LUẬN VĂN
"Đánh giá khả năng cạnh
tranh của công ty giầy Thụy
Khê trong điều kiện hội nhập
AFTA"
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu hướng hội nhập hoá, toàn cầu hoá về kinh tế các nước và nền
kinh tế và thế giới, hoạt động kinh tế trở nên hêt sức quan trọng, tạo tiền đề
thúc đẩy nền kinh tế các quốc gia cũng như thế giới phát triển cả về bề rộng
lẫn chiều sâu.
Cùng với sự hình thành các khu vực Thương mại tự do như EU,
NAFTA, các nước ASEAN cũng đang hình thành khu vực thương mại tự do
ASEAN (ASEAN FREETRADEAREA – AFTA). Mở ra cho các nước trong
khu vực những cơ hội và thách thức hết sức to lớn. trong đó Việt Nam chúng
ta.
Các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các nướcdoanh nghiệp sản xuất
giầy xuất khẩu cần thấy được điểm mạnh điểm yếu, đánh giá khă năng cạnh
tranh cũng như vị thế của mình khi Việt Nam tham gia AFTA từ đó để đề ra
các giải pháp nhằm phát huy điểm mạnh hạn chế điểm yếu, gia tăng khả năng
cạnh tranh của mình. Xuất phát từ đòi hỏi này cũng như tình hình thực tế nơi
cơ sở thực tập của mình, tôi chọn đề tài: "Đánh giá khả năng cạnh tranh của
công ty giầy Thụỵ Khê trong điều kiện hội nhập AFTA" cho chuyên đề thực
tập tốt nghiệp của mình nhằm đánh giá khả năng cạnh tranh của công ty trong
điều kiện hôị nhập AFTA từ đó đưa ra một số định hướng, giải pháp cho công
ty cũng như cơ quan quản lý trực tiếp là Sở công nghiệp Hà Nội những kiến
nghị nhằm giúp công ty gia tăng khả năng cạnh tranh của mình.
Nội dung của đề tài bao gồm 3 chương.
Chương I : Lý luận chung về tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế
thị trường và hội nhập AFTA.
Chương II: Đánh giá khả năng cạnh tranh của Công ty Giầy Thụy Khuê
trong điều kiện hội nhập AFTA.
Chương III: Giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của
Công ty Giầy Thụy Khuê trong điều kiện hội nhập AFTA.
1
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ HỘI NHẬP AFTA.
A. CẠNH TRANH.
I. MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1. Thị trường - kinh tế thị trường - cơ chế thị trường và các quy luật của
thị trường.
Khái niệm thị trường cho đến nay đã có rất nhiều trong quá trình phát
triển của nó. Mỗi khái niệm tiếp cận dưới một góc độ khác nhau nhưng mục
đích cuối cùng là để trả lời câu hỏi:
Thị trường là gì?
- Theo quan điểm của hội quản trị Hoa Kỳ: “Thị trường là tổng hợp các
lực lượng trong đó người mua và người bán thực hiện cách quyết định chuyển
giao hàng hoá và dịch vụ từ người bán sang người mua".
- Thị trường là nơi người mua và người bán gặp nhau để tiến hành các
cuộc mua bán nhằm thoả mãn nhu cầu của mỗi bên.
- Thị trường là tổng thể cung cầu đối với một loại hàng hoá trên thị
trường vận động theo những quy luật riêng và điều tiết thị trường thông qua
quan hệ cung cầu, đây là định nghĩa mang nhiều tính lý thuyết.
- Ta cũng có thể nói rằng thị trường là nơi hàng hoá thực hiện các chức
năng trao đổi của nó. Theo Mác thị trường là biểu hiện của sự phân công lao
động của xã hội là một trong những khâu của quả trình tái sản xuất mở rộng,
là lỉnh vực lưu thông hàng hoá là nơi gặp gở của cung và cầu.
Đứng trên góc độ của doanh nghiệp thì thị trường của doanh nghiệp là
tập hợp các khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp đó tức là nơi khách hàng
đang mua và có thể sẽ mua sản phẩm của doanh nghiệp vận dụng cho khái
niệm thị trường quốc tế của doanh nghiệp, ta có khái niệm “thị trường quốc tế
của doanh nghiệp là tập hợp những khách hàng nước ngoài tiềm năng của
doanh nghiệp đó“.
Bên cạnh đó nói tới thị trường đi liền với nó là khái niệm kinh tế thị
trường, Cơ chế thị trường. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế mà các vấn đề
cơ bản: sản xuất cái gì? sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào là do thị
2
trường quyết định. Nói cách khác nền kinh tế thị trường là nền kinh tế do cơ
chế thị trường điều tiết, đó là cơ chế tự điều chỉnh nền kinh tế hàng hoá dưới
sự tác động khách quan của các qui luật kinh tế vốn có. Nền kinh tế thị trường
là cách thức tổ chức nền kinh tế xã hội trong đó các quan hệ kinh tế của các cá
nhân, các doanh nghiệp đều thể hiện thông qua hoạt động mua bán hàng hoá,
dịch vụ trên thị trường và thái độ của từng thành viên , chủ thể là hướng vào
việc tìm kiếm lợi ích theo sự dẫn dắt của giá trị thị trường, cơ chế thị trường
thì ta định nghĩa cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, quan hệ môi trường
động lực và các qui luật kinh tế chi phối sự vận động của cơ chế thị trường.
Các qui luật này bao gồm qui luật giá trị,m qui luật cung cầu qui luật
lưu thông, qui luật cạnh tranh. Các qui luật trên đều có vị trí, vai trò độc lập
song lại có mối liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau và tạo ra sự vận
động của thị trường, chi phối sự hoạt động của các chủ thể kinh tế. Vì vậy, bất
cứ một chủ thể nào hoạt động trong nền kinh tế đều không thể không tính tới
qui luật này, đặc biệt là các qui luật cạnh tranh.
- Qui luật giá trị: Qui định hàng hoá được sản xuất ra và trao đổi trên cơ
sở hao phí hao phí lao động xã hội cần thiết tức là mức chi phí bình quân
trong xã hội .
- Qui luật cung cầu: Nêu ra mối quan hệ giữa nhu cầu cung ứng trên thị
trường. Qui luật này qui định cung và cầu luôn có xu hướng chuyển dịch xích
lại gần nhau để tạo ra sự cân bằng trên thị trường.
- Qui luật lưu thông tiền tệ: Xác định số lượng tiền cần thiết trong lưu
thông bằng tổng số giá cả hàng hoá chia cho số lần luân chuyển trung bình
của đơn vị tiền tệ cùng loại.
- Qui luật cạnh tranh: Tồn tại tất yếu trong nền kinh tế hàng hoá qui
luật cạnh tranh biểu hiện sự cạnh tranh giữa người bán và người mua giữa
người bán và người bán giữa người mua với người mua và luôn diễn ra mọi
nơi mọi lúc trong tất cả các hoạt động kinh tế trên thị trường.
Do đó trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp các chủ thể kinh
tế luôn phải năng động đáp ứng nhu cầu của thị trường, các doanh nghiệp này
3
luôn phải cạnh tranh gay gắt với nhau để tồn tại, phát triển và trong cuộc cạnh
tranh khốc liệt nhằm đạt tới lợi nhuận cao nhất.
2. Cạnh tranh - đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường.
Cạnh tranh là thuộc tính quan trọng tất yếu trong nền kinh tế thị trường.
