Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp trên địa bàn huyện chương mỹ, thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 117 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN THỊ HỒI THU

HỢP TÁC XÃ DỊCH VỤ NƠNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số
: 60 31 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Đoàn Phúc Thanh

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu
dẫn chứng là trung thực và các kết quả nghiên cứu của Luận văn chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào.
Tác giả

Nguyễn Thị Hồi Thu



LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu và làm luận văn, em xin gửi lời cảm ơn
đến các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế đã giảng dạy và cung cấp cho em
những kiến thức cơ bản. Bên cạnh đó, em cũng xin chân thành cảm ơn TS.
Đoàn Phúc Thanh đã tận tình giúp đỡ em trong q trình hồn thành luận
văn tốt nghiệp.
Do trình độ cịn hạn chế nên trong q trình nghiên cứu khó tránh khỏi
những thiếu sót, em rất mong sự chỉ bảo thêm của các thầy cơ để em có thể
hồn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Tác giả

Nguyễn Thị Hoài Thu


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNH – HDH:

Cơng nghiệp hóa – Hiện đại hóa

CNXH:

Chủ nghĩa xã hội

HTX:

Hợp tác xã

LLSX:


Lực lượng sản xuất

QHSX:

Quan hệ sản xuất

UBND:

Ủy ban nhân dân

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ
Tên bảng, sơ đồ

Trang

Bảng 2.1: Tổng hợp số lượng HTX, số xã viên tham gia HTX từ

49

năm 2009 đến cuối năm 2013
Bảng2.2: Trình độ của cán bộ HTX 2 nhiệm kỳ (2001- 2005) và

50


(2006-2010)
Bảng 2.3:Tổng hợp nguồn vốn kinh doanh và quỹ của các HTX

56

dịch vụ nông nghiệp trong huyện từ năm 2005 đến cuối năm 2013
Bảng 2.4: Phân loại kết quả hoạt động của các HTX dịch vụ nông

58

nghiệp trên địa bàn huyện
Bảng 2.5: Tổng doanh thu, chi phí, lãi (lỗ) của các HTX dịch vụ

60

nông nghiệp trên địa bàn huyện Chương Mỹ
Sơ đồ 1: Tỉ lệ lãi (lỗ) của từng khâu dịch vụ các năm 2011, 2012, 62-63
2013
Bảng 2.6. HTX tạo ra việc làm cho các hộ gia đình

65

Bảng 2.7: Những khó khăn vướng mắc trong hoạt động của HTX

72

dịch vụ nông nghiệp


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................................. 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN
HỢP TÁC XÃ DỊCH VỤ NƠNG NGHIỆP........................................................................ 7
1.1. Hợp tác xã dịch vụ nơng nghiệp và vai trị của nó trong sự phát triển nông
nghiệp, nông thôn .......................................................................................................... 7
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của hợp tác xã dịch vụ
nông nghiệp ........................................................................................ 29
1.3. Kinh nghiệm phát triển hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp của một số địa
phương ở thành phố Hà Nội.......................................................................................35
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ DỊCH VỤ NÔNG
NGHIỆP Ở HUYỆN CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI.....................................41
2.1. Những thuận lợi, khó khăn đối với sự phát triển hợp tác xã dịch vụ nông
nghiệp ở huyện Chương Mỹ ......................................................................................41
2.2. Những thành tựu và hạn chế về phát triển hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp
ở huyện Chương Mỹ..................................................................................................44
2.3. Những vấn đề đặt ra đối với sự phát triển hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp ở
huyện Chương Mỹ ......................................................................................................77
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ DỊCH VỤ
NÔNG NGHIỆP Ở HUYỆN CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI.......................80
3.1. Xu hướng phát triển hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp ở nước ta.......80
3.2. Quan điểm phát triển hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp ở huyện
Chương Mỹ..........................................................................................81
3.3. Giải pháp phát triển hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp trên địa bàn
huyện sản xuất phù hợp với dân trí và tâm lý nơng dân. ............................94
KẾT LUẬN..........................................................................................................................107
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................................109


1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hợp tác xã (HTX) là một tổ chức kinh tế mang tính xã hội và nhân văn
sâu sắc, được hình thành một cách tự nhiên từ những đòi hỏi, nhu cầu thực tế
của con người trong hoạt động kinh tế.
Con đường hợp tác đưa nông nghiệp, nông thôn quá độ lên CNXH ở
nước ta đã trải qua hơn 50 năm. Quá trình ấy đã có những biến đổi, những
bước thăng trầm do những điều kiện khách quan và những nhân tố sai lầm
chủ quan. Song kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX trong những năm qua, đã
có nhiều đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, chuyển nền kinh tế sang hoạt
động theo cơ chế thị trường, HTX cũng được đổi mới cả về nội dung, hình
thức hoạt động, biểu hiện cụ thể ở việc ban hành Luật HTX (năm 1996). Tuy
nhiên, trong thực tế hoạt động của các HTX nông nghiệp vấp phải rất nhiều
khó khăn làm cho hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Tổng kết 5 năm thực
hiện chuyển đổi HTX theo Luật HTX (1996), Hội nghị Trung ương 5 khóa IX
(3/2002) đã ra Nghị quyết về : “Tiếp tục đổi mới phát triển và nâng cao hiệu
quả kinh tế tập thể”, trong đó nhấn mạnh Nhà nước phải tạo điều kiện thuận
lợi cho HTX nông nghiệp phát triển. Trên cơ sở Nghị quyết của Đảng và thực
tiễn hoạt động của HTX kiểu mới, kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI (ngày
26/11/2003) đã thông qua Luật HTX mới (Luật HTX năm 2003 có hiệu lực
thi hành từ ngày 1/7/2004).
Đặc biệt, Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khố
X đã thơng qua Nghị quyết 26-NQ/TW về nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn;
Theo đó, chương trình xây dựng nơng thơn mới đã trở thành chương trình
mục tiêu quốc gia, nhằm tạo mọi điều kiện và phối hợp đồng bộ các giải pháp,


