin cậy, vừa tiết kiệm chi phí, lại phù hợp với tình hình
sản xuất kinh doanh của hàng xuất bán trong kỳ theo các cách sau:
- Tính theo đơn giá thực tế từng loại hàng hoá theo từng lần nhập (giá
đích danh). Phương pháp này thích hợp với những doanh nghiệp có điều
12
kiện bảo quản riêng từng lô hàng nhập, vì vậy khi xuất lô hàng nào thì sẽ
tính giá đích danh của lô hàng đó.
- Tính giá thực tế bình quân gia quyền
Giá đơn vị bình
quân
=
Trị giá thực
tế tồn đầu kỳ
+
Trị giá thực tế
nhập trong kỳ
Số lượng tồn
đầu kỳ
+
Số lượng nhập

trong kỳ
Trong đó:
Trị giá mua
thực tế xuất
dùng
=
Số lượng hàng
xuất bán
x
Giá đơn vị
bình quân
Phương pháp này thích hợp với các doanh nghiệp có ít danh điểm
hàng hoá, tần suất nhập bán.
- Tính theo giá thực tế nhập trước xuất trước (FIFO): theo phương pháp
này trước hết phải xác định được đơn giá mua thực tế nhập kho của từng
lần nhập và giả thiết hàng nào nhập kho trước thì xuất kho trước. Sau đó
căn cứ vào số lượng hàng xuất kho để tính ra trị giá mua thực tế của hàng
xuất kho theo nguyên tắc: Tính theo đơn giá mua thực tế nhập trước đối
với lượng xuất kho thuộc lần nhập trước, số còn lại được tính theo đơn giá
thực tế lần nhập tiếp ngay sau.
Trị giá
hàng thực
tế xuất kho
=
Trị giá hàng nhập
kho theo từng lần
nhập
X
Số lượng hàng hoá
xuất kho trong kỳ theo số

lượng lần nhập
Phương pháp này thích hợp với những mặt hàng có giá cả thường xuyên
biến động, cách tính như vậy đảm bảo tính kịp thời, sát với thưc tế vận
động của hàng hoá và giá cả, từng thời kỳ nhưng khối lượng công việc ghi
13
sổ và tính toán các đơn vị khó đáp ứng được điều kiện áp dụng phương
pháp này.
- Tính theo giá nhập sau - xuất trước (LIFO): Phương pháp này cũng đòi
hỏi việc xác định được đơn giá mua thực tế của từng lần nhập và cũng giả
thiết hàng nào nhập kho sau thì được xuất kho trước. Sau đó căn cứ vào số
lượng xuất kho tính ta giá trị thực tế của lần nhập sau cùng hiện có trong
kho đối với hàng xuất kho thuộc lần nhập sau cùng, số còn lại được tính
theo đơn giá mua thực tế của lần nhập trước đó.
- Phương pháp giá thanh toán: Theo phương pháp này giá thực tế vật tư
hàng hoá xuất kho được tính vào cuối kỳ nhưng tính qua giá hạch toán. Giá
hạch toán là loại giá ổn định nào đó trong kỳ (có thể là giá kế hoạch, có thể
là giá thực tế kỳ trước) được dùng để ghi sổ kế toán chi tiết trong khi chưa
tính được giá thực tế nhưng đến cuối kỳ khi ghi sổ kế toán tổng hợp điều
chỉnh từ giá hạch toán sang giá thực tế.
Giá thực tế vật tư = Giá hạch toán của vật tư * Hệ số giá
hàng hoá xuất kho hàng hoá xuất kho
Giá thực tế tồn tại + Giá thực tế vật tư hàng hoá

đầu kỳ nhập trong kỳ
Hệ số giá =
Giá hạch toán tồn + Giá hạch toán của vật tư hàng
tại đầu kỳ hoá nhập trong kỳ
1.3.5: Lợi nhuận gộp: Là chênh lệch giữa doanh thu thuần với giá vốn
hàng bán.
Lợi nhuận gộp = Doanh thu thuần - giá vốn