Cạnh tranh là sự đấu tranh gay gắt quyết định giữa các nhà sản xuất, kinh
doanh vời nhau dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất nhằm
chiếm được những điều kiện sản xuất và tiêu thụ có lợi nhất, đồng thời tạo ra
điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển. Do đó, nói tới cạnh tranh là ta không
thể không nói đến các nhân tố cấu thành cạnh tranh. Cạnh tranh chỉ xẩy ra khi
có đủ ba yếu tố sau đây:
Một là, các chủ thể kinh tế tham gia cạnh tranh, tức là những người có
cung và có cầu về hàng hoá và dịch vụ.
Hai là, đối tượng để thực hiện sự cạnh tranh tức là hàng hoá dịch vụ.
Ba là, môi trường cho cạnh tranh đó chính là thị trường.
Tuỳ theo từng góc độ tiếp cận chúng ta có thể phân cạnh tranh theo các
nội dung khác nhau:
+ Theo chủ thể tham gia trên thị trường, cạnh tranh được chia làm ba
loại :
Một là, Cạnh tranh giữa người bán và người mua.
Hai là, cạnh tranh giữa người mua với người bán.
Ba là, cạnh tranh giữa người bán với người bán.
Cạnh tranh giữa người babs với ngươi mua là cuộc cạnh tranh diễn ra
dưới hình thức sẽ bán đắt, người bán luôn mong muốn bán sản phẩm, dịch vụ
của mình với giá cao. Trong khi người mua lại muốn mua với giá thấp. Sự
cạnh tranh được thực hiện trong quá trình vẫn thường gọi là quá trình "mặc
cả” với mức giá chấp nhận là giá thống nhất giữa người bán và người mua.
Cạnh tranh giữa người mua với nhau là cuộc cạnh tranh trên cơ sở qui
luật cung cầu. Khi mức cung của một loại hàng hoá, dịch vụ nào đó nhỏ hơn
mức cầu hoặc thay đổi thì cuộc cạnh tranh trở nên gay gắt hơn. Và giá cả của
hàng hoá, dịch vụ đó sẽ tăng lên. Ta vẫn biết rằng đường cầu của mỗi cá thể
không hoàn toàn giống đường tổng cầu nên nếu người nào đưa ra được giá
chung thống nhất phù hợp nhất thì người đó sẽ thắng trong cuộc cạnh tranh
này.
4
Cạnh tranh giũa người bán với người bán là cuộc cạnh tranh giữa
những người cung cấp, hàng hoá, dịch vụ ra thị trường nhằm bán được nhiều
hàng hoá,dịch vụ. Đối với mỗi doanh nghiệp đây là ý nghĩa sống còn, trong
điều kiện quốc tế hoá , khu vực hoá thì hội nhập thì cuộc cạnh tranh này lại
càng khốc liệt hơn.
Theo phạm vi ngành kinh tế: Michael Porter đã chia cạnh tranh thành
năm nhân tố cạnh tranh.
1) Cạnh tranh giữa những người mới đi vào sản xuất kinh doanh ở
ngành công nghiệp đối với những doanh nghiệp của ngành.
Sự xuất hiện của các công ty mới tham gia vào thị trường có khả năng
chiếm lĩnh thị trường ( thị phần) của các công ty khác, để hạn chế sự cạnh
tranh giữa các đối thủ này các doanh nghiệp thường dựng lên các hàng rào
như.
+ Mở rộng khối lượng sản xuất của công ty để giản chi phí.
+ Dị biệt hoá sản phẩm.
+ Mở rộng khả năng cung cấp vốn.
+ Đổi mới công nghệ, đổi mới hệ thống phân phối tăng đầu tư vốn.
+ Mở rộng các dịch vụ bổ sung.
Ngoài ra có thể lựa chọ địa điểm thích hợp nhằm khai thác sự hỗ trợ
của chính phủ và chon lựa đungs đắn thị trường nguyên liệu và thị trường sản
phẩm.
2) Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất và các nhà cung cấp. Sự
cạnh tranh ảnh hưởng đến doanh nghiệp về khía cạnh sinh lợi, tăng giá hoặc
giảm giá, giảm chất lượng hàng hoá khi tiến hành giao dịch với công ty.
3) Cạnh tranh giữa doanh nghiệp và những người mua. Khách hàng có
thể mặc cả thông qua sức ép làm giảm giá, giảm khối lượng hàng hoá mua từ
công ty hoặc đưa ra yêu cầu chất lượng phải tốt hơn với cùng một mức giá.
4) Cạnh tranh giữa các sản phẩm của doanh nghiệp với sản phẩm thay
thế khi giá cả của sản phẩm, dịch vụ tăng lên thì khách hàng có xu hướng sử
dụng sản phẩm dịch vụ thay thế sự cạnh tranh này đe doạ sự mất mát về thị
trường của công ty. Các công ty đưa ra thị trường những sản phẩm có khả
năng khác biệt hoá cao độ so với sản phẩm của công ty hoặc tạo ra các điều
kiện ưu đãi hơn về các dịch vụ hay các điều kiện tài chính.
5
5) Cạnh tranh trong mọi bộ ngành. Trong điều kiện này các công ty
cạnh tranh với nhau khốc liệt về giá cả, sự khác biệt hoá về sản phẩm hoặc sự
đổi mới về sản phẩm giữa các công ty hiện đang cùng tồn tại trong thị trường.
Sự cạnh tranh này ngày càng gay gắt là do các đối thủ cạnh tranh nhiều và
gần như cân bằng; do sự tăng trưởng của ngành công nghiệp hiện đại ở mức
độ thấp ; do các loại chi phí ngày càng tăng ; do chưa quan tâm tới quá trình
khác biệt hóa sản phẩm hoặc các chi tiết về chi phí do sự thay đổi của các nhà
cung cấp ; do các đối thủ cạnh tranh có chiến lược kinh doanh đa dạng, có
xuất xứ khác nhau ; do các hàng rào kinh tế làm cho công ty khó có thể tự do
di chuyển giữa các ngành.
3. Sự cần thiết phải nâng cao khả năng cạnh tranh đối với các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh.
Chính sự cạnh tranh đã tạo ra động lực cho nền kinh tế phát triển tạo
nên sức thu hút, hấp dẫn cho nền kinh tế, không có cạnh tranh thì sẽ không có
cơ chế thị trường, cạnh tranh chính là sự thể hiện tính tự do ưu việt của nền
kinh tế thị trường, nó luôn luôn thúc đẩy cac doanh nghiệp ngày càng hòan
thiện các sản phẩm, dịch vụ, đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu của khách
hàng. Cạnh tranh giúp các doanh nghiệp đánh giá nhìn lại bản thân mình, phát
huy điểm mạnh , khắc phục điểm yếu vận dụng cơ hội, vượt qua được những
khó khăn thử thách.
Vì vậy cạnh tranh lành mạnh luôn là mục tiêu mà xã hội thị trường và
bản thân mỗi doanh nghiệp mong muốn duy trì đạt tới.
Cạnh tranh là nhân tố kích thích tạo nguồn cho doanh nghiệp phát triển.