2


nguồn lực cho phát triên tồn diện khu vực nơng thôn, ổn định, đời sống vật
chất và tinh thần của người dân. Hơn nữa, theo tinh thần Nghị quyết trên, các
HTX dịch vụ nông nghiệp vừa là một trong những tiêu chí cần đạt được, vừa
là cơng cụ phát huy nội lực rất hiệu quả trong sự nghiệp xây dựng nông thôn
mới. Sau 10 năm hoạt động theo tinh thần của Luật HTX mới 2003, các HTX
dịch vụ nông nghiệp đã có những bước phát triển nhưng chưa đều, chưa thực
sự đi sâu, đi sát vào đời sống của người lao động nhất là HTX dịch vụ nông
nghiệp ở các địa phương. Điều đó cho thấy, để phát triển HTX, trong đó có
HTX dịch vụ nơng nghiệp, cần tiếp tục nghiên cứu, đổi mới chính sách.
Huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội được biết đến là một huyện
thuần nông và kinh tế nơng nghiệp có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển kinh tế
xã hội của huyện. Để phát triển nơng nghiệp thì một yếu tố giữ vai trị quan
trọng đó chính là hoạt động của các HTX dịch vụ nông nghiệp. Từ khi triển
khai thực hiện Luật HTX năm 1996 và Luật HTX sửa đổi năm 2012 đến nay,
HTX dịch vụ nơng nghiệp ở huyện Chương Mỹ có bước phát triển mới, đã
đáp ứng được một phần nhu cầu của nông dân, của các hộ và HTX sản xuất kinh doanh nơng nghiệp, đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế
- xã hội trên địa bàn. Tuy nhiên HTX dịch vụ nông nghiệp ở huyện Chương
Mỹ cũng còn tồn tại một số yếu kém như: Hầu hết các HTX dịch vụ nông
nghiệp đều thiếu vốn, trong lúc các thủ tục để vay vốn còn nhiều bất cập; cơ
sở vật chất, kỹ thuật của các HTX dịch vụ nông nghiệp vừa thiếu, vừa lạc hậu
nên gây nhiều khó khăn trong việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh;
chưa hình thành được các HTX chuyên khâu cho đầu ra; thiếu cán bộ có năng
lực quản lý, có tâm huyết và khả năng điều hành các hoạt động; phương
hướng kinh doanh khơng ổn định. Vì vậy, hiệu quả kinh tế của HTX dịch vụ
nơng nghiệp cịn thấp, sức hấp dẫn của các HTX dịch vụ nông nghiệp chưa
cao, HTX dịch vụ nông nghiệp phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và
vai trò kinh tế - xã hội vốn có của nó…


3


Như vậy, sự tồn tại của các HTX dịch vụ nơng nghiệp là cần thiết, nhất
là trong q trình xây dựng nông thôn mới. Nhưng không phải là sự tồn tại
một cách hình thức mà phải thực sự hoạt động có hiệu quả thì người nơng dân
mới thấy hết được ý nghĩa, vai trị của nó. Vấn đề cơ bản và cấp bách đặt ra
đối với huyện Chương Mỹ là phải đánh giá đúng tình hình và kết quả hoạt
động của các HTX dịch vụ nông nghiệp, rút ra những kinh nghiệm và đề ra
những giải pháp tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả kinh tế của các HTX
dịch vụ nông nghiệp.
Với đề tài “Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp trên địa bàn huyện
Chương Mỹ, thành phố Hà Nội hiện nay”, tác giả luận văn mong muốn góp
phần dù là nhỏ bé vào việc thực hiện nhiệm vụ quan trọng nêu trên.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả HTX nông nghiệp là một
trong những vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm. Trong suốt quá trình
cách mạng XHCN ở nước ta, vấn đề HTX nông nghiệp là chủ đề được nhiều
cơ quan khoa học, nhiều nhà nghiên cứu xem xét dưới nhiều góc độ, phạm vi
và mức độ khác nhau. Có thể nêu một số cơng trình tiêu biểu như:
- Lương Xuân Quỳ, Nguyễn Thế Nhã, “Đổi mới tổ chức và quản lý
HTX trong nông nghiệp nông thôn”, Nxb Nơng nghiệp, 1999. Các tác giả đã
khái qt tồn bộ quá trình phát triển của các hình thức tổ chức, quản lý các
HTX trong nông thôn Việt Nam từ trước đến khi chuyển sang kinh tế thị
trường và phân tích thực trạng mơ hình tổ chức quản lý các HTX ở một số địa
phương tiêu biểu. Trên cơ sở đó phác họa một số phương hướng và giải pháp
chủ yếu để xây dựng mơ hình tổ chức có hiệu quả cho các loại hình HTX.
- Nguyễn Văn Bình, Chu Tiến Quang, Lưu Văn Sùng, “ Kinh tế hợp
tác, hợp tác xã ở Việt Nam- Thực trạng và định hướng phát triển”, Nxb Nông


