Tải bản đầy đủ (.pdf) (148 trang)

Phương thức tổ chức hoạt động truyền thông về khuyến học ở đài phát thanh truyền hình địa phương (khảo sát tại các đài phát thanh truyền hình thanh hóa, nghệ an, hà tĩnh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.2 MB, 148 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

TRỊNH THỊ HƢƠNG

PHƢƠNG THỨC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG
TRUYỀN THÔNG VỀ KHUYẾN HỌC
Ở ĐÀI PHÁT THANH – TRUYỀN HÌNH ĐỊA
PHƢƠNG
(KHẢO SỎT TẠI CÁC ĐÀI PHÁT THANH – TRUYỀN HÌNH
THANH HĨA, NGHỆ AN, HÀ TĨNH)

NGÀNH: BÁO CHÍ HỌC
MÃ SỐ: 60 32 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS,TS. NGUYỄN ĐỨC DŨNG

HÀ NỘI – 2012


2


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng
tôi; các số liệu nêu trong luận văn là trung thực; những kết
luận khoa học của luận văn chưa từng được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trịnh Thị Hƣơng


3

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………4
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TỔ CHỨC
CÁC HOẠT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG VỀ CÁC PHONG TRÀO XÃ
HỘI
1.1. Cơ sở lý luận …………………………………...……………………..13
1.2.Cơ sở thực tiễn.………………………………………………………...26
Tiểu kết chƣơng 1………………………………………………………….39
Chương 2: THỰC TRẠNG PHƢƠNG THỨC TỔ CHỨC CÁC HOẠT
ĐỘNG TRUYỀN THÔNG VỀ KHUYẾN HỌC Ở CÁC ĐÀI THANH
HĨA, NGHỆ AN, HÀ TĨNH
2.1.Cơng tác truyền thơng về khuyến học tại các đài Thanh Hóa, Nghệ An,
Hà Tĩnh………………….………………………………………………….40
2.2.Phƣơng thức tổ chức các hoạt động truyền thông về khuyến học của đài
Thanh Hóa………………………………………………………………… 57
Tiểu kết chƣơng 2…………………………………………………………. 73
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GÓP PHẦN NÂNG CAO

CHẤT LƢỢNG, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG VỀ
KHUYẾN HỌC Ở ĐÀI ĐỊA PHƢƠNG
3.1.Những bài học kinh nghiệm……………………………………………74
3.2. Những yêu cầu đặt ra đối với công tác truyền thông về khuyến học ở địa
phƣơng hiện nay...………………………………………………………….89
3.3. Một số giải pháp…………………………………………………….. ..94
Tiểu kết chƣơng 3………………………………………………………....103
KẾT LUẬN………………………………………………………………104
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………109
PHỤ LỤC………………………………………………………………...115


4

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hơn 25 năm qua, kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đến
nay, hệ thống báo chí, truyền thơng nƣớc ta đã có những bƣớc phát triển mạnh
mẽ, đóng vai trị đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội. Các phƣơng tiện
truyền thông đại chúng không chỉ là “ngƣời tuyên truyền tập thể, cổ động tập
thể mà còn là ngƣời tổ chức tập thể” (V.I. Lê-nin), là công cụ hữu hiệu thực
hiện công tác tƣ tƣởng của Đảng, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội. Đặc biệt, các loại hình truyền thơng đại chúng nhƣ phát thanh, truyền
hình với thế mạnh đặc trƣng đã phát huy hiệu quả to lớn trong việc động viên,
cổ vũ các phong trào, hoạt động vì sự tiến bộ và phát triển chung của xã hội.
Sức mạnh của báo chí truyền thơng đƣợc đánh giá, nhận định là cực kỳ
to lớn, đƣợc xem là một nguồn tài nguyên đặc biệt. Trong thời đại bùng nổ
thông tin hiện nay, bất cứ tổ chức xã hội nào muốn trở thành một phong trào
nhân dân đều phải có sự đóng góp rất lớn của truyền thơng báo chí. Thậm chí,
có rất nhiều phong trào xã hội thành công đƣợc là nhờ sự trợ giúp đắc lực của

truyền thơng. Vì vậy, việc ứng dụng, phát huy hiệu quả hoạt động truyền
thông, đặc biệt là truyền thông trên báo chí trong các hoạt động chính trị- xã
hội sẽ có tác dụng to lớn trong quản lý và thúc đẩy xã hội phát triển.
Một trong những phong trào xã hội đã ứng dụng rất thành công hoạt
động truyền thông là phong trào khuyến học khuyến tài - xây dựng xã hội học
tập. Theo đánh giá của lãnh đạo Hội khuyến học Việt Nam, thời gian qua, báo
chí truyền thơng đã góp phần khơng nhỏ trong sự nghiệp khuyến học, khuyến
tài. “Hội khuyến học Việt Nam luôn coi báo chí truyền thơng như một trong
những lực lượng nịng cốt của công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã
hội học tập” (Ý kiến của GS. VS Phạm Tất Dong, Phó Chủ tịch kiêm Tổng
Thƣ ký Hội Khuyến học Việt Nam).
Những năm qua, Đài Phát thanh - Truyền hình (từ đây viết tắt là: PT-


5

TH) Thanh Hố đã tích cực phối hợp với Hội khuyến học Thanh Hoá tuyên
truyền, cổ vũ, động viên phong trào khuyến học khuyến tài của tỉnh nhà. Bằng
nhiều hình thức tuyên truyền đa dạng, nội dung tuyên truyền phong phú,
phong trào khuyến học khuyến tài ở Thanh Hoá đã có sức bật mạnh mẽ, quy
tụ đƣợc ngày càng nhiều thành phần, lực lƣợng xã hội tham gia, huy động
đƣợc nguồn lực vật chất và tinh thần to lớn hỗ trợ đắc lực các hoạt động giáo
dục, góp phần đào tạo nhân lực, bồi dƣỡng nhân tài.
Là ngƣời trực tiếp phụ trách các hoạt động tuyên truyền về khuyến học
khuyến tài trên sóng của Đài PT-TH Thanh Hố, tơi đã quyết định chọn đề tài
cho luận văn tốt nghiệp cao học Báo chí của mình là: “Phương thức tổ chức
hoạt động truyền thông về khuyến học ở Đài Phát thanh - truyền hình địa
phương”. Nội dung của đề tài đề cập đến việc thiết kế và triển khai các hoạt
động truyền thông về khuyến học ở phạm vi Đài PT-TH Thanh Hóa, có khảo
sát thêm ở một số đài PT - TH địa phƣơng ( Nghệ An, Hà Tĩnh) để đối chiếu,

so sánh.
Trong tình hình hiện nay, đất nƣớc đang tích cực hội nhập quốc tế, đẩy
mạnh nền kinh tế tri thức; Đảng và Nhà nƣớc luôn coi giáo dục, đào tạo là
quốc sách, hiền tài là nguyên khí quốc gia, công tác đào tạo nhân lực và bồi
dƣỡng nhân tài là mục tiêu quan trọng trong chiến lƣợc phát triển; thì việc nêu
cao vai trị, tầm quan trọng của truyền thông về khuyến học khuyến tài là hết
sức cần thiết.
Với đề tài nghiên cứu này, tác giả luận văn mong muốn đóng góp một
phần nhỏ bé vào hoạt động nghiên cứu lý luận báo chí truyền thơng, đánh giá
vai trị, tác dụng của truyền thơng trên phƣơng tiện phát thanh truyền hình đối
với một phong trào xã hội chuyên biệt là “khuyến học khuyến tài”, khảo sát
yếu tố lao động sáng tạo trong quá trình tổ chức các hoạt động truyền thơng
về khuyến học khuyến tài, từ đó rút ra những bài học lý luận và thực tiễn để
ứng dụng có hiệu quả sức mạnh truyền thơng trong việc xây dựng các phong


