Tải bản đầy đủ (.docx) (328 trang)

Nghiên cứu giải pháp và đánh giá hiệu quả giáo dục thể chất theo hệ thống tín chỉ cho sinh viên cao đẳng sư phạm giáo dục thể chất trường đại học hồng đức thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (937.41 KB, 328 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN KHOA HỌC THỂ DỤC THỂ THAO

NGUYỄN VĂN TOÀN

NGHIÊN CỨU GIẢI PHÁP VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ
GIÁO DỤC THỂ CHẤT THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ CHO
SINH VIÊN CAO ĐẲNG SƯ PHẠM GIÁO DỤC THỂ CHẤT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC THANH HÓA

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Hà Nội 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN KHOA HỌC THỂ DỤC THỂ THAO

NGUYỄN VĂN TOÀN

NGHIÊN CỨU GIẢI PHÁP VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ
GIÁO DỤC THỂ CHẤT THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ CHO
SINH VIÊN CAO ĐẲNG SƯ PHẠM GIÁO DỤC THỂ CHẤT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC THANH HÓA
Chuyên ngành: Giáo dục thể chất
Mã số:

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. GS.TS. Lê Quý Phượng
2. TS. Vũ Thái Hồng

Hà Nội 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết quả trình bày
trong luận án là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ một cơng trình
nghiên cứu nào khác.
Tác giả luận án

Nguyễn Văn Toàn


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Đảng ta đã nhận định: Chỉ có đổi mới giáo dục đào tạo và khoa học cơng
nghệ mới thúc đẩy nhanh được q trình phát triển kinh tế xã hội, nhanh
chóng đưa đất nước ta thốt khỏi tình trạng chậm phát triển; coi giáo dục đại
học là cơ sở để bứt phá, đồng thời tranh thủ hợp tác, học tập, tiếp thu nền
khoa học cơng nghệ của các nước tiên tiến [2].
Điều đó địi hỏi hoạt động đào tạo đại học phải: “Đổi mới để hội nhập
quốc tế; đổi mới theo hướng đáp ứng nhu cầu xã hội; đổi mới theo hướng tích
cực hố quá trình học tập của sinh viên; đổi mới để hình thành năng lực tự
học cho lực lượng lao động tương lai, có khả năng tự học suốt đời” [25].
Chuyển đổi phương thức đào tạo từ niên chế sang học chế tín chỉ là một

bước ngoặt lớn của nền giáo dục đại học Việt Nam, là sự thay đổi căn bản về
tổ chức hoạt động đào tạo, là điều kiện để hội nhập quốc tế và góp phần hiện
thực hóa quan điểm, đường lối của Đảng về phát triển giáo dục [22].
Đổi mới phương thức đào tạo từ niên chế sang học chế tín chỉ được coi là
một cuộc cách mạng lớn trong lĩnh vực giáo dục đại học. Giai đoạn chuyển
đổi phương thức đào tạo từ năm 2008 đến nay, chính là những bước đi đầu
tiên của q trình đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục đại học Việt Nam
[12], [28].
Học chế tín chỉ, một phương thức đào tạo hiện đại, đang trở thành xu thế
chung của giáo dục đại học ở nhiều quốc gia tiên tiến trên thế giới. Bản chất
của đổi mới từ phương thức đào tạo theo niên chế sang học chế tín chỉ:
-

Là q trình hiện thực hóa triết lý giáo dục: coi người học là trung tâm;

coi đào tạo của nhà trường là khởi nguồn để hình thành năng lực tự học cho
mỗi con người, hướng tới hình thành và phát triển một xã hội học tập [14].


2

Là quá trình thay đổi tận gốc phương thức tổ chức hoạt động đào tạo,
biến mỗi giờ học thành một giờ hoạt động học tập của sinh viên; sinh viên
tham gia và thực hiện hoạt động học tập với vai trị của chủ thể [17].
-

Là q trình lấy hoạt động tự học của sinh viên làm nền tảng cho đổi

mới phương pháp và định hướng thiết kế chương trình; coi năng lực tự học
của sinh viên vừa là động lực, vừa là sản phẩm của đào tạo bậc đại học.

-

Là trao quyền chủ động, quyền tự quyết cho người học về quá trình học

tập của mình tại nhà trường [76], [89].
Phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ địi hỏi mỗi nhà trường và cơ sở
đào tạo phải thay đổi triệt để về: công tác tổ chức và quản lý đào tạo; phương
pháp tổ chức và triển khai hoạt động dạy học của giảng viên và phương pháp
học tập của sinh viên; sử dụng và đào tạo năng lực tự học cho sinh viên phải
trở thành quan điểm và mục tiêu đào tạo của nhà trường, của mỗi thầy cơ
giáo, là sản phẩm và là động lực để tích cực hóa hoạt động đào tạo; phát huy
tính chủ động của sinh viên trong xây dựng và thiết kế kế hoạch học tập tồn
khố, năng động và sáng tạo trong học tập, có trách nhiệm cao trước tương lai
của bản thân [29], [50].
Trong phạm vi nhà trường, hoạt động giáo dục nói chung và đổi mới giáo
dục nói riêng khơng chỉ phải tuân theo những qui luật và nguyên tắc chun
biệt, mà cịn ln chịu sự tác động và chi phối của các yếu tố về con người, về
điều kiện cơ sở vật chất và thiết bị, về năng lực đáp ứng của các lực lượng
giáo dục hiện hữu… Vì vậy, đổi mới đối với lĩnh vực giáo dục dù lớn hay nhỏ
luôn được coi là một cuộc cách mạng, một cuộc cải cách sâu rộng của toàn bộ
hệ thống và ln được đặt trong một tiến trình gồm nhiều giai đoạn, nhiều
năm [81], [100].
Những khó khăn cơ bản của giáo dục đại học Việt Nam khi tiến hành
chuyển đổi sang phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ là:


3

-


Vừa tiến hành đổi mới, vừa hoàn thiện cơ chế tổ chức và quản lý đào

tạo theo yêu cầu của học chế tín chỉ.
-

Giảng viên thiếu điều kiện và năng lực tổ chức, triển khai giờ học theo

phương pháp tích cực hóa người học.
-

Cơ sở vật chất phục vụ đào tạo, tài liệu và giáo trình giảng dạy chưa

đáp ứng yêu cầu tổ chức giờ học và tổ chức đào tạo theo phương thức đào tạo
mới.
-