Nhưng mặt khác, cạnh tranh cũng rất khắc nghiệt. Cạnh tranh chỉ thực sự giúp
đỡ cho những doanh nghiệp có đủ khả năng, năng lực buộc các doanh nghiệp
phải cố gắng không ngừng nghỉ nó sẵn sàng loại bỏ không khón nhượng
những kẻ lười nhác không còn đủ khả năng thích nghi, sinh hoạt. Cạnh tranh
diễn ra ở khắp nơi ta có thể nói rằng sự hiện diện của cạnh tranh là hữu hình
mà cũng có thể nói là vô tình. Cạnh tranh lúc diễn ra công khai lúc diễn ra
ngấm ngầm lúc dữ dội, lúc phẳng lặng giữa mỗi quốc gia, mỗi nền kinh tế
mỗi doanh nghiệp nào biết nắm bắt cơ hội tìm được hướng đi đúng đắn.
Xét riêng đến các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh để tăng lợi nhuận
mở rộng thị trường hoạt động họ tìm cách vươn ra thị trường nước ngoài. Đối
6
với doanh nghiệp của các quốc gia đang phát triển như Việt Nam hiện nay
phương thức kinh doanh quốc tế chủ yếu vẫn là xuất khẩu. Tuy nhiên thị
trường nước ngoài với những đối thủ cạnh tranh rất mạnh về tiềm lực. Ví vậy
muốn tăng gia xuất khẩu thì phải tăng khả năng cạnh tranh của chính mình
nhằm chiếm và giữ lấy cho mình một thị phần nhất định hay nói cách khác
tăng kgả năng cạnh tranh là biên pháp nhàm tăng khả năqng xuất khẩu.
Như vậy, rõ ràng cạnh tranh sẽ có tác động mạnh thực sự có tinh thần
cầu thị, có đạo đức kinh doanh tạo ra cho doanh nghiệp chỗ đứng vững chắc
trên thị trường.
II. MÔ HÌNH PHÂN TÍCH KHĂ NĂNG CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
(MÔ HÌNH SWOT).
Mô hình SWOT là viết tắt của chữ Streng ths (các điểm mạnh)
Oppotunities (các cơ hội) Weaknesses (Các điểm yếu), Threates (Các thách
thức). Trên cơ sở phân tích 4 nhân tố trên để tìm ra các điểm mạnh điểm yếu
của doanh nghiệp cũng như cơ hội, thách thức đối với doanh nghiệp trên thị
trường. Để từ đó các nhà lãnh đạo doanh nghiệp trên thị trường ở thời điểm
hiện nay và giúp cho doanh nghiệp để ra được những chiến lược đúng đắn
trong giai đoạn trước mắt và tương lai sau này.
SƠ ĐỒ MÔ HÌNH PHÂN TÍCH KHẢ NĂNG CẠNH TRANH.
P
hân tích
Phân tích bên
Cơ hội (O)
thách
Điểm mạnh ( S)
Điểm yếu (W)
Lựa chọ chiến lược
cho Doanh nghiệp
1. Phân tích bên ngoài:
7
Đây là sự phân tích các yếu tố của môi trường bên ngoài ảnh hưởng
đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, từ đó giúp doanh nghiệp tìm ra
các cơ hội cũng như các thách thức đối với doanh nghiệp.
Các yếu tố bên ngoài có thể là yếu tố kinh tế, yếu tố chính trị , yếu tố
pháp luật, yếu tố văn hoá xã hội, yếu tố khoa học công nghệ, yếu tố tự nhiên
Các yếu tố này là tác động gián tiếp khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp. Do vậy, doanh nghiệp cần phải nghiên cứu phân tích các yếu tố của
môi trường bên ngoài để tăng cơ hội, giảm thách thức hạn chế rủi ro một cách
tối thiểu cho doanh nghiệp và trên cơ sở phân tích đó lựa chọn chiến lược hợp
lý cho doanh nghiệp.
2. Phân tích bên trong.
Đây là sự phân tích các yếu tố bên trong của doanh nghiệp hay là các
nhân tố nội tại của doanh nghiệp việc phân tích tập trung chủ yếu vào các vấn
đề sau:
- Cơ cấu tổ chức.
- Đội ngũ cán bộ quản lý.
- Khả năng tài chính.
- Trình độ công nghệ
Từ việc phân tích những yếu tố trên, Doanh nghiệp sẽ tìm ra được
những điểm mạnh, điểm yếu của mình so với các đối thủ cạnh tranh. Doanh
nghiệp sẽ biết mình sẽ đứng ở đâu trên thị trường, thị phần hiện tại của các
doanh nghiệp là bao nhiêu, khả năng tăng thị phần của doanh nghiệp trong
thời gian sắp tới, khả năng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai một
kẻ chiến thắng là kẻ biết mình, biết người có như vậy doanh nghiệp mới biết
được đâu là những mặt, những yếu tố đã đang và sẽ gây ảnh hưởng cản trở
cho quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Có biết được nhược điểm và
những điểm mạnh của mình thì doanh nghiệp mới biết được cách để khắc
phục, giải quyết vấn đề đang và sẽ đặt ra đối với Doanh nghiệp.
3. Mô hình đa giác cạnh tranh
Đứng trước một thị trường và các đối thủ cạnh tranh, Các doanh nghiệp
cần thiết lập được một bản đánh giá tương đối về các điểm mạnh và các điểm
yếu của mình. Điều này đặt ra hai vấn đề chính: Một mặt doanh nghiệp có
những năng lực nào vượt trội và mặt khác, tình trạng hiện tại hoặc tiềm năng
8
của các doanh nghiệp như thế nào. Phân tích khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp tức là nghiên cứu những nguồn lực mà doanh nghiệp có từ môi
trường khu vực và trong nước.
Phương pháp có thể được sử dụng để đánh giá năng lực cạnh tranh là
dùng đồ thị dưới dạng đa giác cạnh tranh đa giác này mô tả khả năng của
doanh nghiệp theo các yếu tố trong mối quan hệ so sánh với các đối thủ cạnh
tranh hoặc một tập hợp các đối thủ cạnh tranh để xây dựng một phân tích về
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Khi chồng sơ đồ này lên nhau ta có
thể thu được nhanh chóng những ưu thế tương đối của doanh nghiệp.
Sản xuất
Giá cả
Tài chính
Bán hàng
Sau bán
hng
N
goại
giao
Trước bán hàng
Quan niệm
Cô
ĐỐI THỦ CẠNH TRANH
HÌNH MÔ HÌNH ĐA GIÁC CẠ
N
H TRANH
Các yếu tố xuất phát từ khả năng của doanh nghiệp.
- Chất lượng sản phẩm: Đây là yếu tố quan trọng nhất được đánh giá
một cách khách quan bằng những định mức, những yêu cầu khác nhau về thị
trường nước ngoài.
- Giá cả cũng là một loại công cụ dùng để đánh giá khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp cùng với chất lượng và các điều kiện như nhau thì giá
cả thấp hơn khả năng cạnh tranh của sản phẩm sẽ cao hơn.
- Bán hàng xét theo góc độ phương pháp và các phương tiện thương
mại, cách thức bán hàng của doanh nghiệp.
- Ngoại giao là khả năng điều hành theo hướng tích cực những mối
liên hệ với các nhân tố của môi trường điều này tạo điều kiện cho doanh
9
nghiệp hoạt động kinh doanh của mình. Đây là những tiền đề cho doanh
nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh của mình và mở rộng thị trường.
- Trước bán hàng là khả năng dự báo nhu cầu của thị trường và áp
dụng các hoạt động thành thạo để thuyết phục khách hàng và khả năng đáp
ứng nhu cầu của khách hàng tôt nhất thì doanh nghiệp không những đứng
vững trên thị trường mà còn có thể mở rộng thị trường của mình.