6

trào xã hội và các lĩnh vực khác.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong quá trình nghiên cứu, khảo sát tài liệu để thực hiện luận văn này,
tơi nhận thấy từ trƣớc tới nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học nhƣ
sách, luận văn, tiểu luận, giáo trình, bài giảng, bài nghiên cứu đăng trên báo
chí đánh giá về tác động của truyền thơng đối với các quá trình, các hoạt
động, các phong trào xã hội…
Cho đến nay đã có một số cơng trình nghiên cứu ít nhiều có liên quan
đến đề tài nhƣ sau:
Cuốn sách Truyền thông đại chúng của tác giả Tạ Ngọc Tấn (Nxb
Chính trị Quốc gia ấn hành năm 2001) là một trong những cơng trình nghiên
cứu về truyền thơng đại chúng đƣợc xuất bản khá sớm, trong đó đã đặt nền

móng cho một số vấn đề cơ bản theo hƣớng nghiên cứu này.
Cuốn sách: Truyền thông đại chúng trong hệ thống tổ chức quyền lực
chính trị ở các nước tư bản phát triển do Tiến sỹ Lƣu Văn An chủ biên (Nxb
Lý luận chính trị ấn hành năm ) có cấu trúc gồm 3 chƣơng, trong đó chƣơng II
có mục “Vai trị của truyền thơng đại chúng trong hoạt động của các nhóm lợi
ích (trang 186-202) đã nêu nhiều ví dụ sinh động minh chứng cho vấn đề này.
Sách Báo chí và đào tạo báo chí của PGS,TS. Đức Dũng (Nxb Thơng
tấn ấn hành năm 2010). Trong đó, phần 1 có bài viết: “Những điều rút ra qua
chiến dịch truyền thơng về phịng chống tác hại thuốc lá” đã trực tiếp đề cập
đến vai trị của báo chí trong một chiến dịch truyền thông cụ thể ở nƣớc ta.
Năm 2006, PGS,TS. Nguyễn Văn Dững và ThS. Đỗ Thị Thu Hằng đã
cho xuất bản cuốn sách Truyền thông - Lý thuyết và kỹ năng cơ bản (Nxb Lý
luận Chính trị ấn hành). Sách có 8 chƣơng, trong đó các chƣơng 6 (Chu trình
truyền thơng), chƣơng 7 (Lập kế hoạch truyền thơng) và chƣơng 8 (Giám sát,
đánh giá và duy trì hoạt động truyền thơng) đã trình bày những vấn đề lý luận


7

cơ bản có liên quan đến việc tổ chức các hoạt động truyền thông trên các
phƣơng tiện truyền thông đại chúng.
Năm 2008, Nxb Chính trị Quốc gia đã ấn hành chuyên luận Truyền
thông đại chúng và phát triển xã hội của PGS,TS. Lê Thanh Bình. Cũng nhƣ
nghiên cứu của PGS,TS. Nguyễn Văn Dững và ThS. Đỗ Thị Thu Hằng, các
phần một (Truyền thông đại chúng tham gia quản lý xã hội: các vấn đề chung
và những lĩnh vực đặc thù trong thời đại khoa học – công nghệ phát triển, hội
nhập quốc tế) và phần hai (Truyền thông đại chúng: vai trị ngành quan hệ
cơng chúng (PR) thực hiện chính sách dân số, thúc đẩy xóa đói giảm nghèo)
của cuốn sách này đã đề cập đến những vấn đề cơ bản của truyền thông đại
chúng trong điều kiện cụ thể ở nƣớc ta.

Trong khoảng 5 năm vừa qua, đã có khá nhiều các luận văn Thạc sỹ đề
cập đến những hoạt động của phát thanh, truyền hình địa phƣơng ở nƣớc ta.
Theo trình tự thời gian có thể điểm một số nghiên cứu sau đây:
Năm 2008 có Luận văn Thạc sỹ truyền thơng đại chúng chun ngành
Báo chí học của Nguyễn Văn Bình (bảo vệ tại Học viện Báo chí và Tun
truyền) với tiêu đề: Báo chí Thanh Hóa với việc thực hiện chức năng giám sát
xã hội ( khảo sát báo Thanh Hóa, Đài PT-TH Thanh Hóa từ tháng 6/2006 đến
tháng 6/2008).
Luận văn Thạc sỹ truyền thông đại chúng chuyên ngành Báo chí học
của Mai Vũ Tuấn (thực hiện năm 2008 tại Học viện Báo chí và Tun truyền)
có tiêu đề: Tổ chức sản xuất chương trình truyền hình trực tiếp tại các đài
phát thanh, truyền hình khu vực Đông – Bắc (Khảo sát tại các Đài Phát thanh
– Truyền hình Quảng Ninh, Hải Phịng, Hải Dương từ 01/2007 đến 06/2008).
Năm 2009, học viên Ngô Thị Ngọc Hạnh đã bảo vệ thành công luận
văn Thạc sỹ truyền thông đại chúng chuyên ngành Báo chí học tại Học viện
Báo chí và Tuyên truyền với tiêu đề: Vấn đề tuyên truyền “tam nơng” trên
sóng truyền hình các đài phát thanh – truyền hình khu vực đồng bằng sơng


