Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Mô hình chủ nghĩa xã hội dân chủ thụy điển và mô hình chủ nghĩa xã hội ở việt nam hiện nay những khác biệt và kinh nghiệm có thể tham chiếu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (605.9 KB, 90 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUN TRUYỀN

HỒNG XN HUY

MƠ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI DÂN CHỦ THỤY ĐIỂN
VÀ MƠ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAYNHỮNG KHÁC BIỆT VÀ KINH NGHIỆM CÓ THỂ THAM CHIẾU

Ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60. 22. 03. 08

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Nguyễn An Ninh

HÀ NỘI - 2012


2

LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình do chính tơi thực hiện dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS.Nguyễn An Ninh. Các số liệu, tài liệu nêu trong luận
văn là hoàn toàn trung thực.
Tác giả



Hoàng Xuân Huy


3

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 4
Chương 1: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI - QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI KHOA HỌC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI DÂN CHỦ ............... 11
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài .................................................. 11
1.2. Mối quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội khoa học và chủ nghĩa xã hội
dân chủ xung quanh vấn đề quan niệm về mơ hình xã hội .................. 26
Chương 2: SỰ KHÁC BIỆT GIỮA MƠ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
DÂN CHỦ THỤY ĐIỂN VÀ MƠ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ NHỮNG KINH NGHIỆM
CÓ THỂ THAM CHIẾU .............................................................................. 43
2.1. Mơ hình chủ nghĩa xã hội Thụy Điển và sự khác biệt với mơ hình
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới ...................................... 43
2.2. Một số kinh nghiệm có thể tham chiếu khi hiện thực hóa mơ hình
chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước ................................................................ 67
2.3. Ý nghĩa với việc tiếp tục hoàn thiện lý luận về mơ hình chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam................................................................................. 76
KẾT LUẬN .................................................................................................... 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 85


4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử xã hội loài người và nhất là sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản châu Âu, C.Mác đã rút ra kết luận: sự phát triển của xã
hội lồi người là sự thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội. V.I.Lênin
đã nhận xét: “Sau khi nghiên cứu quy luật phát triển của xã hội loài người,
Mác đã hiểu rằng chủ nghĩa tư bản phát triển tất nhiên sẽ đưa đến chủ nghĩa
cộng sản - đây là điều căn bản - khi chứng minh chân lý đó, Mác chỉ dựa trên
việc nghiên cứu xã hội tư bản đó một cách chính xác nhất, tỉ mỉ nhất, sâu sắc
nhất, nhờ việc nắm vững đầy đủ tất cả những cái mà khoa học trước đây đã
cung cấp”. Chính vì thế, xã hội tư bản chủ nghĩa nhất định sẽ được thay thế
bằng xã hội khác, C.Mác xác định là xã hội cộng sản chủ nghĩa, giai đoạn đầu
của nó là chủ nghĩa xã hội. Sự thay thế này là một quá trình lịch sử tự nhiên.
Trong quá trinh hoạt động cách mạng và nghiên cứu lý luận C.Mác và
Ph.Ăngghen đã đưa ra những quan niệm của mình về mơ hình chủ nghĩa xã
hội và con đường để xác lập và xây dựng mơ hình xã hội ấy. Kế thừa những
tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã vận dụng sáng tạo vào thực
tiễn cách mạng nước Nga, lãnh đạo Cách mạng Tháng Mười Nga thành cơng,
mơ hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô ra đời.
Lý luận về chủ nghĩa xã hội dân chủ do những nhà tư tưởng như Bécxtanh và Cau-xky…lại quan niệm rằng có thể cải lương chủ nghĩa tư bản
trong khuôn khổ nền dân chủ tư sản và đi theo mơ hình xã hội dân chủ.
Những tư tưởng này đã được các Đảng xã hội dân chủ châu Âu vận dụng.
Nhiều đảng xã hội dân chủ ở Đức, Thụy Điển, Pháp, Anh… đã giành được
chính quyền bằng con đường đấu tranh nghị trường. Họ cũng có nhiều nỗ lực
để hạn chế cải tạo những mặt xấu của chủ nghĩa tư bản và ít nhiều cũng đã có
được thành cơng. Trong đó, tiêu biểu nhất là mơ hình chủ nghĩa xã hội dân
chủ Thụy Điển.


5


Họ cũng đã phải trải qua nhiều thăng trầm với lý thuyết của mình. Từ đầu
những năm 80 đến giữa những năm 90 của thế kỷ XX, các Đảng dân chủ xã hội
Tây Âu lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng cả về tư tưởng, lý luận và
thực tiễn. Các đảng này lần lượt bị mất chính quyền ở nhiều nước như Anh, Đức,
Thụy Điển, Pháp, Tây Ban Nha… và một thời gian dài nằm ở vị trí đối lập. Chủ
nghĩa tự do và chủ nghĩa bảo thủ mới nổi lên và ngự trị ở tất cả các nước tư bản
Tây Âu- Mỹ. Nhiều học giả tư sản phương Tây đã tuyên bố về sự cáo chung của
chủ nghĩa xã hội và sự toàn thắng của chủ nghĩa tư bản tự do.
Đến giữa những năm 90 của thế kỷ XX, tình hình lại có sự thay đổi, các
đảng xã hội dân chủ ở hầu hết các nước Tây Âu (13/15 nước EU, trước tiên là
Anh và tiếp theo là Pháp, Thụy Điển, Italya, Đức…) lần lượt đắc cử và trở lại
cầm quyền với những quan điểm và đường lối mới. Các nhà chính trị (Tony
Ble, B.Clinton…) và các nhà nghiên cứu ở Anh và Mỹ gọi đó là “con đường
thứ ba”. Ở Đức người ta gọi đó là “đường lối trung dung mới”. Các nhà lãnh
tụ của các Đảng chủ nghĩa xã hội dân chủ cầm quyền ở Anh, Đức, Pháp,
Ytalia và thậm chí cả tổng thống Mỹ B.Clinton- lãnh tụ đảng Dân chủ cầm
quyền ở Mỹ- vào các năm 1998, 1999, 2000, 2002 đều tổ chức các cuộc gặp
gỡ các cuộc thảo luận quốc tế về các vấn đề lý luận và thực tiễn của “con
đường thứ ba”, coi đó là trào lưu tư tưởng lý luận chính trị hiện đại đáp ứng
các yêu cầu phát triển của nhân loại đầu thế kỷ XXI. Sự hồi phục của chủ
nghĩa xã hội dân chủ và sự đổi mới về lý luận của các Đảng chủ nghĩa xã hội
dân chủ đã có ảnh hưởng lớn đối với tình hình chính trị thế giới.
Mơ hình chủ nghĩa xã hội của Liên Xô trước đây đã mắc phải nhiều sai
lầm khi vận dụng giáo điều các lý luận, đặc biệt là nó đã mắc phải nhiều sai
lầm trong thực tiễn và, cùng với sự phá hoại về nhiều mặt của các thế lực đế
quốc, tất cả đã dẫn đến sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu
và Liên Xô vào cuối những năm 80 đầu những năm 90 thế kỷ XX. Điều cần