- Tài chính theo nghĩa là các nguồn tài chính hiện có và có thể huy
động một cách nhanh chóng . doanh nghiệp có thể mở rộng và sản xuất kinh
doanh tăng cường hoạt động nghiên cứu triển khai, mở rộng thị trường đều
phải dựa trên nguồn tài chính hiện có và khả năng huy động nhanh chóng.
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA DOANH
NGHIỆP.
Mỗi một doanh nghiệp hoạt động trong bất cứ lĩnh vực nào cũng đều
phải chịu sự tác động của môi trường xung quanh và chiụ sự tác động từ
chính bản thân doanh nghiệp. Do đó khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
không chỉ phụ thuộc vào bản thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào các
yếu tố khách quan khác của môi trương xung quanh doanh nghiệp. Nhìn
chung có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp, song tóm gọn lại đều có ba nhóm nhân tố cơ bản sau.
- Môi trường vĩ mô.
- Môi trường ngành: Mô hình 5 sức mạnh của Michael porter.
- doanh nghiệp,.
1. Môi trường vĩ mô.
Môi trường vĩ mô chính là môi trường mà doanh nghiệp đang hoạt
động. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm nhiều nhân tố phức
tạp ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Môi trường đó
chính là tổng thể các nhân tố cơ bản : Nhân tố kinh tế, nhân tố chính trị và
pháp luật, nhan tố xã hội , nhân tố tự nhiên, nhân tố công nghệ. Mỗi hnhân tố
này tác động và chi phối mạnh mẽ đến các hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Chúng có thể là cơ hội hoặc thách thức đối với doanh nghiệp. Các
doanh nghiệp cần phải có sự am hiểu về các nhân tố trên và đưa ra cách ứng
xử cho phù họp đối với những đòi hỏi; những biến động của chúng đối với
những doanh nghiệp kinh doanh quốc tế thì vấn đề này cần được coi trọng.
10
a. Nhân tố kinh tế.
Đây là nhân tố ảnh hưởng rất to lớn với doanh nghiệp và là nhân tố quan
trọng nhất trong môi trường kinh doanh của doanh nghiệp, Một nền kinh tế
tăng trưởng sẽ tạo đà cho doanh nghiệp phát triển, nhu cầu dân cư sẽ tăng lên
đồng nghĩa với một tương lai sáng sủa, điều này cũng có nghĩa là tốc dộ tích
luỹ vốn đầu tư trong nền kinh tế cũng tăng lên , mức độ hấp dẫn đầu tư và
ngoài cũng sẽ tăng lên cao, sự cạnh tranh cũng ngày càng gay gắt. Thị trường
được mở rộng đây chính là cơ hội tố cho những doanh nghiệp biết tận dụng
thời cơ, biết tự hoàn thiện mình, không ngừng vươn lên chiếm lĩnh thị trường.
Nhưng nó cũng chính là thách thức đối với những doanh nghiệp không có
mục tiêu rõ ràng, không có chiến lược hợp lý.
Chạy đua không khoan nhượng đối với tất cả các doanh nghiệp dù là doanh
nghiệp nước ngoài cũng như doanh nghiệp ở trong nước dù là doanh nghiệp
đó đang hoạt động ở thị trường nội địa hay thị trường nước ngoài. Và ngược
lại khi nền kinh tế bị suy thoái, bất ổn định , tâm lý người dân hoang mang,
sức mua của người dân giảm sút , các doanh nghiệp phải giảm sản lượng phải
tìm mọi cách để giữ khách hàng, lợi nhuận doanh số cũng sẽ giảm theo trong
lúc đó sự cạnh tranh trên thị trường lại càng trở nên khốc liệt hơn.
Các yếu tố của nhân tố kinh tế như tỷ lệ lãi suất, tỷ lệ lạm phát tỷ giá hối
đoái cũng tác động đến khả năng tài chính của doanh nghiệp.
b. Nhân tố chính trị và pháp luật.
Chính trị và pháp luật có tác dụng rất lớn đến sự phát triển của bất cứ
doanh nghiệp nào, nhất là đối với những doanh nghiệp kinh doanh quốc tế.
Chính trị và pháp luật là nền tảng cho sự phát triển kinh tế cũng như là cơ sở
pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ở bất cứ thị
trường nào dù là trong nước hay nước ngoài.
Không có sự ổn định về chính trị thì sẽ không có một nền kinh tế ổn
định, phát triển thực sự lâu dài và lành mạnh. Luật pháp tác động điều chỉnh
trực tiếp đến hoạt động của mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế. Mỗi thị
trường đều có hệ thống pháp luật riêng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Luật
pháp rõ ràng, chính trị ổn định là môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh
doanh của từng doanh nghiệp. Đặc biệt đối với từng doanh nghiệp tham gia
vào hoạt động xuất khẩu chịu ảnh hưởng của quan hệ giữa các chính phủ, các
11
hiệp định kinh tế quốc tế Các doanh nghiệp này cũng đặc biệt quan tâm tới
sự khác biệt về pháp luật giữa các quốc gia. Sự khác biệt này có thể sẽ làm
tăng hoặc giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp những đièu này sẽ ảnh
hưởng rất lớn đến các hoạt động, chính sách kế hoạch chiến lược phát triển,
loại hình sản phẩm danh nghiệp sẽ cung cấp cho thị trường.
Vì vậy, các doanh nghiệp luôn luôn cần một nền kinh tế ổn định một
môi trường pháp luật chặt chẽ, rõ ràng, bảo vệ lợi ích cho các doanh nghiệp,
cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế. Khuyến khích phát triển, tham gioa khả
năng cạnh tranh.
c. Nhân tố xã hội :
Nhân tố xã hội thường biến đổi hoặc thay đổi dần dần theo thời gian
nên đôi khi khó nhận biết nhưng lại qui định các đặc tính của thị trường mà
bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải tính đến khi tham gia vào thị trường đó
cho dù có muốn sống hay không. Nhân tố xã hội có thể bao gồm.
-Lối sống, phong tục, tập quán.
-Thái độ tiêu dùng.
-Trình độ dân trí.
-Ngôn ngữ.
-Tôn giáo.
-Thẩm mỹ
Chúng quyết định hành vi của người tiêu dùng, quan điểm của họ về
sản phẩm, dịch vụ, chúng là những điều mà không ai có thể đi ngược lại được
nếu muốn tồn tại trong thị trường đó. Ví dụ như ở những thị trường luôn có tư
tưởng đề cao sản phẩm nội địa như ấn Độ, Nhật Bản thì các sản phẩm ngoại
nhập sẽ kém khả năng cạnh tranh so với các Doanh nghiệp của quốc gia đó.
Sự khác biệt về xã hội sẽ dẫn đến việc liệu sản phẩm của Doanh nghiệp khi
xuất sang thị trường nước ngoài đó có được thị trường đó chấp nhận hay
không cũng như việc liệu doanh nghiệp đó có đủ khả năng đáp được yêu cầu
của thị trường mới hay không. Vì vậy các doanh nghiệp phải tìm hiếu nghiên
cứu kỹ các yếu tố xã hội tại thị trường mới cũng như thị trường truyền
thống để từ đó tiến hành phân đoạn thị trường, đưa ra được những giải pháp
riêng. Đáp ứng thị trường tốt nhất yêu cầu của thị trường để nâng cao khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
12
d. Nhân tố tự nhiên.