8

Cửu Long (khảo sát Đài PT-TH Đồng Tháp, Vĩnh Long, An Giang từ tháng
6/2008 đến tháng 6/2009).
Cũng năm 2009, học viên Nguyễn Thị Huyên đã bảo vệ thành công
luận văn Thạc sỹ truyền thơng đại chúng chun ngành Báo chí học tại Học
viện Báo chí và Tuyên truyền với tiêu đề: Thực trạng hoạt động của báo nói,
báo hình ở các đài tỉnh khu vực bắc miền Trung.
Nhìn chung, những luận văn này hoặc là đề cập đến vai trò của các Đài
PT-TH địa phƣơng trong một lĩnh vực cụ thể nào đó, hoặc là đi sâu vào việc
phân tích thực trạng, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng một thể

loại, một chƣơng trình truyền hình của địa phƣơng.
Nhƣ vậy là cho đến nay, vẫn chƣa có một cơng trình nào nghiên cứu
một cách có hệ thống về “phương thức tổ chức hoạt động truyền thông về
khuyến học ở Đài Phát thanh - Truyền hình địa phương”. Vì vậy, có thể
nói đây là đề tài mới, khơng trùng lặp với bất cứ đề tài nào đã đƣợc công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khảo sát thực tế việc tổ chức các hoạt động truyền thông về
khuyến học ở các Đài PT-TH địa phƣơng, luận văn nhằm làm rõ vai trò, hiệu
quả tác động của công tác truyền thông đối với các phong trào xã hội nói
chung và phong trào khuyến học khuyến tài nói riêng, từ đó rút ra những bài
học kinh nghiệm trong việc tổ chức các hoạt động truyền thơng trên phƣơng
tiện phát thanh, truyền hình ở địa phƣơng; đồng thời qua đó đề xuất những
giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng của hoạt động truyền thơng nói
chung và truyền thơng cho những phong trào xã hội nói riêng trên loại hình
báo chí phát thanh, truyền hình ở địa phƣơng.
3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt đƣợc mục đích nói trên, trong q trình thực hiện luận văn này,
chúng tôi sẽ triển khai một số nhiệm vụ cụ thể sau đây:


9

- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận và thực tiễn về truyền thơng nói
chung và truyền thơng trên các phƣơng tiện phát thanh truyền hình địa
phƣơng nói riêng để làm cơ sở cho việc triển khai nghiên cứu đề tài.
- Khảo sát phƣơng thức tổ chức các hoạt động truyền thơng về khuyến
học trên sóng của một số Đài PT-TH địa phƣơng; phân tích các yếu tố lao
động sáng tạo trong các hoạt động truyền thông này, đánh giá tác động của
chúng lên đời sống xã hội của nhân dân trong tỉnh.

- Khái quát, rút ra những ƣu điểm, hạn chế và những vấn đề đặt ra trong
quá trình triển khai các hoạt động truyền thơng về khuyến học khuyến tài trên
sóng của đài phát thanh truyền hình cấp tỉnh.
- Đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần phát huy sức
mạnh của phát thanh, truyền hình địa phƣơng trong việc tổ chức hoạt động
khuyến học khuyến tài nói riêng và tổ chức các phong trào xã hội khác nói
chung.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn này là phƣơng thức tổ chức các
hoạt động truyền thông về khuyến học trên sóng của các Đài PT-TH địa
phƣơng (khảo sát tại Đài PT- TH Thanh Hoá và so sánh với các đài lân cận ở
khu vực Bắc miền Trung nhƣ Đài PT- TH Nghệ An, Đài PT- TH Hà Tĩnh...).
Đối tƣợng khảo sát của luận văn là các tin, bài, chuyên mục, chƣơng
trình phát sóng về khuyến học của các đài; các hoạt động phối hợp, hợp tác
truyền thông về khuyến học với các đối tác liên quan; các phƣơng thức tổ
chức sự kiện truyền thông về khuyến học của Đài PT-TH Thanh Hoá và các
Đài PT-TH địa phƣơng khác.
Phạm vi nghiên cứu là hoạt động truyền thông của các đài PT-TH địa
phƣơng về lĩnh vực khuyến học (việc thiết kế, tổ chức sản xuất các chuyên
mục, chuyên đề, chƣơng trình phát sóng về khuyến học), đặc biệt là việc thiết
lập và triển khai Đề án xây dựng Quỹ học bổng “Nâng cánh uớc mơ” hỗ trợ


10

sinh viên có hồn cảnh đặc biệt khó khăn học đại học tại Đài PT-TH Thanh
Hoá. Đề án này do Đài PT-TH Thanh Hố nêu ý tƣởng, chủ trì và phối hợp
với Hội khuyến học tỉnh và các tổ chức doanh nghiệp, tổ chức xã hội nghề
nghiệp của tỉnh cùng thực hiện.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Cơng trình đƣợc thực hiện dựa vào hệ thống các quan điểm, chủ trƣơng
đƣờng lối, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc Việt Nam về cơng tác báo chí,
truyền thơng, đặc biệt là những định hƣớng, chỉ đạo của Đảng và Nhà nƣớc về
việc phát huy vai trò, sức mạnh của phát thanh, truyền hình phục vụ các
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phƣơng.
Cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu này là lý luận báo chí, truyền thơng
và lý luận chun ngành phát thanh, truyền hình ở Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sẽ vận dụng tổng hợp các
phƣơng pháp sau đây:
Phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu đƣợc sử dụng để hệ thống hóa các vấn
đề lý luận về quan điểm báo chí truyền thơng nói chung và về lý luận báo chí
phát thanh, truyền hình nói riêng.
Phƣơng pháp khảo sát thực tế đƣợc sử dụng để khảo sát thực trạng tổ
chức các hoạt động truyền thơng trên sóng của các Đài PT-TH địa phƣơng.
Các phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh đƣợc sử dụng
trong việc xem xét, đánh giá, phân tích các sản phẩm báo chí truyền thơng
đƣợc khảo sát, từ đó rút ra những kết luận khoa học cần thiết cho luận văn.
Các phƣơng pháp điều tra xã hội học đƣợc sử dụng đối với công chúng
và các cơ quan truyền thơng đại chúng có các hoạt động truyền thơng cùng
lĩnh vực nghiên cứu; từ đó thu thập những ý kiến và các luận cứ khoa học cần
thiết cho luận văn.
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tơi cịn sử dụng hình thức
phỏng vấn, trao đổi trực tiếp đối với một số đối tƣợng có liên quan tới đề tài.


11

6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn là cơng trình nghiên cứu đầu tiên đề cập một cách cụ thể đến
việc tổ chức các hoạt động truyền thông về khuyến học khuyến tài ở Đài PTTH địa phƣơng. Mặc dù đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu chỉ tập trung vào

một lĩnh vực truyền thông cụ thể ở Đài PT-TH cấp tỉnh, nhƣng hy vọng
những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần làm phong phú hệ thống
lý luận báo chí ở nƣớc ta về vấn đề báo chí phát thanh, truyền hình tham gia
các hoạt động truyền thông tại các địa phƣơng.
Luận văn cũng sẽ là một tài liệu tham khảo bổ ích, tin cậy cho các thầy
cô giáo, các nhà nghiên cứu lý luận báo chí truyền hình và cho sinh viên, học
viên cao học, nghiên cứu sinh khi thực hiện các cơng trình nghiên cứu liên
quan đến vấn đề này.
Đóng góp mới của đề tài nghiên cứu này là làm sáng tỏ năng lực, hiệu
quả của Đài phát thanh truyền hình địa phương trong việc thông tin, tuyên
truyền, cổ động cho các phong trào xã hội. Qua việc tổng kết lý luận và thực
tiễn, nghiên cứu này cũng rút ra những bài học kinh nghiệm về tổ chức truyền
thông và phát huy năng lực sáng tạo nghề báo ở đài địa phương; qua đó đề
xuất các giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng, hiệu quả và năng lực
của phát thanh truyền hình; khẳng định những phương thức truyền thông phù
hợp với nhu cầu xã hội ở các địa phƣơng hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là một cơng trình nghiên cứu vận dụng lý luận báo chí học để
giải quyết một vấn đề của thực tiễn. Kết quả của đề tài sẽ ít nhiều góp phần bổ
sung cho lý luận Báo chí học về vấn đề hoạt động truyền thông phục vụ các
phong trào xã hội. Do đó, luận văn cũng có thể đƣợc coi là một tài liệu tham
khảo cho các nhà nghiên cứu, giảng dạy và cho sinh viên, học viên sau đại
học về đề tài này. Đồng thời, chúng tôi cũng hy vọng luận văn sẽ giúp cho các