Quan điểm đổi mới chưa thực sự thấm nhuần và trở thành động lực

trong mọi mặt hoạt động của sinh viên, giảng viên và nhà trường.
Bản chất của những tồn tại nêu trên là việc sử dụng “chất liệu” của
phương thức đào tạo theo niên chế để thực hiện “mệnh lệnh” đổi mới hoạt
động đào tạo sang học chế tín chỉ; thiếu sự tích cực và chủ động tạo ra tiềm
lực cho các lực lượng tham gia sự nghiệp đổi mới.
Trường đại học Hồng Đức là một cơ sở đào tạo đa ngành, đa nghề, đa
lĩnh vực thuộc hệ thống các nhà trường công lập, có nhiệm vụ đào tạo đội ngũ
cán bộ khoa học kỹ thuật cho các tỉnh miền Trung và cả nước. Từ năm 2008,
nhà trường đã triển khai thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi phương thức đào tạo
từ niên chế sang học chế tín chỉ. Tuy nhiên, trong q trình chuyển đổi đã nảy
sinh nhiều bất cập, hạn chế đáng kể đến chất lượng đào tạo của nhà trường nói
chung và khoa GDTC nói riêng.

Những khó khăn mà khoa GDTC trường đại học Hồng Đức đang trải
qua cũng là thực trạng chung cần khắc phục của giáo dục đại học trong giai
đoạn hiện nay [88].
Vì vậy, để có hiệu quả đích thực cho q trình chuyển đổi phương thức
đào tạo, địi hỏi phải có những giải pháp tích cực nhằm đồng bộ hóa các khâu,
các lực lượng tham gia đào tạo để khắc phục những vấn đề tồn tại nêu trên.


4

Nghiên cứu về GDTC trường học và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả giáo dục thể chất cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng đã được rất
nhiều tác giả quan tâm và nghiên cứu như: Hồ Đắc Sơn, Kiều Tất Vinh,
Nguyễn Trọng Hải, Đỗ Đình Quang, Lê Trường Sơn Chấn Hải, Lê Anh Vinh,
Vũ Đức Văn... Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu chủ yếu được tiến hành
trong điều kiện đào tạo theo niên chế. Bên cạnh đó đã có một số cơng trình
nghiên cứu về học chế tín chỉ trong tổ chức đào tạo và giảng dạy theo học chế
tín chỉ của một số tác giả như: Trần Thanh Ái, Vũ Đình Bảy, Đào Ngọc Cảnh
- Trịnh Duy Oánh, Tôn Quang Cường, Nguyễn Kim Dung, Ngô Thu Dung,
Diệp Ngọc Dũng, Trần Văn Dũng, Ngơ Dỗn Đãi, Nguyễn Thị Bích Hạnh,
Nguyễn Kế Hào, Nguyễn Tấn Hùng, Mai Trọng Nhuận, Trịnh Duy Oánh, Vũ
Quốc Phóng, Lâm Quang Thiệp, Lê Văn Trưởng, Hồng Văn Vân, Vũ Quang
Việt. Đó là một số cơng trình khoa học nghiên cứ về học chế tín chỉ ở Việt
Nam trong những năm gần đây, có giá trị phổ biến kinh nghiệm, cung cấp
thơng tin phục vụ cho công cuộc đổi mới phương thức đào tạo ở các nhà
trường trong các Hội thảo khoa học. Tuy nhiên, việc nghiên cứu thực trạng,
đánh giá hiệu quả đào tạo sinh viên chuyên ngành Giáo dục thể chất theo học
chế tín chỉ chưa có tác giả nào nghiên cứu.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu giải pháp và đánh giá hiệu quả giáo dục thể chất theo hệ

thống tín chỉ cho sinh viên cao đẳng sư phạm giáo dục thể chất trường Đại
học Hồng Đức Thanh Hố”
2. Mục đích nghiên cứu:
Thông qua hoạt động nghiên cứu về thực trạng chuyển đổi phương thức
đào tạo và giải pháp khắc phục thực trạng, đề tài hướng tới mục đích: Góp
phần nâng cao hiệu quả đào tạo sinh viên cao đẳng sư phạm Giáo dục thể chất
của trường Đại học Hồng Đức theo học chế tín chỉ.


5

3. Mục tiêu nghiên cứu:
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu đề tài giải quyết những mục tiêu
sau đây.
Mục tiêu 1: Đánh giá thực trạng hoạt động đào tạo trong giai đoạn
chuyển đổi sang phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ của Khoa Giáo dục
thể chất trường Đại học Hồng Đức.
- Thực trạng về chương trình đào tạo sinh viên chuyên ngành GDTCCông tác đội hệ cao đẳng.
-

Thực trạng về tổ chức và quản lý hoạt động đào tạo theo học chế tín chỉ.

-

Thực trạng về tổ chức và quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá kết quả

học tập của sinh viên.
-

Thực trạng về năng lực tự học của sinh viên.


-

Thực trạng về kết quả học tập và rèn luyện của sinh viên Khoa Giáo

dục thể chất trường Đại học Hồng Đức.
Mục tiêu 2: Nghiên cứu giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo theo học
chế tín chỉ của khoa Giáo dục thể chất trường Đại học Hồng Đức.
-

Giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo giáo viên TDTT của Khoa Giáo

dục thể chất trường Đại học Hồng Đức.
-

Thực nghiệm và đánh giá hiệu quả của các giải pháp trong thực tiễn

đào tạo theo học chế tín chỉ của Khoa Giáo dục thể chất trường Đại học Hồng
Đức.
4. Giả thiết khoa học của đề tài.
Công tác đào tạo giáo viên trình độ Cao đẳng chuyên ngành GDTC-Công
tác đội của Khoa Giáo dục thể chất trường Đại học Hồng Đức trong giai đoạn
chuyển đổi từ hình thức đào tạo niên chế sang học chế tín chỉ đã đạt được
những kết quả nhất định, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế tồn tại đó là: Cơng
tác tổ chức đào tạo của khoa Giáo dục thể chất chưa có sự chuyển đổi