Điều kiện tự nhiên của từng vùng sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi
hoặc khó khăn cho doanh nghiệp trong việc cạnh tranh vị trí địa lý thuận lợi ở
trung tâm công nghiệp hay gần nhất nguồn nguyên liệu, nhân lực trình độ cao,
lành nghề hay các trục đường giao thông quan trọng sẽ tạo cơ hội cho các
doanh nghiệp phát triển, giảm được chi phí. Các vấn đề ô nhiểm môi trường,
thiếu năng lượng, lãng phí tài nguyên thiên nhiên. Cùng với nhu cầu ngày
càng lớn đối với các nguồn lực có hạn khiến cho xã hội cũng như các doanh
nghiệp phải thay đôỉ quyết định và các biên pháp hoạt động liên quan.
e. Nhân tố công nghệ.
Khoa học công nghệ tác động mạnh mẽ đến khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp thông qua chất lượng sản phẩm và giá bán bất kỳ một sản phẩm
nào được sản xuất ra cũng đều phải gắn với một công nghệ nhất định. Công
nghệ sản xuất đó sẽ quyết định chất lượng sản phẩm cũng như tác động tới chi
phí cá biệt của từng doanh nghiệp từ đó tạo ra khả năng cạnh tranh của từng
doanh nghiệp.
Khoa học công nghệ tiên tiến sẽ giúp các doanh nghiệp xử lý thông tin
một cách chính xác và có hiệu quả nhất trong thời đại hiện nay, bất kỳ một
doanh nghiệp nào muốn thành công cũng cần có một hệ thống thu thập, xử lý,
lưu trữ, truyền phát thông tin một cách chính xác, đầy đú nhanh chóng hiệu
quả về thị trường và đối thủ cạnh tranh. Bên cạnh đó, khó học công nghệ tiên
tiến sẽ tạo ra một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại của nền kinh tế
quốc dân nói chung cũng như thị trường doanh nghiệp nói riêng. Vì vậy, có
thể nói rằng khoa học công nghệ là tiền đề cho các doanh nghiệp nâng cao
khả năng cạnh tranh của mình.
2. Môi trường ngành.
Môi trường ngành là môi trường bao gồm các doanh nghiệp trong cùng
tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh. Môi trường ngành còn được hiểu là
môi trường cạnh tranh của doanh nghiệp sự tác động của môi trường ngành
ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp là điều không thể
phủ nhận.
Môi trường ngành bao gồm năm nhân tố cơ bản là : đối thủ cạnh tranh,
người mua, người cung cấp, các đối thủ tiềm ẩn và các đối thủ thay thế. Đó là
13
nhân tố thuộc mô hình 5 sức mạnh của Michael porte. Sự am hiểu các nguồn
sức ép cạnh tranh giữa các doanh nghiệp nhân ra mặt mạnh mặt yếu cũng như
các cơ hội và thách thức mà doanh nghiệp ngành đó đã và đang và sẽ gặp
phải.
Đối thủ mới tiềm năng
Nhà
cung
cấp
Các đối thủ
cạnh tranh
trong ngành
Sự cạnh tranh
gi
ữ
a các doanh
Người
mua
Các mặt hàng và
dịch vụ thay thế
a. Đối thủ cạnh tranh.
Sự am hiểu về đối thủ cạnh tranh có một ý nghĩa vô cùng quan trọng
đối với các doanh nghiệp. Cha ông ta đã có câu “bi
ết mình biết trăm trận trăm
thắng" Do đó doanh nghiệp cần phải hiểu rõ đối thủ cạnh tranh.
Có thể thấy trước hết là đối thủ cạnh tranh quyết định mức độ cuộc
tranh đua để giành lợi thế trong ngành và trên thị trường nói chung.
Mức độ cạnh tranh dữ dội phụ thuộc vào mối tương tác giữa các yếu tố
như số lương các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh giúp cho doanh nghiệp
đưa ra được những giải pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ và tăng thi phần nâng cao
khả năng cạnh tranh.
b. Khách hàng .
Câu nói “khách hàng là thương đế” luôn luôn đúng đối với mọi doanh
nghiệp bất cứ một doanh nghiệp nào cũng không được quyên rằng khách hàng
luôn luôn đúng nếu họ muốn thành công, chiếm lĩnh thị trường. Những khách
hàng mua sản phẩm của một ngành hay một doanh nghiệp nào đó thì họ có
thể làm giảm lợi nhuận của ngành đấy, của doanh nghiệp đấy bằng cách yêu
14
cầu chất lượng sản phẩm hặc dịch vụ cao hơn, hoặc có thể bằng cách dùng
doanh nghiệp này chống lại doanh nghiệp kia.
Vì vậy, trong thực tế khách hàng thường có quyền lực trong các trường
hợp sau.
Khi có nhu cầu khách hàng là ít hơn so với lương cung trên thị trường
về sản phẩm nào đó thì họ có quyền quyết định về gía cả.
Các sản phẩm mà khách hàng mua phá tỷ lệ đáng kể trong chi tiêu của
người mua. Nếu sản phẩm đó chiếm một tỷ trọng hơn trong chi tiêu của người
mua thì gía cả là một vấn đề quan trọng đối với khách hàng đó. Do đó họ sẽ
mua với giá có lợi và sẽ chọn mua những sản phẩm có giá trị thích hợp.
Những sản phẩm mà khách hàng mua trong khi không được cung cấp
đầy đủ về thông tín và chủng loại, chất lượng, đặc tính, hình thức, kiếu dáng
của sản phẩm thì họ có xu hướng đánh dòng các sản phẩm cùng loại trên thị
trường với nhau họ sẽ có xu hướng thiên về hướng bất lợi cho doanh nghiệp
vì họ không thể đánh giá cũng như hiểu chính xác được rõ giá trị của sản
phẩm doanh nghiệp sản xuất.
Khách hàng phải chịu chi phí đặt cọc do đó chi phí đặt cọc rõ ràng buộc
khách hàng với người bán nhất định.
Khách hàng có thu nhập thấp tạo ra áp lực phải giảm chi tiêu cho việc
mua bán của mình.
Khách hàng cố gắng khép kín sản xuất tức là họ cố gắng trở thành
người cung cấp cho chính mình.
Mặt khác khi khách hàng có đầy đủ thông tin và nhu cầu giá cả thị
trường hiện hành và chi phí của người cung cấp thì quyền “mặc cả” của họ
càng lớn.
c. Nhà cung cấp.
Sức ép của nhà cung cấp liên doanh nghiệp cũng không kém phần quan
trọng. Họ có thể chi phối đến hoạt động của doanh nghiệp do sự độc quyền
của một số nhà cung cấp những nguyên vật liệu chi tiết đặc dụng họ có thể
tạo ra sức ép lên doanh nghiệp bằng việc thay đổi gía cả, chất lượng nguyên
vật liệu. được cung cấp Những thay đổi này có thể làm tăng hoặc giảm chi
phí sản xuất, chất lượng sản phẩm và lợi nhuận từ đó tác động tới khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp.
15
d. Đối thủ tiềm năng.
