Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Chất lượng đội ngũ công chức cấp xã ở tỉnh bắc giang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (902.36 KB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

VŨ ĐỨC TÁM

CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC CẤP XÃ
Ở TỈNH BẮC GIANG HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

VŨ ĐỨC TÁM

CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC CẤP XÃ
Ở TỈNH BẮC GIANG HIỆN NAY

Ngành: Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước


Mã số: 8 31 02 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ
XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS,TS. Dương Trung Ý

HÀ NỘI – 2018


LUẬN VĂN ĐÃ ĐƯỢC CHỈNH SỬA THEO KHUYẾN NGHỊ
CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM LUẬN VĂN THẠC SĨ

Hà Nội, ngày ...... tháng ...... năm 2018
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG

PGS, TS. Trương Ngọc Nam


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi.
Các số liệu và nội dung trong luận văn là trung thực, khách quan dựa trên cơ
sở kết quả thu thập các thông tin, tài liệu nghiên cứu thực tế và các tài liệu
tham khảo đã công bố.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Vũ Đức Tám



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC CẤP XÃ - CƠ SỞ
LÝ LUẬN.................................................................................................... 11
1.1. Cấp xã và đội ngũ công chức cấp xã .................................................. 11
1.2. Chất lượng đội ngũ công chức cấp xã - khái niệm, tiêu chí đánh giá 20
Chương 2: CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC CẤP XÃ Ở TỈNH
BẮC GIANG HIỆN NAY - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA....................................................................... 37
2.1. Các yếu tố tác động đến chất lượng đội ngũ công chức cấp xã của tỉnh
Bắc Giang................................................................................................. 37
2.2. Thực trạng chất lượng đội ngũ công chức cấp xã của tỉnh Bắc Giang...... 44
2.3. Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra ................................................. 57
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC CẤP XÃ Ở TỈNH BẮC
GIANG THỜI GIAN TỚI ......................................................................... 63
3.1. Dự báo những thuận lợi, khó khăn tác động đến việc nâng cao chất
lượng đội ngũ công chức cấp xã ở tỉnh Bắc Giang.................................... 63
3.2. Phương hướng nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cấp xã ở tỉnh
Bắc Giang thời gian tới............................................................................. 66
3.3. Những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cấp
xã ở tỉnh Bắc Giang .................................................................................. 69
KẾT LUẬN ................................................................................................. 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 83
PHỤ LỤC.................................................................................................... 88
TÓM TẮT LUẬN VĂN ............................................................................. 95


1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng nước ta đã
đạt được những thành tựu hết sức to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Một trong những
nhân tố đóng vai trị quan trọng làm nên thắng lợi đó là nhờ Đảng ta đã xây
dựng được đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách
mạng qua các thời kỳ. Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nêu
lên những quan điểm, tư tưởng của mình về vai trị của đội ngũ cán bộ, những
người dẫn dắt phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân. Người khẳng
định: “cán bộ là cái gốc của mọi công việc; muôn việc thành công hoặc thất
bại đều do cán bộ tốt hay kém; huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”
[43, tr.240-269]. Thực hiện lời dạy của Người và trước yêu cầu thực tiễn của
sự nghiệp đổi mới, cải cách hành chính đất nước hiện nay địi hỏi phải có đội
ngũ cơng chức nói chung, công chức xã, phường, thị trấn (gọi chung là công
chức cấp xã) nói riêng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cả về phẩm chất, năng lực,
và trình độ chun mơn, nghiệp vụ công tác.
Công chức cấp xã là lực lượng tiếp xúc trực tiếp, gần nhất với nhân
dân, tiếp thu và phản ánh những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân tới cấp có
thẩm quyền, là cầu nối giữa nhân dân địa phương với Đảng, Nhà nước. Chính
vì vậy, những chính sách, chế độ của Đảng và Nhà nước có đến được tay
nhân dân hay không đều gắn với trách nhiệm thực hiện công việc của đội ngũ
công chức cơ sở này. Việc lựa chọn người có đủ tiêu chuẩn, thật sự có tâm và
bố trí, sắp xếp, sử dụng đội ngũ cơng chức cấp xã có vai trị, ý nghĩa hết sức
quan trọng.
Lý luận và thực tiễn đã chứng minh, chất lượng đội ngũ cơng chức
chính quyền cấp xã là nhân tố then chốt trong xây dựng hệ thống chính quyền
cơ sở vững mạnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy "Cấp xã là gần gũi dân nhất,