6

nhận rõ, đây là sự sụp đổ của những mô hình xã hội chủ nghĩa cụ thể chứ
khơng phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội, với tư cách là một lý luận về
mơ hình phát triển của nhân loại.
Trên thế giới ngày nay, vẫn còn nhiều nước xã hội chủ nghĩa, trong đó
Trung Quốc và Việt Nam đang tiến hành cải cách và đổi mới rất mạnh mẽ.
Đối với các nước này thì việc nghiên cứu hồn thiện lý luận về chủ nghĩa xã
hội là hết sức quan trọng. Một trong các vấn đề cấp bách đặt ra là phải xác
định và hồn thiện được mơ hình xã hội xã hội chủ nghĩa phù hợp với điều
kiện của đất nước và xu thế của thời đại ngày nay. Đại hội VII của Đảng
Cộng sản Việt Nam (năm 1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng và bảo vệ
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh năm 1991 đã
phác họa về cơ bản mơ hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng. Mơ hình này liên tục được bổ sung và phát triển thông qua các kỳ Đại
hội Đảng từ đó đến nay. Việc xác định mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
thời kỳ đổi mới thực chất là nhận thức lại cho đúng những quan điểm, nguyên
lý lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học và vận dụng phù hợp với thực tiễn của
Việt Nam trong tình hình mới. Nguồn vật liệu để đổi mới tư duy, theo phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác, trước tiên từ cơ sở lý luận chủ nghĩa xã hội
khoa học, từ thực tiễn Việt Nam và từ việc trao đổi, học hỏi và kế thừa những
giá trị hợp lý của nhân loại.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu về các mơ hình chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong sự so sánh với các mơ hình ở các
nước khác là hết sức cần thiết. Chủ nghĩa xã hội dân chủ Thụy điển là một
trường hợp cần được quan tâm.
Vì các lý do trên, tơi chọn đề tài “Mơ hình chủ nghĩa xã hội dân chủ
Thụy Điển và mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay - những khác
biệt và kinh nghiệm có thể tham chiếu” làm đề tài luận văn của mình.



7

2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn liên quan tới vấn đề mơ hình chủ
nghĩa xã hội dân chủ, mơ hình Thụy Điển và mơ hình chủ nghĩa xã hội đổi
mới Việt Nam cùng mối quan hệ giữa 2 mơ hình này đã được nghiên cứu từ
nhiều góc độ. Tác giả chỉ đề cập đến một số cơng trình nghiên cứu và bài viết
tiêu biểu sau đây:
- Về mô hình chủ nghĩa xã hội dân chủ
Lý luận “con đường thứ ba” của tập thể tác giả do tiến sĩ Nguyễn Đức
Thùy làm chủ nhiệm đề tài. Các tác giả làm rõ các quan điểm lý luận “con
đường thứ ba” của một số đảng dân chủ xã hội cùng với việc đánh giá các quan
điểm chính sách của họ và chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa xã hội dân chủ.
Về trào lưu xã hội- dân chủ hiện đại, GS Trần Nhâm (Chủ biên) - NXB
Hà Nội năm 1991. Các tác giả đã làm rõ bản chất của chủ nghĩa xã hội-dân
chủ và những tác động của nó đối với thế giới đồng thời chỉ ra sự khác biệt
đối với chủ nghĩa xã hội khoa học.
Mơ hình chủ nghĩa xã hội dân chủ và tiền đồ của Trung Quốc, của Tạ
Thao do Tam Dương dịch được đăng trên Website www.talawas.org. Trong
đó tác giả Tạ Thao đã bàn về những thành tựu mà chủ nghĩa xã hội dân chủ
đã làm được cho các nước tư bản châu Âu và cho rằng tiền đô của Trung
Quốc sẽ sang lạng nếu đi theo con đường chủ nghĩa xã hội dân chủ.
Tương lai của nền dân chủ xã hội- Thomas Mayer, Nxb Lý luận chính
trị, 2007 Phản ánh những vấn đề hiện đại của lý luận chủ nghĩa xã hội dân chủ
và thực tiễn của nó ở châu Âu hiện nay cùng triển vọng của nó.
Trào lưu xã hội dân chủ ở một số nước phương Tây hiện nay, Tống
Đức Thảo, Bùi Việt Hương (đồng chủ biên); Nxb Chính trị Quốc gia, H.2011.
Là một đề tài nghiên cứu cấp Bộ của Học viện Chính trị Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh khảo sát về lịch sử hình thành, các mơ hình tiêu biểu trong đó

có đề cập đến mơ hình chủ nghĩa xã hội dân chủ Thụy điển


8

Đảng Dân chủ xã hội Đức, lịch sử, lý luận và kinh nghiệm thực tiễn,
TS. Nguyễn Văn Sáu & TS Cao Đức Thái, NXB Lý luận chính trị, H. 2006 là
một cơng trình nghiên cứu về mơ hình chủ nghĩa xã hội dân chủ ở nước Đức
Chủ nghĩa xã hội dân chủ là gì? w.w.w. Mai Thái Lĩnh – một tài liệu
nghiên cứu vê mơ hình lý luận này và lịch sử cùng những vấn đề của nó.
Khảo sát về chủ nghĩa xã hội dân chủ kiểu Thụy Điển, Ngô Giang
(Trung Quốc), www.dongtak.eu, người dịch Nguyễn Hải Hoành, 2002. Trong
bài viết, tác giả Ngô Giang đã khái quát một số điểm chính trong bản Báo cáo
khảo sát đến muộn của Dương Khải Tiên, năm 1985 và 1988 từng hai lần đến
Thụy Điển tiến hành khảo sát.
- Về mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Mơ hình chủ nghĩa xã hội- một số vấn đề lý luận và thực tiễn, PGS.TS
Phạm Văn Đức, www.vientriethoc.com.vn, 2011. Bài viết đề cập đến một vấn
đề cơ bản, hết sức quan trọng đối với các nước lựa chọn và đi theo con đường
chủ nghĩa xã hội – vấn đề mơ hình chủ nghĩa xã hội. Những nội dung chính
của mơ hình tổng qt về chủ nghĩa xã hội mà Việt Nam, Trung Quốc đã và
đang xây dựng.
Về mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: một số vấn đề đáng quan
tâm, PGS.TS Phạm Văn Đức, www.tapchicongsang.org.vn, 2011. Tác giả bàn
về mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nhấn mạnh một số vấn đề đáng
quan tâm đó là: dân giàu, nước mạnh, cơng bằng, dân chủ, văn minh.
Mơ hình xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, PGS.TS Nguyễn
Viết Thông, www.baotintuc.vn, 2011. Tác giả đã làm rõ các đặc trưng của xã
hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, được thể hiện trong các văn
kiện Đảng.