Đối thủ tiềm năng là những người sẽ đi vào hoạt động sản xuất kinh
doanh ở ngành doanh nghiệp đang hoạt động hoặc ở những ngành sản xuất
sản phẩm, dịch vụ thay thế. Họ có khả năng mở rộng hoạt động chiếm lĩnh thị
trường của doanh nghiệp, họ có thể là yếu tố làm giảm lợi nhuận của doanh
nghiệp.
Đứng trước nguy cơ này, các doanh nghiệp phải cùng liên kết và dựng
lên các hàng rào chắc vô hình và hữu hình đối vơi các đối thủ cạnh tranh
tièem năng.
e. Sức ép của sản phẩm thay thế.
Sức ép của sản phẩm thay thế làm hạn chế tiềm năng lợi nhuận của
ngành do mức giá cao nhất bị khống chế. Nếu không chú ý tới sản phẩm thay
thế tiềm ẩn, doanh nghiệp có thể bị tụt lại với nhu cầu thị trường.
Phần lớn các sản phẩm thay thế mới là kết quả của sự tiến bộ về công
nghệ. Muốn đạt được thành công các doanh nghiệp cần phải chú ý và giành
nguồn lực để phát triển hay vận dụng công nghệ mới vào chiến lược của
mình.
3. Doanh nghiệp.
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là tổng hợp sức mạnh từ các
nguồn lực hiện có và có thể huy động được với doanh nghiệp. Khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp được thể hiện chủ yếu qua nguồn nhân lực, nguồn lực
vật chất, nguồn lực tài chính tổ chức, kinh nghiệm.
a. Nguồn nhân lực.
Ngày nay thông thường khi đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp, người ta thường đánh giá trước tiên nguồn nhân lực của doanh
nghiệp:
Yếu tố nhân lực được coi là tài sản vô cùng quý báu cho sự phát triển thành
công của mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp.
Với một đội ngũ nhân lực tốt, doanh nghiệp có thể được làm đựợc tốt
tất cả những gì như mong muốn, đội ngũ nhân lực này sẽ làm tăng các nguồn
lực khác cho doanh nghiệp khác lên một cách nhanh chóng, trí tuệ chất xám là
những thứ vô cùng quý giá. Nó tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, ưu viêt
hơn với giá thành thấp nhất, đáp ứng tốt yêu cầu của khách hàng, đưa doanh
16
nghiệp vượt lên trên các đối thủ cạnh tranh. Một đội ngũ công nghiệp lãnh
đạo, quản lý giàu kinh nghiệm, trình độ cao, năng động, linh hoạt và hiểu
biết sẽ đem lại cho doanh nghiệp không chỉ là lợi ích trước nmắt như tăng
doanh thu, tăng lợi nhuận mà cả uy tín của doanh nghiệp. Họ sẽ đưa ra nhiều
ý tưởng chiến lược sáng tạo phù hợp với sự phát triển và trưởng thành của
doanh nghiệp cũng như phù hợp với sự thay đổi của thị trường.
Bên cạnh đó nguồn nhân lực của một doanh nghiệp phải đồng bộ sự
đồng bộ này không chỉ xuất phát từ thực tế là đội ngũ công nghiệp của doanh
nghiệp là từ những nhóm người khác nhau mà còn xuất phát từ năng lực tổng
hợp riêng thu được từ việc kết hợp nguồn nhân lực về mặt vật chất, tổ chức
trình độ tay nghề, ý thức kỹ luật, lòng hăng say lao động sẽ là nhân tố quan
trọng đảm bảo tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm.
b. Nguồn lực vất chất.
Một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cùng với một công nghệ
tiên tiến phù hợp với qui mô sản xuất của doanh nghiệp chắc chắn sẽ nâng cao
năng lực sản xuất, làm tăng khả năng của doanh nghiệp lên rất nhiều với một
cơ sở vật chất tốt , chất lượng sản phẩm sẽ được nâng lên cao hơn cùng với
việc hạ giá thành sản phẩm kéo theo sự giảm giá bán trên thị trường. Khả
năng chiến thắng trong cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ rất lớn, ngược lại
không một doanh nghiệp nào lại có khả năng cạnh tranh cao khi mà công
nghề sản xuất lạc hậu, maúy móc thiết bị cũ kỹ sẽ làm giảm chất lượng sản
phẩm, tăng chi phí sản xuất. Nguồn lực vật chất có thể là:
- Tình trạng trình độ máy móc công nghệ , khả năng áp dụng công nghệ
mối tác động đến chất lượng, kiểu dáng, hình thức giá thành sản phẩm.
- Mạng lưới phân phối: Phương tiện vận tải, cách thức tiếp cận khách
hàng .
- Nguồn cung cấp: ảnh hưởng đến chi phí lâu dài và đầu ra trong việc
đảm bảo cho sản xuất được liên tục, ổn định.
- Vị trí địa lý của doanh nghiệp cũng có thể tác động đến chi phí sản
xuất, (đất đai, nhà cửa, lao động, ) nguồn nguyên liệu, sự thuận tiện của
khách hàng.
c. Nguồn lực tài chính.
17
Nguồn lực tài chính là yếu tố quan trọng trong quyết định khả năng
sản xuất cũng như là chỉ tieu hàng đầu để đánh giá qui mô của doanh nghiệp.
Bất cứ một hoạt động đầu tư, mua sắm trang thiết bị , nguyên liệu hay
phân phối, quảng cáo cho sản phẩm đều phải được tính toán dựa trên thực
trạng tài chính của doanh nghiệp, một doanh nghiệp có tiềm lực tài chính
mạnh mẽ sẽ có khả năng trang bị công nghệ máy móc hiện đại, Bởi vì bất có
một hoạt động đầu tư mua saqứm trang thiết bị nào cũng phải được tính toán
dựa trên thực trạng tài chính của doanh nghiệp. doanh nghiệp nào có tiềm lực
tài chính hùng mạnh sẽ có khả năng trang bị dây chuyền công nghệ sản xuất
hiện đại, đảm bảo chất lượng, hạ giáthành sản phẩm, giá bán sản phẩm tổ
chức các hoạt động quảng cáo khuyến mại mạnh mẽ nâng cao sức cạnh tranh.
Ngoài ra, với một khả năng tài chính hùng mạnh, doanh nghiệp cũng có khả
năng chấp nhận lỗ một thời gian ngắn để hạ giá thành sản phẩm nhằm giữ
vững và mở rộng thị phần cho doanh nghiệp để tăng giá, thu lợi nhuận nhiều
hơn.
Vì vậy vấn đề tài chính luôn luôn là vấn đề gây nhiều trăn trở cho nhà
quản lý. Không chỉ vậy trong nền kinh tế thị trường, trở thành biểu tượng cho
sự giàu có phát đạt, sức cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp nguồn tài chính
vững chắc sẽ là chỗ dựa vững chắc cho các doanh nghiệp dành được sự tin
cậy, đầu tư từ phía khách hàng lẫn nhà đầu tư nước ngoài.
Khả năng tài chính của doanh nghiệp gồm vốn chủ sở hữu hay vốn tự
có và các nguồn vốn khác có thể huy động được. Tài chính không chỉ gồm
các tài sản lưu động và tài sản cố định của doanh nghiệp, mà gồm cả các
khoản vay, khoản nhập sẽ có trong tương lai và cả giá trị uy tín của doanh
nghiệp đó trên thị trường. Vốn tự có có thể do các thành viên sáng lập đóng
góp hoặc do một phần lợi nhuận được để lại từ đầu tư, hoặc vốn góp thêm
của các cổ đông sau này. Vốn vay có thể được huy động từ ngân hàng các tổ
chức tài chính các đơn vị quen biết. Thiếu nguồn tài chính cần thiết , doanh
nghiệp có thể bị phá sản, sụp đỗ bất cứ lúc nào. Tài chính được coi là phương
tiện chủ yếu vũ khí sắc bén để tấn công, đánh thắng các đối thủ cạnh tranh .