2


là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi cơng việc đều xong
xi" [44, tr.371]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa IX đã chỉ ra: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức ở cơ sở có
năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tuỵ với dân, biết phát huy sức
dân, không tham nhũng, khơng ức hiếp dân; trẻ hóa đội ngũ, chăm lo công tác
đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ,
cơng chức cơ sở ” [28, tr.167-168]. Kết luận số 37-KL/TW của Hội nghị
Trung ương 9 (khoá X) về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược cán bộ đến
năm 2020 đề ra mục tiêu là xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị
vững vàng, phẩm chất và năng lực tốt, có cơ cấu phù hợp với chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục,
vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới
[29, tr.42] v.v...
Bắc Giang là tỉnh miền núi nằm ở phía Đơng Bắc của Tổ quốc, có 09
huyện và 01 thành phố; 230 xã, phường, thị trấn. Dân số của tỉnh gần 1,7 triệu
người, với trên 20 dân tộc. Đảng bộ tỉnh có 15 đảng bộ trực thuộc; 738 chi,
đảng bộ cơ sở; 4.622 chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở, với 80.761 đảng viên;
tổng số cơng chức cấp xã hiện có 2.665 người. Trong những năm qua, Tỉnh
ủy, UBND tỉnh luôn quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ công chức cấp xã
“vừa hồng, vừa chuyên”, quan tâm tuyển dụng, đào tạo đội ngũ công chức
đảm bảo các tiêu chuẩn. Chất lượng đội ngũ cơng chức đã từng bước được
củng cố, hồn thiện đáp ứng yêu cầu công tác trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy đội ngũ công chức cấp xã của tỉnh Bắc
Giang vẫn chưa thực sự đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quản lý nhà nước trong
tình hình mới như: Cơ cấu độ tuổi đội ngũ công chức cơ sở chưa đảm bảo, tỷ
lệ tuổi trẻ, nữ thấp; trình độ, năng lực cơng tác chưa đồng đều; kinh nghiệm



3

thực tiễn, kỹ năng xử lý tình huống, giải quyết các vụ việc chưa khoa học, hợp
lý; một số công chức thiếu gương mẫu trong giữ gìn phẩm chất, đạo đức, lối
sống và tinh thần trách nhiệm trong công việc; tính chủ động, sáng tạo và
năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ có mặt chưa đáp ứng yêu cầu v.v…
Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu và đánh giá thực trạng chất lượng đội
ngũ công chức cấp xã của tỉnh Bắc Giang, chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế,
nguyên nhân và đề xuất những giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng đội
ngũ công chức cấp xã của tỉnh thời gian tới là hết sức cần thiết. Với ý nghĩa
đó, tác giả chọn vấn đề “Chất lượng đội ngũ công chức cấp xã ở tỉnh Bắc
Giang hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng và
Chính quyền nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức nói chung và chất lượng
đội ngũ cơng chức cấp xã nói riêng đã được nhiều chun gia, nhà khoa học
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Có thể liệt kê một số cơng trình
nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực này như sau:
* Các sách đã xuất bản:
- PGS.TS Bùi Tiến Qúy: “Một số vấn đề tổ chức và hoạt động của
chính quyền địa phương trong giai đoạn hiện nay ở nước ta”, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2000. Tác giả đã đưa ra các vấn đề trong tổ chức và hoạt
động của chính quyền địa phương, những mặt tồn tại, hạn chế, nguyên nhân
và hướng đến biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt dộng của chính quyền
địa phương ở nước ta hiện nay.
- PGS.TS Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS Trần Xuân Sầm: “Luận cứ
khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Nxb Chính trị quốc
gia, 2003. Các tác giả đã trình bày khái niệm, lý giải các căn cứ khoa học của

việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và đưa ra những kiến


4

nghị về phương hướng giải pháp nhằm củng cố, phát triển đội ngũ này cả về
chất lượng, số lượng và cơ cấu.
- TS. Nguyễn Văn Sáu và GS. Hồ Văn Thông chủ biên: “Thực hiện quy
chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta”, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2003. Các tác giả đã làm rõ các khái niệm, lý giải các căn cứ
khoa học của quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền ở các nước trên thế
giới và cụ thế hóa việc thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền
cấp xã ở nước ta.
- Trần Đình Hoan: “Đánh giá quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo,
quản lý thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2009. Cuốn sách đã góp phần làm rõ những vấn đề lý luận, thực
tiễn về xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức nói chung, công tác đánh giá, quy
hoạch, luân chuyển, đào tạo đội ngũ cán bộ, cơng chức nói riêng để từ đó đề
ra các giải pháp hiệu quả hiệu quả cho công tác cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phương, “Cơ sở lý luận và thực
tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2005. Cơng trình nghiên cứu nêu lên những vấn đề cơ bản cần phải đổi mới
đội ngũ cán bộ, cơng chức đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình hiện nay. Các tác
giả đã đánh giá sâu sắc và sát thực tế những vấn đề lớn đang đặt ra đối với cán
bộ, công chức.
* Luận án Tiến sĩ và luận văn Thạc sĩ:
- Phạm Công Khâm (2002), luận án tiến sĩ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ
cấp xã vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long hiện nay”. Luận án đã chỉ
ra thực trạng đội ngũ cán bộ cấp xã vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu

Long đồng thời đưa ra giải pháp chủ yếu để xây dựng đội ngũ này trong thời
gian tới.