4


nghiệp, 2001. Các tác giả đã hệ thống hóa quá trình hình thành, phát triển các
lọai hình kinh tế hợp tác, hợp tác xã trên thế giới và ở Việt Nam với những
thành cơng và tồn tại, từ đó nêu lên định hướng phát triển phù hợp đường lối
đổi mới của Đảng và Nhà nước ta.
- Phạm Thị Cần, Vũ Văn Phúc, Nguyễn Văn Kỷ, “Kinh tế hợp tác
trong nông nghiệp nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, 2003. Các tác
giả tập trung trình bày những vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế hợp tác,
HTX; sự cần thiết khách quan phải lựa chọn các mô hình kinh tế hợp tác,
HTX phù hợp với đặc điểm, điều kiện nông nghiệp, nông thôn nước ta, đề
xuất những giải pháp phát triển các mơ hình kinh tế hợp tác, HTX trong nông
nghiệp, nông thôn Việt Nam hiện nay.
- Luận văn Thạc sĩ kinh tế của tác giả Trần Minh Tâm, năm 2000, về
“Phát triển kinh tế hợp tác ở ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh - Thực trạng
và giải pháp”. Tác giả nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động của kinh tế hợp
tác xã ở thành phố Hồ Chí Minh và đề xuất các giải pháp phát triển.
- Luận văn thạc sĩ kinh tế của tác giả Lê Thùy Hương, năm 2003, về
“Kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh Hải Dương, thực trạng và giải pháp”. Tác
giả trình bày vai trị, tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế tập
thể; đánh giá thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế tập thể trên địa bàn
tỉnh Hải Dương.
Nhìn chung, các cơng trình kể trên đã nghiên cứu nhiều khía cạnh của
hợp tác xã nơng nghiệp; trong đó, các cơng trình nghiên cứu trước năm 2001
chủ yếu đi vào làm rõ những yếu kém của mơ hình hợp tác xã kiểu cũ, luận
giải sự cần thiết, thực trạng chuyển đổi mơ hình HTX theo Luật HTX (1996);
các cơng trình nghiên cứu sau năm 2001, nghiêng về nghiên cứu sự phát triển
của kinh tế tập thể theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX.


5


Cho đến nay chưa có đề tài nghiên cứu cụ thể về HTX dịch vụ nông
nghiệp trên địa bàn Chương Mỹ, Hà Nội.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn hệ thống hoá những vấn đề lý luận về HTX dịch vụ nông
nghiệp, đồng thời đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển HTX
dịch vụ nông nghiệp của huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội trong thời
gian tới.
Để đạt được mục đích đó, luận văn có những nhiệm vụ:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về HTX dịch vụ nông nghiệp.
- Đánh giá thực trạng phát triển HTX dịch vụ nông nghiệp trên địa bàn
huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
- Đề xuất giải pháp phát triển HTX dịch vụ nông nghiệp trên địa bàn
huyện Chương Mỹ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các HTX dịch vụ nông nghiệp
trên địa bàn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
- Luận văn nghiên cứu HTX dịch vụ nông nghiệp ở huyện Chương Mỹ,
thành phố Hà Nội từ 2008 đến nay và từ nay đến 2020.
- Luận văn nghiên cứu dưới góc độ khoa học Kinh tế chính trị.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu để tài.
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin; tư tưởng
Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm, những tổng kết kinh nghiệm của Đảng
và chính sách pháp luật của Nhà nước; kế thừa có chọn lọc các cơng trình
nghiên cứu khoa học có nội dung nghiên cứu gần với đề tài.


6

Sử dụng kết hợp nhiều phương pháp để nghiên cứu đề tài: phương pháp

phân tích, tổng hợp, khái quát vấn đề; phương pháp trừu tượng hóa khoa học;
phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn; phương pháp điều tra; phương
pháp thống kê…
6. Đóng góp mới của luận văn
Phác họa bức tranh nhiều chiều về HTX dịch vụ nông nghiệp trên địa
bàn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
Đánh giá, đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm phát triển hơn nữa
HTX dịch vụ nông nghiệp ở huyện Chương Mỹ trong thời gian tới theo đúng
định hướng, vai trị của nó, để thúc đẩy nơng nghiệp của huyện ngày càng
phát triển, góp phần vào phong trào xây dựng nông thôn mới của huyện.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, để tài được
kết cấu thành ba chương, 9 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn phát triển hợp tác
xã dịch vụ nông nghiệp.
Chương 2: Thực trạng phát triển hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp ở
huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp phát triển hợp tác xã dịch vụ nông
nghiệp ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội.


7

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN PHÁT
TRIỂN HỢP TÁC XÃ DỊCH VỤ NÔNG NGHIỆP
1.1. Hợp tác xã dịch vụ nơng nghiệp và vai trị của nó trong sự phát triển
nông nghiệp, nông thôn
1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp.
1.1.1.1. Khái niệm hợp tác xã, hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã dịch vụ

nông nghiệp
* Khái niệm hợp tác xã
HTX là một loại hình kinh tế hợp tác có ý nghĩa lớn đối với các chủ sản
xuất nhỏ, thợ thủ cơng, nơng dân...vì thế mà phong trào hợp tác xã phát triển
mạnh mẽ ở các nước. Liên minh HTX thế giới đã được thành lập tại Luân
Đôn (Anh) vào tháng 8/1895 đưa ra khái niệm về HTX như sau: “HTX là tổ
chức tự trị của những người tự nguyện liên hợp lại để đáp ứng nhu cầu và
nguyện vọng chung của họ về kinh tế xã hội và văn hóa thơng qua một xí
nghiệp cùng sở hữu và quản lý dân chủ”.
Bên cạnh định nghĩa của liên minh HTX thế giới, các nước có phong
trào HTX cũng đưa ra định nghĩa về HTX trong Luật HTX của mình. Luật
Hợp tác xã của Cộng hòa liên bang Đức định nghĩa: “ Hợp tác xã đăng ký là
những tập thể với đa số thành viên khơng hạn chế nhằm khuyến khích việc
sản xuất, kinh doanh của các thành viên, thông qua các cơ sở sản xuất, kinh
doanh chung”.
Theo Luật Hợp tác xã của Inđônêxia: “Hợp tác xã là tổ chức kinh tế
của nhân dân mang tính xã hội, gồm những người hoặc những tổ chức ở địa
phương và thành viên lập nên một hệ thống kinh tế như là nỗ lực chung đặt
trên cơ sở nguyên tắc của tình anh em”.


