Tải bản đầy đủ (.pdf) (162 trang)

Ứng dụng phương pháp tiếp cận quyền trẻ em trên báo in việt nam hiện nay (khảo sát các báo tuổi trẻ, nhi đồng, tạp chí gia đình và trẻ em, năm 2015)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.68 MB, 162 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN

ỨNG DỤNG PHƢƠNG PHÁP TIẾP CẬN QUYỀN TRẺ EM
TRÊN BÁO IN VIỆT NAM HIỆN NAY
(Khảo sát các báo: Tuổi trẻ, Nhi đồng, tạp chí Gia đình và Trẻ em, năm 2015)

UẬN V N THẠC S

ÁO CH HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN

ỨNG DỤNG PHƢƠNG PHÁP TIẾP CẬN QUYỀN TRẺ EM
TRÊN BÁO IN VIỆT NAM HIỆN NAY


(Khảo sát các báo: Tuổi trẻ, Nhi đồng, tạp chí Gia đình và Trẻ em, năm 2015)
N ành

:

M s

: 60 32 01 01

UẬN V N THẠC S
NGƢỜI HƢỚNG

N

oc

ọc

ÁO CH HỌC

HO HỌC: TS. HỒ BẤT KHUẤT

HÀ NỘI - 2017


LỜI C M ĐO N
Tôi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của
riêng tơi dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học.
Các số liệu và kết quả trong luận văn là trung thực. Những kết
luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất

kỳ cơng trình nào khác.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thanh Huyền


ỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Hồ
Bất Khuất - người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tơi trong suốt q
trình thực hiện luận văn này.
Tơi cũng chân thành gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô đang cơng tác
tại Học viện Báo chí và Tun truyền, các nhà báo, bạn bè, đồng nghiệp,
các chuyên gia về lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc trẻ em đã dành thời gian chỉ
bảo, góp ý, trả lời phiếu khảo sát, trả lời phỏng vấn giúp tơi hồn thành
luận văn này. Tơi đặc biệt gửi lời cảm ơn tới các em học sinh đã nhiệt tình
tham gia khảo sát.
Mặc dù bản thân đã có nhiều cố gắng song luận văn vẫn khơng tránh
khỏi những khiếm khuyết. Tôi mong sẽ tiếp tục nhận được sự chỉ bảo, giúp đỡ
của các thầy cô giáo để luận văn được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
T c giả luận văn

Nguyễn Thị Thanh Huyền


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

QTE

: Quyền trẻ em


LHQ

: Liên hợp quốc

Bộ LĐTBXH

: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội

BVCSTE

: Bảo vệ chăm sóc trẻ em

Luật BVCSGDTE : Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
NXB

: Nhà xuất bản


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
C ƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VIỆC ỨNG DỤNG PHƢƠNG PHÁP TIẾP
CẬN QUYỀN TRẺ EM TRÊN BÁO IN VIỆT NAM HIỆN NAY ................12
1.1. Các khái niệm về báo chí ............................................................ 12
1.2. Báo chí với trẻ em ....................................................................... 16
1.3. Khái niệm trẻ em và quyền trẻ em ở Việt Nam hiện nay ............ 18
1.4. Khái niệm và quy trình ứng dụng phương pháp tiếp cận quyền
trẻ em..................................................................................................29
C ƣơng 2. THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG PHƢƠNG PHÁP TIẾP CẬN
QUYỀN TRẺ EM TRÊN CÁC BÁO: TUỔI TRẺ, NHI ĐỒNG, TẠP

CH GI ĐÌNH VÀ TRẺ EM, N M 2015 .............................................. 34
2.1. Tổng quan về các cơ quan báo in trong diện khảo sát ................ 34
2.2. Phân tích và đánh giá thực trạng ứng dụng phương pháp tiếp cận
quyền trẻ em trên các báo in: Tuổi trẻ, Nhi đồng và tạp chí Gia đình
và Trẻ em, năm 2015 ......................................................................... 46
2.3. Kết quả khảo sát sự hiểu biết của người dân về quyền trẻ em .... 64
C ƣơng 3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA, GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN
NGHỊ NHẰM NÂNG CAO VIỆC ỨNG DỤNG PHƢƠNG PHÁP TIẾP
CẬN QUYỀN TRẺ EM TRÊN BÁO IN VIỆT NAM HIỆN NAY ......... 83
3.1. Một số vấn đề đặt ra.................................................................... 83
3.2. Giải pháp..................................................................................... 85
3.3. Một số khuyến nghị .................................................................... 91
KẾT LUẬN................................................................................................. 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 98
PHỤ LỤC


1

MỞ ĐẦU
1. T n cấp t iết của đề tài
Theo thống kê của Bộ LĐTBXH, cả nước hiện nay có khoảng 26 triệu
trẻ em. Đây là những chủ nhân tương lai của đất nước, là những người sẽ kế
tục cha ông trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam. Nhận thức
rõ tầm quan trọng của trẻ em, Đảng và Nhà nước cũng như các cơ quan đoàn
thể, các tổ chức xã hội đặc biệt quan tâm đến vấn đề bảo vệ và chăm sóc trẻ em,
cố gắng đảm bảo các quyền của trẻ em được thực hiện một cách đầy đủ.
Liên hợp quốc thông qua Tuyên ngơn về QTE vào năm 1959, tiếp đó,
Đại hội đồng LHQ cũng đã thông qua Công ước về QTE ngày 20/11/1989 và
Cơng ước bắt đầu có hiệu lực như Luật quốc tế ngày 02/09/1990. Vấn đề QTE