1.3.6: Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp:
1.3.6.1: Chi phí bán hàng (CPBH).
14
Chi phí bán hàng là những khoản chi phí phát sinh có liên quan đến hoạt
động tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ trong kỳ.
Trong quá trình bán hàng doanh nghiệp phải bỏ ra các khoản chi phí bắt
buộc như: Chi phí bao gói sản phẩm, bảo quản hàng hoá, chi phí vận
chuyển, chi phí quảng cáo, tiếp thị…các chi phí đó được gọi chung là chi
phí bán hàng. Theo quy định hiện hành, CPBH của doanh nghiệp được chia
thành các loại sau: CP nhân viên, CP vật liệu, CP công cụ đồ dùng, CP
khấu hao tài sản cố định, CP bảo hành, CP dịch vụ mua ngoài và các chi
phí bằng tiền khác.
Toàn bộ chi phí bán hàng phát sinh trong kỳ đã được tập hợp đến cuối kỳ
thực hiện kết chuyển hoặc phân bổ để xác định kết quả kinh doanh.
1.3.6.2 : Chi ph í quản lý doanh nghiệp (CPQLDN):
Chi phí quản lý doanh nghiệp là những khoản chi phí có liên quan chung
đến toàn bộ hoạt động của cả doanh nghiệp mà không tách riêng ra được
cho bất cứ một hoạt động nào.
Theo quy định hiện hành CPQLDN chia thành các loại sau: CP nhân
viên quản lý, CP vật liệu quản lý,CP đồ dùng văn phòng, CP khấu hao tài
sản cố định, thuế, phí và lệ phí, CP dịch vụ mua ngoài và chi phí bằng tiền
khác.
Hoạt động quản lý doanh nghiệp liên quan đến mọi hoạt động trong
doanh nghiệp, do vậy cuối kỳ cần được tính toán phân bổ, kết chuyển để
xác định kết quả kinh doanh.
1.3. 7: Kết quả tiêu thụ :
Kết quả tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, lao vụ trong doanh nghiệp
chính là kết quả của hoạt động tiêu thụ mà doanh nghiệp tiến hành trong
kỳ, kết quả đó được tính bằng cách so sánh giữa một bên là doanh thu
thuần với một bên là giá vốn hàng tiêu thụ và chi phí bán hàng, chi phí

quản lý doanh nghiệp và được biểu hiện qua chỉ tiêu lợi nhuận (hoặc lỗ) về
tiêu thụ
15
1.4 : Vai trò và nhiệm vụ của kê toán bán hàng và xác đinh kêt quả tiêu thụ :
1.4.1 : Vai tr ò của kế toán bán hàng và xác định kết quả tiêu thụ :
Việc chuyển hoá nền kinh tế nước ta từ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường là một xu thế tất yếu,
bao gồm việc mở rộng quan hệ hàng hoá tiền tệ và quan hệ thị trường.
Trong sự chuyển hoá này ngành thương mại sẽ phải phát triển mạnh để mở
rộng các quan hệ mua bán, mở rộng giao lưu buôn bán hàng hoá phục vụ
và hướng dẫn tiêu dùng góp phần tích cực vào việc thúc đẩy nâng cao chất
lượng hàng hoá, đáp ứng nhu cầu vật chất tinh thần ngày càng tăng của mọi
tầng lớp trong xã hội, thực hiện vai trò là cầu nối giữa sản xuất và tiêu
dùng. Kế toán có vai trò quan trọng trong hệ thống quản lý kinh doanh. Vai
trò được xác định xuất phát từ hoạt động thực tế khách quan, hoạt động sản
xuất kinh doanh và bản chất của kế toán. Để quản lý hiệu quả các sản xuất
kinh doanh và sử dụng vốn, sử dụng các khoản kinh phí ở các doanh
nghiệp. Các nhà quản lý doanh nghiệp cần biết những thông tin chính xác
về hoạt động kinh doanh của đơn vị mình. Chính công tác kế toán trong
đơn vị sẽ thu thập một cách hệ thống chính xác kịp thời và đầy đủ khoa học
những thông tin đó, đồng thời thực hiện kiểm tra xử lý phân tích các thông
tin thu thập được cung cấp cho công tác quản lý doanh nghiệp. Có thể nói
kế toán như một phần hệ thống thông tin kinh tế quan trọng cấu thành hệ
thống thông tin kinh tế của đơn vị. Chính vì vậy mà hạch toán được khẳng
định một cách khách quan là công cụ quan trọng phục vụ công tác điều
hành và sản xuất kinh doanh. Sử dụng vốn đồng thời là nguồn thông tin tin
cậy cho nhà nước trong việc điều hành vĩ mô nền kinh tế thực hiện việc
kiểm tra giám sát hoạt động của các ngành, các lĩnh vực. Vì vậy đổi mới và
hoàn thiện không ngừng công tác kế toán thích ứng với yêu cầu quản lý
trong cơ chế thị trường thực sự là một yêu cầu bức xúc.

Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần với xu thế quốc tế hoá
thương mại, khi Việt Nam ngày mở rộng quan hệ với nhiều quốc gia, các
16
tập đoàn kinh tế các khu kinh tế trên thế giới, gia nhập tổ chức thương mại
thế giới WTO thì việc nâng cao trình độ quản lý kinh tế là một việc hết sức
quan trọng, trong đó có việc không ngừng hoàn thiệt công tác kế toán. Hệ
thống kế toán mang đặc trưng của cơ chế kế hoạch hoá tập trung được thay
thế bằng hệ thống kế toán mới thích ứng với cơ chế thị trường, đây là thành
tựu đáng kể của công tác kế toán ở Việt Nam trong thời gian qua. Tuy
nhiên trong nền kinh tế nước ta còn đang ở trong giai đoạn chuyển đổi,
bước đầu hội nhập nền kinh tế thế giới.Các chính sách kinh tế tài chính
trong đó có hệ thống kế toán tất yếu đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới và hoàn
thiện.
Đối với doanh nghiệp hoạt động tiêu thụ hàng hoá là khâu cuối cùng kết
thúc quá trình kinh doanh của đơn vị. Thực hiện tiêu thụ hàng hoá đơn vị sẽ
thu về từ người mua một lượng tiền nhất định theo giá bán để tiếp tục kinh
doanh bù đắp chi phí, hình thành khoản lợi nhuận cho đơn vị đồng thời
thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước. Trong cơ chế thị trường mục đích
của doanh nghiệp là lợi nhuận, do vậy mà tiêu thụ càng đóng một vai trò
quan trọng. Nếu tổ chức tiêu thụ nhanh sẽ làm giảm thời gian hàng hoá
nằm trong kho, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng vòng quay sử
dụng vốn, giảm chi phí bảo quản, chi phí lãi vay.
Từ đó chúng ta nhận ra rằng kế toán nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá trong
toàn bộ công tác kế toán của một doanh nghiệp có vai trò hết sức quan
trọng. Nhưng thực trạng của kế toán tiêu thụ hàng hóa của các doanh
nghiệp hiện nay ở nước ta hầu hết chưa thể hiện được nhiệm vụ cũng như
vai trò quan trọng của mình trong quan hệ sản xuất kinh doanh. Nói chung
công tác kế toán nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá còn rất thụ động và chưa có
sự tác động tích cực đối với quá trình tiêu thụ hàng hoá. Như vậy kết quả
tiêu thụ hàng hoá là điều kiện quyết định đến sự tồn tại, phát triển hay suy