8

Từ những khái niệm nêu trên, có thể hiểu HTX là một tổ chức kinh tế
của những cá nhân, tập thể tự nguyện liên kết với nhau nhằm mục đích chung,
thoả mãn nhu cầu chung, nhằm hổ trợ, giúp đỡ lẫn nhau tiến hành cơng việc
kinh doanh có hiệu quả nhất theo nguyên tắc liên kết tự nguyện.
Ở nước ta trước yêu cầu phát triển HTX, Luật HTX đã thông qua và có
hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1997. Trong chương I, điều 1 của Luật đã
nêu:“Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu

cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo qui định của
pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp
nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và
cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước”.
Điều 3 của HTX sửa đổi bổ sung năm 2012 được nêu như sau: “Hợp
tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít
nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung
của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ
trong quản lý hợp tác xã..” Theo khái niệm này, ngồi những tính chất và đặc
thù do Luật HTX (năm 1996) qui định, HTX kiểu mới do các thành viên bao
gồm cả thể nhân và pháp nhân, cả người có ít vốn và người có nhiều vốn, có
thể góp sức hoặc góp vốn xây dựng nên, trên cơ sở tơn trọng các ngun tắc:
tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi và quản lý dân chủ. HTX được thừa nhận
hoạt động theo điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp trong cơ chế thị trường như
các thành phần kinh tế khác; được khẳng định quyền “tự chủ” trong sản xuất
kinh doanh; được huy động “các nguồn vốn khác theo qui định của pháp
luật” như các loại hình doanh nghiệp khác. Trước đây, luật không qui định
điều này, nhưng hiện nay HTX được vay vốn bình đẳng như đối với doanh
nghiệp của các thành phần kinh tế khác, các HTX được thế chấp bằng tài sản


9

hình thành từ vốn vay để vay vốn ngân hàng, được vay vốn bằng tín chấp và
vay theo dự án sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, các HTX được tham gia các
chương trình dự án quốc gia của Chính phủ và các tổ chức phi chính phủ.
Ngân hàng Nhà nước phải có hướng dẫn chỉ đạo chặt chẽ đối với các hoạt
động tín dụng trong nội bộ HTX; khuyến kích phát triển quỹ tín dụng nhân
dân một cách vững chắc. Đây là tư tưởng đối mới của Đảng và Nhà nước ta,

tạo điều kiện và giúp đỡ kinh tế hợp tác và HTX phát triển.
* Khái niệm hợp tác xã nông nghiệp
HTX nông nghiệp là một tổ chức kinh tế tập hợp đông đảo nông dân ở
nông thôn, lực lượng lao động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong xã hội. Lực
lượng lao động ở HTX nông nghiệp nếu được bồi dưỡng, tập huấn và đào tạo
về khoa học, kỹ thuật và công nghệ sẽ là yếu tố cơ bản cho sự phát triển sản
xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế - xã hội nông thôn.
HTX nông nghiệp là một tổ chức kinh tế của những người yếu thế nhất
về trình độ dân trí, vốn, cơ sở vật chất - kỹ thuật so với các loại hình doanh
nghiệp khác. Điều này được thể hiện rõ ở các nước đang phát triển. Đây là
hạn chế lớn nhất đối với kinh doanh của loại hình tổ chức kinh tế này. Do đó
vai trị của nhà nước đối với HTX nơng nghiệp là tất yếu về các mặt: quản lý
nhà nước, giúp đỡ, hỗ trợ và tham gia quản lý HTX. HTX nông nghiệp cũng
không thể không liên kết, liên doanh với các tổ chức kinh tế - xã hội khác
trong quá trình phát triển.
Đối tượng sản xuất của nông nghiệp là cây trồng, vật ni, nên trong
q trình hoạt động kinh doanh của mình, HTX nơng nghiệp vừa bị chi phối
bởi các quy luật kinh tế, vừa bị chi phối bởi các quy luật tự nhiên. Đặc điểm
này thường làm cho các HTX nông nghiệp phải chịu rủi ro lớn, hiệu quả kinh
tế thấp, tích luỹ ít và chậm. Sự kiện bùng nổ dịch cúm gia cầm trên cả nước


10

và châu Á, rét đậm và hạn hán nặng, lũ lụt... vừa qua là những ví dụ rõ nét.
Tuy nhiên, nếu được đầu tư tốt và bản thân HTX nông nghiệp nào năng động,
sáng tạo thì sẽ có nhiều lợi thế trong việc tung ra thị trường những loại hàng
hoá đặc sản có chất lượng cao và sức cạnh tranh lớn cũng như đối với việc
thực hiện chun mơn hố, đa dạng hoá sản phẩm.
* Khái niệm về HTX dịch vụ nơng nghiệp