Các công trình trên chỉ nghiên cứu về mơ hình chủ nghĩa xã hội dân
chủ yếu nghiên cứu về mơ hình chủ nghĩa xã hội dân chủ và mơ hình chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, chứ chưa đi sâu nghiên cứu sự tương đồng và khác


9

biệt giữa hai mơ hình đó. Các cơng trình trên có giá trị tham khảo cho q
trình tác giả nghiên cứu đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
Sự khác biệt của đề tài nghiên cứu của tác giả với các cơng trình nghiên
cứu trên, là đi sâu vào nghiên cứu sự khác biệt giữa mơ hình chủ nghĩa xã hội
dân chủ Thụy Điển và mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, những
kinh nghiệm có thể tham chiếu giữa hai mơ hình. Đề tài khơng phải là sự dập
khn máy móc các cơng trình khoa học trên, mà là kết quả của quá trình
nghiên cứu, tổng hợp, xử lý các tài liệu và có sự tham khảo tài liệu từ các
cơng trình khoa học trên. Đồng thời trong đề tài có những kết luận, nhận xét
do chính tác giả đưa ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài là qua việc phân tích, so sánh mơ hình chủ nghĩa xã
hội dân chủ Thụy Điển và mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới
chỉ rõ sự khác biệt giữa hai mơ hình và những kinh nghiệm có thể tham chiếu.
Nhiệm vụ của đề tài là:
Thứ nhất: làm rõ quan niệm của chủ nghĩa xã hội khoa học và chủ
nghĩa xã hội dân chủ về mơ hình chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai: từ mơ hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam thời kỳ đổi mới và mơ
hình chủ nghĩa xã hội dân chủ Thụy Điển từ những năm 70 của XX lại đây
chỉ sự khác biệt và những kinh nghiệm có thể tham chiếu.
Thứ ba: rút ra ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu với việc góp phần hồn
thiện mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu

Từ góc độ chính trị - xã hội, đề tài nghiên cứu mơ hình lý luận và thực
tiễn của chủ nghĩa xã hội dân chủ của Đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển từ
những năm 70 trở lại đây và quan niệm lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam
và q trình hiện thực hóa của mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới (từ 1986 đến nay).


10

5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật lịch sử, kết hợp với việc sử dụng
phương pháp của các khoa học xã hội khác như phân tích- tổng hợp; logic lịch
sử, khái qt hóa…
6. Những đóng góp mới của luận văn
Góp phần làm rõ và lý giải sự khác biệt của hai mơ hình chủ nghĩa xã
hội Việt Nam thời kỳ đổi mới và mơ hình chủ nghĩa xã hội dân chủ Thụy
Điển, đồng thời chỉ ra những kinh nghiệm có thể tham chiếu.
7. Kết cấu nội dung của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu
gồm 2 chương, 5 tiết.


11

Chương 1
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI - QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
KHOA HỌC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI DÂN CHỦ

1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Chủ nghĩa xã hội khoa học

Vào năm 1848 tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do C.Mác và
Ph.Ăngghen soạn thảo, đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời từ “mảnh đất hiện thực” của những điều
kiện kinh tế, chính trị - xã hội, tiền đề tư tưởng văn hóa đã chín muồi. Xét về
mặt lý luận "Chủ nghĩa xã hội khoa học" là một trong ba bộ phận hợp thành
chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ nghĩa xã hội khoa học dựa vào những kết luận
của Triết học và Kinh tế học chính trị Mác-Lênin để luận giải những quy
luật chính trị - xã hội của quá trình chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Nó chỉ rõ con đường, điều kiện, biện pháp,
để thủ tiêu tình trạng người bóc lột người, xây dựng một xã hội mới, tốt đẹp
hơn so với chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa xã hội khoa học còn là thế giới quan, là hệ tư tưởng chính trị
của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động trong q trình xây dựng xã hội
mới. Nó tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của giai cấp công nhân, cách mạng
xã hội chủ nghĩa, phong trào dân chủ của quần chúng, cách mạng dân chủ tư
sản và cách mạng giải phóng dân tộc, để tìm ra xu hướng, con đường, lực
lượng, biện pháp nhằm giải phóng giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và
thúc đẩy xã hội phát triển.
Trong lĩnh vực chính trị - xã hội, chủ nghĩa xã hội khoa học là một
trong những đỉnh cao của tư duy lý luận và là thành quả phát triển lịch sử tư


12

tưởng xã hội chủ nghĩa của nhân loại. Nó kế thừa, phát triển những giá trị tích
cực của chủ nghĩa xã hội không tưởng, loại bỏ các yếu tố hạn chế, tìm ra
những quy luật, tính quy luật của q trình cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm
giải phóng giai cấp cơng nhân, giải phóng con người, giải phóng xã hội.
Với tư cách là một trong ba bộ phận hợp thành học thuyết Mác-Lênin,
chủ nghĩa xã hội khoa học thường hiểu theo hai nghĩa :

Nghĩa rộng - Chủ nghĩa xã hội khoa học được hiểu là chủ nghĩa MácLênin. Bởi vì, suy cho cùng cả Triết học, Kinh tế học chính trị Mác - Lênin và
chủ nghĩa xã hội khoa học đều luận giải tính tất yếu của cách mạng xã hội chủ
nghĩa và xây dựng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, mà người
lãnh đạo, tổ chức thực hiện sự nghiệp cách mạng ấy là giai cấp cơng nhân
hiện đại, thơng qua chính Đảng của nó. Trong ba bộ phận hợp thành chủ
nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học là bộ phận trực tiếp luận giải về
giai cấp cơng nhân và chính Đảng của nó, luận giải về "sứ mệnh lịch sử của
giai cấp cơng nhân". Với ý nghĩa như vậy, cho nên có thể hiểu chủ nghĩa xã
hội khoa học là chủ nghĩa Mác (hay chủ nghĩa Mác-Lênin).
Nghĩa hẹp: Chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận hợp
thành chủ nghĩa Mác-Lênin, nó dựa trên cơ sở của Triết học và Kinh tế học
chính trị Mác-Lênin để luận giải một cách khoa học về nguyên nhân, tính tất
yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, về sự hình thành, phát triển hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Nó gắn liền với sứ mệnh lịch sử tồn thế
giới của giai cấp cơng nhân, nhằm giải phóng giai cấp cơng nhân, giải phóng
xã hội, giải phóng con người,. Đây là điểm phân biệt khi so sánh nó với 2 bộ
phận còn lại của Học thuyết Mác.
Đối với phạm vi nghiên cứu của đề tài này, chủ nghĩa xã hội khoa học
được nghiên cứu theo nghĩa hẹp.