Doanh nghiệp nào không đủ khả năng tài chính sẽ bị thôn tính bới các
đối thủ hùng mạnh hơn hoặc tự rút lui khỏi thị trường.
d. Tổ chức.
18
Mỗi doanh nghiệp phải có một cơ cấu tổ chứcđịnh hướng cho phần lớn
các công việc trong doanh nghiệp.
Nó ảnh hưởng đến phương thức thông qua quyết định của nhà quản trị,
quan điểm của họ đối với các chiến lược và điều kiện của doanh nghiệp. Cơ
cấu nề nếp tổ chức có thể là nhược điểm gây cản trở cho việc hoạt động thực
hiện chiến lược hoặc thúc đẩy các hoạt động đó không phát huy tính năng
động sáng tạo của các thành viên trong doanh nghiệp. doanh nghiệp nào có cơ
cấu tổ chức hợp lý, năng động sẽ có nhiều cơ hội thành công hơn các doanh
nghiệp khác.
e. Kinh nghiệm.
Kinh nghiệm sản xuất kinh doanh sẽ giúp doanh nghiệp dự đoán chính
xác nhu cầu trên thị trường trong từng thời kỳ, từ đó giúp doanh nghiệp chủ
động trong việc sản xuất kinh doanh không bị ứ đọng vốn, tồn kho qúa nhiều
sản phẩm tiết kiệm được nhiều chi phí khác.
Vì vậy, có thể nói, kinh nghiệm là thứ vô cùng quí giá đối với sự hoạt
động thành công của mỗi doanh nghiệp. Tất cả các hoạt động chức năng khác
của doanh nghiệp có khả năng thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào
kinh nghiệm của người lãnh đạo doanh nghiệp, của các cán bộ quản lý bộ
phận
19
I. Môi trường vĩ mô.
1. Nhân tố kinh tế.
2. Nhân tố chính trị và pháp luật.
3.Nhân tố xã hội .
4. Nhân tố tự nhiên.
5. Nhân tố công nghệ.
II. Môi trường ngành
1. Nhà cung cấp.
2. Khách hàng .
3.Đối thủ cạnh tranh.
4. sản phẩm thay thế.
5. Đối thủ tiềm năng.
III. Doanh nghiệp.
1. Nguồn nhân lực.
2. Nguồn lực vật chất.
3. Nguồn lực tài chính.
4. Tổ chức.
5. Kinh nghiệm.
B. AFTA VÀ HỘI NHẬP AFTA.
1. Cơ sở hình thành AFTA.
Quá trình quốc tế hoá đời sỗng kinh tế thế giới đang diễn ra ở nhữn nơi
cấp độ khác nhau, với xu hướng toàn cầu hoá đi đôi với xu hướng khu vực
hoá.
Toàn cầu hoá kinh tế là hình thành một thị trường thế giới thống nhất
một hệ thống tài chính, tín dụng toàn cầu là việc phát triển và mở rộng phân
20
công lao động quốc tế theo chiều sâu , là sự mở rộng giao lưu kinh tế và khoa
học công nghệ giữa các nước trên quy mô toàn cầu, là việc giải quyết các vấn
đề kinh tế – xã hội có tính chất toàn cầu như vấn đề, dân số tài nguyên thiên
nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái trong khi đó khu vực hoá kinh tế chỉ
diễn ra trongmột thời gian địa lý nhaqát định dưới nhiều hình thức như: Khu
vực mậu dịch tự do , đông minh liên minh, thuế quan, đồng minh tiền tề, thị
trường chung, đồng minh kinh tế nhằm mục đích hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau
cùng phát triển từng bước xoá bỏ những cản trở trong việc di chuyển tư bản ,
lực lương lao động hàng hoá dịch vụ tiến tới tự do toàn cầu nhữnh di
chuyển mối liên hệ giữa các nước thành vien trong khu vực.
Ở những quốc gia có kinh tế thị trường phát triển, thì xu hướng tham
gia hội nhập voà nền kinh tế trong khu vực bảo hộ mậu dịch ngày càng tăng.
Việc tham gia mạnh mẽ và rông rãi các khối liên minh kinh tế khu vực, tiến
tới sự nhất thể hoá cao trog thông qua văn bản, hiệp định ký kết đã đưa lại cho
các quốc gia trong liên minh sự ổn định hợp tác cùng phát triển. Trong điều
kiện đó các doanh nghiệp của các quốc gia thành viên được hưởng những ưu
đãi về thương mại cũng như các gánh vác các nghĩa vụ về tài chính giảm thuế
cũng như giảm miễn phí khác Tình hình này trong quá khứ, hiện tại và
tương lai đang đặt ra cho các quốc gia đang phát triển trên thế giới nói chung
các quốc gia Đông Nam á nói riêng những cơ hội và thách thức mới.
Sự hình thành kiên kết giữa các quốc gia đang phát triển, ngoài mục
tiêu hợp tác , hỗ trợ nhau phát triển còn nhằm mục tiêu chống lại các chính
sách bảo hộ mậu dịch của các nước công nghiệp phát triển.
Việc hình thành các liên kết kinh tế khu vực và sự hội nhập của từng
quốc gia vào nền kinh tế các nước trong khu vực vời nhiều mức độ khác nhau
tuỳ thuộc vào từng khu vực liên kết và hình thức liên kết.
Khu vực mậu dịch tự do hay khu buôn bán tự do là giai đoạn đầu của
quá trình hội nhập kinh tế khu vực. Đây là một liên minh quốc tế giữa hai hay
nhiều quốc gia nhằm mục đích tự do hoá buôn bán đối một hoặc một số nhóm
mặt hàng náo đó. đặc trưng của khu vực mậu dịch tự do là xoá bỏ các hàng
rào thuế quan và phi thuế quan nhằm tạo ra một thị trường thống nhất của
khu vực. Nhưng mỗi quốc gia là thành viên vẫn thi hành chính sách ngoại
thương độc lập đối với các quốc gia ngoài liên minh.
21
Sự hôi nhập vào nền kinh tế các nước trong khu vực đang đưa lại
những lợi ích khác nhau cho cả người sản xuất và người tiêu dùng trong các
nước thành viên. Một quốc gia nào đó gia nhập hội các nước thực hiện ưu đãi
mậu dịch thường đua lại những kết quả chủ yếu sau.
Một là, Tạo lập quan hệ mậu dịch nối giữa các nước thành viên, mở
rộng hơn nữa khả năng xuất nhập khẩu hàng hoá của các nước trong liên
minh với các nước các khu vực khác trên thế giới : cũng trong điều kiện này
mà tiềm năng kinh tế các nước thành viên được khai thác một cách có hiệu
quả. Cũng trong điều kiện này lợi ích của người tiêu dùng cũng được tăng lên
nhờ hàng hoá của các nước thành viên đưa vào nước như là luôn nhận được
sự ưu đãi. Do đó hàng hoá hạ xuống làm người dân ở nước chủ nhà có thể
mua được khối lượng hàng hoá lớn hơn với mức chi phí thấp hơn.