đã được các quốc gia đặt lên hàng đầu trong chương trình lập pháp và được
đưa vào chiến lược hoặc chương trình phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và
hàng năm. Sau gần 30 năm thực hiện, Công ước đã làm thay đổi khá nhiều
nhận thức và hành động của các quốc gia về trẻ em và QTE.
Công ước quốc tế về QTE đã mở đường cho việc tăng cường bảo vệ trẻ
em theo quan điểm hệ thống, bảo đảm trẻ em được bảo vệ, không bị xâm hại,
xao nhãng, bạo lực, bóc lột và phân biệt đối xử. Đồng thời, nó cũng trở thành
kim chỉ nam, là cuốn cẩm nang không thể thiếu của các nhà báo chuyên viết
về trẻ em.
Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và là nước thứ hai trên thế giới
phê chuẩn Công ước quốc tế về QTE vào ngày 20/02/1990. Điều này thể
hiện sự cam kết mạnh mẽ của nước ta với cộng đồng quốc tế về việc thực
hiện các QTE.
Trong đó, vai trị của báo chí đối với trẻ em ngày càng trở nên đặc biệt
quan trọng và mật thiết.
Riêng trong lĩnh vực báo in, Việt Nam đã có hàng chục đầu báo và tạp
chí dành riêng cho trẻ em hoặc viết về trẻ em. Các ấn phẩm báo in được các


2

em nhỏ u thích có thể kể ra gồm: Báo Nhi đồng và các ấn phẩm phụ Nhi
đồng chăm học Nhi đồng cười, Hoạ mi, Măng non, Khoa học và khám phá;
Báo Thiếu niên tiền phong và các ấn phẩm phụ Thiếu nhi dân tộc, Tri thức
tuổi hồng, Học trò cười; Báo Hoa học trò và các ấn phẩm phụ Thiên thần nhỏ,
Trà sữa cho tâm hồn, báo Khăn quàng đỏ và tạp chí Mực tím, tạp chí Mặt trời
nhỏ (thuộc báo Gia đình Việt Nam)…
Ngồi ra, cịn có các ấn phẩm báo in viết về trẻ em cho người lớn đọc
như các báo Giáo dục và Thời đại, Giáo dục TP.HCM, Tuổi trẻ, Thanh niên,
Gia đình và Xã hội, Gia đình Việt Nam và tạp chí Gia đình và Trẻ em,…

Cùng với sự ra đời của Công ước quốc tế về QTE, báo chí đã bước đầu
tiếp cận trẻ em dựa trên quyền con người và QTE được LHQ thơng qua thay
vì tiếp cận dựa theo nhu cầu. Các nhà báo khi viết về trẻ em đã biết bám sát
QTE, đồng thời tơn trọng tiếng nói, nguyện vọng của các em. Tuy nhiên, bên
cạnh đó, vẫn cịn nhiều cơ quan báo chí, đặc biệt là một số báo mạng điện tử
chỉ đăng tin bài về trẻ em khi có các vụ việc liên quan đến trẻ em nổi lên. Họ
viết về các thông tin trẻ em bị xâm hại, bạo lực và bóc lột theo chiều hướng
giật gân, câu khách, làm tổn thương đến tâm sinh lý và vi phạm nghiêm trọng
quyền riêng tư của trẻ em.
Theo Công ước quốc tế về QTE thì mọi trẻ em đều có quyền được tiếp
nhận thông tin, hưởng thụ các sản phẩm báo chí và tham gia nói lên tiếng nói
của mình, tuy nhiên có nhiều bài báo viết về trẻ em mang tính chủ quan và
khơng hề phỏng vấn các em.
Báo chí trẻ em là một lĩnh vực vơ cùng quan trọng của báo chí Việt
Nam, nhưng nó cũng rất nhạy cảm và việc tác nghiệp khơng đơn giản. Ngồi
nghiệp vụ báo chí thơng thường, nhà báo khi viết về trẻ em phải nắm vững
các luật liên quan đến trẻ em, tôn trọng các QTE và thấu hiểu tâm tư, nguyện
vọng cũng như tiếng nói của các em.


3

Với đề tài nghiên cứu “Ứng dụng p ƣơng p

p tiếp cận QTE trên

báo in Việt Nam iện nay(Khảo sát các báo: Tuổi trẻ, Nhi Đồn và tạp chí
Gia đình và Trẻ em, năm 2015)”, tác giả luận văn hy vọng có thể phản ánh
phần nào thực trạng ứng dụng phương pháp tiếp cận QTE ở Việt Nam hiện
nay trên một số ấn phẩm báo in tiêu biểu có viết về đối tượng trẻ em; đồng

thời, đưa ra một số giải pháp và khuyến nghị để việc ứng dụng phương pháp
tiếp cận trẻ em trên các ấn phẩm báo in Việt Nam được thực hiện tốt hơn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan
2.1. Sự ra đời của Côn ước qu c tế về quyền trẻ em
Trước thế kỷ XX, tất cả các xã hội đều đơn giản coi trẻ em là tài sản riêng
của các bậc cha mẹ, của mỗi gia đình. Đầu thế kỷ XX, đời sống trẻ em vẫn chưa
được coi là vấn đề được quan tâm của cộng đồng quốc tế. Vấn đề QTE chỉ thực sự
được quan tâm từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914- 1918) với sự thành lập
các tổ chức cứu trợ của Anh và Thụy Điển vào năm 1919.
Hiến chương về QTE được ra đời năm 1923.
Ngày 26/9/1924, Hội Quốc liên thông qua Tuyên ngôn Giơnevơ về
QTE, Tuyên ngôn gồm 5 điểm (Tuyên ngôn này do Hiệp hội quốc tế các quỹ
cứu trợ trẻ em khởi thảo dựa trên Hiến chương về QTE). Kể từ đây, QTE đã
trở thành một khái niệm được khẳng định và thừa nhận.
Ngày 20/11/1959, LHQ thông qua bản Tuyên ngôn về QTE gồm 10
nguyên tắc, với nội dung đầy đủ và tiến bộ hơn, với tinh thần cơ bản là: “Loài
người phải dành cho trẻ em những gì tốt đẹp nhất mà mình có”.
Năm 1979, LHQ nhất trí soạn thảo Cơng ước về QTE.
Đại hội đồng LHQ thông qua Công ước về QTE vào ngày 20/11/1989
và Cơng ước bắt đầu có hiệu lực như Luật quốc tế vào ngày 02/09/1990.
Công ước quốc tế về QTE là Công ước quốc tế đầu tiên ấn định về mặt
pháp lý các QTE theo tinh thần tiến bộ và nhân đạo.