5

- Mai Đức Ngọc (2007), luận án tiến sĩ: “Vai trò cán bộ lãnh đạo chủ
chốt cấp xã trong việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn nước ta
hiện nay” (qua thực tế vùng đồng bằng Sơng Hồng). Tác giả đã làm rõ vai trị
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã trong việc giữ vững ổn định
chính trị - xã hội ở nông thôn, đồng thời đưa ra giải pháp để nâng cao vài trị
của đội ngũ này, góp phần vào việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp
hóa - hiện đại hóa đất nước.
- Trần Thanh Nhàn (2014), luận án tiến sĩ, “Quy hoạch đội ngũ cán bộ
thuộc diện Ban Thường vụ tỉnh, thành ủy quản lý ở đồng bằng Bắc Bộ hiện
nay”. Luận án đã chỉ ra những vấn lý luận và thực tiễn liên quan đến quy
hoạch đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ tỉnh, thành ủy quản lý ở đồng bằng
Bắc bộ hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả đã phân tích kết quả đạt được và hạn
chế còn tồn tại, nguyên nhân và đưa ra phương hướng giải pháp khắc phục.
- Đỗ Thị Thanh Huyền (2013), luận văn thạc sĩ, “Quản lý đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên hiện nay”. Tác giả đã
đưa ra một số khái niệm chung về quản lý đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã;
thực trạng quản lý và những vấn đề đặt ra trong quản lý đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã ở huyện Văn Giang …Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những mục
tiêu, phương hướng và giải pháp nhằm quản lý tốt đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã ở huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.
- Nguyễn Hữu Thắng (2015), luận văn thạc sĩ, “Đảng bộ tỉnh Bắc
Giang lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn từ
năm 2005 đến năm 2014”. Tác giả đã đưa ra một số khái niệm và những nhân
tố tác động đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Bắc

Giang; quá trình vận dụng quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã đáp ứng yêu cầu đổi mới; rút ra bài học kinh nghiệm trong
việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Bắc Giang hiện nay.


6

- Lò Văn Hương (2015), luận văn thạc sĩ, “Chất lượng cán bộ, công
chức cấp xã ở tỉnh Lai Châu hiện nay”. Tác giả đã đưa ra một số khái niệm
chung về chất lượng cán bộ, công chức cấp xã; thực trạng chất lượng và
những vấn đề đặt ra trong việc nâng cao chất lượng cán bộ, công chức cấp xã
ở tỉnh Lai Châu… Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những mục tiêu, phương
hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cán bộ, công chức cấp xã ở ở
tỉnh Lai Châu.
- Lý Thị Huệ (2017), luận văn thạc sĩ, “Chất lượng đội ngũ công chức
các phường ở Quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội hiện nay”. Tác giả đã đưa
ra một số khái niệm chung, quan niệm về chất lượng ngũ công chức các
phường; các yếu tố ảnh hưởng; thực trạng chất lượng, chỉ ra những hạn chế và
nguyên nhân. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những mục tiêu, quan điểm và giải
pháp nâng cao chất lượng đội ngũ công chức các phường ở quận Hoàng Mai,
thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
* Các bài báo, tạp chí:
- Hồi Nhân, “Nâng cao chất lượng cán bộ cơ sở: những vấn đề lý luận
và thực tiễn”,Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 12, 2002, tr.39, 52. Tác giả nêu
lên số liệu thống kê của tỉnh Bình Dương về trình độ mọi mặt của đội ngũ cán
bộ cơ sở, chỉ ra những bất cập cần khắc phục và những trăn trở, băn khăn của
đội ngũ cán bộ cơ sở trước những thực trạng đáng báo động về tình hình hoạt
động và chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở. Từ đó, tác giả đưa ra những giải
pháp nâng cao chất lượng cán bộ cơ sở.
- Lê Đức Bình, “Vấn đề cán bộ ở cơ sở xã, phường, thị trấn”, Báo

Nhân dân,tháng 7-2002, tr.3. Trong bài báo, tác giả khẳng định cán bộ cơ sở
là hạt nhân, là lực lượng nịng cốt của hệ thống chính trị ở cơ sở. Tuy nhiên,
do nhận thức chưa đầy đủ vị trí, vai trị của cán bộ cơ sở, nên các cấp uỷ đảng,
chính quyền chưa quan tâm đúng mức đến cơng tác cán bộ ở cơ sở. Từ đó, tác