13

1.1.2. Chủ nghĩa xã hội dân chủ
Chủ nghĩa xã hội dân chủ, từ khi ra đời cho đến nay đã thay đổi tên gọi
nhiều lần. Vì vậy, trước khi tìm hiểu nguồn gốc, các đặc điểm của chủ nghĩa xã
hội dân chủ cần phải phân biệt và làm rõ một số khái niệm cơ bản liên quan đến
trào lưu chủ nghĩa xã hội dân chủ.
Chủ nghĩa cải lương xã hội, chủ nghĩa dân chủ xã hội, chủ nghĩa xã
hội dân chủ là ba khái niệm đã được nảy sinh trong trào lưu xã hội dân chủ.

Chủ nghĩa cải lương xã hội: là một khái niệm đánh giá về những biện
pháp do những người xã hội dân chủ nêu ra từ nửa cuối thế kỷ XIX. Bản
chất của nó là quan điểm cho rằng xã hội tư bản có thể cải tạo bằng những
biện pháp phi cách mạng và trong khuôn khổ của pháp luật tư sản. Đầu tiên
là những tư tưởng của Lát-xan (lãnh tụ phong trào công nhân Đức, 18251864) cho rằng giai cấp cơng nhân có thể lợi dụng quyền bầu cử và bằng con
đường đấu tranh nghị viện để xây dựng xã hội chủ nghĩa. Năm 1879, lần đầu
tiên quan niệm đó đã được Béc-stanh, Huê-xơ-béc và Sơ-ram đề lên thành lý
luận có tính cương lĩnh cơng bố trong “Niên giám khoa học xã hội và chính
trị- xã hội của chủ nghĩa cải lương xã hội”, trong đó khẳng định phong trào
xã hội dân chủ được quyền mang tính cải lương. Thực chất của chủ nghĩa cải
lương xã hội là một trào lưu cơ hội hữu khuynh. Trào lưu này chủ trương:
phong trào công nhân chỉ cần tiến hành những thay đổi có tính chất cải
lương các quan hệ xã hội của chủ nghĩa tư bản là có thể làm “dần dần” và có
thể “hịa bình” tiến lên chủ nghĩa xã hội, mà không cần phải thông qua cách
mạng để xóa bỏ chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa dân chủ - xã hội là một khái niệm được trào lưu xã hội dân
chủ dần ưa dùng hơn trên các sách báo để thay thế cho khái niệm chủ nghĩa
cải lương xã hội. Ngồi ý nghĩa về mặt ngơn từ, hai khái niệm này cũng còn


14

có ý nghĩa khác nhau nhất định, đặc biệt là ý muốn đề cao vấn đề “dân chủ”,
nhất là dân chủ về xã hội. Các nhà lý luận của trào lưu xã hội dân chủ thường
đồng nhất nền dân chủ tư sản với thắng lợi của dân chủ về chính trị.
Từ thực tế lịch sử, cần thấy rằng thắng lợi của nền dân chủ tư sản –
mặt đối lập với chế độ chuyên chế phong kiến, là một bước tiến của chính trị.
Nó phủ nhận đặc quyền đặc lợi của giai cấp phong kiến, nó thừa nhận quyền
tự do, bình đẳng giữa các cơng dân. Chính thể cộng hịa là nhà nước do nhân
dân bầu ra chứ không phải “cha truyền con nối”. Xã hội dân chủ là mặt đối

lập với xã hội đẳng cấp và đặc quyền do chủ nghĩa phong kiến ni dưỡng, nó
thừa nhận mọi cá nhân đều bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ theo thể
thức “song điêu” – quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại.
Với chế độ dân chủ tư sản, lần đầu tiên trong lịch sử, số đơng quần chúng
nhân dân, có điều kiện chính trị để tham chính bằng cơ chế bỏ phiếu bầu cử
và cử người đại diện cho mình trong cơ quan lập pháp. Điều quan trọng hơn
là những giá trị ấy đã được pháp định.
Tuy còn rất nhiều điều chưa phải là thực chất và hợp lý, song so với
chế độ chuyên chế phong kiến, đó là bước tiến dài … Thắng lợi ấy của dân
chủ tư sản có thể xem là bước tiến vĩ đại của thế kỷ Ánh sáng nếu so sánh với
đêm trường của thời trung cổ phong kiến. Đẳng cấp, đặc quyền dường như đã
được xóa bỏ; dân chủ, bình đẳng, tự do, cơng lý… dường như đã được xác lập
và người ta cho nó là vĩnh tồn.
Bước tiến dài ấy là có thật; nhưng cũng cịn một điều khác nữa cũng là
sự thật, là chế độ dân chủ tư sản, dù sao cũng là một thực thể chính trị trong
xã hội có giai cấp. Nó như mọi sự vật khác, cũng có những hạn chế và có thể
bị phủ định, bị vượt qua… Chính nhân dân trong lịch sử vận động của dân
chủ tư sản cũng đã nhận thấy rằng: giai cấp tư sản đã đem một thứ tự do vô sỉ
và độc nhất thay cho chế độ chuyên chế phong kiến – đó là tự do buôn bán, là