6

phù hợp với phương thức đào tạo mới; giảng viên và sinh viên chưa được

chuẩn bị tốt để thực hiện có hiệu quả phương pháp dạy học tích cực; phát triển
năng lực tự học cho sinh viên chưa được coi là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm của thầy và trị tồn khoa.
Nếu có những giải pháp thích hợp, khắc phục được những tồn tại nêu trên
phù hợp với điều kiện thực tế của khoa và nhà trường thì chất lượng và hiệu
quả đào tạo của Khoa Giáo dục thể chất trường Đại học Hồng Đức sẽ được
nâng lên một tầm cao mới.
5. Phạm vi nghiên cứu.
Căn cứ vào điều kiện và thời gian tiến hành nghiên cứu, đề tài xác định
phạm vi nghiên cứu gồm các vấn đề sau:
-

Đánh giá thực trạng hoạt động đào tạo theo học chế tín chỉ của Khoa

Giáo dục thể chất trường Đại học Hồng Đức.
+ Thực trạng về chương trình đào tạo sinh viên chuyên ngành GDTC-

+

Thực trạng về tổ chức và quản lý hoạt động đào tạo theo học chế tín chỉ.

+

Thực trạng về tổ chức và quản lý hoạt động kiểm tra đánh giá kết quả

học tập của sinh viên.
+

Thực trạng về năng lực tự học của sinh viên.


+

Thực trạng về kết quả học tập và rèn luyện của sinh viên Khoa Giáo

dục thể chất trường Đại học Hồng Đức.
-

Nghiên cứu giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo theo học chế tín

chỉ của Khoa Giáo dục thể chất trường Đại học Hồng Đức.
+ Giải pháp thứ nhất: Xây dựng cơ chế tổ chức và quản lý hoạt động đào
tạo phù hợp với đặc điểm của học chế tín chỉ.
+

Giải pháp thứ hai: Hồn thiện qui trình tổ chức hoạt động kiểm tra đánh

giá thường xuyên và giữa kỳ theo học chế tín chỉ.


7

+ Giải pháp thứ ba: Tổ chức các loại hình hoạt động ngoại khóa để tích
cực hóa hoạt động tự học các mơn TDTT của sinh viên.
6. Những đóng góp mới của đề tài.
Kết quả nghiên cứu thực trạng hoạt động đào tạo trong giai đoạn chuyển

*

đổi sang phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ của Khoa Giáo dục thể chất
trường Đại học Hồng Đức cho thấy: Quá trình đổi mới phương thức đào tạo của

Khoa GDTC trường Đại học Hồng Đức thiếu đồng bộ giữa yêu cầu đổi mới với
tiềm lực đáp ứng; giữa chương trình và điều kiện triển khai; phát hiện, chứng
minh và phân tích từng mặt hạn chế của quá trình đào tạo; cơ chế tổ chức và
quản lý hoạt động đào tạo thích hợp; đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, giáo
trình bài giảng chưa đáp ứng; năng lự tự học của sinh viên hạn chế; kết quả học
tập có chỉ số tốt hơn nhưng sự khác biệt khơng có ý nghĩa thống kê với p> 0,05.

Kết quả nghiên cứu đã lựa chọn được 3 giải pháp nhằm nâng cao hiệu

*

quả đào tạo theo học chế tín chỉ của Khoa Giáo dục thể chất trường Đại học
Hồng Đức gồm:
- Xây dựng cơ chế tổ chức và quản lý hoạt động đào tạo phù hợp với đặc
điểm của học chế tín chỉ.
-

Hồn thiện qui trình tổ chức hoạt động kiểm tra đánh giá thường xuyên

và giữa kỳ theo học chế tín chỉ.
-

Tổ chức các loại hình hoạt động ngoại khóa để tích cực hóa hoạt động

tự học các mơn TDTT của sinh viên.
* Kết quả thực nghiệm đã chứng minh tính hiệu quả của các giải pháp như: Có

bộ bài giảng được cấu trúc và biên soạn theo yêu cầu của học chế tín chỉ; kiểm tra
đánh giá thường xuyên và giữa học kỳ đã được khắc phục có hiệu quả; phát triển
năng lực tự học của sinh viên; tổ chức được 2 loại hình hoạt động ngoại khóa (ngoại

khóa có hướng dẫn và thành lập được 5 câu lạc bộ TDTT; kết quả học tập, trình độ
thể lực của sinh viên nhóm thực nghiệm K31đã có sự tăng trưởng, p <

0,05 và 0,01.


8

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Quan điểm đổi mới giáo dục đại học của Đảng và Nhà nước.
1.1.1. Quan điểm đổi mới giáo dục đại học.
Sau 10 năm thực hiện đổi mới kinh tế giai đoạn 1986- 1996, nền kinh tế
nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng, khó khăn và đã đạt được nhiều thành tựu
quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội. Đảng ta chủ trương tiến hành CNHHĐH đất nước trong điều kiện nước ta đã mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về
nhiều mặt, trong đó có giáo dục và đào tạo [3].
Định hướng cơ bản của đổi mới giáo dục đại học là chuyển từ phục vụ
những yêu cầu và hoạt động trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang
đáp ứng những yêu cầu và hoạt động trong nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý Nhà nước [4].
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII
(1996), đã tiếp tục khẳng định quan điểm: “Cùng với khoa học và công nghệ,
giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Đảng đã chủ trương đổi mới giáo dục đại học
theo hướng: “Đổi mới hệ thống giáo dục chuyên nghiệp và đại học, kết hợp
đào tạo với nghiên cứu, tạo nguồn nhân lực đủ khả năng tiếp cận công nghệ
tiên tiến” [3, tr.491-492].
Đảng ta đã nhận định chỉ có đổi mới giáo dục đào tạo và khoa học cơng
nghệ mới thúc đẩy nhanh được q trình phát triển kinh tế xã hội và nhanh chóng
đưa nước ta thoát khỏi nước nghèo. Coi giáo dục đại học là cơ sở để bứt phá,
đồng thời tranh thủ hợp tác, học tập, tiếp thu nền khoa học công nghệ của các

nước tiên tiến. Điều đó địi hỏi hoạt động đào tạo đại học phải: “Đổi mới để hội
nhập quốc tế; đổi mới theo hướng đáp ứng nhu cầu xã hội; đổi mới theo hướng
tích cực hố q trình học tập của sinh viên; đổi mới để hình thành năng lực tự
học cho lực lượng lao động tương lai, có khả năng tự học suốt đời” [25].