Từ khái niệm HTX nơng nghiệp có thể suy ra: HTX dịch vụ nông
nghiệp là một tổ chức kinh tế của những người có nhu cầu, lợi ích chung, tự
nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo Luật HTX và điều lệ mẫu HTX để kinh
doanh các dịch vụ phục vụ đầu vào, đầu ra của quá trình sản xuất nông
nghiệp cũng như nâng cao đời sống xã viên và cộng đồng dân cư ở khu vực
nông thôn.
Đây là loại hình HTX được tách hẳn ra để làm chức năng dịch vụ nông
nghiệp bao gồm dịch vụ các yếu tố đầu vào như dịch vụ cung ứng vật tư
(giống, phân bón, thuốc trừ sâu...); dịch vụ các khâu cho sản xuất nông nghiệp
như dịch vụ làm đất, tưới tiêu, bảo vệ thực vật...; dịch vụ các yếu tố đầu ra sản
xuất nông nghiệp như dịch vụ chế biến, bảo quản, thu mua, tiêu thụ sản
phẩm...những khâu dịch vụ này, nếu từng xã viên làm thì sẽ khơng hiệu quả.
Mơ hình này đã triển khai đa dạng các loại hình dịch vụ như chế biến nơng
sản, phát triển ngành nghề, kinh doanh thương mại, xây dựng, tín dụng...
1.1.1.2. Đặc trưng cơ bản của hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp
Thứ nhất, HTX dịch vụ nông nghiệp đầu tư kinh doanh đa lĩnh vực, đa
ngành nghề, từ dịch vụ đầu vào đến đầu ra của q trình sản xuất nơng nghiệp
và phục vụ đời sống xã viên, cộng đồng dân cư. HTX loại này kinh doanh
nhiều loại hình dịch vụ khác nhau, từ dịch vụ đầu vào (thủy lợi, con giống,
phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, vốn,...), đến các dịch vụ đầu ra (chế biến,


11

bảo quản, tiêu thụ sản phẩm,...) nhằm mục tiêu thực hiện tốt hơn những dịch
vụ hỗ trợ xã viên phát triển sản xuất kinh doanh một cách hiệu quả nhất. Bên
cạnh đó, các HTX cũng đầu tư vào dịch vụ phục vụ đời sống (dịch vụ cung
cấp hàng hóa tiêu dùng, điện, nước sạch, vệ sinh mơi trường...). Có thể nói
đây là đặc trưng cơ bản của HTX dịch vụ nông nghiệp.
Thứ hai, Địa bàn hoạt động và đối tượng phục vụ chủ yếu ở nông thôn.

Các HTX dịch vụ nơng nghiệp được hình thành một cách tự nguyện giữa các
hộ xã viên. Nơng thơn chính là địa bàn hoạt động hiệu quả, có lợi thế lớn đối
với các HTX. Nơng dân chính là đối tượng phục vụ quan trọng nhất, cơ bản
nhất chi phối các hoạt động của các HTX.
Thứ ba, Sự phát triển đã đạt đến một trình độ nhất định, có phương pháp
tổ chức và quản lý đa dạng, phù hợp. Các HTX dịch vụ nông nghiệp có nguồn
gốc chuyển đổi liên kết của nhiều HTX nhỏ hoặc được thành lập mới, đều thực
hiện nhiều khâu dịch vụ, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Đó là kết quả của q
trình phát triển trong nền kinh tế có tính cạnh tranh ngày một tăng. Chính nội
tại của sự phát triển đã địi hỏi các HTX phải có tổ chức, bộ máy quản lý đa
dạng, phù hợp với sự phát triển. Điều này đặt ra yêu cầu phải giải quyết tốt mối
quan hệ giữa QHSX phải phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Tuy nhiên
để phát triển các HTX theo hướng dịch vụ thì cần phải có sự phát triển đạt đến
trình độ nhất định, việc quản lý phải đa dạng nhưng phù hợp.
1.1.2. Vai trò của hợp tác xã và hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp trong sự
phát triển nông nghiệp, nông thôn
1.1.2.1. Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng về vai trò của hợp tác xã trong sự phát triển nông nghiệp, nông thôn
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của hợp tác xã trong
sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn


12

Lịch sử phát triển của xã hội lồi người chính là lịch sử của sự phát
triển LLSX, đi với nó là một QHSX phù hợp. Sự hợp tác giữa người và người
khơng chỉ vì u cầu của sản xuất mà còn cả yêu cầu của cuộc sống để nương
tựa nhau, hỗ trợ nhau và bảo vệ cho nhau. Trong bộ Tư bản cũng như trong
nhiều tác phẩm khác của C.Mác, đối tượng nghiên cứu là phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa và những QHSX và trao đổi thích ứng với phương thức sản xuất ấy.

Với quan điểm triết học, nắm vững và vận dụng quy luật QHSX phải phù hợp với
LLSX, C.Mác đã phân tích q trình phát triển của chủ nghĩa tư bản theo 3 giai
đoạn: hiệp tác giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí. Đó là ba
giai đoạn phát triển có tính tuần tự của LLSX, tương ứng với nó là QHSX phù hợp,
bao gồm cả quan hệ sở hữu, quan hệ phân phối và quan hệ quản lý với những hình
thức tổ chức sản xuất tương ứng dựa trên chế độ hiệp tác. C.Mác đã cho rằng hình
thức hiệp tác (giản đơn) là điểm xuất phát lịch sử và lơgích của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa [24, tr.468]. Sự khởi đầu này bắt nguồn từ sự mở rộng các
xưởng sản xuất của những người thợ cả làm nghề thủ cơng có tính chất phường hội
thành các cơng xưởng. Trong các cơng xưởng đó, sự hiệp tác được hiểu là sự hoạt
động của một số công nhân làm việc trong cùng một thời gian, trên cùng một không
gian (hoặc trên cùng một địa điểm lao động) để sản xuất ra cùng một loại hàng hóa
dưới sự điều khiển của một nhà tư bản [24, tr.468].
Tuy nhiên, ngay trong giai đoạn hiệp tác đơn giản, khái niệm hiệp tác đã
được mở rộng hơn, đó là “hình thức lao động trong đó nhiều người làm việc
theo kế hoạch bên cạnh nhau và cùng với nhau, trong cùng một quá trình sản
xuất hay trong những quá trình khác nhau nhưng gắn liền với nhau”[24, tr.478].
Theo tiến trình phát triển của lịch sử, LLSX khơng ngừng phát triển và
ngày càng nâng cao thì tất yếu sẽ xuất hiện các QHSX và hình thức tổ chức sản
xuất tương ứng. Chuyển sang giai đoạn công trường thủ công tư bản chủ nghĩa,
tuy cơ sở kỹ thuật vẫn dựa trên công cụ và lao động thủ công nhưng do qui mô