7

giả cho rằng, cần giáo dục cán bộ về đạo đức cách mạng, kiến thức, năng lực
thực tiễn; để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
- Hoàng Chí Bảo, “Quan điểm và giải pháp để củng cố và tăng cường
hệ thống chính trị ở cơ sở”, Tạp chí Dân vận, số 1+2-2002, tr.16-18. Tác giả
trình bày hai phần lớn: Quan điểm chỉ đạo nhằm củng cố, tăng cường hệ
thống chính trị ở cơ sở; những giả pháp cấp bách tập trung chủ yếu vào lĩnh
vực chính quyền cơ sở (xã, phường, thị trấn). Tác giả coi đây là lĩnh vực có
nhiều tình huống phức tạp hơn cả và là khâu đột phá.
- Nguyễn Thị Hồng Hải, “Một số vấn đề về phát triển năng lực của cán
bộ, cơng chức”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước số 1, 2011. Tác giả đã tập trung
làm rõ lý luận về năng lực, cơ sở hình thành năng lực của cán bộ, công chức.
Tác giả khẳng định công chức không chỉ cần đến năng lực hiện tại mà phải
xác định những năng lực cần được lĩnh hội trong tương lai để đáp ứng yêu cầu
công việc ngày một cao hơn. Tác giả cũng đã đưa ra một số giải pháp phát
triển năng lực phù hợp với mơi trường hành chính nhà nước.
- Nguyễn Tiến Trung, “Tiếp tục xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức nhà nước giai đoạn 2011-2020”, Tạp chí Tổ chức nhà nước
số tháng 4/2011. Bài viết khẳng định tầm quan trọng của của việc xây dựng và
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức trong giai đoạn cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, tác giả cũng đã đưa ra một số giải pháp nhằm thực
hiện có hiệu quả nhiệm vụ này.
- Ngô Thành Can, “Chất lượng thực thi công vụ - vấn đề then chốt của

cải cách hành chính”. Nội san khoa Tổ chức và quản lý nhân sự - Học viện
Hành chính, số 12, 2012. Tác giả đã có những đóng góp nhất định trong việc
làm sáng tỏ lý luận về công vụ và trách nhiệm công vụ. Tác giả cũng đưa ra
một số giải pháp quan trọng nhằm nâng cao chất lượng thực thi công vụ của
đội ngũ công chức như đổi mới quy trình tuyển dụng, thi nâng ngạch cơng
chức có cạnh tranh, đổi mới cơng tác đào tạo, bồi dưỡng.


8

- Trần Thị Hạnh, “Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã từ
sau Hội nghị Trung ương 5 khóa IX và một số kiến nghị”, Tạp chí Cộng sản
ngày 03/7/2015. Bài viết chủ yếu đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ, cơng
chức cấp xã và qua đó đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 5 khóa IX, ngày 18/3/2002, “Về đổi mới và nâng cao chất lượng
hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”, đồng thời đề xuất các giải
pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, nhằm đạt được
mục tiêu như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX đã đề ra.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến những góc
độ khác nhau về cơng tác cán bộ nói chung và chất lượng cán bộ, cơng chức
nói riêng cả về lý luận và thực tiễn. Những đề tài trên là tài liệu có ý nghĩa
tham khảo rất có giá trị khi nghiên cứu về chất lượng công chức cấp xã trong
giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có luận văn, luận án nào
nghiên cứu về chất lượng đội ngũ công chức cấp xã ở tỉnh Bắc Giang hiện
nay. Vì vậy, tác giả chọn nghiên cứu đề tài này trên cơ sở kế thừa có chọn
lọc, khoa học các cơng trình đã cơng bố nhằm góp phần nhỏ của mình trong
việc đánh giá, nhận định, tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất giải pháp để đáp
ứng đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng và phát triển tỉnh Bắc giang trong giai
đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất
lượng đội ngũ công chức cấp xã, luận văn đề xuất phương hướng và các giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cấp xã ở tỉnh
Bắc Giang hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ thể:
Một là, làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về chất lượng đội ngũ công
chức cấp xã.


9

Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ công chức
cấp xã ở tỉnh Bắc Giang trong những năm qua, chỉ rõ nguyên nhân của thực
trạng, những vấn đề đặt ra từ thực tiễn.
Ba là, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng đội
ngũ công chức cấp xã ở tỉnh Bắc Giang trong những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu chất lượng đội ngũ công chức cấp xã ở tỉnh Bắc
Giang hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Đề tài nghiên cứu chất lượng đội ngũ công chức cấp
xã thuộc tỉnh Bắc Giang hiện nay.
Về thời gian: từ năm 2013 đến nay (2017), đề xuất giải pháp cho thời
gian tới.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống các quan điểm, đường lối, chủ

trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về cán bộ, công chức
và chất lượng đội ngũ cơng chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở.
5.2. Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn là chất lượng và hoạt động nâng cao chất lượng đội
ngũ công chức cấp xã ở tỉnh Bắc Giang. Luận văn có sử dụng báo cáo tổng
kết năm, nhiệm kỳ, đề án của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân
tỉnh, Sở Nội vụ và Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố trực thuộc tỉnh;
một số kết quả điều tra xã hội học của Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Sở Nội vụ về
các vấn đề có liên quan đến đề tài luận văn.