thái của một doanh nghiệp. Vì vậy hoàn thiện quá trình kế toán tiêu thụ là
một vấn đề cần thiết và có ý nghĩa.
17
1.4.2: Nhi ệm vụ của kế toán bán hàng và xác định kế quả tiêu thụ :
Tiêu thụ hàng hoá có ý nghĩa sống còn đối với doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh. Chính vì lẽ đó mà kế toán nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá có vai
trò đặc biệt quan trọng trong công tác quản lý và tiêu thụ hàng hoá.
Thông qua các thông tin về kế toán mà người điều hành doanh nghiệp có
thể biết được mức độ hoàn thành tiêu thụ, phát hiện kịp thời sai sót ở từng
khâu trong quá trình lập và thực hiện quá trình mua, tiêu thụ và dự trữ hàng
hoá. Từ đó có biện pháp cụ thể phù hợp để đạt hiệu quả kinh doanh cao.
Đối với nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá, kế toán có nhiệm vụ cung cấp tài
liệu về quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hóa giúp cho việc đánh giá chất
lượng toàn bộ hoạt động kinh doanh của đơn vị, cụ thể kế toán tiêu thụ cần
thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Phản ánh giám sát thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch tiêu thụ hàng hoá:
mức bán ra, doanh thu ban hàng về thời gian và địa điểm theo tổng số, theo
nhóm hàng. Quan trọng nhất là chỉ tiêu lãi thuần về hoạt động sản xuất
kinh doanh.
- Phản ánh đầy đủ kịp thời và chi tiết hàng bán ở tất cả các trạng thái:
hàng đi đường, hàng trong kho, trong quầy... nhằm đảm bảo hàng hoá ở tất
cả hai chỉ tiêu hiện vật và giá trị.
- Phản ánh tình hình giám đốc thực hiện kết quả tiêu thụ, cung cấp số
liệu lập quyết toán đầy đủ, kịp thời để phản ánh hiệu quả sản xuất kinh
doanh cũng như nghĩa vụ với nhà nước.
- Phản ánh và kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ
sản phẩm, kế hoạch bán hàng về số lượng, chất lượng, chủng loại giá cả,
thời hạn giám đốc sự an toàn của hàng hoá cho đến khi người mua được
hàng.
- Kiểm tra chặt chẽ các chứng từ bán hàng nhằm xác định đúng đắn và

kịp thời doanh thu bán hàng, kiểm tra giám sát quá trình thanh toán tiền
18
hàng của khách hàng. Với nghiệp vụ tiêu thụ bán lẻ kế toán còn có nhiệm
vụ kiểm tra việc đảm bảo an toàn của hàng hoá của đơn vị.
- Kiểm tra việc nộp tiền bán hàng đủ và kịp thời cả về số lượng lẫn chất
lượng.
- Xác định đúng thời điểm hàng hoá được coi là tiêu thụ để kịp thời lập
báo cáo bán hàng và phản ánh doanh thu, báo cáo thường xuyên, kịp thời
tình hình bán hàng và thanh toán với khách hàng chi tiết theo từng loại,
từng hợp đồng kinh tế nhằm giám sát chặt chẽ cả về số lượng, chất lượng,
thời gian.
- Tổ chức hệ thống chứng từ ban đầu và chình tự luân chuyển chứng từ,
chánh chùng lặp, bỏ sót không quá phức tạp mà vẫn đảm bảo yêu cầu của
quản lý, nâng cao hiệu quả công tác kế toán. Doanh nghiệp lựa chọn hình
thức nhật ký sổ kế toán phù hợp để phát huy ưu điểm của chúng và phù hợp
với đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu quản lý, đơn
giản, tiết kiệm.
- Xác định đúng và tập hợp đầy đủ giá vốn hàng bán và chi phí bán hàng
phát sinh trong quá trình tiêu thụ hàng hoá cũng như chi phí về quản lý
doanh nghiệp. Xác định đúng đắn chính xác kết quả tiêu thụ và thu nhập
của đơn vị trên cơ sở đó có những biện pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện
hoạt động sản xuất kinh doanh, giúp cho Ban lãnh đạo của đơn vị nắm
được thực trạng tình hình tiêu thụ hàng hoá của mình mà kịp thời có những
chính sách thích hợp với thị trường.
1.5: Kế toán bán hàng và xác định KQTT trong các doanh nghiệp:
1.5.1: Chứng từ sử dụng:
Trong quá trình bán hàng các doanh nghiệp phải sử dụng nhiều loại
chứng từ kế toán khác nhau. Mỗi doanh nghiệp thì có các chứng từ khác
nhau để phù hợp với hoạt động kinh doanh của đơn vị mình
- Hóa đơn bán hàng