9

* Đổi mới để hội nhập quốc tế.
Tồn cầu hố là một xu thế khách quan, đang lôi cuốn nhiều nước tham
gia, đồng thời cũng đặt các nước chậm phát triển những thách thức mới,
những vận hội mới. Xu thế tồn cầu hố đã tạo cơ hội cho những nước chậm
phát triển, trong đó có Việt Nam, cơ hội tiếp cận với nền giáo dục phát triển,
cho phép thực hiện chủ trương đa phương hoá về giáo dục đào tạo, về khoa
học cơng nghệ với thế giới, có khả năng khai thác những thành tựu khoa học
công nghệ tiên tiến của các quốc gia trên thế giới [78].
Trước xu thế hội nhập quốc tế, Đảng ta đã nhận định: “Bước sang thế kỷ
XXI thế giới đã có nhiều biến đổi, khoa học và cơng nghệ sẽ có bước tiến
nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trị ngày càng nổi bật trong quá trình phát
triển lực lượng sản xuất” [3, tr.617].
Hiện nay, trước sự phát triển của giáo dục đào tạo, trên thế giới số lượng
người lao động có trình độ cao ngày càng tăng, đồng thời những ngành nghề
đòi hỏi trình độ cao cũng tăng. Để thích nghi với tồn cầu hố và nền kinh tế
tri thức, Đảng và Nhà nước ta đã đánh giá cao vai trò của giáo dục và đào tạo,
đã xây dựng những chính sách ưu tiên tập trung vào sự phát triển giáo dục,
coi: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư
cho phát triển”, đồng thời nhấn mạnh “Giáo dục và đào tạo vừa phải đảm bảo
giữ vững và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, vừa phải tiếp thu tinh hoa văn
hoá của nhân loại” [59, tr.12], [60].
Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, từ năm 1986 đến nay,

kinh tế - xã hội phát triển với nhịp độ và chất lượng cao, tạo nên sự biến đổi
sâu sắc và toàn diện đời sống nhân dân. Tuy nhiên số lao động có trình độ cao
vẫn chưa nhiều, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH - HĐH đất
nước. Điều đó đã đặt ra cho giáo dục đại học nước ta những yêu cầu và thách
thức mới [57].


10

*

Đổi mới đào tạo theo hướng đáp ứng nhu cầu xã hội.

Đổi mới giáo dục đại học phải đảm bảo tính thực tiễn, hiệu quả, đáp ứng
được nhu cầu về sử dụng lao động.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (2006) đã xác định phương hướng,
biện pháp đổi mới giáo dục đaị học ở Việt Nam phải “Gắn với sử dụng, trực
tiếp phục vụ đào tạo chuyển đổi cơ cấu lao động, phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao, nhất là chuyên gia đầu ngành” [4, tr.34].
Đào tạo nguồn nhân lực đã và đang đặt ra những yêu cầu cấp bách: Vừa
phải trang bị những tri thức và kỹ năng mới, vừa phải thay đổi công nghệ và
cách làm, nhà trường từ chỗ đào tạo khép kín chuyển sang mở cửa, đối thoại
với xã hội, gắn bó chặt chẽ với nghiên cứu khoa học - công nghệ và ứng dụng.
Từ những định hướng trên cho thấy, giáo dục đại học đáp ứng nhu cầu xã
hội cần đảm bảo các yếu tố:
Gắn đào tạo với thực tiễn sử dụng lao động của nhà sản xuất và doanh
nghiệp, của các trường học, bởi vì nơi sử dụng nguồn lực lao động là nơi đưa
ra các yêu cầu về đào tạo.
Có sự liên kết giữa trường đại học-cơ sở nghiên cứu khoa học với người
sử dụng lao động. Các nhà sản xuất, doanh nghiệp, trường học...

*

Đổi mới đào tạo để tích cực hố q trình học của HSSV, hồn

thành năng lực tự học suốt đời.
Tích cực hố q trình học tập của sinh viên là sự thay đổi căn bản tổ
chức hoạt động đào tạo, thực sự đặt sinh viên vào vị thế chủ thể của hoạt động
học tập, vừa tạo điều kiện, vừa đòi hỏi sinh viên phải chủ động lĩnh hội và tìm
kiếm tri thức [57], [58], [60]. Vì vậy, đòi hỏi giáo dục đại học cần phải:


11

-

Khơng chỉ là q trình truyền thụ và thu nhận kiến thức, mà cịn là q

trình rèn luyện năng lực nghề nghiệp, đảm bảo cho sinh viên sau khi ra trường
sớm thích ứng với yêu cầu của thực tiễn lao động.
-

Nội dung đào tạo và hệ thống kiến thức phải mang lại cho sinh viên

niềm tin với chính những tri thức mà bản thân họ phải tiếp thu. Đó phải là
những kiến thức hiện đại, cập nhật với thực tiễn lao động, tạo lập cho sinh
viên năng lực triển khai hoạt động nghề nghiệp một cách có hiệu quả.
-

Phải đảm bảo tính đồng bộ trong hoạt động đào tạo, giữa đổi mới


phương pháp với điều kiện đáp ứng yêu cầu của đổi mới phương pháp; giữa
nguồn tài liệu với nhu cầu tự học, tự tìm kiếm tri thức của HSSV; giữa yêu
cầu đổi mới với sự tăng trưởng về trình độ của mỗi giảng viên [25],
[48], [49].
1.1.2. Hoạt động đổi mới trong giáo dục đại học.
Trong xu thế chung về hội nhập và phát triển trên thế giới; giáo dục và
đào tạo được xem là quốc sách hàng đầu, do vậy Đảng và Nhà nước ta hết sức
quan tâm và coi trọng cơng tác này.
Ngày 02/11/2005, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP về đổi
mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020.
Chỉ thị 296/CT - TTg ngày 27/2/2010 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị
quyết 05/NQ-BCSĐ ngày 06/01/2010 của Ban cán sự Đảng bộ Bộ GD&ĐT
về “Đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010-2012” [26].
Ngày 4.11.2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số
29-NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu
cầu CNH-HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội
nhập quốc tế.