10

5.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Luận văn còn sử dụng các phương pháp cụ thể như: lôgic - lịch sử; so
sánh - đối chiếu; phân tích - tổng hợp; chọn điểm nghiên cứu; nghiên cứu tài
liệu, tổng kết thực tiễn.
6. Đóng góp về khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
6.1. Đóng góp về khoa học
Một là, luận văn góp phần làm rõ một số quan điểm lý luận về chất
lượng đội ngũ công chức cấp xã; làm rõ khái niệm và đặc điểm của đội ngũ
công chức cấp xã; làm rõ khái niệm và tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ
công chức ở tỉnh Bắc Giang.
Hai là, dựa trên phân tích thực tế, đề tài chỉ ra những ưu điểm, hạn chế
và nguyên nhân về chất lượng đội ngũ công chức cấp xã của tỉnh Bắc Giang;
trên cơ sở đó luận văn đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao
chất lượng đội ngũ cơng chức cấp xã ở tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp cơ sở khoa học
cho cấp ủy, chính quyền các cấp của tỉnh Bắc Giang trong việc lãnh đạo, chỉ
đạo nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cấp xã hiện nay và những năm
tiếp theo. Bên cạnh đó, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên
cứu, học tập tại các trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện, thành phố và
Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 03 chương, 08 tiết.


11

Chương 1
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC CẤP XÃ - CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Cấp xã và đội ngũ công chức cấp xã
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của cấp xã
1.1.1.1. Khái niệm cấp xã, đặc điểm cấp xã
Trong hệ thống hành chính nước ta, xã - phường - thị trấn (gọi chung là
cấp xã) là cấp cơ sở thấp nhất trong hệ thống chính quyền 4 cấp bao gồm:
Trung ương - tỉnh - huyện - xã. Trong q trình xây dựng, hồn thiện bộ máy
nhà nước, Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đối với cấp xã. Cùng
với việc hoàn thiện thể chế, chính sách đãi ngộ và đầu tư cơ sở vật chất, Đảng
và Nhà nước luôn chăm lo xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất
đạo đức, trình độ năng lực của đội ngũ công chức cấp xã.
Cấp xã là cấp gần dân nhất, là cầu nối trực tiếp giữa hệ thống chính
quyền cấp trên với nhân dân, hằng ngày tiếp xúc, nắm bắt và phản ánh tâm tư
nguyện vọng của nhân dân. Cấp xã có vai trị rất quan trọng trong việc tổ
chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ

của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế- xã hội, tổ chức cuộc
sống của cộng đồng dân cư.
Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu khái niệm: Cấp xã là cấp
hành chính - lãnh thổ cơ sở, thấp nhất trong hệ thống hành chính 4 cấp của
Nhà nước ta, gồm các đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn. Đây là cấp
hành chính nền tảng, có vai trị rất quan trọng cả về chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, quốc phịng và an ninh của cả nước; là địa bàn sinh sống và lao
động, sản xuất của tất cả mọi người dân; nơi diễn ra các hoạt động của hệ
thống chính trị ở cơ sở, nơi trực tiếp thực hiện các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.


12

Cấp xã có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là, cấp xã có Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở
địa phương và Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu ra là cơ quan chấp
hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Vì
thế, cấp xã là cấp trực tiếp thực hiện nhiệm vụ cụ thể về quản lý hành chính
nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng ở cơ
sở, là cầu nối trực tiếp giữa nhà nước và nhân dân, xử lý trực tiếp, kịp thời
những yêu cầu hàng ngày của nhân dân.
Hai là, cấp xã khác với Trung ương, tỉnh, huyện là tổ chức bộ máy cấp
xã chỉ bao gồm cơ quan quyền lực nhà nước là Hội đồng nhân dân, cơ quan
đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân ở địa phương và Ủy ban
nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân và là cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương, khơng có các cơ quan tư pháp: Viện kiểm sát
nhân dân và Tòa án nhân dân.
Ba là, cấp xã là nơi trực tiếp tiếp xúc với nhân dân; đội ngũ công chức
cấp xã là người hàng ngày trực tiếp giải quyết những vấn đề liên quan đến

mọi quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân đảm bảo theo đúng đường lối, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, các văn bản pháp luật của cấp
trên. Ủy ban nhân dân cịn có trách nhiệm quản lý mọi mặt đời sống của
nhân dân địa phương cho nên trong hoạt động mang nhiều tính chất hành
chính địa phương.
Bốn là, trong hoạt động của cấp xã, giữa Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân có mối liên hệ chặt chẽ với nhau về thẩm quyền, trong đó Ủy ban
nhân dân có ưu thế vượt trội: Cấp xã là một cấp chính quyền cơ sở, bao qt
tồn diện đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng ở địa bàn cơ
sở; Hội đồng nhân dân ban hành nghị quyết, Ủy ban nhân dân tổ chức thực
hiện. Theo Điều 32, Luật tổ chức chính quyền địa phương (2015): “Hội đồng
nhân dân xã gồm các đại biểu Hội đồng nhân dân do cử tri ở xã bầu ra;