12

nhà quản lý, các phóng viên, biên tập viên, những ngƣời làm truyền thơng xã
hội có thêm một góc nhìn lý luận về truyền thông địa phƣơng.
Về phƣơng diện thực tiễn, luận văn là một tài liệu tham khảo hữu dụng

cho các nhà quản lý báo chí truyền thơng, phóng viên, biên tập viên trong việc
khai thác sức mạnh của phát thanh, truyền hình địa phƣơng để thực hiện tốt
hơn nghiệp vụ của mình trong hoạt động truyền thơng phục vụ các phong trào
xã hội trong tại địa phƣơng.
Riêng với bản thân tơi, q trình nghiên cứu đề tài cũng sẽ là một cơ
hội để tích lũy kiến thức, nâng cao tầm hiểu biết và năng lực chuyên môn
trong nhiệm vụ cụ thể hiện nay của mình, với tƣ cách là một ngƣời làm cơng
tác phát thanh truyền hình tại địa phƣơng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, những nội dung
chủ yếu của luận văn đƣợc trình bày trong 3 chương, 7 tiết.
Phần Phụ lục ở cuối luận văn gồm một số tài liệu có liên quan trực tiếp
đến nội dung và quá trình nghiên cứu, thực hiện luận văn.


13

Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TỔ CHỨC
CÁC HOẠT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG
VỀ CÁC PHONG TRÀO XÃ HỘI
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Một số thuật ngữ, khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1.1. Khái niệm “phương thức tổ chức” và “hoạt động truyền
thông”
Đề tài luận văn nghiên cứu về “Phương thức tổ chức hoạt động truyền
thông” về một lĩnh vực cụ thể là khuyến học, vì vậy tác giả luận văn thấy cần
thiết phải hiểu rõ khái niệm “phương thức tổ chức” và “hoạt động truyền
thông”. Đây chính là những khái niệm cơng cụ, là chìa khóa để mở ra những
phần nội dung nghiên cứu của đề tài.

- Khái niệm “phương thức tổ chức”
Theo cuốn Từ điển Tiếng Việt của Khang Việt xuất bản năm 2011 thì
“phương thức” có nghĩa là “phương pháp, cách thức" [52, tr.912]. “Phương
pháp” là con đƣờng đƣa ta đến cái đích cần hƣớng tới, còn “cách thức” là
phƣơng tiện mà chúng ta sử dụng để đi trên con đƣờng ấy.
Khái niệm “tổ chức”: Đây là một trong những chức năng của công tác
quản lý. “Tổ chức” là sự kết hợp các hành động để tạo ra một giá trị, hay đạt
đƣợc mục tiêu mong muốn. Hay nói một cách khác, “tổ chức” là sự tập hợp,
sắp xếp các nguồn lực, các tài nguyên để đạt đƣợc mục đích của ngƣời quản
lý.
Nhƣ vậy, trên cơ sở luận giải ý nghĩa triết tự của các từ ngữ nêu trên, có
thể thấy “phương thức tổ chức” chính là phƣơng pháp, cách thức sắp xếp, sử
dụng các nguồn lực ( vật chất, tinh thần) để đạt đƣợc mục đích nào đó. Ví dụ:
Phƣơng thức tổ chức sản xuất, phƣơng thức tổ chức quản lý, phƣơng thức tổ


14

chức hoạt động nghiên cứu khoa học, phƣơng thức tổ chức hoạt động truyền
thông v.v…
- Khái niệm “ hoạt động truyền thông”
Từ điển Tiếng Việt của Khang Việt xuất bản năm 2011 định nghĩa “ hoạt
động” là “hành động thường xun, hành động khơng ngừng” [52, tr.557].
Theo đó, hoạt động truyền thông là một chuỗi các hành động nhằm
truyền đạt, trao đổi thông tin với các đối tƣợng xã hội nhằm đạt đƣợc mục
đích mà chủ thể tổ chức hoạt động truyền thông mong muốn.
1.1.1.2. Một số thuật ngữ về truyền thông
- Khái niệm “Truyền thông”
Khái niệm truyền thông đƣợc nhiều ngƣời đề cập đến, nó khá phổ biến
và quen thuộc trong ngôn ngữ khoa học cũng nhƣ ngôn ngữ đời sống. Tuy

nhiên, cũng có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm truyền thơng.
Dƣới góc nhìn của xã hội học, cuốn giáo trình “ Xã hội học về truyền
thơng đại chúng” do TS. Trần Hữu Quang biên soạn, trƣờng Đại học mở
TP.Hồ Chí Minh ấn hành đã đƣa ra khái niệm về truyền thông hết sức đơn
giản: Truyền thông (communication) đƣợc hiểu một cách ngắn gọn là quá
trình truyền đạt thông tin [ 55, tr 10].
Tƣơng đồng với ý kiến trên, một bài viết có tiêu đề Truyền thơng - nền
tảng xã hội đăng trên diễn đàn mạng của sở Thông tin & truyền thông tỉnh
Ninh Thuận ngày 10/7/2012 cũng nêu: Truyền thông (communication) đƣợc
hiểu một cách đơn giản là q trình truyền đạt, chia sẻ thơng tin, là một kiểu
tƣơng tác xã hội với sự tham gia của ít nhất 02 tác nhân. Bài này phân tích:
Lịch sử lồi ngƣời cho thấy, con ngƣời có thể sống đƣợc với nhau, giao tiếp
và tƣơng tác lẫn nhau trƣớc hết là nhờ vào hành vi truyền thông (thông qua
ngôn ngữ hoặc cử chỉ, điệu bộ, hành vi… để chuyển tải những thông điệp,
biểu lộ thái độ cảm xúc). Qua quá trình truyền thơng liên tục, con ngƣời sẽ có
sự gắn kết với nhau, đồng thời có những thay đổi trong nhận thức và hành vi.