4

Việt Nam phê chuẩn Công ước quốc tế về QTE vào ngày 20/02/1990.
2.2. Các luật đ được Việt Nam ban hành liên quan đến quyền trẻ em
Năm 1979, Việt Nam ban hành Pháp lệnh BVCSGDTE.
Ngày 12/8/1991, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa IX, Quốc hội nước

Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật BVCSGDTE và uật
này có hiệu lực thi hành từ ngày 16/8/1991. Đây là một trong những đạo luật
có khoảng thời gian kể từ khi Quốc hội thơng qua, đến khi có hiệu lực thi
hành ngắn nhất (4 ngày).
Ngày 15/6/2004, Quốc hội đã thông qua Luật BVCSGDTE được sửa
đổi với 5 chương 60 điều, tạo ra hành lang pháp lý quan trọng trong cơng tác
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, thúc đẩy việc thực hiện ngày càng tốt
hơn những quyền cơ bản của trẻ em mà Việt Nam là một trong các quốc gia
phê chuẩn Công ước quốc tế về QTE sớm nhất. Tuy nhiên, bối cảnh kinh tế xã hội của đất nước ta đã có nhiều thay đổi, nhiều hiện tượng, vấn đề mới tác
động đến đời sống trẻ em và việc thực hiện các QTE đòi hỏi pháp luật cần
điều chỉnh.
Năm 2015, Bộ LĐTBXH đã soạn thảo Dự thảo Luật BVCSGDTE sửa
đổi. Nội dung Dự thảo quy định các quyền, bổn phận của trẻ em; nguyên tắc,
biện pháp bảo đảm thực hiện các QTE; bảo vệ trẻ em; bảo đảm thực hiện các
quyền được tham gia của trẻ em và trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã
hội trong việc thực hiện các QTE.
Dự thảo đã được các cơ quan quản lý từ trung ương đến địa phương
cũng như báo chí và dư luận xã hội bàn luận sôi nổi. Đầu tháng 8/2015, Bộ
LĐTBXH đã tổ chức Diễn đàn Trẻ em quốc gia lần thứ 4, trong đó một số nội
dung dự thảo Luật đã được lấy ý kiến của trẻ em. Sau khi hoàn thiện, Luật đã
được trình lên Quốc hội. Ngày 5/4/2016, Luật BVCSGDTE sửa đổi được phê
chuẩn, lấy tên mới là Luật Trẻ em (2016). Luật này có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 1/6/2017.


5

Ngồi Luật Trẻ em, Đảng và Nhà nước cịn thực hiện nhiều chủ trương,
chính sách pháp luật khác về bảo vệ, chăm sóc trẻ em như: “Luật Phịng
chống bạo lực gia đình”, các “Chương trình Hành động Quốc gia Vì trẻ em”

hàng năm, Quyết định 267/QĐ/-TTg của Thủ tướng Chính phủ về “Chương
trình quốc gia Bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011-2015”, “Chiến lược quốc gia về
Dinh dưỡng giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2030”... nhằm thực
hiện nghiêm túc và hiệu quả QTE Việt Nam, góp phần tạo dựng cho trẻ em có
cuộc sống tốt đẹp hơn.
Cùng với Đảng và Nhà nước, các cơ quan báo chí Việt Nam cũng đặc
biệt chú trọng đến công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng như
ln cố gắng đảm bảo mọi trẻ em đều được thực hiện quyền cũng như nghĩa
vụ của mình theo Cơng ước quốc tế và pháp luật Việt Nam quy định.
2.3. Các đề tài n hiên cứu khoa học về vấn đề quyền trẻ em đ thực hiện
2.3.1. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Báo chí cho trẻ em ở nước
ta hiện nay” của Học viện Báo chí và Tuyên truyền do PGS. TS Nguyễn Văn
Dững làm chủ nhiệm đề tài, 2007 đã cung cấp một cái nhìn tổng quan về diện
mạo báo chí trẻ em ở Việt Nam hiện nay; phân tích kinh nghiệm về hoạt động
báo chí trẻ em hiện nay, đưa ra các đề xuất, kiến nghị khoa học nhằm phát
triển và nâng cao năng lực, hiệu quả tác động của báo chí đối với trẻ em;
thống nhất nhận thức, góp phần hình thành cơ sở lý luận và thực tiễn, làm cơ
sở cho việc xây dựng chính sách, đẩy mạnh sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em nước ta trong tình hình và điều kiện mới.
2.3.2. Luận án tiến sĩ “Kỹ năng làm báo cho trẻ em hiện nay” của tác
giả Nguyễn Ngọc Oanh, năm 2009. Tác giả bước đầu hình thành khung lý
thuyết về kỹ năng làm báo cho trẻ em, trên cơ sở ấy khảo sát, phân tích kinh
nghiệm thực tiễn tác nghiệp báo chí cho trẻ em để nêu ra vấn đề, tìm kiếm
giải pháp khuyến nghị cải thiện tình hình, nâng cao năng lực và hiệu quả tác
động của báo chí cho trẻ em ở nước ta hiện nay. Tác giả nghiên cứu tính đặc