13

Thường trực Hội đồng nhân dân xã gồm Chủ tịch Hội đồng nhân dân, một
Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân (hoạt động chuyên trách); Hội đồng nhân
dân xã thành lập Ban pháp chế, Ban kinh tế - xã hội, các ban có Trưởng ban
và 01 Phó trưởng ban và các ủy viên (hoạt động kiêm nhiệm)”. Đối với cấp
tỉnh và cấp huyện: “Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có Thường trực
Hội đồng nhân dân và các ban của Hội đồng nhân dân (hoạt động chuyên
trách)”. Với cơ cấu tổ chức như trên, các ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
và cấp huyện có khả năng soạn thảo các nghị quyết, thực hiện chức năng
quyết định các biện pháp, chủ trương về các vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện. Trong khi đó, ở cấp xã các ban của Hội
đồng nhân dân hoạt động kiêm nhiệm, việc chuẩn bị các kỳ họp dựa vào bộ
máy của Ủy ban nhân dân và mỗi năm họp thường kỳ 2 lần. Vì vậy, hoạt động
của Ủy ban nhân dân có ưu thế vượt trội hơn.
Năm là, các đơn vị hành chính cấp xã, được hình thành trên nền tảng

những địa điểm quần cư, nó liên kết dân cư trong một khối liên hoàn thống
nhất. Mọi vấn đề của địa phương đều liên quan chặt chẽ với nhau và cần phải
được giải quyết trên cơ sở kết hợp hài hịa các lợi ích: Nhà nước, dân cư và
giữa dân cư với nhau.
1.1.1.2. Vị trí, vai trị của cấp xã
Trong hệ thống hành chính bốn cấp ở nước ta, xã, phường, thị trấn là đơn
vị hành chính cấp cơ sở, có vai trị là nền tảng vững chắc của hệ thống đó.
Đây là cấp giữ vị trí hết sức quan trọng; là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân
sinh sống, nơi trực tiếp diễn ra mọi hoạt động của đời sống xã hội. Đồng thời,
xã, phường, thị trấn còn là nơi vận động quần chúng nhân dân thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhiệm
vụ cấp trên giao; phát huy sức mạnh đại đoàn kết và quyền làm chủ của nhân
dân. Xã, phường, thị trấn là một hình ảnh của một xã hội thu nhỏ. Thơng qua
hệ thống chính trị, xã, phường, thị trấn, các cấp ủy và chính quyền cơ sở kịp


14

thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân phản ảnh với
Đảng và Nhà nước, tạo nên cầu nối mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân
dân trong lãnh đạo, quản lý nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội ở địa phương. Bên cạnh đó, đây là nơi kiểm nghiệm tính đúng đắn
của đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, từ đó đóng góp
những kinh nghiệm quý báu, phát hiện, đề xuất, kiến nghị với Đảng, Nhà
nước điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách,
pháp luật phù hợp với điều kiện khách quan của mỗi giai đoạn cách mạng và
tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của quần chúng nhân dân.
Cấp xã là cấp gần dân nhất, là cầu nối trực tiếp giữa hệ thống chính
quyền cấp trên với nhân dân, hàng ngày tiếp xúc, nắm bắt và phản ánh tâm tư
nguyện vọng của nhân dân. Cấp xã có vai trị rất quan trọng trong việc tổ

chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế- xã hội, tổ chức cuộc
sống của cộng đồng dân cư.
Chính vì vậy, nói về vị trí, vai trò của cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn),
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cấp xã là cấp gần gũi dân nhất, là nền
tản của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi cơng việc đều xong
xi” [43, tr.371].
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Đảng ta chủ trương hướng mạnh về
cơ sở, quan tâm củng cố cơ sở xã hội của chính trị, đề cao các sáng kiến, sáng
tạo từ cơ sở. Đảng ta còn nhấn mạnh cơ sở là nơi chính quyền trong lịng dân,
nơi đưa đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực
tiễn cuộc sống; phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân, phát triển
kinh tế - xã hội; giữ vững ổn định chính trị,v.v…
Xét về mặt tổ chức đảng, xã, phường, thị trấn (cấp cơ sở) là nơi thiết lập
các tổ chức cơ sở đảng giữ vai trị là hạt nhân chính trị ở cơ sở, nơi tiến hành


15

các hoạt động xây dựng nội bộ Đảng, nơi lãnh đạo cán bộ, đảng viên và nhân
dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước và là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, nơi Đảng nắm và hiểu rõ tâm tư
của nhân dân để phản ánh với Đảng.
Tóm lại, xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cấp cơ sở, nơi thiết lập
và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở và các tổ chức kinh tế, xã hội khác
nhau, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng. Xã, phường, thị
trấn phát triển toàn diện và vững mạnh thì huyện mạnh; huyện mạnh thì tỉnh
mạnh và tỉnh mạnh góp phần cùng cả nước phát triển mạnh, bền vững sánh
vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới. Ngược lại, cấp cơ sở yếu

