Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Nâng cao chất lượng cán bộ, công chức phường quận cầu giấy, thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (633.76 KB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN MINH CƯỜNG

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC PHƯỜNG - QUẬN CẦU GIẤY,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY

Ngành: Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước
Mã số : 60310203

LUẬN VĂN THẠC SĨ
XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS, TS. Hồng Đình Cúc

HÀ NỘI - 2013


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÔNG CHỨC PHƯỜNG............... 8
1.1. Quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và Đảng cộng sản Việt Nam về cán bộ, cán bộ cấp cơ sở và


công tác xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở........................................ 8
1.2. Cán bộ công chức phường và tiêu chuẩn đội ngũ cán bộ công
chức phường ..................................................................................... 15
1.3. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức phường .................................. 31
Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
PHƯỜNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẦU GIẤY HIỆN NAY ................ 37
2.1. Tổng quan về quận Cầu Giấy............................................................. 37
2.2. Đội ngũ cán bộ, công chức phường trên địa bàn quận Cầu Giấy........ 41
2.3. Đánh giá về chất lượng cán bộ, công chức phường trên địa bàn
quận Cầu Giấy .................................................................................. 50
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
NHẰM XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÔNG CHỨC PHƯỜNG
Ở QUẬN CẦU GIẤY (HÀ NỘI) HIỆN NAY ........................................... 58
3.1. Phương hướng xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt Phường ở Quận
Cầu Giấy (Hà Nội) ............................................................................ 58
3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
Phường ở Quận Cầu Giấy hiện nay ................................................... 65
KẾT LUẬN................................................................................................. 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 81


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CBCC

Cán bộ, công chức.

CBCT

Cán bộ chuyên trách


HĐND

Hội đồng nhân dân

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang
Bảng 2.1.

Số lượng CBCC phường trên địa bàn quận Cầu Giấy
theo độ tuổi

Bảng 2.2.

Trình độ chun mơn của CBCC phường trên địa bàn
quận Cầu Giấy

Bảng 2.3.

44


Đội ngũ CBNCC phường trên địa bàn quận Cầu Giấy
theo trình độ lý luận chính trị

Bảng 2.4.

42

46

Kết quả đào tạo, bồi dưỡng CBCC phường trên địa bàn
quận Cầu Giấy trong năm 2010-2011

48


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trị quan trọng trong việc bảo đảm
thành công của bất kỳ tổ chức nào, cả doanh nghiệp lẫn cơ quan nhà nước.
Chính vì vậy, đào tạo và phát triển nhân lực, với mục tiêu cung cấp, duy trì và
phát triển năng lực làm việc cho nhân viên, là hoạt động cần thiết đối với mọi
tổ chức nói chung và cơ quan nhà nước nói riêng.
Cải cách hành chính đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là trọng
tâm của q trình xây dựng và hồn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, trong điều kiện quyết định thành công của công cuộc đổi mới. Hội nghị
lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá VII)
ngày 23 tháng 01 năm 1995 đã khẳng định “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện

Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính nhà nước”.
Cải cách hành chính muốn thành cơng phải được tiến hành một cách
đồng bộ trên tất cả các mặt của nền hành chính nhà nước, cụ thể trên các nội
dung: cải cách thể chế hành chính nhà nước, cải cách tổ chức bộ máy hành
chính nhà nước, xây dựng đội ngũ CBCC trong sạch, vững mạnh về chuyên
môn nghiệp vụ và cải cách tài chính cơng. Trong đó, nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức được xác định là một nội dung trọng tâm, xuyên suốt
trong toàn bộ hoạt động cải cách. Mọi hoạt động của bất kỳ một tổ chức nào
nói chung và các cơ quan nhà nước nói riêng đều phần lớn do chất lượng nhân
sự quyết định vì mọi mục tiêu của tổ chức chỉ có thể đạt được thông qua hoạt
động của đội ngũ này. Chính vì vậy, nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng các yêu cầu của công cuộc đổi
mới và cải cách hành chính hiện nay là một yêu cầu cấp thiết.


2

Phường là cấp gần dân nhất, là nơi trực tiếp liên hệ với người dân, giải
quyết các nhu cầu hàng ngày của người dân và cũng là cấp thể hiện rõ ràng
nhất bản chất nhà nước “của dân, do dân và vì dân” trong hệ thống chính
quyền 4 cấp của nước ta. Thực tiễn cải cách hành chính những năm gần đây
cho thấy, vai trò của đội ngũ cán bộ, cơng chức phường đóng vai trị đặc biệt
quan trọng, quyết định tới hiệu lực và hiệu quả triển khai các chủ trương của
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước tới nhân dân. Vì vậy, nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức phường là một trong những yêu cầu cấp
thiết, là tiền đề để thực hiện thành cơng cơng cuộc cải cách hành chính nhà
nước, góp phần vào việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Thực tiễn chỉ ra rằng, trong giai đoạn vừa qua, được sự quan tâm của