15

“lối tính tốn lạnh lùng trả tiền ngay, khơng tình không nghĩa” là cái cách để
giai cấp tư sản biến tất cả những nghề nghiệp cao quý thành làm thuê. Nó
“dìm những tình cảm cao thượng, lịng nghĩa hiệp, sự sùng đạo vào trong
dịng nước giá ngắt” của lối tính tốn ích kỷ và thực dụng. Lợi ích của giai
cấp tư sản là giới hạn của dân chủ tư sản. Vị thế thống trị của giai cấp tư sản
là giới hạn đầu tiên và không thể vượt qua trong chế độ dân chủ tư sản.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848) đã vạch trần bản chất và giới hạn của

dân chủ tư sản như vậy đấy.
Xuất phát từ chủ nghĩa cải lương và từ quan niệm còn nhiều ngộ nhận
về dân chủ tư sản như đã nêu ở trên, trào lưu dân chủ xã hội đã đưa ra quan
niệm về “chủ nghĩa xã hội dân chủ”. Trong cuốn sách có nhan đề “Con đường
tiến tới chủ nghĩa xã hội” xuất bản ở Viên (Áo) 1919, Ơttơ Bau ơ - một nhà lý
luận và là lãnh tụ của Đảng xã hội Áo viết rằng: “Chúng ta khơng có một chủ
nghĩa xã hội quan liêu có nghĩa là một thiểu số nhỏ thống trị cả dân tộc. Chúng
ta muốn có chủ nghĩa xã hội dân chủ”.[34.77]
Thực chất chủ nghĩa xã hội dân chủ là quan điểm tư tưởng và chính trị
rất đa dạng và nhiều màu sắc cho rằng có thể cải tạo chủ nghĩa tư bản thành
chủ nghĩa xã hội bằng con đường cải cách dân chủ. Nó đối lập với tư tưởng
của chủ nghĩa xã hội khoa học và thực tiễn hoạt động cách mạng của các đảng
cộng sản và công nhân.
Chủ nghĩa xã hội dân chủ là hệ tư tưởng của các phái dân chủ xã hội
(hữu khuynh và tả khuynh) với đủ mọi tên gọi và chủ thể: Nó là quan điểm
của những nhà theo đạo Thiên Chúa tả khuynh, của các khuynh hướng, chủ
nghĩa xã hội kiểu Mĩ Latinh, chủ nghĩa xã hội kiểu Châu Phi… Tính đa dạng
về chủ thể như vậy khiến cho khái niệm chủ nghĩa xã hội dân chủ được hiểu
và làm theo nhiều cách khác nhau. Điểm chung nhất là quan niệm cải lương


16

xã hội tư sản. Say mê lớn nhất của họ là các biện pháp dân chủ nghị trường
cho dù có nhiều lúc cũng chỉ tạo ra được “bão táp trong cốc nước” như lời
bình luận của Mác trong “Đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848 – 1850” khi nói về
hiệu quả của “phái Núi” - những người dân chủ xã hội đương thời.
Chủ nghĩa xã hội dân chủ dần dần được trào lưu xã hội dân chủ sử
dụng, tiếp tục phát triển và được định hình rõ rệt trong Cương lĩnh của Quốc
tế xã hội chủ nghĩa thông qua tại đại hội ở Phran-Phuốc năm 1951. Đại hội đó

đã ra một bản tun bố có tính chất cương lĩnh có nhan đề “Về mục tiêu và
nhiệm vụ của chủ nghĩa xã hội dân chủ”. Từ đó đến nay, những quan điểm cải
lương của chủ nghĩa xã hội dân chủ trở thành cơ sở tư tưởng và lý luận chính
thức của trào lưu xã hội dân chủ hiện đại.
Quốc tế xã hội chủ nghĩa là một tổ chức quốc tế tập hợp các đảng xã
hội dân chủ, các đảng xã hội chủ nghĩa và các đảng công nhân (hoặc công
đảng) đang hoạt động tại các nước tư bản chủ nghĩa và các nước khác trên thế
giới. Tổ chức này được thành lập tại Đại hội lần thứ nhất họp tại thành phố
Phran-Phuốc (Cộng hòa liên bang Đức) từ ngày 30/6 đến ngày 3/7/1951. Đến
nay, Quốc tế xã hội chủ nghĩa đã tiến hành được 18 đại hội. Theo số liệu được
công bố tháng 4/1986, số các đảng và tổ chức của Quốc tế xã hội chủ nghĩa là
82, trong đó có 70 đảng với tổng số 16 triệu đảng viên.
Quốc tế xã hội chủ nghĩa là hiện thân của trào lưu xã hội dân chủ hiện
đại, tự khẳng định phấn đấu cho những giá trị cải lương truyền thống và cố
gắng đổi mới để đáp ứng những đòi hỏi của thời đại ngày nay. Điều lệ của
Quốc tế xã hội chủ nghĩa đã quy định “Quốc tế xã hội chủ nghĩa là một tổ chức
nhằm tập hợp mối dây liên hệ giữa các đảng đấu tranh để thực hiện chủ nghĩa
xã hội dân chủ như đã được nêu trong mục tiêu và nhiệm vụ của chủ nghĩa xã
hội dân chủ”.


17

1.1.3. Mơ hình chủ nghĩa xã hội
Để hiểu thế nào là mơ hình chủ nghĩa xã hội, trước hết cần làm rõ khái
niệm mơ hình phát triển xã hội.
Mơ hình phát triển xã hội là khái niệm để chỉ chủ thể của hoạt động xã
hội sử dụng các phương tiện, phương thức để đạt được mục tiêu phát triển
trong thực tiễn phát triển xã hội, là những khái quát chung nhất về mục tiêu và
con đường hay cách thức để hiện thực hóa q trình chuyển biến của xã hội từ

trình độ thấp sang trình độ cao.
Xét trên phương diện phổ qt nhất, mơ hình phát triển xã hội bao
gồm các phương diện chủ yếu sau: thứ nhất, nhìn từ góc độ bản chất, mơ
hình phát triển xã hội là sự thống nhất giữa mục tiêu phát triển và con đường
hiện thực hóa mục tiêu; Thứ hai, nhìn từ góc độ nội dung, mơ hình phát triển
xã hội là chỉnh thể hữu cơ của các mơ hình phát triển trong từng lĩnh vực cụ
thể của đời sống xã hội, như mơ hình phát triển kinh tế, mơ hình phát triển
chính trị, mơ hình phát triển xã hội, mơ hình phát triển văn hóa...; Thứ ba,
nhìn từ góc độ hình thức, mơ hình phát triển xã hội hết sức đa dạng, có
những biểu hiện đặc thù do điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa
của từng quốc gia dân tộc quy định.
Trên thực tế, thế giới đã từng chứng kiến hai mơ hình phát triển xã hội
tiêu biểu nhất, đã được hiện thực hóa, song song tồn tại, đó là mơ hình chủ
nghĩa tư bản và mơ hình chủ nghĩa xã hội. Nhưng bản thân các mơ hình chủ
nghĩa tư bản lẫn mơ hình chủ nghĩa xã hội cũng ln có những dạng cụ thể
khác nhau.
Đối với mơ hình của chủ nghĩa tư bản, ngồi những đặc trưng chung
nhất để phân biệt nó với mơ hình chủ nghĩa xã hội, chúng ta có thể kể ra một
số dạng thức cụ thể của mơ hình này như sau:


18

Một là, mơ hình chủ nghĩa tư bản châu Âu truyền thống. Đây là mơ
hình của một số nước phát triển ở Tây Âu với mục tiêu gắn sự phát triển xã
hội với sự phát triển của kinh tế thị trường. Đặc trưng chủ yếu của loại mơ
hình này là phát triển kinh tế thị trường xã hội, đề cao tầm quan trọng về tầm
nhìn và sự điều tiết của nhà nước đối với phát triển kinh tế; coi trọng sự vận
hành lành mạnh và ổn định của nền kinh tế, nhấn mạnh đến yêu cầu công
bằng với nền kinh tế thị trường; chú trọng việc xây dựng phúc lợi xã hội...