6

thù và vai trò của kỹ năng làm báo cho trẻ em trong quy trình sáng tạo tác

phẩm báo chí và tác động của nó đến cơng chúng báo chí là trẻ em. Trên cơ
sở đó, đưa ra những đề xuất trong việc đào tạo kỹ năng làm báo cho trẻ em.
2.3.3. Luận văn thạc sĩ “Sử dụng hình ảnh trẻ em trong phóng sự
truyền hình trên chương trình truyền hình vì trẻ em, đài truyền hình Việt Nam
(Khảo sát chương trình Truyền hình Vì trẻ em phát sóng năm 2014 trên
VTV1) năm 2015 của tác giả Vũ Văn Dũng đã đánh giá việc sử dụng hình ảnh
trẻ em trong các phóng sự truyền hình trên chương trình Truyền hình Vì trẻ
em; đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lượng việc sử dụng hình ảnh trẻ
em trong phóng sự của chương trình truyền hình vì trẻ em, đảm bảo đúng
pháp luật, không vi phạm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo, không gây tổn
thương cho trẻ em và gia đình của trẻ.
2.3.4. Luận văn thạc sĩ “Sự tham gia của trẻ em trong các hoạt động
truyền thông về quyền trẻ em” của tác giả Mai Thị Thúy An thực hiện năm
2013. Trên cơ sở làm rõ những khái niệm về truyền thơng có sự tham gia,
quyền tham gia của trẻ em, luận văn khảo sát và phân tích thực trạng sự tham
gia của trẻ em, cách thức triển khai dự án, tổ chức sự kiện do Save the
Children Việt Nam, Child Fund Việt Nam, Hội Bảo vệ quyền trẻ em Việt
Nam thực hiện, từ năm 2008 - 2012 tại miền Bắc; Đề xuất một số kiến nghị,
giải pháp góp phần thúc đẩy quyền tham gia của trẻ em và tăng hiệu quả
quảng bá hình ảnh cho tổ chức.
2.3.5. Tham luận “Thực hiện quyền tham gia của trẻ em tại Việt Nam”
của nghiên cứu sinh Quách Thị Quế, Viện Khoa học Lao động và Xã hội (Bộ
LĐTBXH), 2015.
Tham luận khẳng định, Việt Nam là một trong những quốc gia phê
chuẩn Công ước quốc tế về QTE từ rất sớm. Đây là văn kiện quan trọng nhất
về quyền con người của trẻ em trong hệ thống pháp luật quốc tế về quyền con
người, bao gồm các điều luật như: Trẻ em có quyền được lắng nghe, được tự


7


do bày tỏ quan điểm về tất cả các vấn đề có tác động đến trẻ, được tự do phát
biểu, suy nghĩ, hội họp và tiếp cận thông tin, thúc đẩy lợi ích tốt nhất của trẻ
và tăng cường sự phát triển cá nhân; Có quyền tham gia bình đẳng với nhau
khơng phân biệt; Có quyền được bảo vệ tránh khỏi bị lơi kéo, bạo lực, lạm
dụng và bóc lột… Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, quyền tham gia của trẻ
em cịn có thể vận dụng trong các quyền cơng dân nói chung như giao dịch
nhân sự, quyền nhân thân, quan hệ hơn nhân và gia đình, ngơn luận và tiếp
cận thơng tin, kết giao và hội họp hịa bình, tố tụng dân sự, xử lý vi phạm
hành chính, tố tụng hình sự, khiếu nại tố cáo…
2.3.6. Cuốn sách “Quyền trẻ em - Quyền của chúng mình”, NXB Kim
Đồng, 2013.
Nhằm đẩy mạnh công tác truyền thông Công ước LHQ về QTE, góp
phần thúc đẩy việc thực hiện QTE tại cộng đồng, Hội Bảo vệ QTE Việt Nam
phối hợp với Quỹ Nhi đồng LHQ (UNICEF) và Đại sứ quán Na Uy tại Việt
Nam cùng soạn thảo cuốn sách “Quyền trẻ em - Quyền của chúng mình”.
Cuốn sách do NXB Kim Đồng xuất bản.
Cuốn sách này được chính trẻ em tham gia chuyển thể dựa trên nguyên
bản Công ước quốc tế về QTE của LHQ. 300 bạn nhỏ đến từ khắp nơi trên cả
nước đã tham gia đóng góp ý tưởng, cùng 30 “phóng viên nhỏ” đến từ nhiều
trường trung học cơ sở trên cả nước tham gia biên soạn và viết truyện minh
họa cho 42 điều khoản ngắn gọn và dễ hiểu.
3. Mục đ c và n iệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích n hiên cứu
- Cung cấp một cái nhìn khái quát về phương pháp tiếp cận QTE trên
báo in ở Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá việc ứng dụng phương pháp tiếp cận QTE trên các báo Tuổi
trẻ, Nhi đồng và tạp chí Gia đình và Trẻ em trong năm 2015, nêu rõ ưu và
nhược điểm của từng báo.



8

- Từ đó, đưa ra một số giải pháp và khuyến nghị để việc tiếp cận QTE
trên các ấn phẩm báo in ngày càng hiệu quả hơn, đồng thời, nâng cao trình độ
chun mơn, nghiệp vụ của các nhà báo chuyên viết về trẻ em.
3.2. Nhiệm vụ n hiên cứu
Để đạt được những mục đích nêu trên, luận văn đi vào giải quyết một
số nhiệm vụ chính sau:
- Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
- Khảo sát và phân tích, đánh giá các bài viết sử dụng phương pháp tiếp
cận QTE trên các báo Tuổi trẻ, Nhi đồng và tạp chí Gia đình và Trẻ em, năm
2015.
- Điều tra xã hội học, lấy ý kiến độc giả (bao gồm cả người lớn và trẻ
em) về vấn đề QTE và nhu cầu đọc của độc giả về các về đề liên quan đến trẻ
em.
- Phỏng vấn sâu một số lãnh đạo và phóng viên để từ đó biết được
những khó khăn và thuận lợi khi ứng dụng phương pháp tiếp cận QTE.
- Đề xuất một số giải pháp và khuyến nghị nhằm nâng cao việc ứng
dụng phương pháp tiếp cận QTE trên các báo in Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đ i tượng nghiên cứu
- Các bài báo sử dụng phương pháp tiếp cận QTE được đăng tải trên
các báo Tuổi trẻ, Nhi đồng và tạp chí Gia đình và Trẻ em, năm 2015)
- Các luật liên quan đến QTE.
- Độc giả của báo chí trẻ em, gồm cả người lớn và trẻ em.
- Các phóng viên, nhà báo chuyên viết về trẻ em, những người làm việc trong
lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về thời gian: 2015 (từ ngày 1/1/2015 - 31/12/2015).