- Phiếu xuất kho.
19
- Phiếu xuất hàng bán.
- Phiếu thu.
- Phiếu chi.
- Thẻ quầy hàng.
- Bảng thanh toán hàng đại lý ký gửi…
1.5.2: Tài khoản sử dụng:
Tk 511 “ Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ “. Tài khoản này dùng
để phản ánh tổng doanh thu bán hàng thực tế cùng các khoản giảm từ
doanh thu.
Từ đó, xác định doanh thu thuần trong kỳ của doanh nghiệp. Nội dung
phản ánh của Tk như sau:
- Tài khoản 511 cuối kỳ không có dư
- Tài khoản 511 có 4 tài khoản cấp 2 dưới đây :
- Tài khoản 511 “doanh thu bán hàng hoá”
- Tài khoản 512 “doanh thu bán các thành phẩm”
- Tài khoản 513 “doanh thu cung cấp dịch vụ”
- Tài khoản 514 “ doanh thu trợ cấp, trợ giá “.
Khi phản ánh doanh thu bán hàng ở bên có Tk 511, cần phân biệt theo
từng trường hợp sau :
Nợ Tk 511 Có
- Khoản giảm giá hàng bán, chiết
khấu thương mại khi bán hàng và
doanh thu hàng bán bị trả lại.
- Số thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất
khẩu, thuế GTGT tính theo phương
pháp trực tiếp phải nộp tính theo
doanh thu bán hàng thực tế.
- Kết chuyển doanh thu thuần về tiêu

thụ trong kỳ.
- Phản ánh tổng doanh thu tiêu thụ
trong kỳ .
20
- Hàng hoá sản phẩm dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo
phương pháp khấu trừ thuế, doanh thu bán hàng ghi theo giá bán chưa có
thuế GTGT.
- Hàng hoá sản phẩm dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo
phương pháp trực tiếp và hàng hóa dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế tiêu
thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, doanh thu bán hàng ghi theo giá thanh toán
với người mua, gồm cả thuế phải chịu.
 Tài khoản 512 “ doanh thu nội bộ “
Tài khoản này dùng để phán ánh doanh thu do bán hàng hoá, sản phẩm
dịch vụ trong nội bộ, giữa các đơn vị trực thuộc trong cùng một công ty
hoặc tổng công ty ..
Nội dung phán ánh của tài khoản 512 tương tự như tài khoản 511 đã
được đề cập ở trên. Tài khoản 512 cuối kỳ không có số dư và gồm 3 tài
khoản cấp 2 :
- Tài khoản 5121 “doanh thu bán hàng hoá”
- Tài khoản 5122 “doanh thu bán các thành phẩm”
- Tài khoản 5123 “doanh thu cung cấp dịch vụ”
- Tài khoản 5111,5121 “doanh thu bán hàng hoá”
- Tài khoản 5111 phản ánh số doanh thu thuần khối lượng hàng hoá đã
xác định và tiêu thụ trong một kỳ hạch toán của doanh ngiệp.
- Tài khoản 5121 phản ánh doanh thu khối lượng hàng hoá đã xác định
và tiêu thụ và tiêu thụ trong kỳ thanh toán.
- Tài khoản 5111,5121 chủ yếu dùng cho các ngành, các đơn vị kinh
doanh hàng hoá vật tư, lương thực.
 Tài khoản 5112,5122 “ doanh thu bán thành phẩm “
- Tk 5112 phản ánh doanh thu , doanh thu thuần cả khối lượng sản phẩm