Hai là, mơ hình kinh tế thị trường tự do của Mỹ. Nền tảng của loại mơ
hình này là đề cao sự tự điều chỉnh của thị trường, song vẫn chấp nhận sự
điều tiết vĩ mô, bao gồm cả việc can thiệp và điều hành của chính phủ. Đặc
trưng của loại mơ hình này là nhấn mạnh đến tính tích cực và lợi ích của việc
bảo vệ kinh doanh tư nhân, từ đó dẫn đến việc mơ hình nằm trong tầm kiểm
soát và chi phối của tư nhân, bị tư nhân lũng đoạn, đồng thời nhà nước có
chức năng phục vụ cho sự phát triển của kinh tế tư nhân.
Ba là, mơ hình chính phủ chủ đạo của Nhật Bản. Nét đặc trưng của
loại mơ hình này là lấy điều tiết thị trường làm tiền đề; trên cơ sở đó, nhấn
mạnh tác dụng chỉ đạo và dẫn dắt của chính phủ đối với nền kinh tế. Điểm
khác biệt của loại mơ hình này với mơ hình của các nước phát triển khác
được thể hiện tập trung ở hai điểm: thứ nhất, chính phủ đóng vai trị quan
trọng trong sự vận hành của nền kinh tế; thứ hai, tính dân chủ được thể
hiện ở chỗ, mọi quyết sách đều được cơng khai lấy ý kiến và bảo đảm lợi
ích của các bên; về cơ bản, các quyết sách đều xuất phát từ lợi ích quốc gia,
lợi ích dân tộc và lợi ích dân chủ.
Mơ hình chủ nghĩa xã hội là khái niệm chỉ các mơ hình chủ nghĩa xã
hội được tiến hành ở các nước khác nhau trên thế giới. Nghĩa là, các nước khi
tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội có quan niệm, hình thức, phương hướng


19

và con đường của riêng mình. Do có sự khác biệt về kinh tế, chính trị, xã hội,
văn hóa cho đến dân số, điều kiện tự nhiên… nên mơ hình chủ nghĩa xã hội ở
các nước, thậm chí ngay trong một nước nhưng ở từng giai đoạn lịch sử khác
nhau, cũng có những nét riêng. Mỗi nước xã hội chủ nghĩa căn cứ vào điều
kiện thực tế của đất nước mình mà đề ra mục tiêu và điều chỉnh phương thức
phát triển khác nhau trong từng giai đoạn cụ thể.
Mô hình chủ nghĩa xã hội có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa

hẹp. Theo nghĩa rộng, mơ hình chủ nghĩa xã hội là toàn bộ những tư tưởng,
quan điểm về đặc trưng mục tiêu, phương tiện, cách thức xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Theo nghĩa hẹp, mơ hình chủ nghĩa xã hội chỉ là quan niệm về đặc
trưng hay đặc điểm về chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước.
Khái niệm “mơ hình chủ nghĩa xã hội dùng để chỉ những quan niệm
về đặc trưng, đặc điểm, các yếu tố cấu thành nên xã hội xã hội chủ nghĩa.
Nó được coi là bản thiết kế xã hội xã hội chủ nghĩa sẽ được xây dựng ở
một quốc gia” [32,8].
Cho đến trước khi Liên Xô ra đời, tất cả các mô hình chủ nghĩa xã hội, kể
từ các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng đầu thế kỷ XVI cho đến chủ nghĩa xã
hội khoa học của C.Mác và Ph. Ăngghen, đều chưa trở thành hiện thực. Mơ hình
chủ nghĩa xã hội Liên Xơ trước đây là mơ hình chủ nghĩa xã hội đầu tiên được
hiện thực hoá. Và kể từ đó cho đến nay mơ hình chủ nghĩa xã hội đã có nhiều
loại khác nhau và có thể được khái qt thành hai loại tiêu biểu sau:
Một là, mơ hình chủ nghĩa xã hội kiểu Liên Xô và các phiên bản của nó
ở các nước Đơng Âu trước đây. Trong loại mơ hình chủ nghĩa xã hội kiểu
này, chúng ta thấy có hai giai đoạn tương đối nổi bật, đó là giai đoạn Lênin và
giai đoạn Stalin, hay còn gọi là mơ hình chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Lênin
và mơ hình chủ nghĩa xã hội tập trung cao độ theo tư tưởng Stalin.


20

Mơ hình chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Lênin có các đặc trưng chủ yếu
sau: thứ nhất, nhà nước trực tiếp sở hữu và sử dụng tư liệu sản xuất; thứ hai,
nhà nước quyết định kế hoạch, giám sát q trình sản xuất và phân phối sản
phẩm của tồn xã hội, toàn thể người dân (trong độ tuổi lao động) cùng lao
động, cùng thụ hưởng trong một tiêu chuẩn và điều kiện lao động chung; thứ
ba, thực hiện một cơ chế quản lý từ trên xuống dưới.
Mơ hình chủ nghĩa xã hội kiểu Stalin gồm một số đặc trưng chủ yếu:

Thực hiện chế độ công hữu đơn nhất, loại bỏ toàn bộ các thành phần kinh tế
khác; xây dựng nền kinh tế hiện vật chứ không phải là nền kinh tế hàng hóa,
sử dụng kiểu quản lý tập trung cao độ trên phương diện tổ chức quản lý và
mang những đặc trưng của thể chế thời chiến với việc coi “mệnh lênh” của
nhà nước tức là kế hoạch do nhà nước giao là tối cao. Chế độ phân phối theo
lao động vẫn được đề ra nhưng khi thực hiện thì lại là cấp phát theo kiểu vừa
bao cấp (cho nhân dân) lại vừa đặc lợi (cho thiểu số nắm quyền lực); Quan
niệm động lực phát triển của xã hội chỉ là đấu tranh giai cấp…
Hai là, mơ hình chủ nghĩa xã hội Trung Quốc. Mơ hình này cũng có hai
giai đoạn là giai đoạn Mao Trạch Đông và giai đoạn cải cách, mở cửa; hay
còn gọi là “chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc”. Mơ hình chủ nghĩa xã hội
theo tư tưởng Mao Trạch Đơng là mơ hình với thể chế kế hoạch, quản lý hành
chính, tập trung cao độ “lấy đấu tranh giai cấp làm cương”. Loại mơ hình này
vừa chịu một số ảnh hưởng của mơ hình chủ nghĩa xã hội Liên Xơ, vừa cố
gắng tạo ra những nét đặc trưng của Trung Quốc, song nhìn chung, vẫn khơng
vượt qua được khn mẫu của mơ hình tập trung cao độ kiểu Stalin, đặc biệt
là trên phương diện thể chế kinh tế.
Cịn mơ hình chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc như hiện nay là mơ
hình phát triển xã hội gắn với lý luận Đặng Tiểu Bình, thuyết “ba đại diện” và
“quan điểm phát triển một cách khoa học”. Điểm nhấn của mơ hình này là đổi


21

mới mạnh mẽ về mặt tư tưởng, tập trung mọi nguồn lực cho tăng trưởng kinh
tế, mà các nhà lý luận của Trung Quốc gọi là “phát triển sản xuất”. Một trong
những đột phá lý luận quan trọng nhất của Đặng Tiểu Bình là việc xác lập
được quan niệm lý luận về chủ nghĩa xã hội: “Chủ nghĩa xã hội là phát triển
sức sản xuất” từ đó mới tạo ra điều kiện để công bằng xã hội. Công cụ kinh tế
để xây dựng chủ nghĩa xã hội là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa…Việc

xác lập này không chỉ đột phá vào lý luận kinh tế kế hoạch truyền thống - lý
luận đã phủ nhận quan hệ hàng hoá, tiền tệ, phủ định vai trò của kinh tế thị
trường, mà còn đột phá vào lý luận kinh tế thị trường truyền thống vốn coi
điều tiết thị trường là của riêng sở hữu tư nhân. Sau Đặng Tiểu Bình, tư tưởng
của Giang Trạch Dân về Đảng cộng sản Trung Quốc với thuyết “ba đại diện”,
tư tưởng xây dựng “xã hội hài hòa”, “phát triển khoa học” của Hồ Cẩm Đào
cũng được coi là những nhận thức mới về xây dựng mơ hình chủ nghĩa xã hội
ở Trung Quốc. Thực chất đây là những điều chỉnh chiến lược của đảng cộng
sản Trung Quốc trong q trình cải cách mở cửa.
Ngồi hai hệ thống mơ hình trên, hiện nay cịn mơ hình“con đường thứ
ba” ở các nước châu Âu. Hiện nay chưa có một hệ thống lý luận chặt chẽ về
mơ hình này. “Con đường thứ ba” xuất hiện là do xuất phát từ điều kiện thực
tế của chủ nghĩa tư bản trong q trình tồn cầu hóa, các chính đảng cánh tả
của phương Tây phải đưa ra các giải pháp để xử lý các vấn đề hiện thực trong
xã hội tư bản thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do mới, nó là sự phản ánh sự điều
chỉnh mơ hình xã hội của các nước phương Tây.
Mơ hình “con đường thứ ba” có các đặc trưng cơ bản sau: một là,
lấy cân bằng giữa tác dụng của thị trường và sự điều tiết của nhà nước
làm nguyên tắc để tạo ra nền kinh tế mới; hai là, lấy cân bằng giữa
trách nhiệm và quyền lợi làm nguyên tắc để xây dựng hệ thống phúc lợi
mới; ba là, lấy cân bằng giữa hiệu quả kinh tế và công bằng xã hội làm


22

nguyên tắc để đề xuất chính sách mới; bốn là, lấy cân bằng giữa chủ
nghĩa dân tộc và chủ nghĩa quốc tế làm nguyên tắc trong thực thi chính
sách đối ngoại. [9]
Về thực chất, đây là một sự thỏa hiệp chính trị giữa chủ nghĩa tư bản tự
do và chủ nghĩa xã hội dân chủ, là một phong trào tư tưởng của chủ nghĩa tư

bản tự cho là đã vượt ra ngoài cả “tả” và “hữu” trong điều kiện toàn cầu hóa,
nhằm khắc phục những vấn đề nội tại của chính mình. Mặc dù mơ hình này
có một số nội dung và đặc điểm mới, song về bản chất, nó xuất phát từ tiền đề
bảo vệ chủ nghĩa tư bản, tập trung vào điều chỉnh phương thức quản lý và
cách thức điều hành đất nước của giai cấp tư sản trong bối cảnh của chủ nghĩa
tư bản hiện đại.
1.1.4. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là khái niệm của chủ nghĩa xã hội khoa
học, chỉ những cách thức, biện pháp, lực lượng, động lực... để đạt được mục tiêu
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Sự khác nhau trong vấn đề nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội cho thấy sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội khoa học và chủ nghĩa xã hội
dân chủ.
Chủ nghĩa xã hội khoa học đã chỉ ra rằng còn đường đi lên chủ nghĩa
xã hội là phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó là một cuộc cách
mạng nhằm thay thế chế độ tư bản chủ nghĩa lỗi thời bằng chế độ xã hội chủ
nghĩa, trong cuộc cách mạng đó, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo quần
chúng nhân dân lao động xây dựng một xã hội mới, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Theo nghĩa hẹp: Cách mạng xã hội chủ nghĩa được hiểu là
một cuộc cách mạng chính trị, được kết thúc bằng việc giai cấp cơng nhân
cùng với nhân dân lao động giành được chính quyền, thiết lập nên nhà
nước chun chính vơ sản – nhà nước của giai cấp công nhân và quần


23

chúng nhân dân lao động. Theo nghĩa rộng: Cách mạng xã hội chủ nghĩa bao
gồm cả hai thời kỳ: cách mạng về chính trị nhằm thiết lập nhà nước của giai
cấp công nhân và thời kỳ sử dụng nhà nước của mình để cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa tư tưởng…