kém, không ổn định, phát triển thiếu bền vững, tình hình an ninh chính trị
diễn biến phức tạp, thì sẽ ảnh hưởng rất lớn và trực tiếp đến huyện, thành phố
và tỉnh. Điều đó khẳng định chủ trương của Đảng ta hướng mạnh về cơ sở;
khắc phục tình trạng hành chính hóa, xa dân, phơ trương, hình thức.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trị của đội ngũ cơng chức cấp xã
1.1.2.1. Khái niệm đội ngũ công chức cấp xã
* Khái niệm công chức
Công chức theo nghĩa chung là những người được tuyển dụng, bổ
nhiệm vào các chức danh trong các cơ quan nhà nước (trong đó tập trung vào
các cơ quan hành chính nhà nước) để thực thi hoạt động cơng vụ và được
hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Công chức của một quốc gia thường là cơng dân, người có quốc tịch
của nước sở tại và thường nằm trong biên chế. Tuy vậy, nội hàm thuật ngữ
“cơng chức” và vị trí việc làm của công chức ở các quốc gia là không giống
nhau, và ở trong cùng một quốc gia ở các thời điểm khác nhau cũng có thể
khơng giống nhau, cụ thể:
Khi đất nước giành độc lập, ngày 20 tháng 5 năm 1950, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh 76/SL về “Quy chế công chức”, đây được
xem là văn bản pháp luật đầu tiên có liên quan trực tiếp đến khái niệm này.


16

Quy chế xác định rõ nghĩa vụ, quyền lợi của công chức, cùng các thể lệ về
việc tổ chức, quản trị và sử dụng các ngạch cơng chức trong tồn quốc, “Cơng
chức là những cơng dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ
một chức vụ thường xuyên trong cơ quan Chính phủ, ở trong nước hay ở
nước ngồi đều là cơng chức theo quy chế này, trừ trường hợp riêng biệt do
Chính phủ quy định” [42, tr.1].
Đến thời kỳ đổi mới năm 1986, trước yêu cầu khách quan cải cách nền

hành chính và địi hỏi phải chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, cơng chức nhà nước,
khái niệm công chức được sử dụng trở lại trong Nghị định 169/HĐBT ngày
25/5/1991 của Hội đồng Bộ trưởng. Nghị định nêu rõ: “Công dân Việt Nam
được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong một công
sở của nhà nước ở Trung ương hay địa phương, ở trong nước hay ngoài nước,
đã được xếp vào một ngạch, hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp gọi là
công chức nhà nước” [36, tr.1].
Năm 1998, Pháp lệnh Cán bộ, công chức ra đời, là văn bản pháp lý cao
nhất của nước ta về cán bộ, công chức. Hướng dẫn Pháp lệnh có Nghị định số
95/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức.
Nghị định đã đưa ra khái niệm công chức một cách rõ ràng, cụ thể hơn: Công
chức là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước, bao gồm những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một cơng
việc thường xun, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn,
được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp; những người làm việc trong cơ
quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân và công an nhân dân mà không phải là sĩ
quan, quân nhân chuyên nghiệp và cơng nhân quốc phịng.
Để tiếp tục hồn thiện chính sách pháp luật đáp ứng yêu cầu của thời
kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế,
ngày 13/11/2008, tại kỳ họp thứ tư Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam khóa XII đã ban hành Luật cán bộ, cơng chức. Theo Điều 4


17

của của Luật cán bộ, cơng chức năm 2008 thì khái niệm công chức được
thống nhất như sau:
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh,

cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà
không phải là sĩ quan, qn nhân chun nghiệp, cơng nhân quốc
phịng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không
phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo,
quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn
vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của
đơn vị sự nghiệp cơng lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của
đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật [50, tr.8,9].
Như vậy, công chức là thuật ngữ dùng để chỉ những người làm việc
thường xuyên trong bộ máy hành chính nhà nước. Họ được tuyển dụng, bổ
nhiệm và làm việc ổn định theo những chuyên môn nhất định, được Nhà nước
trả lương và bảo đảm những điều kiện vật chất, tinh thần để thi hành cơng vụ.
Lao động của cơng chức mang tính nghề nghiệp và chịu sự điều chỉnh bởi các
quy định của pháp luật.
* Khái niệm đội ngũ công chức cấp xã
Theo từ điển Tiếng Việt thì “đội ngũ” là tập hợp một số đơng người có
cùng chức năng hoặc nghề nghiệp.
Luật cán bộ, cơng chức được Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XII, thơng qua ngày 13 tháng 11 năm 2008, tại điều 4
quy định: Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một
chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhan dân cấp xã trong biên
chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.


18

Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ quy định
về chức danh, số lượng, một số chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức

xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách cấp xã;
Nghị định 112/2011/NĐ-CP của Chính phủ quy định về cơng chức xã,
phường, thị trấn thì cơng chức cấp xã bao gồm các chức danh sau:
- Trưởng Công an;
- Chỉ huy trưởng Quận sự;
- Văn phịng - Thống kê;
- Địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn)
hoặc địa chính - nơng nghiệp - xây dựng và mơi trường (đối với xã);
- Tài chính - Kế tốn;
- Tư pháp - Hộ Tịch;
- Văn hóa - Xã hội.
Như vậy, có thể hiểu khái niệm “đội ngũ công chức cấp xã”: Đội ngũ
công chức cấp xã là tập hợp những công chức làm công tác chuyên môn,
nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã.
1.1.2.2. Đặc điểm, vai trị của đội ngũ cơng chức cấp xã
* Đặc điểm chung của đội ngũ công chức cấp xã
Công chức cấp xã là một bộ phận trong đội ngũ công chức nhà nước,
được hình thành từ việc tuyển dụng nên cũng mang những đặc điểm giống với
đội ngũ công chức nói chung. Là lực lượng có đặc thù riêng nên đội ngũ cơng
chức cấp xã có những đặc điểm sau đây:
Là đội ngũ có số lượng lớn, đóng vai trị quan trọng trong việc tổ chức,
triển khai thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước.
Công chức cấp xã được hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Cán bộ,
công chức cấp xã do cấp huyện quản lý.