9

Phạm vi về không gian: báo Tuổi trẻ, báo Nhi Đồng và tạp chí Gia đình
và Trẻ em cùng một số cơ quan, tổ chức xã hội có liên quan đến trẻ em.
5. Cơ sở lý luận và p ƣơng p

p ng iên cứu

5.1. Cơ sở lý luận
- Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, công ước
quốc tế và các văn kiện quốc tế về QTE, tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí với
trẻ em, các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn
đề bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật Trẻ em 2016 và các luật khác
liên quan đến QTE.
- Dựa trên cơ sở lý thuyết truyền thông và cơ sở lý luận báo chí, báo chí
học với trẻ em.
- Kế thừa và tham khảo các kết quả nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực
báo chí trẻ em của các tác giả đi trước.
5.2. P ƣơng p

p ng iên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu và thống kê các bài viết ứng dụng
phương pháp tiếp cận QTE trên các báo: Tuổi trẻ, Nhi đồng, tap chí Gia đình
và Trẻ em trong năm 2015, để từ đó phân tích và đưa ra các đánh giá về các
ưu và nhược điểm của các báo này khi ứng dụng phương pháp tiếp cận QTE
vào các bài viết của mình.

- Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn các phóng viên phụ trách
mảng báo chí trẻ em, lãnh đạo báo Tuổi trẻ, báo Nhi Đồng và tạp chí Gia đình
và Trẻ em về quan điểm, mong đợi, cách thức thực hiện các bài viết về trẻ em
dựa trên phương pháp tiếp cận QTE. Phỏng vấn các cán bộ bảo vệ chăm sóc
trẻ em về vấn đề thực hiện QTE ở Việt Nam hiện nay, họ mong muốn được
tiếp cận những thông tin gì từ phía các cơ quan báo chí - truyền thông.


10

- Phương pháp điều tra định lượng bằng bảng câu hỏi Anket: Phát
phiếu điều tra cho 80 trẻ em từ 8-16 tuổi xem các em muốn được đọc những
thông tin gì, mong muốn báo chí viết về mình như thế nào, muốn được tham
gia, cộng tác viết báo như thế nào… Phát 200 phiếu điều tra cho người lớn
(trên 18 tuổi) xem sự hiểu biết của họ về QTE đến đâu, họ mong muốn được
tiếp cận các bài báo viết về trẻ em dưới góc độ nào, muốn được đọc các thơng
tin gì về trẻ em.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp để đánh giá những kết quả nghiên
cứu, qua đó đề xuất các giải pháp cần thiết.
6. Điểm mới của luận văn
QTE và các vấn đề liên quan đến QTE được báo chí nhắc đến rất nhiều
và cũng đã có rất nhiều luận văn nghiên cứu về vấn đề này, nhưng “ứng dụng
phương pháp tiếp cận QTE” là một khái niệm mới, lần đầu tiên được nhắc đến
trong lịch sử luận văn Khoa Báo chí, Học viện Báo chí và tuyên truyền.
Nghiên cứu về một đề tài khoa học mới, ứng dụng một phương pháp tiếp cận
báo chí mới là điểm mới trong luận văn “Ứng dụng phương pháp tiếp cận
quyền trẻ em trên báo in Việt Nam hiện nay (Khảo sát các báo: Tuổi trẻ, Nhi
Đồng và tạp chí Gia đình và Trẻ em, năm 2015)”.
7. Y ng ĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý n hĩa lý luận

Nghiên cứu góp phần hệ thống lại những vấn đề lý luận về QTE và báo
chí học trẻ em.
7.2. Ý n hĩa thực tiễn
Các bài báo ứng dụng phương pháp tiếp cận QTE hiện vẫn chưa phổ
biến ở Việt Nam. Đề tài nghiên cứu này sẽ là cơ sở lý luận và thực tiễn, giúp
cho các nhà báo chuyên viết về trẻ em có thêm tư liệu để tác nghiệp.


11

Thông qua việc khảo sát các bài báo ứng dụng phương pháp tiếp cận
QTE trên cáo báo: Tuổi trẻ, Nhi đồng, tap chí Gia đình và Trẻ em trong năm
2015, khảo sát nhu cầu đọc của trẻ em nhằm nâng cao hiệu quả việc ứng dụng
phương pháp tiếp cận quyền trẻ em trên báo in Việt Nam hiện nay.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn có
kết cấu 3 chương như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận việc ứng dụng phương pháp tiếp cận quyền trẻ
em trên báo in Việt Nam hiện nay
Chương 2. Thực trạng ứng dụng phương pháp tiếp cận quyền trẻ em
trên các báo: Tuổi trẻ, Nhi đồng, tạp chí Gia đình và Trẻ em, năm 2015
Chương 3. Một số vấn đề đặt ra, giải pháp và khuyến nghị nhằm nâng
cao việc ứng dụng phương pháp tiếp cận quyền trẻ em trên báo in Việt Nam
hiện nay


12

C ƣơng 1
CƠ SỞ Ý UẬN VIỆC ỨNG ỤNG PHƢƠNG PHÁP TIẾP

CẬN QUYỀN TRẺ EM TRÊN ÁO IN VIỆT N M HIỆN N Y
1.1. Các k

i niệm về b o c

1.1.1. Khái niệm báo chí và báo in
Theo Từ điển tiếng Việt (GS. Hồng Phê chủ biên), báo chí là “báo và
tạp chí xuất bản định kỳ; xuất bản phẩm định kỳ (nói khái qt)”. Ở đây, khái
niệm báo chí được hiểu đồng nhất với khái niệm báo in.
Còn theo “Cơ sở lý luận báo chí” (GS. Tạ Ngọc Tấn (chủ biên), NXB
Văn hóa Thơng tin, 1999): “Báo chí là hiện tượng đa nghĩa, gắn bó chặt chẽ
với các thành tố của kiến trúc thượng tầng. Báo chí là một loại hình hoạt
động nghề nghiệp sáng tạo, với tính chất chính trị - xã hội rõ ràng”. [3, tr. 9]
Trong cuốn “Báo chí truyền thơng hiện đại (Từ hàn lâm đến đời
thường)” (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010), PGS. TS. Nguyễn Văn
Dững viết: “Báo chí hiện đại có thể được hiểu là những ấn phẩm xuất bản
định kỳ (hoặc không định kỳ như báo mạng điện tử), được sản xuất với khối
lượng lớn, phát hành rộng rãi đến đông đảo cư dân (công chúng)”. [1, tr. 5]
Những định nghĩa trên mang tính chất tương đối; định nghĩa một cách
đầy đủ nhất về “báo chí” là định nghĩa của PGS. TS. Nguyễn Văn Dững trong
cuốn “Cơ sở lý luận báo chí” (NXB Lao động, 2013): “Báo chí được hiểu
theo nghĩa rộng bao gồm báo in, báo phát thanh, báo truyền hình và báo
mạng điện tử - tức là những kênh truyền thông đại chúng sản xuất và quảng
báo thông tin thường xuyên liên tục nhất, trên phạm vi rộng lớn nhất, định kỳ
(và phi định kỳ) đều đặn và cập nhật nhất, tác động đến nhiều người nhất, đa
dạng và phong phú nhất”. [6, tr. 102]
Trong đó, “Báo in là những ấn phẩm xuất bản định kỳ, bằng ký hiệu
chữ viết, hình ảnh và các ngơn ngữ phi văn tự, thông tin về các sự kiện và các