12

Trong quá trình đổi mới, ngành giáo dục và các bộ ngành liên quan cần
phải đổi mới toàn diện trên tất cả các mặt:
*

Tăng cường hợp tác đào tạo với các nước.

Bằng các hình thức thăm quan trao đổi kinh nghiệm, trao đổi thông tin
khoa học, Hội nghị, Hội thảo khoa học, tạo cơ hội cho cán bộ quản lý, đội ngũ

giảng viên tiếp cận với chương trình đào tạo, phương pháp dạy học, công
nghệ dạy học, tổ chức đào tạo và tổ chức quản lý giáo dục hiện đại và tiên
tiến, hợp tác xây dựng một số trung tâm cơng nghệ cao trong các trường đại
học có uy tín và chất lượng cao trên thế giới, khuyến khích đầu tư nước ngồi;
có thể mời chun gia, học giả nước ngoài về tham gia giảng dạy [26].
* Phối hợp đào tạo với nước ngoài bằng ngân sách Nhà nước.
Để phát triển đội ngũ nhà giáo, đảm bảo đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu
và chuẩn về chất lượng, đáp ứng yêu cầu vừa tăng quy mô, vừa nâng cao chất
lượng và hiệu quả giáo dục. Ngày 17/6/2010 Thủ tướng Chính phủ ban hành
Quyết định số 911/QĐ - TTg về đào tạo giảng viên có trình độ tiến sỹ cho các
trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2010- 2020 [ 27].
Trong chiến lược phát triển đội ngũ giảng viên đại học của Bộ Giáo dục
và Đào tạo, ngoài việc gửi sinh viên ra nước ngoài đào tạo. Bộ đã chủ trương
trong vòng 10 năm (2010- 2020) đào tạo 20.000 tiến sỹ, trong đó có 10.000
tiến sỹ được đào tạo ở nước ngồi, phấn đấu đến năm 2020 có 35% giảng viên
đạt trình độ tiến sỹ [27].
*

Đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo.

Theo những yêu cầu mới đối với người tốt nghiệp đại học ngày nay, cần
chú trọng một số hướng đổi mới nội dung và phương pháp đào tạo, như sau:
- Nội dung đào tạo hướng vào năng lực giải quyết vấn đề.


13

Đây là một dạng chuyên biệt của năng lực chung, thể hiện dưới dạng
“năng lực giải quyết vấn đề”, “tập trung vào những năng lực chun mơn then
chốt”. Đó là một trục tương ứng với những ý tưởng chủ yếu là cung cấp cho

người tốt nghiệp những phương tiện chuyển dịch những năng lực từ lĩnh vực
học tập sang lao động [15 tr. 391].
-

Nội dung đào tạo hướng vào thực tiễn, tăng cường kết hợp dạy-học

với nghiên cứu.
Nhiệm vụ đào tạo năng lực chuyển dịch sự hiểu biết từ lĩnh vực học tập,
nghiên cứu sang lĩnh vực lao động nghề nghiệp thường được coi như một
chức năng ngày càng quan trọng của giáo dục đại học.Vì thế những chương
trình, giảng dạy, việc học tập đều hướng mạnh hơn nữa về sự ứng dụng hoặc
phải gắn chặt hơn nữa với “trục thực tiễn” theo những cách thức khác nhau
[8].
Trong việc giảng dạy cần chú trọng sự đối chiếu có hệ thống giữa, một
bên, những cách tư duy và giải quyết vấn đề về mặt lý thuyết hàn lâm và một
bên, những cách tư duy và giải quyết vấn đề theo kiểu thực tiễn nghề nghiệp.
Đi đôi với cách tiếp cận chung này của việc dạy và học, cần thu hút sự tham
gia của những nhà thực hành vào những khâu thích hợp của quá trình đào tạo,
cùng hướng vào mục tiêu chung. Hướng vào thực tiễn, cần xây dựng sự đối
tác tích cực giữa các mơi trường giáo dục đại học và k inh tế; những sự đối
tác này thường quan tâm đến kết quả nghiên cứu của trường đại học để có thể
ứng dụng vào thực tiễn sản xuất, kinh doanh quản lý... [15, tr. 392].

-

Nội dung đào tạo hướng theo tinh thần tạo nghiệp, doanh nghiệp.

Trước những thay đổi ngày nay của môi trường lao động, thế giới việc
làm, giáo dục đại học phải có cách tiếp cận thực sự và thường xuyên với
những thay đổi đó, sự xuất hiện của những ngành nghề, lĩnh vực mới, những



14

dạng việc làm mới, tiên đoán những yêu cầu mới đối với đào tạo đại học, từ
đó làm cho trương trình, cách tổ chức đào tạo thích ứng nhằm tăng thêm cơ
may tìm việc làm cho người tốt nghiệp. Ngày nay khi cơng thức “văn bằng
đại học = có việc làm” khơng cịn hiệu lực nhiều như trước kia, người ta chờ
đợi GD ĐH đào tạo ra những người không chỉ biết tìm việc làm mà cịn tạo ra
việc làm, là những người có tinh thần doanh nghiệp thực sự [15, tr. 392].
-

Nội dung đào tạo cần đáp ứng nhu cầu học tập liên ngành, liên môn.