Hai là, hội nhập kinh tế khu vực còn góp phần vào việc chuyển hướng
mậu dịch, sự chuyển biến này diễn ra phổ biến khi hình thành liên minh thuế
quan , và khi đó các điều kiện buôn bán giữa các nước thành viên trong liên
minh sẽ trở nên thuận lợi hơn, hấp dẫn hơn trước.
Ba là, hội nhập vào khu vực, thực hiện tự do hoá thương mại tạo điều
kiện thuận lợi trong việc tiếp tục thu vốn, công nghề trình độ quản lý từ các
quốc gia khác nhau trong liên minh. Về lâu dài tự do hoá thương mại thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, góp phần tăng năng suất lao động.
Để tiến thêm một bước nữa tới tự do thương mại toàn diện và để phản
ứng với xu thế hội nhập kinh tế khu vực đang diễn ra ở nhiều nơi trên thế
giới, ngày 27/28 tháng 1 năm 1992 các nước ASEAN đã thoả thuận thiết lâp
khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) trong vòng 15 năm trong 15 năm, kể từ
1.1.1993, thuế của các nước trong khu vực sẽ được giảm xuống ở mức 0 – 5%
và các hàng rào phí thuế quan với một diện rộng các sản phẩm chế tạo. Năm
1994, các nước ASEAN đã rút ngắn thời gian quá trình đó còn lại 10 năm, tức
là thuế giảm xuống còn 0 – 5% vào năm 2003. AFTA không phải là một liên
minh thuế quan trong nuớc ASEAN vẫn được tự do riêng để dặt thuế với
những nước còn lại trên thế giới.
2. Nội dung chủ yếu của AFTA.
2.1. CEPT ( Kế hoạch thuế ưu đãi có hiệu lực chung )
CEPT là một cột chính để thành lập AFTA. CEPT ( Common Effective
Preferential Tarif). Được đưa ra nhằm thoả thuận các nước thành viên
22
ASEAN trong việc giảm thuế quan trong thương mại nội bộ ASEAN xuống
0- 5% đồng thời loại bỏ những hạn chế về định lượng các hàng rào phi thuế
quan trong vòng 10 năm bắt đầu từ 1/1/1993 và hoàn thành 1/1/2003 đồng
thời các nước thành viên cũng sẽ đi đến thống nhất giữa các danh mục biếu
thuế và các thủ tục hải quan để thực hiện CEPT.
Các nước ASEAN đã nêu ra 15 nhóm sản phẩm giảm thuế nhanh với
mức thuế ưu đãi phải đạt 0 – 5 % trong thời gian dài nhất là 7 năm ( 5 năm
đối với hàng hoá chọn thuế thấp ) 15 nhóm sản phẩm
Đồ nhựa Đá quý và đồ trang sức
Sản phẩm cao su Cực âm dòng
Sản phẩm da Hàng điện tử
Bột giấy Nội thất bằng gỗ và mây
Hàng dệt Hoa chất
Dàu thực vật Dược phẩm
Xi măng Phân bón
Sản phẩm gốm và thuỷ tinh
Đối với nhóm giảm thông thường tốc độ giảm hơn và những hàng hoá
chịu thuế cao hơn thì việc giảm thuế có thể thực hiện trong 15 năm.
Ban đầu, người ta dự tính có thể áp dụng CEPT cho tất cả các hàng hoá
chế tạo nhưng cho phép thực hiện ngoại lệ đối với các hàng hoá dễ bị tổn
thương và khó tính cạnh tranh trực tiếp. Tuy nhiên, ngoài những trường hợp
hạn chế buôn bán là cần thiết để đảm bảo an toàn an ninh quốc gia, sức khoẻ
và truyền thống văn hoá. Và việc loại bỏ ra khỏi CEPT các sản phẩm chỉ
mang tính tạm thời. Một nước thành viên laọi bỏ tạm thời một sản phẩm thì sẽ
không còn tư cách để hướng sự xâm nhập ưu đãi cho sản phẩm đó vào thị
trường các quốc gia thành viên khác. Việc đình chỉ ưu đãi chỉ phù hợp với
điều XIX của GRATT ( hành động khẩn cấp về nhập khẩu các sản phẩm đặc
biệt ) .
Năm 1994 ASEAN đồng ý với tiến trình giảm thuế như sau.
1) Đối với hàng hoá theo thời gian thực hiện bình thường.
- Thuế suất trên 20% sẽ giảm xuống dưới 20% vào ngày 1/11/1998 và
sau đó còn 0 – 5%vào ngày 1/1/2003.
23
- Thuế suất đã ở dưới mức 20% sẽ được giảm xuống 0 – 5% vào
ngày1/1/2000.
2) Đi với hàng hoá theo thời gian thực hiện nhanh.
- Thuế suất trên 20% sẽ được giảm xuống 0 – 5% vào 1/1/2000.
- Thuế suất đã ở dưới mức 20% sẽ được giảm còn 0 – 5% vào
ngày1/1/1998.
* Danh sách các cửa hàng tạm thời không thuộc CEPT sẽ bị loại bỏ
những sản phẩm hiện đang nằm ngoài CEPT theo chu kỳ sẽ được đặt vào
danh sách CEPT vào thời gian bắt đầu từ 1/1/1995.
* Những nông sản thô hoặc chưa qua chế biến bây giờ sẽ được đưa vào
CEPT Trước đây loại sản phẩm này nằm trong kế hoạch mậu dịch ưu đãi
(PTA).
* Sẽ thành lập một đơn vị AFTA trong ban thư ký ASEAN và trong tất
cả các nước thành viên để đảm bảo một sự phối hợp giải quyết tốt hơn những
vấn đề CEPT.
Phạm vi áp dụng của CEPT .
CEPT áp dụng cho tất cả các hàng hoá chế tạo là của ASEAN bao gồm
tư liệu sản xuất, nông sản chế biến và những sản phẩm phi nông nghiệp khác .
Một hàng hoá đạt tiêu chuẩn của ASEAN nếu ít nhất đạt 40% nghuyên vật
liẹu của nó xuất xứ từ bất kỳ một nuức thành viên ASEAN nào đó. Trên thực
tế, yêu cầu này thấp hơn yêu cầu hàm lượng địa phương của hầu hết các klhối
mậu dịch tự do khác như 50% giá trị tăng thêm địa phương trong khối AFTA
và trong hiệp định New Zealand – Australia, AFTA yêu cầu giá trị vật tư và
chi phí chế biến trực tiếp phải xuất phát từ khối.
Theo quyết định thông qua năm 1994, những nông sản thô hoặc chưa
qua chế biến sẽ phải đáp ứng tiêu chuẩn trên, dịch vụ được loại ra khỏi CEPT.
Nguyên tắc xuất xứ của ASEAN có nghĩa là có sự nhất trí chuyển hướng mậu
dịch và đầu tư sang nông nghiệp, công nghiệp chế tạo và các ngành khác.
- Việc tham gia CEPT sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thương mại. Tham
gia AFTA sẽ có một tác động trực tiếp nhất tới yếu tố gía cả của hàng hoá,
bởi vì việc cắt giảm thuế, đơn giản hoá thủ tục buôn bán thì giá bán của hàng
hoá sẽ hạ hơn. Các yếu tố khác như chất lượng, mẫu mã cũng sẽ thay đổi do
sức ép cạnh tranh trong nội bộ AFTA.
24