19

Nguồn hình thành đội ngũ cơng chức cấp xã rất đa dạng, do xét tuyển,

thi tuyển.
Công chức cấp xã tương đối ổn định, tuy nhiên các chức danh công
chức như: địa chính- xây dựng, kế tốn là những chức danh thường xuyên
biến động, thay đổi địa bàn công tác do yêu cầu thực hiện nhiệm vụ luân
chuyển cán bộ của cấp trên.
Trình độ chun mơn của đội ngũ cơng chức cấp xã hiện nay khá đồng
đều. Đại đa số công chức đều có trình độ đại học, cao đẳng chỉ cịn một số
lượng nhỏ cơng chức gần đến tuổi nghỉ hưu có trình độ trung cấp. Tuy nhiên,
cịn một bộ phận cơng chức có trình độ đại học nhưng chun mơn chưa sát
với cơng việc đang thực thi.
* Vai trị của đội ngũ công chức cấp xã
Hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước cấp xã có vai
trị rất quan trọng trong đời sống xã hội, đặc biệt là giai đoạn chuyển sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự ổn định và năng động của
hệ thống các quan hệ xã hội hình thành trên cơ sở nền kinh tế thị trường tùy
thuộc rất nhiều vào hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước
cấp xã. Do đó đội ngũ cơng chức cấp xã có những vai trị nhất định như:
Đội ngũ công chức cấp xã gần gũi với nhân dân, gắn bó với nhân dân,
cho nên cơng chức cấp xã có vị trí và vai trị quan trọng trong công cuộc đổi
mới và xây dựng địa phương, là lực lượng nòng cốt, thực hiện các nhiệm vụ
quan trọng của địa phương. Họ là những người trực tiếp lắng nghe, giải quyết,
đề xuất lên cấp trên những đề xuất, nhu cầu chính đáng của nhân dân.
Cơng chức cấp xã là người trực tiếp tuyên truyền, phổ biến các chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến nhân dân; làm cho
các tầng lớp nhân dân hiểu đúng, hiểu đầy đủ các chủ trương, chính sách
Đảng, pháp luật của Nhà nước, trên cơ sở đó sẽ tham gia, đóng góp vào việc
thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách Đảng, pháp luật của Nhà nước.


20


Cơng chức cấp xã có vai trị quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả
hoạt động của Ủy ban nhân dân, trực tiếp thực thi pháp luật, công vụ, thực thi
quyền nhà nước trên địa bàn. Là đội ngũ chủ yếu trực tiếp tổ chức, phối hợp
hoạt động giữa các bộ phận và nhân dân trong việc thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tạo môi trường, điều
kiện về sử dụng công cụ kinh tế, thực lực kinh tế để tác động, quản lý, điều
tiết nền kinh tế thị trường. Là lực lượng nịng cốt có nhiệm vụ đưa các chủ
trương, chính sách và thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước
trở thành thực tiễn, tiếp thu nguyện vọng của nhân dân, nắm bắt những yêu
cầu thực tiễn của cuộc sống để phản ánh kịp thời với cấp trên, giúp Đảng và
Nhà nước đề ra được những chủ trương, chính sách phù hợp với thực tiễn.
1.2. Chất lượng đội ngũ cơng chức cấp xã - khái niệm, tiêu chí
đánh giá
1.2.1. Khái niệm và các yếu tố tác động đến chất lượng đội ngũ công
chức cấp xã
1.2.1.1. Khái niệm chất lượng đội ngũ công chức cấp xã
* Khái niệm “chất lượng”
Chất lượng là một khái niệm có nhiều cách hiểu khác nhau, tùy theo đối
tượng sử dụng, từ “chất lượng” có ý nghĩa khác nhau. Người sản xuất coi chất
lượng là điều họ phải làm để đáp ứng các qui định và yêu cầu do khách hàng
đặt ra, để được khách hàng chấp nhận. Chất lượng được so sánh chất lượng
của đối thủ cạnh tranh và đi kèm theo các chi phí, giá cả. Do con người và
nền văn hóa trên thế giới khác nhau, nên cách hiểu của họ về chất lượng và
đảm bảo chất lượng cũng khác nhau.
Nói như vậy không phải chất lượng là một khái niệm quá trừu tượng.
Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN ISO 8402:1999, đã đưa ra định nghĩa sau: “Chất
lượng là khả năng của tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ thống hay
quá trình để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan”. Ở



×