13

vấn đề thời sự, phát hành rộng rãi và định kỳ nhằm phục vụ cơng chúng nhóm đối tượng nào đó với mục đích nhất định”. [15, tr. 102]
Cịn theo Điều 3, Chương 1, Luật Báo chí 2016 vừa được Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 11 thơng
qua ngày 5/4/2016: “Báo chí là sản phẩm thơng tin về các sự kiện, vấn đề
trong đời sống xã hội thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được sáng
tạo, xuất bản định kỳ và phát hành, truyền dẫn tới đông đảo công chúng
thơng qua các loại hình báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử”.
Cũng theo Điều 3, Chương I, Luật Báo chí 2016: “Báo in là loại hình
báo chí sử dụng chữ viết, tranh, ảnh, thực hiện bằng phương tiện in để phát
hành đến bạn đọc, gồm báo in, tạp chí in”.
1.1.2. Phân loại báo in
1.1.2.1. Báo
Trong bài viết “Vai trò của báo in Việt Nam trong thời kỳ đổi mới trong
quá trình giao lưu, tiếp nhận và hội nhập văn hóa quốc tế”, PGS. TS. Dương
Xuân Sơn (Trường ĐHKHXH & NV, ĐHQG Hà Nội) cho biết: “Báo chí in bao
gồm báo và tạp chí là những ấn phẩm định kỳ chuyển tải nội dung thơng tin
mang tính thời sự và được phát hành rộng rãi trong xã hội”. [33, tr. 3]
“Căn cứ vào định kỳ xuất bản, tính chất nội dung thông tin, hiện nay
báo in ở nước ta có các loại: báo hàng ngày (là những tờ phát hành mỗi ngày
một kỳ vào buổi sáng hoặc buổi chiều); báo nhiều kỳ trong tuần (là tờ báo phát
hành khoảng từ 5 - 6 kỳ trong một tuần); báo một số kỳ trong tuần (là những tờ
báo có số kỳ xuất bản từ 2 - 4 kỳ trong tuần); báo tuần (là những tờ báo xuất
bản định kỳ 1 kỳ/một tuần); báo nửa tháng hay hàng tháng (chủ yếu là những
ấn phẩm phụ xuất bản giữa tháng hoặc cuối tháng của các tờ báo hằng ngày,
các tờ báo nhiều kỳ, một số kỳ trong tuần hoặc tuần báo)”. [1, tr. 4]
1.1.2.2. Tạp chí
Trong cuốn “Xuất bản tạp chí” (bản dịch tiếng Việt) - Khoa Xuất bản,



14

Học viện Báo chí và Tuyên truyền, 2010), các học giả Trung Quốc đưa ra
khái niệm, “Tạp chí có tên gọi cố định, có đánh số thứ tự theo quyển, kỳ hoặc
năm tháng, nhân bản bằng phương thức in ấn, đăng tải trên chất liệu giấy, là
xuất bản phẩm liên tục thành quyển”. [5, tr. 32]
Cũng trong cuốn “Xuất bản tạp chí”, theo cơng bố của tổ chức
UNESCO, “Tất cả xuất bản phẩm có cùng một tiêu đề, xuất bản liên tục định
kỳ hoặc khơng định kỳ, mỗi năm ít nhất là trên 1 kỳ (1 lần), mỗi kỳ đều ghi rõ
số thứ tự và ghi rõ ngày tháng thì gọi là tạp chí” [5, tr. 34]
Theo “Từ điển tiếng Việt” (NXB Văn hóa thơng tin) thì: “Tạp chí là
báo đóng tập, ra có kỳ (khơng phải hàng ngày), có nhiều mục”. [41, vần T]
Theo “Từ điển Hán Việt dành cho học sinh” (NXB Văn hóa thơng tin)
thì: “Tạp chí được phân tách như sau: “Tạp: có nhiều loại trong đó chỉ sách
ghi chép các sự kiện, bài viết. Tạp chí: là báo ra có kỳ hạn (nghĩa gốc là ghi
chép linh tinh)”. [39, vần T]
Tạp chí hàng tuần: Tên gọi khác: Tuần san. Được xuất bản định kỳ vào
một ngày trong tuần.
Nguyệt san: Xuất bản mỗi tháng một số.
Quý san: Xuất bản mỗi quý (ba tháng) một số.
Bán niên san: Xuất bản nửa năm một số.
Niên san: Xuất bản mỗi năm một số. Các loại niên giám thống kê thuộc
loại này.
Tại Việt Nam, có nhiều loại tạp chí xuất bản định kỳ khơng theo hướng
phân loại trên. Ví dụ: bán tuần báo in 2 - 3 số mỗi tuần, bán nguyệt san in 2 3 kỳ mỗi tháng.
Theo PGS. TS. Dương Xuân Sơn (Trường ĐHKHXH & NV, ĐHQG
Hà Nội) viết trong “Vai trò của báo in Việt Nam trong thời kỳ đổi mới trong
quá trình giao lưu, tiếp nhận và hội nhập văn hóa quốc tế: “Tạp chí là những