( thành phẩm bán thành phẩm ) đã được xác định là tiêu thụ trong một kỳ
hạch toán của doanh nghiệp.
21
- Tk 5122 phản ánh doanh thu của khối lượng sản phẩm cung cấp giữa
các đơn vị thành viên trong một công ty hay tổng công ty. Tài khoản
511.2,512.2chủ yếu dùng cho các ngành, các doanh nghiệp sản xuất như :
công nghiệp, nông nghiêp, ngư nghiệp...
- Tài khoản 511.3,512.3 “ doanh thu cung cấp dịch vụ “
- Tk 511.3 phản ánh doanh thu và doanh thu thuần của khối lượng lao
vụ, dịch vụ cung cấp cho khách hàng đã được xác định là tiêu thụ trong kỳ
hạch toán .
- Tk512.3 phán ánh doanh thu và doanh thu thuần của khối lượng lao vụ,
dịch vụ cung cấp cho các đơn vị thành viên trong cùng một công ty hay
tổng công ty.
Tài khoản 511.3 ,512.3 chủ yếu dùng cho các ngành doanh nghiệp kinh
doanh, dịch vụ như ; giao thông, vận tải, bưu điện...
 Tài khoản157 “hàng gửi bán”:
Tài khoản này dùng để phản ánh giá vốn hàng gửi bán, ký gửi đại lý (trị
giá mua của hàng hoá, giá thành công xưởng của sản phẩm dịch vụ) chưa
được xác định là tiêu thụ. Tài khoản 157 được mở chi tiết theo từng loại
sản phẩm, dịch vụ hàng hoá, từng lần gửi hàng từ khi gửi đến khi được
chấp nhận thanh toán.
Nội dung phản ánh của từng tài khoản như sau:
Nợ Tk 157 Có
- Tập hợp giá vốn sản phẩm hàng
hoá dịch vụ đã di chuyển đi bán
hoặc giao cho bên nhận đại lý, ký
gửi nhưng chưa được chấp nhận
thanh toán.
- Số dư: phản ánh giá vốn thực tế

của sản phẩm, hàng hoá đã gửi đi
chưa được xác định là tiêu thụ.
- Kết chuyển giá vốn thực tế sản
phẩm hàng hoá chuyển đi bán gửi
đại lý, ký gửi và giá thành dịch vụ
đã được xác định là tiêu thụ.
- Giá vốn sản phẩm, hàng hoá không
bán được đã thu hồi (bị người mua,
người nhận đại lý gửi trả lại)
22
 Tài khoản 531 “hàng bán bị trả lại”: Tài khoản này dung để phản ánh
doanh thu của số sản phẩm , hàng hoá, dịch vụ đã tiêu thụ bị khách
hàng trả lại do không đúng quy cách, phẩm chất hoặc vi phạm hợp
đồng kinh tế.
Nội dung phản ánh của tài khoản 531:
Nợ Tk 531 Có
Tập hợp doanh thu hàng hoá bị trả
lại chấp nhận cho người mua trong
kỳ (đã trả lại tiền cho người mua
hoặc tính trừ vào nợ phải thu)
Kết chuyển số doanh thu của hàng
bán bị trả lại.
Tài khoản 531 không có số dư.
 Tài khoản 532 “Giảm giá hàng bán”
Tài khoản này dụng để phản ánh khoản giảm giá cho khách hàng tính
trên giá bán thoả thuận. Nội dung ghi chép của tài khoản 532 như sau:
Nợ Tk 532 Có
- Khoản giảm giá đã chấp nhận với
người mua
- Kết chuyển khoản giảm giá sang