13

sản xuất tăng lên nhờ sự hiệp tác của nhiều ngành nghề khác nhau, tất yếu xuất
hiện các hình thức phân cơng và hiệp tác lao động với trình độ và qui mô lớn hơn
mà C.Mác đã khái quát thành ba loại: phân công lao động chung, phân công lao
động đặc thù, phân công lao động cá biệt, tức là sự hiệp tác diễn ra trên ba phạm
vi: xã hội, trong từng ngành và trong từng công xưởng, và như vậy sự trao đổi

hàng hóa, phát triển thị trường trở thành cơ sở và động lực của sự hiệp tác trên
phạm vi toàn xã hội, thúc đẩy những người sản xuất hàng hóa khơng chỉ hiệp tác
mà cịn cạnh tranh với nhau. C.Mác viết: "Sự phân công lao động trong xã hội đặt
những người sản xuất hàng hóa độc lập đối diện với nhau, những người này
không thừa nhận một uy lực nào khác ngoài uy lực của cạnh tranh” [24, tr.517].
Và cũng chính từ sự hiệp tác trên qui mơ rộng lớn dựa trên nền sản xuất hàng hóa
đi đôi với những phát kiến về khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật, nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa đã chuyển sang giai đoạn đại công nghiệp cơ khí dựa trên
cơ sở lao động và cơng cụ máy móc. Về phần mình, đại cơng nghiệp cơ khí lại tạo
cho sự hiệp tác trở thành một tất yếu kỹ thuật khơng thể nào cưỡng chế nổi, khi
C.Mác nói là q trình sản xuất đó khơng liên quan gì đến bàn tay của con người
mà là dựa trên các nguyên lý của kỹ thuật học. "Nền đại công nghiệp không
ngừng đảo lộn những cơ sở kỹ thuật của nền sản xuất, và cùng với chúng là
những chức năng của công nhân và những sự kết hợp xã hội của quá trình lao
động" [24, tr.692]. Chính trong giai đoạn đại cơng nghiệp cơ khí, khoa học và kỹ
thuật khơng chỉ là cơ sở của sản xuất mà còn là điều kiện của hiệp tác và là đối
tượng hiệp tác của sản xuất và kinh tế.
Như vậy, cùng với sự phát triển khơng ngừng của LLSX mà quy mơ và
trình độ của sự hiệp tác cũng tăng lên, đi liền với nó là hình thức tổ chức sản
xuất cũng trở nên hết sức đa dạng, đồng thời cũng chính từ qui mơ, trình độ
và hình thức hiệp tác khơng ngừng tăng lên lại thúc đẩy phát triển LLSX. Mối
quan hệ tác động biện chứng đó diễn ra trong lịch sử nhân loại hàng trăm năm


14

nay, đưa loài người bước sang nền văn minh mới với sự hiệp tác trên phạm vi
toàn thế giới. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã viết: "Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới... thị trường thế giới
thúc đẩy cho thương nghiệp, hàng hải, những phương tiện giao thơng tiến bộ

phát triển mau chóng lạ thường, sự phát triển này lại thúc đẩy công nghiệp,
thương nghiệp, hàng hải càng phát triển làm tăng tư bản của giai cấp tư sản
lên" [23, tr.598]. Rõ ràng, hiệp tác là một q trình khách quan, khơng ngừng
phát triển, cũng giống như khoa học là một lực lượng tự nhiên, khơng tốn
kém gì đối với nhà tư bản mà chỉ mang lại lợi ích mà thơi. Trong tác phẩm
của mình, C.Mác đã chỉ ra những lợi ích của sự hiệp tác giản đơn như sau:
- Sử dụng chung các tư liệu lao động
- Tạo ra sức mạnh gấp bội để làm những công việc mà cá nhân riêng rẽ
khơng thể làm nổi.
- Tạo ra khơng khí thi đua tăng năng suất lao động.
- Tạo cho đối tượng lao động được chuyển vận nhanh chóng.
- Phân cơng chun mơn hóa nên có thể rút ngắn thời gian tạo ra sản phẩm.
- Hồn thành cơng việc khẩn cấp trong một thời gian nhất định.
- Mở rộng hoặc thu hẹp phạm vi không gian của lao động một cách phù hợp.
- Tạo ra sức sản xuất của lao động xã hội, qua đó tạo ra giá trị thặng dư
cho nhà tư bản.
Ở trình độ cao hơn, hiệp tác có phân cơng sẽ tạo ra điều kiện để chun
mơn hóa cơng cụ và lao động, thúc đẩy sản xuất các máy móc ngày càng tinh
xảo, đồng thời thúc đẩy thị trường phát triển.
Tuy nhiên, để tận dụng và phát huy các lợi thế của hiệp tác cần phải có
các điều kiện, trong đó C.Mác đã chỉ ra các điều kiện tiên quyết sau đây:


15

Thứ nhất, phải có một lực lượng tư bản đủ để mua sức lao động và tư
liệu lao động. C.Mác viết: "Con số những công nhân hiệp tác, hay qui mô sự
hiệp tác, phụ thuộc trước hết vào đại lượng của tư bản mà một nhà tư bản
riêng rẽ có thể chi ra trong việc mua sức lao động... sự tích tụ một khối lượng
lớn tư liệu sản xuất vào trong tay những nhà tư bản riêng rẽ là điều kiện vật

chất cho sự hiệp tác của những công nhân làm thuê và qui mô hiệp tác hoặc
qui mô sản xuất phụ thuộc vào qui mơ của sự tích tụ đó" [24,tr.479].
Thứ hai, phải có sự chỉ huy, quản lý với trình độ có thể đảm bảo cho q
trình sản xuất luôn suôn sẻ và đạt hiệu quả cao, và quản lý trở thành một tất yếu
của lao động hiệp tác. C.Mác viết: "Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển
lấy mình, cịn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng" [24, tr.480].
Thứ ba, cần phải có những người lao động tự do, bán sức lao động cho
nhà tư bản. C.Mác viết: "Hình thức tư bản của sự hiệp tác thì ngay từ đầu đã
giả định phải có người lao động làm thuê tự do, bán sức lao động của mình
cho nhà tư bản" [24, tr.485].
Thứ tư, đảm bảo lợi ích thỏa đáng là một điều kiện của sự hiệp tác. Nhà
tư bản phát triển các hình thức hiệp tác từ thấp đến cao là nhằm thu được giá
trị thặng dư cao nhất, còn người lao động làm thuê tiến hành hiệp tác lao động
trước hết là vì lợi ích của bản thân và qua đó đem lại lợi ích cho nhà tư bản.
C.Mác viết: "Động cơ thúc đẩy và mục đích quyết định của q trình sản xuất
tư bản chủ nghĩa là sự tăng lên càng nhiều càng tốt của tư bản, tức là sự sản
xuất ra giá trị thặng dư càng nhiều càng tốt" [24, tr.480].
Qua nghiên cứu lý luận "hiệp tác" trong học thuyết của C.Mác có thể
rút ra một số vấn đề sau đây:
Hiệp tác là một hiện tượng khách quan của xã hội loài người và đã xuất
hiện rất sớm kể từ khởi đầu nền văn minh của lồi người và khơng ngừng


16

phát triển theo sự phát triển của LLSX, tuy nhiên mỗi chế độ xã hội khác
nhau có nội dung và hình thức hiệp tác khác nhau. Hiệp tác tư bản chủ nghĩa
là sự hiệp tác của những người lao động làm thuê tự do, bán sức lao động của
mình cho nhà tư bản, còn hiệp tác XHCN theo C.Mác là sự hiệp tác của
những người sản xuất tự do và bình đẳng liên hiệp lại để tiến hành lao động

xã hội theo một kế hoạch chung và hợp lý. Hiệp tác diễn ra đồng thời với q
trình phân cơng lao động, do đó có các phạm vi hiệp tác khác nhau: cá biệt,
đặc thù và trên toàn xã hội và còn diễn ra trên phạm vi thế giới với các hình
thức hết sức đa dạng và phong phú. Hiệp tác mang lại nhiều lợi ích có thể
sánh như khoa học là lực lượng tự nhiên mà nhà tư bản khai thác nó khơng
tốn một đồng xu, do đó nó cũng có lợi nhất định cho người lao động và cho
tồn bộ nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên việc khai thác lợi thế của sự hiệp tác
không tốt cũng sẽ gây ra những tác hại to lớn không thể lường trước được.
Để đảm bảo cho hiệp tác phát huy lợi thế, tránh sai lầm, thua thiệt cần
có nhiều điều kiện, trong đó có bốn điều kiện tiên quyết:
- Có đủ lượng tư bản cần thiết để mua sức lao động và tư liệu lao động;
- Có sự quản lý với trình độ phù hợp với qui mơ của hiệp tác;
- Người lao động được tự do bán sức lao động và tham gia hiệp tác;
- Đảm bảo lợi ích thỏa đáng.
Phát triển lý luận về hợp tác của C.Mác, Lênin đã luận giải sự cần thiết,
các tiền đề của kinh tế hợp tác và các nguyên tắc hợp tác dưới CNXH. Theo
Lênin, đi lên CNXH có nghĩa là tiến tới chế độ xã hội văn minh cần cả một
thời kỳ cải biến cách mạng có tính lịch sử nhằm tạo nên tiền đề cho một chế
độ kinh tế mới - chế độ hợp tác kinh tế XHCN. Và khi tất cả những người lao
động đã được giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột và tự nguyện hợp tác lao
động với nhau thì sẽ có CNXH. Theo V.I. Lênin, HTX có ý nghĩa đặc biệt, nó


17

là bước quá độ sang một chế độ mới bằng con đường đơn giản nhất dễ tiếp
thu nhất đối với nông dân.
Lênin viết: “ HTX là một phương tiện quá độ để đạt mục đích là tổ
chức nơng dân vào các công xã sản xuất và tiêu dùng”(18, tr122). Lênin cũng
nêu lên các tiền đề của chế độ hợp tác dưới CNXH bao gồm:

- Tiền đề chính trị, có tính tiên quyết, đó là chính quyền thuộc về nhân
dân và do chính Đảng của giai cấp cơng nhân lãnh đạo;
- Tiền đề kinh tế mà cốt lõi là quan hệ kinh tế giữa các HTX với kinh tế
nhà nước để thúc đẩy q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
- Tiền đề văn hóa, xã hội tạo cho chế độ hợp tác tính nhân bản, trình độ
văn minh trong lao động hợp tác và quản lý kinh tế hợp tác.
Lênin rất quan tâm đến việc Nhà nước giúp đỡ tài chính cho HTX. Ơng
cho rằng: “Một chế độ xã hội chỉ nảy sinh nếu được một giai cấp nhất định
nào đó giúp đỡ về tài chính... Trong lúc này, chế độ xã hội mà chúng ta ủng
hộ hơn hết là chế độ HTX....
Phải cho chế độ HTX hưởng một số đặc quyền kinh tế, tài chính, ngân
hàng; sự ủng hộ mà nhà nước XHCN của chúng ta mang lại cho nguyên tắc
tổ chức mới của dân cư phải là như vậy”[21]..
Cũng chính Lê nin đã phát triển quan điểm Mác - xít về kinh tế hợp tác và
nêu lên các nguyên tắc và hình thức tổ chức kinh tế hợp tác. Nguyên tắc đầu tiên
của hợp tác là tự nguyện, không cưỡng ép nông dân vào HTX bằng bất cứ hình
thức nào, ngồi ra phải tơn trọng ngun tắc cùng có lợi, quản lý dân chủ và có
sự giúp đỡ của nhà nước. Bước đi của hợp tác là phải tiến hành từng bước, phù
hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, tức là theo qui luật QHSX phải phù
hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Trong chính sách kinh tế mới (NEP)