Chủ nghĩa xã hội khoa học vạch rõ chỉ có thơng qua đấu tranh giai cấp
và cách mạng xã hội, giai cấp vô sản và quần chúng bị áp bức bóc lột mới có
thể giải phóng mình khỏi ách thống trị của tư bản chủ nghĩa và xây dựng chế
độ xã hội mới do mình làm chủ. Tiền đề chính trị ấy là điều kiện để giải quyết
vấn đề quan hệ sản xuất: xóa bỏ quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa về
tư liệu sản xuất, xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất cơng hữu để từ đó
phát triển lực lượng sản xuất tạo điều kiện cho thực hiện công bằng xã hội xây
dựng một xã hội mà “sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi người là điều
kiện cho sự phát triển tự do và toàn diện của mọi người”… Nhấn mạnh tới sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh cách mạng giải
phóng giai cấp và giải phóng xã hội là nội dung cơ bản của quan niệm này.
Trong khi đó, chủ nghĩa xã hội dân chủ thì lại chủ trương điều hồ
mâu thuẫn và hợp tác giai cấp, giới hạn phong trào đấu tranh của giai cấp
vô sản và quần chúng lao động trong khuôn khổ của những cải cách mà
chế độ tư sản có thể chấp nhận được. Họ xác định con đường đấu tranh
nghị trường, lợi dụng quyền bầu cử và đấu tranh hịa bình để xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Biện pháp cải lương đã làm thay đổi tính chất chính trị của đảng xã hội
dân chủ. Nếu coi tranh cử thắng lợi thì mục tiêu chính trị hàng đầu của đảng
là phiếu bầu, theo đó, lá phiếu của đa số thay chỗ lập trường giai cấp, số đông
cử tri trở thành đối tượng vận động và là cơ sở chính trị - xã hội của đảng xã
hội dân chủ. Đảng trở thành đại biểu của số đơng chứ khơng cịn là đại diện


24

của giai cấp cụ thể. Inh-ve Can-xơn, chủ tịch đảng xã hội – dân chủ Thuỵ
Điển, phó chủ tịch Quốc tế xã hội chủ nghĩa giải thích rằng, do sự ra đời của
phổ thông đầu phiếu, ngày nay quyền lực chính trị liên quan đến quyền cơng
dân chứ khơng cịn phụ thuộc vào mức độ chiếm hữu tài sản như trước nữa.

Một lý thuyết trung dung về đảng chính trị xuất hiện. Đó là coi đảng như một
cộng đồng, khơng cần thuần nhất thế giới quan. Họ cho rằng các đảng phái
chính trị phải tồn tại theo phương thức và cơ chế đa nguyên chính trị, xây
dựng các hiệp hội để cùng điều khiển đời sống chính trị theo hướng cân bằng
lợi ích, cân bằng quyền lực.
Nếu chủ nghĩa xã hội khoa học khẳng định sự cần thiết phải có chính
đảng của giai cấp cơng nhân và đảng này nắm lấy vai trị lãnh đạo cách mạng
giành chính quyền rồi lãnh đạo toàn xã hội xây dựng chủ nghĩa xã hội thì chủ
nghĩa xã hội dân chủ lại làm lu mờ bản chất giai cấp của đảng chính trị và vai
trị tiền phong lãnh đạo của nó.
Đấu tranh nghị trường- giành chính quyền bằng phương pháp hồ bình
đã được nhìn nhận và giải quyết khác nhau về căn bản giữa lập trường của
chủ nghĩa xã hội khoa học với lập trường của chủ nghĩa xã hội dân chủ.
Chủ nghĩa xã hội khoa học quan niệm rằng, có những phương thức,
những khả năng khác nhau để giải quyết vấn đề chính quyền trong các cuộc cách
mạng xã hội. Lịch sử đã thấy hai phương thức: bạo lực cách mạng và đấu tranh
nghị trường bằng hồ bình. Khả năng thứ nhất là tất yếu và phổ biến, đã được
chứng thực bằng kinh nghiệm lịch sử. Khả năng thứ hai là rất quý nhưng rất
hiếm. Lý luận Mácxít cũng chỉ rõ, việc lựa chọn phương thức nào để giành lấy
chính quyền hồn tồn không tuỳ thuộc vào ý muốn chủ quan của giai cấp cách
mạng. Nó bị quy định bởi tương quan lực lượng giữa các giai cấp và chịu tác
động của hoàn cảnh chính trị. Nó là sản phẩm của sự kết hợp giữa sự phân tích
tỉnh táo, khách quan về mặt khoa học và nghệ thuật vận dụng thời cơ.


25

Sự khác nhau căn bản trong lập trường của chủ nghĩa xã hội khoa học và
chủ nghĩa xã hội dân chủ là ở chỗ, chủ nghĩa xã hội khoa học không phủ nhận
tác dụng của đấu tranh nghị trường và con đường hồ bình.Như Ph.Ăngghen đã

chỉ rõ, trong những điều kiện cụ thể phải khôn khéo sử dụng phương thức này
để tập hợp lực lượng, tranh thủ quần chúng, tập dượt ý thức đấu tranh chính trị
cho nhân dân nói chung, nhất là khi chủ nghĩa tư bản còn đang trong điều kiện
phồn vinh. Người cách mạng hiểu rõ rằng, khi thời cơ cho khởi nghĩa vũ trang
chưa tới, chưa thực sự chín muồi mà đã dùng bạo lực trực tiếp thì đó sẽ là
“hành động tự sát của cách mạng”.
Trong khi đó, chủ nghĩa xã hội dân chủ đã nhìn nhận đấu tranh nghị
trường, hồ bình là biện pháp phổ dụng và gần như duy nhất, biến nó từ
phương tiện trở thành mục đích. Tuyệt đối hố đấu tranh nghị trường bằng
phương pháp hồ bình, biến nó thành khả năng giới hạn tối đa, các nhà xã
hội dân chủ đã làm tan biến nhiều ranh giới bản chất của chính trị hiện đại:
Cụ thể là:
Về quan điểm giai cấp, giai cấp nào sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu sẽ
nắm quyền thống trị về kinh tế và chính trị. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa,
giai cấp tư sản (thiểu số) sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu bởi vậy họ nắm
trong tay nền kinh tế và thống trị chính trị, giai cấp cơng nhân và quần chúng
nhân dân lao động (chiếm đa số) nhưng khơng có quyền lợi về kinh tế và
chính trị. Phương thức bóc lột giá trị thặng dư đã làm nảy sinh mâu thuẫn về
lợi ích và từ đó dẫn đến xung đột về lợi ích cơ bản giữa giai câp cơng nhân và
giai cấp tư sản. Giai cấp công nhân đã đấu tranh quyết liệt địi quyền lợi về
kinh tế và chính trị. Hiện nay, mặc dù chủ nghĩa tư bản đã có nhiều thay đổi
về chính sách xã hội, nhằm xoa dịu đi sự xung đột lợi ích của giai cấp công
nhân với giai cấp tư sản, nhưng mâu thuẫn cơ bản về lợi ích ấy vẫn là một
thực tại. Những người xã hội dân chủ khi tuyệt đối hóa đấu tranh nghị trường,


×