tài khoản liên quan để xác định
doanh thu thuần
Tk 532 không có số dư
 Tài khoản 521 “Chiết khấu thương mại”
Tài khoản này sử dụng để theo dõi toàn bộ các khoản chiết khấu
thương mại chấp
nhận cho khách hàng trên giá bán đã thoả thuận.
Nội dung phản ánh tài khoản này như sau:
Nợ Tk 521 Có
Tập hợp các khoản chiết khấu
thương mại (bớt giá, hồi khấu) chấp
thuận cho người mua trong kỳ.
Kết chuyển toàn bộ số chiết khấu
thương mại vào bên nợ Tk 511, 512.
Tài khoản 521 không có số dư và chi tiết thành 3 tiểu khoản:
- Tài khoản 5211 “chiết khấu hàng hoá”.
23
- Tài khoản 5212 “chiết khấu thành phẩm”.
- Tài khoản 5213 “chiết khấu dịch vụ”
 Tài khoản 632 “giá vốn hàng bán”.
Tài khoản này dùng để xác định giá vốn của sản phẩm, hàng hoá dịch vụ
đã tiêu thụ trong kỳ. Tài khoản 632 không có số dư và có thể mở chi tiết
theo từng mặt hàng, từng dịch vụ. Tuỳ theo yêu cầu cung cấp thông tin và
trình độ cán bộ kế toán cũng như phương tiện tính toán của từng doanh
nghiệp. Riêng trong các doanh nghiệp xây dựng, tài khoản 632 còn phản
ánh cả phí thu mua phân bổ cho hàng tiêu thụ trong kỳ.
Nội dung ghi chép Tk 632 như sau:
Nợ Tk 632 Có
Tài khoản 632 không có số dư cuối kỳ.
Tài khoản 333 “thuế và các khoản phải nộp của nhà nước”

- Phản ánh giá vốn của sản phẩm
hàng hoá, dịch vụ đã tiêu thụ trong
kỳ.
- Phản ánh chi phí nguyên vật
liệu, chi phí nhân công vượt trên
mức bình thường và chi phí sản xuất
cố định không phân bổ, không được
tính vào giá vốn hàng bán của kỳ kế
toán.
- Phản ánh khoản chênh lệch giữa
số dự phòng giảm giá hàng tồn kho
phải lập năm nay lớn hơn khoản đã
lập dự phòng năm trước.
- Phản ánh khoản hoàn nhập dự
phòng giảm giá hàng tồn kho cuối
năm tài chính (31/12) (chênh lệch
giữa số phải lập dự phòng năm nay
nhỏ hơn khoản đã lập dự phòng năm
trước)
24
Dùng để phản ánh quan hệ của nhà nước và doanh nghiệp về các khoản
thuế phí, lệ phí và các khoản phải nộp, phản ánh nghĩa vụ và tình hình thực
hiện nghĩa vụ thanh toán của doanh nghiệp với nhà nước trong kỳ kế toán.
Các khoản này được mở chi tiết theo dõi từng loại thuế, lệ phí, phí phải
nộp. Cuối kỳ có số dư bên có phản ánh khoản phải nộp nhà nước thuế
doanh thu: là loại thuế gián thu tính trên doanh số của hàng bán. Nó được
hình thành trong phía bán của hàng hoá tiêu thụ mà doanh nghiệp có trách
nhiệm phải nộp cho nhà nước mỗi khi bán được hàng.
Số tiền thuế doanh
thu phải nộp

=
Doanh thu
tính thuế
X
Thuế suất
doanh thu
Trong đó:
Doanh thu tính thuế là toàn bộ số tiền bán hàng, tiền gia công chế biến,
tiền hoa hồng, tiền công của khi lượng hàng hoá đã được xác định là đã tiêu
thụ trong kỳ nộp thuế.
Doanh thu
tính thuế
=
Tổng doanh thu bán
hàng ghi trên hoá
đơn
-
Doanh thu của các
khoản giảm trừ
Thuế suất thuế doanh thu: Do nhà nước quy định trong biểu thuế hiện
hành. Thời hạn nộp thuế theo định kỳ hoặc hàng tháng.
Ngoài hai loại thuế chủ yếu trên còn có thuế xuất khẩu áp dụng cho
doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá với người nước ngoài. Thuế nhà nước
quy định về mặt hàng đơn giá tính thuế và thuế xuất, thời hạn nộp thuế. Đối
tượng chịu thuế phải thực hiện theo đúng luật thuế này. Để tiện theo dõi
tình hình thực hiện nghiã vụ đối với nhà nước về thuế kế toán sử dụng Tk
338.
- Tài khoản 911 “xác định kết quả kinh doanh”
25

×