15

Chính vì vậy, truyền thơng đƣợc xem là cơ sở để thiết lập các mối quan hệ
giữa con ngƣời với con ngƣời, là nền tảng hình thành nên cộng đồng, xã hội.
Nói cách khác, truyền thơng là 1 trong những hoạt động căn bản của bất cứ
một tổ chức xã hội nào [66].
Dƣới góc độ nghiên cứu truyền thơng về giáo dục sức khỏe, BS.ThS
Trƣơng Trọng Hoàng (Trung tâm Truyền thông - Giáo dục Sức khỏe
TP.HCM), đã đƣa ra khái niệm: “Truyền thơng là tiến trình truyền đạt thơng
tin từ người này sang người khác, thơng tin đó có thể là những kiến thức,
quan điểm cũng có thể là những cảm xúc, tình cảm, thái độ... Vấn đề quan
trọng nhất của truyền thông là làm sao truyền đạt được đúng thơng tin muốn

truyền đạt” [40].
Dƣới góc độ nghiên cứu báo chí truyền thơng, trong cuốn sách Truyền
thơng - Lý thuyết và kỹ năng cơ bản, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội ấn hành
năm 2006, của PGS, TS. Nguyễn Văn Dững chủ biên - ThS Đỗ Thị Thu
Hằng, đã viết: “Truyền thơng là q trình liên tục trao đổi thơng tin, tư
tưởng, tình cảm…chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm giữa hai hoặc nhiều người,
nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau, thay đổi nhận thức, tiến tới điều chỉnh
hành vi và thái độ phù hợp với nhu cầu phát triển của cá nhân, của nhóm, của
cộng đồng và xã hội”. Khái niệm trên đã chỉ ra bản chất và mục đích của
truyền thơng. Về bản chất, truyền thơng là q trình chia sẻ, trao đổi hai
chiều, diễn ra liên tục giữa chủ thể truyền thông và đối tƣợng truyền thông.
Quá trình chia sẻ, trao đổi hai chiều ấy có thể đƣợc hình dung qua ngun tắc
bình thơng nhau. Khi có sự chênh lệch giữa trình độ nhận thức, hiểu biết giữa
chủ thể và đối tƣợng truyền thông gắn với nhu cầu chia sẻ, trao đổi thì hoạt
động truyền thơng diễn ra. Q trình truyền thơng vì vậy chỉ kết thúc khi đạt
đƣợc sự cân bằng trong nhận thức, hiểu biết giữa chủ thể và đối tƣợng truyền
thơng. Về mục đích, truyền thông hƣớng đến những hiểu biết chung nhằm


16

thay đổi thái độ, nhận thức, hành vi của đối tƣợng truyền thông và tạo định
hƣớng giá trị cho công chúng [26].
Theo GS.TS Tạ Ngọc Tấn trong cuốn “ Truyền thơng đại chúng” do
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia ấn hành năm 2001, khái niệm truyền thông
bắt nguồn từ nhu cầu giao tiếp của con ngƣời: “Truyền thông là sự trao đổi
thông điệp giữa các thành viên hay các nhóm người trong xã hội nhằm đạt
được sự hiểu biết lẫn nhau”. Cũng theo GS.Tạ Ngọc Tấn, cùng với khái niệm
truyền thơng, ngƣời ta cịn phân biệt hai dạng thức truyền thông là “truyền
thông ngoại biên” và “truyền thông nội biên”. Trong đó “truyền thơng ngoại

biên là sự trao đổi thông điệp giữa người này với người khác thông qua tiếp
nhận của các giác quan. Truyền thông nội biên là q trình trao đổi thơng
điệp diễn ra trong một con người. Như vậy, truyền thơng ngoại biên mang
tính xã hội, bắt buộc phải có các yếu tố tham dự gồm: nguồn phát, thông
điệp, kênh, đối tượng tiếp nhận” [62,tr.8]
Một số bài viết, tiểu luận, tham luận khoa học cũng đề cập đến khai
niệm truyền thơng và phân tích nó dƣới nhiều góc độ khác nhau. Các ý kiến
khơng những nêu lên khái niệm truyền thơng mà cịn chỉ ra các phƣơng pháp
truyền thơng.
Một nhóm sinh viên nghiên cứu khoa học của khoa Công nghệ thông
tin – Viện Đại học mở TP. Hồ Chí Minh cũng nêu ý kiến của mình qua bài
viết Truyền thơng và lợi ích của truyền thơng đăng trên diễn đàn mạng. Ý
kiến này cơ bản tƣơng đồng với các cách hiểu về khái niệm truyền thông đã
nêu trên, trong đó truyền thơng đƣợc coi là là q trình chia sẻ thơng tin, là
một kiểu tƣơng tác xã hội trong đó có ít nhất hai tác nhân có những qui tắc và
tín hiệu chung. Nó là sự luân chuyển thông tin và hiểu biết từ ngƣời này sang
ngƣời khác thơng qua các ký hiệu, tín hiệu có ý nghĩa. Truyền thơng là một
q trình khách quan, là logic tất yếu trong tiến trình của nhân loại và những
hệ quả tích cực mà nó mang lại.


17

Cũng theo quan niệm này, truyền thơng cịn đƣợc coi là công cụ để dự
báo, điều hành và xử lý những dịch vụ đời sống của cƣ dân mọi quốc gia, dân
tộc. Truyền thơng có các lợi ích là mở ra môi trƣờng thông tin rộng lớn, thuận
tiện nhất, giúp con ngƣời tăng cƣờng khả năng giao lƣu, hiểu biết và xích lại
gần nhau hơn; tạo ra một mơi trƣờng học tập toàn cầu, mở ra nhiều cơ hội
thuận lợi để con ngƣời tiếp thu tri thức nhân loại, nâng cao trình độ hiểu biết
cho mình; là mơi trƣờng, điều kiện thúc đẩy sự phát triển, ứng dụng các tiến

bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ.
Trong quan niệm của ThS Trƣơng Trọng Hồng mà chúng tơi đã dẫn ở
trên cũng nêu ra khái niệm cho rằng truyền thông bao gồm “truyền thông trực
tiếp” và “truyền thông gián tiếp”. Theo ông, “truyền thông trực tiếp: người
phát tin tiếp xúc trực tiếp với người nhận và có thể quan sát phản ứng cũng
như nghe ý kiến, thắc mắc, phản hồi ngay lập tức từ người nghe. Truyền
thông gián tiếp: người phát tin thông qua một phương tiện truyền thông
không tiếp xúc trực tiếp với người nhận. Có thể thu nhận hồi báo nhưng sau
một thời gian dài” [40, tr 3].
Ông cho rằng, ƣu điểm của truyền thông trực tiếp là: Ngƣời phát tin
tiếp xúc trực tiếp với ngƣời nhận tin nên cảm nhận đƣợc thái độ của ngƣời
nhận, nhờ đó điều chỉnh những ứng xử của mình cho phù hợp; có điều kiện
thu nhận hồi báo nên có thể điều chỉnh thông điệp giúp ngƣời nhận tiếp nhận
đúng thông tin muốn truyền đạt; có thể áp dụng phƣơng pháp giáo dục chủ
động lôi cuốn đƣợc sự tham gia của ngƣời nhận tin từ đó tác động mạnh hơn
đến nhận thức, thái độ, hành vi. Tuy nhiên, nhƣợc điểm của truyền thông trực
tiếp là: không đƣa đƣợc thông tin đến nhiều ngƣời trên diện rộng; khó tạo
đƣợc dƣ luận và tác động dây chuyền làm chuyển đổi thái độ của ngƣời dân.
Còn truyền thơng gián tiếp có ƣu điểm: Đƣa thơng tin đến nhiều ngƣời trên
diện rộng nhờ phƣơng tiện truyền thông nhân lên; tạo đƣợc dƣ luận và tác
động dây chuyền làm chuyển đổi thái độ của ngƣời dân góp phần giúp thay


18

đổi hành vi. Nhƣợc điểm của truyền thông gián tiếp là: ngƣời phát tin không
tiếp xúc trực tiếp với ngƣời nhận tin, không cảm nhận đƣợc thái độ của ngƣời
nhận và tất nhiên là không thể điều chỉnh những ứng xử của mình cho phù
hợp; về phƣơng diện truyền thơng hầu nhƣ là một chiều, rất khó thu nhận hồi
báo do đó có nhiều khả năng gây hiểu lầm [40,tr 4].