15

ấn phẩm định kỳ có nội dung chuyên sâu vào một hay một số vấn đề, lĩnh vực
về đời sống xã hội, khoa học, kỹ thuật… Định kỳ xuất bản của tạp chí có thể
là 1 tuần, nửa tháng, 1 tháng, 2 tháng. Cũng có tạp chí xuất bản 3, 4, 5 hoặc
6 tháng/kỳ”. [8, tr. 4]
Tuy nhiên, trong thời đại bùng nổ thông tin ngày nay, đã xuất hiện các
tạp chí điện tử (trên website), tạp chí trên sóng phát thanh và truyền hình…
xuất bản định kỳ (theo giờ, khung chương trình) và liên tục.
Theo Điều 3, Chương 1, Luật Báo chí 2016: Tạp chí điện tử là sản
phẩm báo chí xuất bản định kỳ, đăng tin, bài có tính chất chun ngành, được
truyền dẫn trên mơi trường mạng. Tạp chí khoa học là sản phẩm báo chí xuất
bản định kỳ để công bố kết quả nghiên cứu khoa học, thông tin về hoạt động
khoa học chuyên ngành. Đặc san là sản phẩm thơng tin có tính chất báo chí
xuất bản khơng định kỳ theo sự kiện, chủ đề.
Như vậy, tất cả các định nghĩa trên đều chỉ ra các yếu tố cấu thành hoặc
đặc điểm cơ bản của tạp chí. Tham chiếu các định nghĩa trên vào tình hình
thực tế, có thể rút ra khái niệm chung về tạp chí như sau: Tạp chí là một sản
phẩm báo chí xuất bản phẩm định kỳ, có tên gọi ổn định, có kỳ hạn xuất bản
trong khoảng thời gian nhất định (có thể là bán nguyệt san, ra hàng tháng,
quý); cung cấp thông tin, kiến thức cho những đối tượng bạn đọc nhất định.
Ta có thể phân loại tạp chí theo chức năng, theo nhiệm vụ, theo nội
dung phản ánh (lĩnh vực và đối tượng phản ánh), theo hình thức thơng tin và
thiết kế (trình bày ấn phẩm, chương trình), theo đối tượng tiếp nhận (công
chúng)…
Xét về mặt nội dung phản ánh (bao gồm cả chức năng, nhiệm vụ, nội
dung thơng tin và hình thức thơng tin), tựu chung lại có thể chia các loại tạp chí
in truyền thống và tạp chí điện tử, tạp chí trên sóng) thành ba nhóm chính:
Nhóm tạp chí lý luận chính trị bao gồm các tạp chí như: Cộng sản, Xây

dựng Đảng, Lý luận chính trị…


16

Nhóm tạp chí khoa học bao gồm các tạp chí như: Khoa học xã hội, Lao
động và Xã hội, Người làm báo, Triết học, Luật học, Văn học, Toán học,
Thuốc và sức khỏe…
Nhóm tạp chí giải trí - chỉ dẫn bao gồm các tạp chí như: Thời trang trẻ,
Tiếp thị và gia đình, Mốt, Ơ tơ - xe máy Việt Nam, Kiến trúc Việt Nam, Mỹ
thuật, Doanh nhân, Gia đình và Trẻ em…
1.2.

Báo chí với trẻ em

Việt Nam là một quốc gia khá chú trọng đến vấn đề báo chí viết về trẻ
em. Số lượng ấn phẩm báo chí và các đề tài về trẻ em khá đa dạng và sâu sắc.
Có khơng ít báo và tạp chí giấy dành riêng cho trẻ em; nhiều chương trình
phát thanh - truyền hình từ trung ương đến địa phương thơng tin về đề tài trẻ
em, kể cả chương trình chuyên đề, định kỳ, thường xun và thơng tin theo
tính thời vụ, theo sự kiện thời sự; nhiều trang thông tin điện tử tổng hợp đăng
tải các bài viết về trẻ em để cung cấp cho các bậc làm cha mẹ các thông tin
hữu ích cũng như nâng cao sự hiểu biết, giúp họ ni dạy, chăm sóc và giáo
dục con cái tốt hơn.
1.2.1. Báo in viết về trẻ em (cho trẻ em đọc)
Báo in viết về trẻ em (cho trẻ em đọc) do người lớn thực hiện, có thể kể
tới các báo: Nhi đồng, Thiếu niên tiền phong, Mực tím, Khăn quàng đỏ, Hoa
học trị… Những tờ báo này, nội dung chính viết về trẻ em nhưng phân chia
theo từng độ tuổi của trẻ, Nhi đồng (dành cho học sinh cấp I), Thiếu niên tiền
phong, Khăn quàng đỏ (dành cho học sinh cấp II), Hoa học trị và Mực tím

(dành cho học sinh cấp III)… Có một số bài viết là của các cộng tác viên trẻ
em gửi về tòa soạn, một số bài viết là của phóng viên tịa soạn. Tồn bộ việc
tổ chức sản xuất bài vở do tòa soạn trực tiếp thực hiện.
1.2.2. Báo in viết về trẻ em (cho n ười lớn đọc)
Báo in viết về trẻ em cho người lớn đọc thì số lượng đầu báo/tạp chí
phong phú hơn hẳn. Ví dụ, có các báo Tuổi trẻ, Giáo dục và Thời đại, Giáo