GD ĐH cần cung cấp nhiều hơn trước khả năng học tập liên ngành, liên
môn. Không đi sâu vào những thuật ngữ “đa ngành, đa môn”, “liên ngành,
liên môn”, “xuyên môn, xuyên ngành”, cần nêu rõ là, ý tưởng liên kết này dựa
trên nhận định rằng các mơn học hiện có phần lớn theo mơ hình chia cắt sự
hiểu biết và đặt ra những biên giới nhân tạo, không tương ứng với những
“hiện tượng thật” đang được phân tích, với những “vấn đề thật” đang được
nghiên cứu giải quyết, do đó phải có cách tiếp cận liên môn, liên ngành coi
như “kiểu thứ 2” sản xuất kiến thức cần được coi trọng hơn nữa, nhất là trong
xã hội hiện đại, bên cạnh “kiểu thứ 1” truyền thống, là theo môn học, ngành
học. Sự sản xuất kiến thức theo kiểu thứ 2 được bắt đầu cùng với những vấn
đề ứng dụng, là những vấn đề đòi hỏi phải huy động sự hiểu biết phù hợp,
xuất phát từ những lĩnh vực kiến thức khác nhau; nó thường dựa trên cách làm
việc hợp tác trí tuệ và chấp nhận những tiêu chí về tính chịu trách nhiệm và về
tính phù hợp cùng với những tiêu chí về chất lượng hàn lâm trong những cơng
trình NCKH hoặc những cơng trình tổng cục thực tiễn [15, tr. 392].
Nội dung giảng dạy theo kiểu 2 về sản xuất kiến thức cần được nghiên

cứu ở nước ta, trên cơ sở tổng kết thực tiễn và nghiên cứu, triển khai, để có
thể xác định được nhiều kiến thức, nhận thức, thực hành mang tính “cơ bản,
hiện đại và Việt Nam”.


15

SO SÁNH KIỂU 1 VÀ KIỂU 2 VỀ SẢN XUẤT KIẾN THỨC
Kiểu 1
1. Kiểu mang tính hàn lâm; nội hàm
thuộc một cộng đồng chun mơn
hóa
2. Kiểu mang tính mơn học, bộ môn
ngành
3. Kiểu mang cấu trúc thang bậc dọc,
liên quan đến những tổ chức chính
quy
4. Kiểu đặc trưng bởi tính đồng nhất
của những chuyên gia sâu
5. Kiểu mà tính trách nhiệm
chủ yếu thuộc về những
chuyên gia sâu
6. Kiểu đòi hỏi hệ thống kiểm tra
chất lượng chủ yếu gồm các đồng
nghiệp với những đóng góp các nhân



Kiến thức được sản xuất trong ngữ cảnh ứng dụng;


 Tính xun mơn, xun ngành;
 Tính dị biệt và đa dạng về tổ chức;
 Tính trách nhiệm của xã hội gia tăng;
 Hệ thống kiểm tra chất lượng mở rộng.


16

Sự bùng nổ kiến thức đã kéo theo một sự gia tăng rất lớn số chương trình
của các cơ sở GDĐH. Một trong những đặc trưng của sự bùng nổ đó là sự phụ
thuộc lẫn nhau của nhiều bộ mơn khoa học khác nhau và có một sự đồng tình
chung là phải tăng cường nội dung liên ngành, liên môn trong học tập và cải
tiến cách cung ứng [15, tr. 394].
-

Nội dung đào tạo được thường xuyên cập nhật, hiện đại hóa.

Nội dung đào tạo có thể được thường xuyên cập nhật, hiện đại hóa thơng
qua việc tham gia xử lý những hệ thống vấn đề lớn của đất nước.
Các trường đại học trong những năm gần đây đã tham gia nhiều chương
trình, đề tài, dự án...nhằm góp phần giải quyết những vấn đề lớn của đất nước,
từ phạm vi toàn quốc đến phạm vi ngành, địa phương cơ sở. Đây là những cơ
hội gắn với thực tiễn phát triển đất nước, cơ hội ứng dụng những tri thức mới,
công nghệ mới vào kinh tế, xã hội qua đóng góp phần phát triển đất nước,
phát triền học thuật, phát triển nhà trường và nền giáo dục đại học [15, tr.
394].
-

Nội dung đào tạo cần thêm hướng hình thành những năng lực quốc tế.


Yêu cầu hội nhập đòi hỏi những năng lực tầm cỡ quốc tế. Giáo dục đại

học phải là nơi bồi dưỡng những người giỏi, nhân tài của đất nước, phải là nơi
hình thành những năng lực quốc tế. Chuẩn bị cho sự hợp tác quốc tế, cho sự
trao đổi quốc tế về sinh viên, giảng viên cũng như là một sự chuẩn bị cho sự
thích nghi với mơi trường quốc tế về đại học cũng như về xã hội trong sự phát
triển các quan hệ quốc tế.
Trong phạm vi dạy, học trên tinh thần quốc tế có những gợi ý về: “nghiên
cứu các trường lực, trường ảnh hưởng của một số nền văn minh, văn hóa”,
học cách tự thể hiện bằng nhiều ngôn ngữ, biết sử dụng phương pháp so sánh,
những ngành học môn học liên quan đến quốc tế như luật quốc tế, thương mại
quốc tế..., những hiểu biết, nhạy cảm về các nền văn hóa, phong


17

tục, các cách tư duy khác nhau v.v... Giáo dục đại học có vai trị quan trọng
trong đường lối hội nhập khu vực, quốc tế [15, tr. 39].
-

Đẩy mạnh đổi mới phương pháp, hiện đại hóa phương tiện.

Đẩy mạnh đổi mới phương pháp, hiện đại hóa phương tiện, bao gồm
trong đó có 3 mặt gắn kết với nhau: dạy, học, thi (đánh giá).
Từ những hướng nói trên về các yêu cầu mới đối với chất lượng người
tốt nghiệp, nội dung đào tạo, cũng đã thể hiện rõ yêu cầu đổi mới mạnh mẽ
phương pháp đào tạo đại học mà trung tâm của vấn đề là hình thành năng lực
tự học sáng tạo, tự nghiên cứu, tự đánh giá coi như phát huy nội lực của người
học, trên tinh thần chủ động tiếp thu sự hướng dẫn, chỉ đạo của thầy, sự hợp
tác chặt chẽ với bạn trong nhóm, sự áp dụng sáng tạo những phương tiện học

tập hiện đại phù hợp với hoàn cảnh cụ thể , từ những phương tiện nghe nhìn
truyền thống và hiện đại, đến những cơng nghệ thông tin, thông lưu, đa
phương tiện, tiến lên những hệ thống máy tính nối mạng intranet, internet...
[15], [98].
Có thể nói xu thế cải tiến phương pháp dạy - học - thi, đều lấy cải tiến
việc học tập là mục đích, thể hiện vào 3 hướng lớn là: cá nhân hóa, chú trọng
sự phù hợp với cá nhân từng người học; cường độ hóa, chú trọng việc nâng
cao hiệu suất học tập; cơng nghệ hóa, chú trọng việc sử dụng công nghệ mới
về thông tin và lưu thông, cho việc học. cả 3 hướng này đều cần được cụ thể
hóa, hướng về người học [7].
-

Ứng dụng những công nghệ mới cho giáo dục.