Ngồi ra, cũng có ý kiến đƣa ra khái niệm “ truyền thông quảng bá”
(gắn truyền thông với hoạt động maketinh) với 5 mục tiêu: tạo sự nhận biết;
tạo sự quan tâm; cung cấp thông tin; tạo nhu cầu; củng cố niềm tin cơng
chúng.
Nhƣ vậy, có thể thấy các cách hiểu, diễn đạt về khái niệm truyền thông
khá đa dạng do các tác giả, các nhà nghiên cứu đã xuất phát từ những góc độ,
lĩnh vực nghiên cứu khác nhau. Nhƣng tựu chung, các ý kiến, cách hiểu và
định nghĩa về khái niệm truyền thơng đều có những điểm tƣơng đồng nhất
định. Đó là truyền thơng xuất phát từ nhu cầu của con người trong xã hội, là
quá trình trao đổi thơng tin bằng những phương tiện, hình thức nhất định
nhằm đạt được mục tiêu nâng cao nhận thức chung, vì sự phát triển của xã
hội.
-Khái niệm “Truyền thơng đại chúng”:
Về cơ bản, “Truyền thông đại chúng” (tiếng Anh là mass
communication) đều đƣợc hiểu với tƣ cách là 1 quá trình xã hội có chủ đích q trình truyền đạt thông tin 1 cách rộng rãi đến mọi ngƣời trong xã hội
thông qua các phƣơng tiện. Thuật ngữ “Truyền thông đại chúng” chỉ xuất
hiện trên thế giới từ khoảng cuối thế kỷ XVI, trên cơ sở của nhiều loại tiến bộ
kỹ thuật khác nhau, đặc biệt là kỹ thuật in ấn. Bƣớc sang thế kỷ XX, với sự ra
đời của phát thanh, truyền hình, điện thoại và tiếp đó là sự xuất hiện của máy
tính điện tử cá nhân rồi đến mạng máy tính tồn cầu và mạng internet, truyền
thơng đại chúng đã có sự phát triển mạnh mẽ cả về quy mô lẫn mức độ ảnh
hƣởng tới từng cá nhân riêng lẻ đến toàn xã hội.


19

Năm 1946, lần đầu tiên thuật ngữ “truyền thông đại chúng” đƣợc sử
dụng trong lời nói đầu của Hiến chƣơng Liên hợp quốc về Văn hóa, Khoa học
và Giáo dục.
TS. Trần Hữu Quang (Viện Đại học mở TP. Hồ Chí Minh) định nghĩa:

Truyền thơng đại chúng là q trình truyền đạt thông tin một cách rộng rãi
đến mọi người trong xã hội thông qua các phương tiện truyền thông đại
chúng như báo chí, phát thanh, truyền hình… TS. Quang cũng lƣu ý: Một q
trình truyền thơng chỉ đƣợc gọi là truyền thơng đại chúng nếu nó đƣợc phát
ra thơng qua các phƣơng tiện truyền thông đại chúng. Các phƣơng tiện truyền
thơng đại chúng (hay cịn gọi là các phƣơng tiện thông tin đại chúng-mass
media) là những công cụ kỹ thuật hay những kênh mà thơng qua đó ngƣời ta
mới có thể thực hiện q trình truyền thơng đại chúng. Trong định nghĩa này,
TS. Trần Hữu Quang phân biệt rõ ràng giữa hai thuật ngữ “Truyền thông đại
chúng” với “phƣơng tiện truyền thông đại chúng” mà ngƣời ta thƣờng sử
dụng lẫn lộn một cách khơng chính xác. Các phƣơng tiện truyền thơng đại
chúng (mass media) là cơng cụ kỹ thuật, cịn “truyền thơng đại chúng” (mass
communication) là một q trình xã hội, q trình chuyển tải thơng tin ra
cơng chúng thơng qua các phƣơng tiện, công cụ kỹ thuật. Theo ông, “truyền
thơng đại chúng là một q trình xã hội đặc thù gồm các yếu tố: Hoạt động
truyền thông; các nhà truyền thông; đại chúng” [ 55, tr.11-12].
Theo GS.TS Tạ Ngọc Tấn, “truyền thông đại chúng là hoạt động giao
tiếp xã hội rộng rãi, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng” [ 62, tr
10]. Nhƣ vậy, trong định nghĩa này đã có sự phân biệt rõ ràng, và khơng đánh
đồng giữa khái niệm “ truyền thông đại chúng” với các phƣơng tiện truyền
thông đại chúng.
Cuốn sách “Truyền thông- lý thuyết và kỹ năng cơ bản” của PGS.TS
Nguyễn Văn Dững và ThS Đỗ Thị Thu Hằng nêu định nghĩa về Truyền thơng
đại chúng từ góc độ tiếp cận kênh truyền dẫn: Truyền thông đại chúng là hệ


20

thống các kênh truyền thông hƣớng thông điệp tác động vào đông đảo công
chúng xã hội, nhằm lôi kéo và tập hợp, giáo dục, thuyết phục và tổ chức đông

đảo nhân dân tham gia giải quyết các nhiệm vụ chính trị - kinh tế - văn hóa xã hội đã và đang đặt ra. “Báo chí là một bộ phận của truyền thông đại chúng,
nhưng là bộ phận chiếm vị trí trung tâm, vai trị nền tảng và có khả năng
quyết định tính chất, khuynh hướng, chi phối năng lực và hiệu quả tác động
của truyền thông đại chúng. Do đó, trong nhiều trường hợp, có thể dùng báo
chí để chỉ truyền thơng đại chúng; và ngược lại, nói đến truyền thơng đại
chúng - trước hết phải nói đến báo chí” [26].
PGS.TS Nguyễn Văn Dững cũng chỉ ra đặc điểm của truyền thơng đại
chúng, đó là:
Là sự cung cấp thơng tin cho số đông (mass); Do thông tin đƣợc
truyền đến số đơng, nhiều ngƣời biết và đó là đối tƣợng không xác
định cho nên đặc điểm của truyền thông đại chúng là công khai;
Thông tin trên truyền thông đại chúng rất phong phú và đa dạng vì
nó phải đáp ứng và thỏa mãn đa dạng đối tƣợng công chúng và đa
dạng về nhu cầu; Khác với các dạng truyền thông khác (nhƣ pano,
apphich, sách, tài liệu) truyền thông đại chúng có tính chất định kỳ
(tuy nhiên, đặc điểm này đang bị báo mạng điện tử phá vỡ bởi khả
năng đẩy tin liên tục và bất cứ lúc nào của nó); Truyền thơng đại
chúng có đặc trƣng bởi yếu tố tƣơng tác gián tiếp (mặc dù các dạng
thức nhƣ truyền hình trực tiếp, tƣờng thuật trực tiếp có vẻ nhƣ
khơng phải là gián tiếp). Có thể khẳng định là khơng có tƣơng tác
thì khơng có quan hệ xã hội. Truyền thơng đại chúng và công chúng
luôn tạo nên cơ chế tƣơng tác và mối quan hệ đó quyết định sự sinh
tồn của báo chí [26 ].
-Khái niệm “Truyền thơng xã hội”:


21

Ngày nay, khơng ít ngƣời hiểu thuật ngữ Truyền thơng xã hội (tiếng
Anh: Social Media) dùng để chỉ một cách thức truyền thông kiểu mới, trên

nền tảng là các dịch vụ trực tuyến, với mục đích tập trung các thơng tin có giá
trị của những ngƣời tham gia (Từ điển Wikipedia). Những thể hiện của Social
Media có thể là dƣới hình thức của các mạng giao lƣu chia sẻ thơng tin cá
nhân (MySpace, Facebook, Yahoo 360) hay các mạng chia sẻ những tài
nguyên cụ thể (tài liệu – Scribd, ảnh – Flickr, video – YouTube). Nhƣ vậy,
Social Media (dịch ra tiếng Việt là “truyền thông xã hội”) là một thuật ngữ để
chỉ một cách thức truyền thông kiểu mới, trên nền tảng là các dịch vụ trực
tuyến, với mục đích tập trung các thơng tin có giá trị của những ngƣời tham
gia.
Sự liên kết của các thành viên tham gia sử dụng dịch vụ, trong đó mỗi
thành viên có khả năng duy trì tƣơng tác thơng tin cùng lúc với rất nhiều
ngƣời khác, giúp cho thông tin luôn đến đƣợc những ngƣời quan tâm nhất.
Tập hợp những thành viên sử dụng dịch vụ sẽ tạo ra một số đông (đám đơng)
có khả năng đƣợc định hƣớng theo những tình cảm và niềm tin mang sắc thái
riêng.
Sự liên kết của các thành viên, cũng nhƣ sức ảnh hƣởng của số đông
lên các thành viên khác nhau tạo nên một mạng lƣới di chuyển nhiều hƣớng
của thơng tin. Ví dụ: MySpace và YouTube trong cuộc tranh cử tổng thống
Mỹ 2008, các ứng cử viên của đảng Dân chủ đều sử dụng MySpace để tập
hợp lƣợng ngƣời ủng hộ đông đảo, các ứng cử viên của đảng Cộng hòa sử
dụng YouTube để phát những bài vận động tranh cử của mình vì hiệu quả lan
truyền thơng tin của nó…
- Truyền thơng trên báo chí:
Truyền thơng có ý nghĩa quan trọng đối với nhà báo. Bản chất của việc
làm báo là làm truyền thông. Ngƣời làm báo sử dụng truyền thông để đạt
đƣợc mục đích nghề nghiệp của mình. Trong hoạt động tác nghiệp, nhà báo


22


phải nắm vững các kỹ năng truyền thơng để có thể đạt đƣợc hiệu quả truyền
thông. Các kỹ năng truyền thơng có vai trị là phƣơng tiện giúp ngƣời làm báo
tác nghiệp có hiệu quả.
Cụ thể, trong việc tìm kiếm nguồn tin với các đối tƣợng rất đa dạng,
nếu nhà báo không nắm đƣợc các bƣớc truyền thông, các kỹ năng truyền
thơng thì rất khó tiếp cận và khai thác nguồn tin. Trong sáng tác, ngƣời làm
báo cũng phải luôn chú trọng đến truyền thơng. Nói nhƣ vậy vì báo chí có
hiệu quả truyền thơng rộng lớn và rất cần sự thận trọng để tránh những hậu
quả đáng tiếc. Ngƣời làm báo phải chú ý xem mình đang truyền thơng cho đối
tƣợng nào để từ đó xác lập nội dung, cách thức cho phù hợp.
Nhƣ vậy, các khái niệm “truyền thông”, “truyền thông đại chúng”,
“truyền thông xã hội”, “truyền thông trên báo chí” có mối quan hệ chặt chẽ,
biện chứng với nhau. Tác giả luận văn muốn đề cập, tìm hiểu, phân tích
những khái niệm nêu trên nhằm tìm ra một con đƣờng chung nhất, xác định
một quan điểm đúng đắn và khoa học nhất, một phƣơng pháp tƣ duy thống
nhất và hiệu quả để phục vụ nhiệm vụ nghiên cứu của mình.
Trên cơ sở nghiên cứu các sách, báo, cơng trình khoa học có liên quan
để tìm ra những cách hiểu chung nhất về các khái niệm này, tác giả luận văn
sẽ ứng dụng chúng xun suốt cơng trình khoa học của mình để đảm bảo tính
nhất qn về mặt lý luận.
1.1.1.3.Một số thuật ngữ về khuyến học
- Khái niệm “Khuyến học”
Xét về khía cạnh lịch sử của khái niệm “khuyến học”, khái niệm này
đƣợc bắt nguồn từ tinh thần ham chuộng kiến thức, coi trọng học vấn của
nhân dân ta. Từ xa xƣa ông cha ta đã dạy "Nhân bất học, bất tri lý" (ngƣời
không học, không hiểu biết) và muốn học phải có thầy: "Khơng thầy đố mày
làm nên". Trong thƣ tịch cổ có câu “ Vạn ban giai hạ phẩm - Duy hữu độc thư