17

dục TP.HCM, Phụ nữ Thủ đơ, Gia đình Việt Nam, Gia đình và xã hội và tạp
chí Gia đình và Trẻ em...
Đặc điểm của các báo này là đối tượng độc giả chính khơng phải là trẻ
em và trẻ em cũng khơng hẳn là chun mục chính của các báo. Trừ tạp chí
Gia đình và Trẻ em có hẳn một chuyên mục lớn là Vì trẻ em và chuyên đề
Bảo vệ, chăm sóc trẻ em, cịn lại ở các báo khác, vấn đề trẻ em được đề cập
trong các mục Giáo dục, Sức khỏe hoặc Gia đình, Tổ ấm… chỉ như một
chuyên mục bình thường.
1.2.3. Báo in do trẻ em viết
Báo in do trẻ em viết cho chính trẻ em đọc chưa thực sự phổ biến ở
Việt Nam, hiện nay chưa có một tịa soạn báo in nào do trẻ em được tổ chức
thực hiện. Mới chỉ có các báo Nhi đồng, Hoa học trị, Thiếu niên tiền phong,
Mực tím… có sử dụng một số bài viết của cộng tác viên là trẻ em. Tuy nhiên,
tất cả các bài viết này đều phải qua Ban biên tập là người lớn kiểu duyệt, trẻ
em chỉ được tham gia viết bài, đưa tin chứ chưa được tham gia vào các công
đoạn khác của quy trình sản xuất báo chí.
Hiện nay, có Câu lạc bộ Phóng viên nhỏ của Hội Bảo vệ QTE Việt
Nam là nơi tập trung khá đông đảo các “cây viết” trẻ em xuất sắc, các em ở
đây sẽ tham gia viết bài cộng tác với một số cơ quan báo chí.
Cịn trên thế giới, ở các nước phát triển việc trẻ em tham gia làm báo

không phải là điều gì mới lạ.
Ở Thủ đơ New Delhi, Ấn Độ, đã có riêng một tịa soạn báo dành cho
trẻ em cơ nhỡ mang tên Balaknama (nghĩa là “tiếng nói trẻ em”) được thành
lập từ năm 2002 do các nhà hoạt động xã hội Ấn Độ sáng lập.
Những trẻ em lang thang ở New Delhi được đưa về tòa soạn để học các
kỹ năng làm báo, từ cách lấy tin như thế nào, cách biên tập, lên trang ra làm
sao. Những cuộc họp của Ban biên tập báo Balaknama diễn ra rất căng thẳng
và sôi nổi, các em nhỏ làm việc không khác gì những nhà báo thực thụ.


18

Các chủ đề báo Balaknama thường hay đề cập xoay xung quanh các vấn đề
liên quan đến trẻ em như: tảo hơn, lạm dụng tình dục và lao động trẻ em…
Nhiều em từ một người ăn xin, nhặt rác trên đường phố đã trở thành
phóng viên tập sự, phóng viên và rồi là biên tập viên.
Balaknama xuất bản 1 tháng 1 số, mỗi số 10.000 bản. Mỗi tờ
Balaknama có giá 2 Ruby, tương đương khoảng 600 đồng Việt Nam. Số tiền
ít ỏi này chỉ có thể đỡ đần phần nào cho cuộc sống của các em, nhưng điều
quan trọng hơn cả, Balaknama có ý nghĩa tinh thần, tạo niềm tin cho các em
nhỏ lang thang, cơ nhỡ vào một tương lai tốt đẹp hơn.
1.3. Khái niệm trẻ em và quyền trẻ em ở Việt Nam hiện nay
1.3.1. Khái niệm trẻ em
Theo Điều 1, Chương 1 của Luật Trẻ em 2016 (vừa được Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 11 thơng
qua ngày 5/4/2016, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/6/2017) quy định: “Trẻ
em là người dưới 16 tuổi”.
Song, các tổ chức quốc tế như Quỹ Nhi đồng LHQ (UNICE), Quỹ Dân
số LHQ (UNFPA), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Tổ chức Giáo dục, Khoa
học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO)… đều quy định trẻ em là

người dưới 18 tuổi.
Theo Điều 1, Phần 1 Công ước của LHQ về QTE (phê chuẩn ngày
20/11/1989, có hiệu lực từ ngày 2/9/1990) thì: “Trẻ em là người dưới 18 tuổi, trừ
trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”.
Trong các văn kiện quốc tế khác như: Tuyên bố của Hội quốc liên về
QTE (năm 1924), Tuyên bố của LHQ về QTE (năm 1959), Tuyên ngôn thế
giới về quyền con người (năm 1968), Công ước 138 của Tổ chức lao động
quốc tế (ILO) về tuổi tối thiểu làm việc (năm 1976)… đều khẳng định việc áp
dụng độ tuổi trẻ em của mỗi quốc gia có thể khác nhau, tùy thuộc vào luật
pháp của mỗi nước.


19

Quy định độ tuổi trẻ em của Việt Nam thấp hơn so với Công ước quốc tế,
nhưng quy định này vẫn được coi là phù hợp bởi quy định mở của Cơng ước.
Tóm lại, trẻ em là người dưới 16 tuổi (theo pháp luật Việt Nam) hoặc
là người dưới 18 tuổi (theo pháp luật quốc tế) và là một nhóm xã hội đặc thù
có các quyền được ghi trong pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế mà Nhà
nước, gia đình, nhà trường và xã hội phải thực hiện. Trẻ em vừa là đối tượng
phản ảnh, đồng thời là một nhóm cơng chúng của báo chí truyền thơng.
1.3.2. Khái niệm quyền
Quyền là những địi hỏi cơ bản và chính đáng của một con người phải
được hưởng hoặc có thể được làm.
Theo “Phương pháp tiếp cận dựa trên cơ sở quyền con người dành cho
cán bộ LHQ tại Việt Nam”: Quyền là mối quan hệ giữa một cá nhân (hoặc
một nhóm các cá nhân) được u cầu chính đáng đối với một cá nhân (hoặc
một nhóm cá nhân) khác có nghĩa vụ hoặc trách nhiệm liên quan tới yêu cầu
đó. Trong mối quan hệ này, cá nhân đầu tiên là bên có quyền (hoặc chủ thể
của quyền) và cá nhân thứ hai là bên có trách nhiệm (hay khách thể của

quyền). Quyền bao gồm quyền đạo đức, quyền theo hợp đồng, quyền theo
quy định của pháp luật, cũng như quyền con người.
Quyền con người hay còn được gọi là nhân quyền (tiếng Anh: human
rights), ở góc độ khái quát nhất, theo LHQ, có thể hiểu là những gì bẩm sinh,
vốn có của con người mà nếu khơng được bảo đảm thì chúng ta sẽ khơng thể
sống như một con người.
Quyền con người là những quyền tự nhiên của con người và không bị
tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào. Theo Văn phịng Cao ủy LHQ,
“quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các
cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn
hại đến nhân phẩm, những tự do cơ bản của con người”.


×