Sự ứng dụng những công nghệ mới cho giáo dục: phải kế hoạch hóa
đúng, theo hướng mạnh dạn mà thận trọng.
Khuyến khích tổ chức nghiên cứu và áp dụng những công nghệ mới về
thông tin và lưu thông vào điều kiện nước ta một cách phù hợp, coi đây là một
hướng đi có rất nhiều triển vọng để giải quyết “mâu thuẫn lớn giữa yêu


18

cầu vừa phát triển quy mô GD&ĐT, vừa phải gấp rút nâng cao chất lượng
GD&ĐT trong khi khả năng và điều kiện đáp ứng u cầu cịn nhiều hạn chế.
Đó là những mâu thuẫn trong quá trình phát triển” [55], [105].
Tìm ra được cách làm phù hợp trên hướng ứng dụng đúng đắn những
công nghệ mới cho giáo dục, sẽ mở ra một tương lai rất sáng sủa cho nền giáo
dục nước ta. Giáo dục đại học cần đi đầu trong việc này, cần tận dụng tiềm
năng của công nghệ mới thông tin và lưu thông đang được chuyển giao vào xã

hội ta, sớm chuẩn bị cho việc áp dụng vào giáo dục, không nên đi chậm hơn
kinh tế, đặc biệt là giáo dục đại học.
Hội nghị giáo dục đại học thế kỷ 21 có đưa ra một bảng phân loại các mơ
hình giáo dục dựa trên các loại hình công nghệ áp dụng vào giáo dục, ta nên
tham khảo. Nhân loại đã bước vào đầu thế kỷ XXI – thế kỷ trí tuệ mà con
người giữ vai trị quyết định sự phát triển với xu thế tồn cầu hóa, phát triển
kinh tế tri thức, công nghệ cao, nhất là cơng nghệ thơng tin, hình thành nền
văn minh trí tuệ nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ
nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh [5].
Nhằm mục tiêu đó, Đại hội IX chỉ rõ: Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức
mạnh tinh thần của người Việt Nam; coi phát triển giáo dục và đòa tạo, khoa
học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp cơng nghiệp hóa và
hiện đại hóa [2].
Giáo dục đại học nước ta càng cần phát triển dưới phương châm trên,
vừa đáp ứng những yêu cầu mới của công cuộc CNH-HĐH, từng bước phát
triển kinh tế tri thức, vừa phù hợp với xu thế phát triển của thời đại trong thế
kỷ 21 [13].
-

Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hố q trình

học tập của HSSV.


19

Giá trị của hoạt động học tập, không chỉ trở thành tài sản riêng của mỗi
cá nhân mà còn là tài sản và thành quả lao động của toàn xã hội, là động lực
để phát triển xã hội. Vì vậy, nâng cao chất lượng dạy và học trở thành mục

tiêu phấn đấu của thầy và trò trong mỗi nhà trường nhằm năng cao chất lượng
và số lượng của giá trị đạt được. Phương pháp dạy và học theo hướng tích cực
hoá người học là cách thức, là con đường để phát triển những giá trị đó ngay
trong q trình đào tạo và trong hoạt động tự đào tạo [10], [13].
Cũng như chương trình, đổi mới phương pháp dạy học vừa là xu thế
mang tính tất yếu của q trình phát triển đại học vừa là hệ quả của quá trình
đổi mới đảm bảo tính đồng bộ và logic của hệ thống giáo dục. Tuy nhiên, cần
hiểu rằng dạy học tích cực không tồn tại như một phương pháp độc lập, một
phương pháp mới được phát hiện, mà là sự tích hợp, phát triển theo hướng
tích cực hố người học trên nền tảng các phương pháp đã có [9].
Một số quan niệm về đổi mới tổ chức quá trình đào tạo ĐH đã được thực
hiện trong 10 năm (1986- 1996), nay đi vào thời kỳ đổi mới, thời kỳ CNH –
HĐH, cần được nói rõ thêm, như: đào tạo theo diện rộng; “mơ đuyn hóa” nội
dung; đa dạng hóa; hệ thống giáo dục mở [6].
-

Đào tạo đại học theo diện rộng.

Quá trình đào tạo đại học tiếp tục được tổ chức theo diện rộng, nhằm đào
tạo năng lực thích ứng cao đối với sự thay đổi và năng lực tự học sáng tạo,
học thường xuyên suốt đời.
Khi nền kinh tế chuyển sang có cơ cấu nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường, dưới sự quản lý của nhà nước, thì đối với người tốt nghiệp
đại học ở phần lớn các ngành đào tạo, mơ hình phân phối tốt nghiệp, phân
công công tác trong các thành phần kinh tế quốc doanh và hợp tác xã phải
chuyển sang mơ hình tự tìm việc làm, tự tạo việc làm trong thị trường lao


20


động, ở mọi thành phần kinh tế; nhà trường giúp việc tiếp tục bồi dưỡng sau
tốt nghiệp để dễ tìm việc làm, duy trì để chuyển đổi việc làm.
Ý

tưởng đào tạo theo diện rộng manh nha trong thời bao cấp, nay trở

thành một phương hướng chính của mục tiêu đào tạo đại học, với nội dung
chủ yếu sau đây:
-

Tạo ra năng lực thích ứng với những thay đổi nhanh chóng trước mắt là

đáp ứng với những yêu cầu xa hơn của sự nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, phát triển từng bước kinh tế tri thức, trong thời đại tồn
cầu hóa, cách mạng cơng nghệ, xã hội thơng tin, văn minh trí tuệ …Những
người tốt nghiệp đại học phải trở thành một lực lượng trí tuệ đủ năng lực phát
hiện và giải quyết những vấn đề đặt ra cho mình, cho đất nước.
-

Tạo ra năng lực tự học sáng tạo, thường xuyên suốt đời và tự đánh giá .