23


cao”, dịch nghĩa là: “Ở đời muôn sự đều hèn - Chỉ riêng đọc sách là trên mọi
bề”.
Nhận rõ lợi ích và sự cần thiết của việc học để biết làm ngƣời, để lập
thân, lập nghiệp, xây dựng và bảo vệ quê hƣơng đất nƣớc ngày càng giàu đẹp,
văn minh, hạnh phúc, từ lâu nhân dân ta đã khuyến khích và có nhiều hình
thức giúp đỡ, động viên con cháu học hành. Khái niệm “khuyến học” đƣợc
hình thành, tồn tại dƣới nhiều hình thức khác nhau. "Học điền" là một hình
thức khuyến học đã có từ lâu đời ở nƣớc ta. Mặc dầu ruộng đất là tài sản quý
giá và lớn nhất, nhƣng nhiều làng xã ở nông thôn đã tự nguyện dành một số
ruộng đất làm "học điền" để khuyến khích sự học.
Bia Văn chỉ xã Văn Trƣng và Vĩnh Trƣng, tỉnh Vĩnh Phúc đã ghi "Nhà
học là nơi nuôi dưỡng nhân tài; học điền là để tôn sùng đạo thầy. Khơng học
khơng mở mang trí tuệ. Khơng có ruộng khơng có gì để ni dưỡng nho sinh.
Nay góp 4 mẫu, 7 sào, 5 thước làm ruộng học điền, trong đó để 3 sào làm học
xá". Câu đối chữ Nôm ở cổng làng Mộ Trạch thời xƣa thuộc tỉnh Hải Dƣơng)
đã ghi: "Nên thợ, nên thầy nhờ có học. No cơm, ấm áo bởi hay làm". Trong
dân gian, dân ta còn dùng những câu ca dao dễ thuộc, dễ nhớ, thấm sâu vào
lòng ngƣời từ già đến trẻ để khuyến khích sự học, đồng thời cũng là đạo lý về
tơn sƣ trọng đạo: "Muốn sang thì bắc cầu kiều. Muốn con hay chữ thì yêu quý
thầy".
Nhƣ vậy, khái niệm “khuyến học” đƣợc hình thành từ lịch sử phát triển
của nền văn hiến quốc gia dân tộc, đã trở thành một nét đẹp truyền thống của
ngƣời Việt Nam. Bắt nguồn từ truyền thống lịch sử đó, ngày nay phong trào
khuyến học khuyến tài đã ra đời và trở thành một phong trào xã hội rộng rãi,
phong trào này đƣợc Đảng, Nhà nƣớc và toàn dân quan tâm, chăm lo phát
triển.
Khuyến học trƣớc đây tuy có nhiều hình thức phong phú, nhƣng vẫn có
tính chất tự phát nên khơng phát triển liên tục và sâu rộng. Chỉ từ sau Cách



24

mạng tháng 8/1945, có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Hồ Chủ tịch, Đảng
và Nhà nƣớc, nhất là từ khi tổ chức Hội khuyến học Việt Nam ra đời, hoạt
động khuyến học mới có tính chất tự giác, mới có thời cơ và điều kiện để tất
cả mọi ngƣời từ trẻ đến già thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của mình là học
tập, cả nƣớc trở thành một xã hội học tập.
Tƣ tƣởng xây dựng xã hội học tập và đẩy mạnh hoạt động khuyến học
thể hiện trình độ tƣ duy về giáo dục đào tạo ngang tầm thời đại, nêu lên yêu
cầu mới đối với sự nghiệp đào tạo con ngƣời cho chủ nghĩa xã hội trong thời
kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, tiến tới phát triển nền kinh tế tri
thức.
“Khuyến học” hiểu một cách giản lƣợc là khuyến khích việc học. Sổ
tay Khuyến học của Hội Khuyến học Việt Nam xuất bản tháng 8 năm 2006
giải nghĩa về khái niệm “khuyến học” nhƣ sau:
Khuyến học là sự khuyên bảo, hƣớng dẫn, khích lệ, giúp đỡ của
các tổ chức và cá nhân để ngƣời ta nhận thức đƣợc tầm quan
trọng của việc học, từ đó nghe theo, làm theo, cùng nhau thúc
đẩy học tập và vận động các nguồn lực để tạo cơ hội và điều kiện
cho mọi ngƣời đƣợc học và tự học: học thƣờng xuyên, học suốt
đời; học chữ, học nghề, học làm ngƣời; học để biết, để làm việc,
để làm ngƣời, để chung sống và phát triển ở cộng đồng, góp phần
xây dựng cả nƣớc trở thành một xã hội học tập [ 60, tr.1].
Bản chất của khuyến học là nâng cao dân trí, mục tiêu của khuyến học
là tổ chức các hoạt động nhằm làm tốt hơn công tác giáo dục, góp phần đào
tạo nhân lực, bồi dƣỡng nhân tài.
- Khái niệm “ Phong trào khuyến học”
Trƣớc hết chúng ta cần hiểu nghĩa của từ “phong trào”. “Phong trào” là
một hoạt động xã hội rộng rãi thuộc một lĩnh vực nào đó (chính trị, văn hóa,

xã hội…) đƣợc đơng đảo quần chúng nhân dân tham gia.


25

Nhƣ vậy, phong trào khuyến học là hoạt động xã hội rộng rãi về lĩnh
vực khuyến học, đƣợc đông đảo quần chúng nhân dân hƣởng ứng và tham gia.
Chúng ta thƣờng gặp các cụm từ nhƣ “phong trào khuyến học”, “phong
trào khuyến học khuyến tài”. Hai cụm từ “khuyến học” và “khuyến tài”
thƣờng đi liền với nhau, vì chúng liên quan chặt chẽ với nhau. Khái niệm
“khuyến học khuyến tài” có ý nghĩa rộng hơn khái niệm “khuyến học”.
“Khuyến học” có nghĩa là khuyến khích phát triển việc học tập; “khuyến tài”
nghĩa là khuyến khích phát triển tài năng. “Phong trào khuyến học” là một
hoạt động xã hội rộng rãi nhằm khuyến khích việc học tập. “Phong trào
khuyến học khuyến tài” có ý nghĩa rộng hơn, đó là một hoạt động xã hội rộng
rãi nhằm khuyến khích phát triển học tập, phát triển tài năng, đƣợc đông đảo
quần chúng nhân dân tham gia.
Tuy nhiên, theo nghĩa Hán Việt, chữ “tài” ngồi nghĩa “tài năng” cịn
có nghĩa là “tiền”, “của cải”, nên có ngƣời hiểu “khuyến tài” theo nghĩa huy
động, vận động tiền bạc, của cải để hỗ trợ học tập. Hiểu theo nghĩa này, có
ngƣời cho rằng việc thành lập Quỹ khuyến học để hỗ trợ tài chính cho việc
học đƣợc cho là một hình thức “khuyến tài”.
Theo tác giả luận văn, nên hiểu nghĩa của từ “khuyến tài” là khuyến
khích phát triển tài năng. Vì nếu hiểu từ “khuyến tài” theo nghĩa vận động tài
chính, thì ngƣời ta có thể vận động tài chính cho nhiều mục đích khác nhau
chứ khơng riêng gì lĩnh vực khuyến học. Chẳng hạn: hỗ trợ ngƣời nghèo,
ngƣời tàn tật, nạn nhân chất độc da cam, hỗ trợ bảo vệ môi trƣờng, tổ chức
các hoạt động vì cộng đồng…
Nhƣ vậy, nếu đặt từ “khuyến học” bên cạnh từ “khuyến tài” thì ý nghĩa
của chúng sẽ bị tách rời hồn tồn. Cịn nếu hiểu nghĩa “ khuyến tài” là

khuyến khích phát triển tài năng thì cụm từ “khuyến học” đặt bên cạnh từ
“khuyến tài” sẽ có ý nghĩa tƣơng hỗ, “khuyến học” là hoạt động hỗ trợ học
tập nhằm mục đích nâng cao dân trí, còn “khuyến tài” là sau bƣớc hỗ trợ nâng


×