18

Lênin nêu ra bước đi của hợp tác là từ thương mại rồi dần đi vào sản xuất. Lênin
nhấn mạnh tính thiết thực, cụ thể, phù hợp với từng ngành, từng lĩnh vực SXKD,
phù hợp với phong tục, tập quán và dân trí của từng vùng.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác xã nông nghiệp ở nước ta
Hồ Chí Minh, trong tác phẩm "Đường cách mệnh" viết năm 1927 đã để
một chuyên mục viết về HTX, trong đó nêu rõ lịch sử phát triển HTX của thế

giới mà đầu tiên là HTX dệt vải ở Anh năm 1761 và lan rộng ra các nước
khác như Nga, Đức, Đan mạch, Nhật bản. Lý luận về hợp tác theo Hồ Chí
Minh thật là đơn giản khi Người nêu ra các câu tục ngữ Việt Nam: "nhóm lại
thành giàu, chia nhau thành khó", "một cây làm chẳng nên non, nhiều cây
nhóm lại thành hịn núi cao". Hình thức hợp tác có 4 loại, hay 4 cách, đó là:
HTX tiền bạc; HTX mua; HTX bán và HTX sinh sản nhằm mục đích giúp
nhau, nhờ lẫn nhau, "làm sao cho ai trồng cây thì được ăn trái, ai muốn ăn
trái thì giùm vào trồng cây". Đặc biệt Hồ Chí Minh nhấn mạnh cách tổ chức
HTX đảm bảo tính đa dạng, tuỳ hồn cảnh cụ thể mà lập HTX, không rập
khuôn, nên tạo sự liên kết các HTX với nhau, đảm bảo các thành viên được
hưởng lợi và bình đẳng.
Khi lãnh đạo nhân dân xây dựng CHXH ở miền Bắc Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn quan tâm đến việc xây dựng củng cố HTX. Muốn nâng cao đời
sống là chỉ có một cách là tổ chức nông dân làm ăn tập thể tức là tổ chức
nông dân vào HTX nông nghiệp... Chúng ta phải củng cố thật tốt các tổ đổi
công mà các HTX đã tuyên truyền và giáo dục nông dân, làm cho phong trào
phát triển vững chắc...
Tổ đổi công và HTX phát triển cái nào phải củng cố thật tốt cái ấy. Cần
phải nêu cao tính chất hơn hẳn của HTX bằng chứng kết quả thiết thực làm cho
thu nhập của xã viên được tăng thêm, làm cho xã viên sau khi vào HTX thu


19

hoạch nhiều hơn hẳn khi cịn ở ngồi. Như thế thì xã viên sẽ phấn khởi, sẽ gắn
bó chặt ché với HTX của mình. Đó là phương pháp tun truyền thuyết phục
tốt nhất để khuyến khích nơng dân vào HTX. Phải cần kiệm xây dựng HTX vì
HTX là lực lượng chính ở nơng thơn. Mục đích tổ chức HTX là để tăng gia sản
xuất, nâng cao đời sống của nhân dân, trước hết là của nông dân. Thế là vừa lợi
riêng cho nông dân và lợi chung cho Nhà nước, hai cái lợi đó đi đơi với nhau.

Vì vậy phải củng cố HTX. Về mặt vật chất phải quản lý cho tốt; về mặt tinh
thần, phải giáo dục cho nông dân hiểu vì sao phải củng cố HTX.
Qua nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về hợp tác cho chúng ta thấy rằng. Những vấn đề lý luận về hợp
tác, kinh tế hợp tác và HTX không quá phức tạp và đều bắt nguồn từ thực tế
cuộc sống. Một xã hội muốn tồn tại phải có sản xuất, hoạt động kinh tế và đều
là một q trình phân cơng và hợp tác lao động hoặc là tự phát, hoặc là tự
giác. Bản thân thị trường là một hệ thống sản xuất và trao đổi, lúc đầu mang
tính tự phát và tiến dần tới tự giác khi có sự tổ chức và điều chỉnh của các chủ
thể kinh doanh và đặc biệt có sự quản lý của Nhà nước. Trong thị trường có
các tổ chức kinh tế như doanh nghiệp và HTX là những hệ thống phân công
và hợp tác lao động một cách tự giác, tuy nhiên sự hợp tác trên trên thị trường
cũng khơng thể loại trừ hết tính tự phát, và chính sự phân công và hợp tác sản
xuất và trao đổi trên thị trường một cách tự phát, mang tính tự nhiên cũng là
một ưu thế, một vẻ đẹp của thị trường. Chính sự phân cơng và hợp tác lao
động, hợp tác kinh tế và tổ chức các hình thức hợp tác cũng đi từ tự phát đến
tự giác. Trong sản xuất nơng nghiệp nước ta từ xa xưa đã có sự hợp tác nào
đó như đổi cơng, vần cơng, hợp tác trong chăn trả trâu bò, trong tưới tiêu
nước... do các hộ nông dân tự liên kết với nhau. Sự hình thành các hình thức
tổ chức hợp tác đó mang tính tự phát nhưng lại dựa trên tính tự giác của từng
người nơng dân. Chỉ từ sau khi có Đảng lãnh đạo thì sự hợp tác mới thực sự


×