Đây là một yếu tố cấp bách về cải tiến phương pháp dạy và học. Phương pháp
đào tạo đại học phải hướng cho người tốt nghiệp trở thành “nhân lực biết tư
duy” .
Tuy nhiên cũng phải nói rằng nhu cầu về những kiến thức chun mơn
hóa vẫn rất cần, cho nên vẫn cần những chuẩn bị chuyên môn hóa đúng mức,
như một cơ sở vững chắc cho nghề nghiệp. Tùy tình hình cụ thể của việc làm
ngay sau tốt nghiệp, nếu là chắc chắn được phân công công tác phù hợp với
ngành đào tạo, thì có thể chun mơn hóa cụ thể hơn, tương ứng với việc phải
đảm nhiệm; nhưng dù thế nào, năng lực thích nghi, đáp ứng và năng lực tự

học sáng tạo, tự đánh giá vẫn là chủ yêu cầu cốt lõi, dựa trên “học cách học”
và “học suốt đời”. [15, tr. 387].
-

Quá trình đào tạo đại học được tổ chức theo hướng “mô đuyn hóa”.

Cách đào tạo truyền thống là dựa trên mơn học, tính khối lượng theo giờ
hoặc tiết, thường được đánh giá dưới hình thức kiểm tra từng phần và thi (viết
hoặc nói) theo học kỳ, năm học. Trong những năm đổi mới vừa qua, đã thí


21

điểm hoặc mở rộng việc đào tạo theo hướng mô đuyn hóa dưới dạng “học phần”,
“tín chỉ” (“credit- dạng hồn thiện học phần), tạo điều kiện cho người học tập lắp
ghép, tích lũy chúng, do đó có thể học theo nhịp độ của mình, có thể học thêm
những kiến thức, kỹ năng bổ sung, có thể tiếp tục học thêm ngành nghề khác gần
gũi, có thêm văn bằng mới mà không phải học lại từ đầu...
Sự đưa mô đuyn vào chương trình (dưới dạng học phần tín chỉ..) là một
bước phát triển có ý nghĩa của cải cách đổi mới tổ chức quá trình đào tạo đại học
những năm qua, mở ra triển vọng giải quyết một số vấn đề mới, như: mở rộng
quy mô đại học đi đôi với đảm bảo chất lượng: thực hiện công bằng xã hội về
học đại học; giúp cho việc học “cá nhân hóa” bước đầu, có thể theo nhịp độ thích
hợp của từng người, theo hoàn cảnh cá nhân; tạo điều kiện hợp tác quốc tế có
chất lượng về mặt tổ chức quá trình đào tạo (theo mơ đuyn cùng quan tâm).
Khẳng định phải chuyển đào tạo theo niên chế sang đào tạo tín chỉ.
Cách đào tạo theo mơđuyn mở ra nhiều triển vọng về bố trí nội dung học,
khơng nhất thiết chỉ theo mơn học, mà cịn theo các chủ đề cần thiết, các loại
hoạt động bắt buộc (thực hành, thực tập, viết luận văn...), tạo điều kiện đưa
những nội dung liên mơn, liên ngành vào chương trình... Ranh giới “cứng” của

việc bố trí chương trình giữa các mơn, giữa các năm học trong đào tạo kiểu
truyền thống, nay sẽ được “mềm hóa” trong đào tạo theo mơđuyn [15, tr. 389].
-

Q trình đào tạo đại học theo hướng đa dạng hóa.

Q trình này tiếp tục được tổ chức theo hướng “chuẩn hóa” đi đơi với
“đa dạng hóa”.
Trong 10 năm qua, sự đa dạng trong giáo dục nói chung, trong giáo dục
đại học nói riêng đã diễn ra theo yêu cầu của cuộc sống đổi mới đất nước, của
sự nghiệp đổi mới GD&ĐT, phù hợp với những định hướng được nêu trong
những Nghị quyết của các Đại hội Đảng VI,VII,VIII và các NQTƯ 4 (khố
VII), NQTƯ2 (khóa VIII) về GD&ĐT và gần đây trong NQ Đại hội IX của


22

Đảng với tinh thần đa dạng hóa phải gắn liền với “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã
hội hóa” [ 15, tr. 390].
Thực tiễn cho thấy, một sự đa dạng “đủ độ” là một biện pháp khá hiệu
quả để giáo dục đại học phục vụ sự đa dạng về nguyện vọng và khả năng của
những người muốn học đại học, cũng như sự đa dạng về việc làm cho người
tốt nghiệp đại học nhất là có sự bùng nổ sĩ số. Dạng nào cũng có chuẩn về
chất lượng, về hiện đại hóa và về xã hội hóa, chứ khơng phải là đa dạng hóa
tùy tiện [51], [99].
-

Q trình đào tạo đại học theo hướng hệ thống giáo dục mở.

Quá trình này tiếp tục được tổ chức theo hướng xây dựng một hệ thống

giáo dục mở, bao gồm trong đó giáo dục đại học.
Vừa qua, hệ thống giáo dục đổi mới của chúng ta đã đạt được những cơ
sở ban đầu cho một hệ thống giáo dục mở, được thể chế hóa bước đầu vào
Nghị định 90/CP (24-11-1993) về với khung của hệ thống giáo dục quốc dân
và những nét cơ bản đã được ghi vào Luât giáo dục và Quốc Hội thơng qua
ngày 2-12-1998. Đó là một hệ thống giáo dục quốc dân xây dựng trên nguyên
tắc “giáo dục cho mọi người, thường xuyên suốt đời”, một hệ thống giáo dục
hoàn chỉnh (về bậc cấp học), đa dạng (về hình thức học, tổ chức trường lớp),
liên thông (giữa các bậc cấp học, hình thức học), mềm dẻo (cho sự cơ động
học tập, về ngành học, trình độ học, địa điểm học, cách học liên tục hay chia
thành từng bước đi thích hợp...). Lập ra nhiều kiểu đào tạo mềm và mở, tạo
điều kiện cho người học được lựa chọn kiểu học phù hợp với mình [15, tr.
390], [18].
Tiếp tục chỉ đạo xây dựng hệ thống giáo dục đại học trong thời kỳ đổi mới
theo hướng hệ thống giáo dục mở sao cho phù hợp với từng giai đoạn cụ thể
của nước ta, thực hiện nghiêm túc ý tưởng của Đại hội IX của Đảng như: “tạo
điều kiện để ai cũng được học hành”, “tạo cơ hội cho mọi người có thể


×