Đảng và Nhà nước, chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức phường đã đạt
được những tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập cịn tồn tại, cần
phải giải quyết. Chính vì vậy, nghiên cứu về các giải pháp nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức nói chung và đội ngũ cán bộ, cơng chức
phường nói riêng vẫn là u cầu cấp thiết của cải cách hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài
Chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức nói chung và chất lượng đội
ngũ cán bộ, cơng chức phường nói riêng khơng phải là vấn đề nghiên cứu
mới. Trong những năm gần đây, các nghiên cứu về lĩnh vực nâng cao chất
lượng đội ngũ nhân sự trong các cơ quan nhà nước đã được quan tâm triển
khai ở nhiều cấp độ, từ giác độ lý luận tới các nghiên cứu thực tiễn trên
phạm vi thực tiễn cũng như trên các địa bản cụ thể. Có thể nêu ra một số
nghiên cứu chủ yếu sau:


3

- Đề tài KX01-BT.03 năm 1998 của Ban Tổ chức Trung ương “ Điều tra
thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị”.
- Đề tài KHBĐ(2004)-09 về nâng cao phẩm chất, năng lực của người
cán bộ đứng đầu tổ chức Đảng và chính quyền cấp cơ sở theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương Năm khóa IX.
- Đặng Khắc Ánh (2007): Phát triển nguồn nhân lực công vụ qua đào
tạo và bồi dưỡng (Luận án Tiến sĩ Hành chính cơng tại Đại học Khoa học
Hành chính Đức Speyer). NXB Peter Lang, Frankfurt, Germany.
- Nguyễn Trọng Điều: “Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính
quyền cơ sở góp phần thúc đẩy cơng cuộc cải cách hành chính” (tạp chí Tổ
chức Nhà nước, số 4/2001);
- Ngơ Thành Can: “Những yêu cầu cải cách công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, cơng chức” (tạp chí Tổ chức Nhà nước số 5/2007);

- Thang Văn Phúc: “Những định hướng đổi mới công tác đào tạo, bồi
dưỡng công chức nhà nước theo yêu cầu cải cách hành chính tổng thể (2001
– 2010)” (tạp chí Tổ chức Nhà nước số 9/2003).
- Thang Văn Phúc/Chu Văn Thành (2000): “Công chức phường và
quản lý nhà nước phường”. NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Bùi Tiến Quý: Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động của chính
quyền địa phương trong giai đoạn hiện nay . NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2000.
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
X về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và
chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
- Một số công trình nghiên cứu liên quan đến cơng tác cán bộ của Đảng
cũng đề cập đến việc chuẩn hóa các chức danh cán bộ:


4

+ Sách “Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt
trong hệ thống chính trị đổi mới”, PGS.TS. Trần Xuân Sầm chủ biên, 1998.
Trong sách trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xác định tiêu chuẩn
cán bộ; thực trạng việc thực hiện tiêu chuẩn đối với đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị; xác định tiêu chuẩn cán bộ trong
những năm tới và phương hướng, giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ theo
tiêu chuẩn xác định.
+ Sách “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”,
PGS.TS. Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS. Trần Xuân Sầm chủ biên, 2003.
Nội dung đề cập đến cơ sở lý luận của việc sử dụng tiêu chuẩn cán bộ trong
công tác cán bộ; những kinh nghiệm xây dựng tiêu chuẩn cán bộ của Đảng
phù hợp với từng giai đoạn cách mạng; những quan điểm, phương hướng

chung trong việc nâng cao chất lượng công tác cán bộ, trong đó có nội dung
về “tiêu chuẩn hóa cán bộ”.
+ Tài liệu bồi dưỡng lý luận và nghiệp vụ công tác tổ chức, cán bộ. Tài
liệu lưu hành nội bộ do Ban Tổ chức Trung ương phối hợp với Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh biên soạn, phần những vấn đề nghiệp vụ,
trong đó: Bài 4 - Xây dựng tiêu chuẩn cán bộ - trình bày những vấn đề chủ
yếu về xây dựng tiêu chuẩn cán bộ và quy trình xây dựng tiêu chuẩn cán bộ;
Bài 5, Bài 6 đề cập đến yêu cầu của việc sử dụng tiêu chuẩn cán bộ làm cơ sở
cho công tác đánh giá, lựa chọn, bổ nhiệm, đánh giá, điều động, luân chuyển,
đào tạo… cán bộ và Bài 9 - đổi mới và nâng cao chất lượng tổ chức chính
quyền và đội ngũ cán bộ cơ sở xã, phường, thị trấn, trong đó có phần xây
dựng đội ngũ cán bộ cơ sở.


5

Cũng đã có nhiều luận văn, luận án ở cấp độ cử nhân cũng như Thạc
sĩ ở Học viện Hành chính và Học viện Báo chí và Tun truyền có liên
quan tới đề tài này và được tác giả sử dụng để làm nguồn tài liệu tham
khảo trong quá trình thực hiện nghiên cứu. Tuy nhiên, vẫn chưa có nghiên
cứu ở mức độ tổng quát để đề xuất các giải pháp tổng thể nâng cao chất
lượng cán bộ, công chức phường, đặc biệt là các nghiên cứu về vấn đề này
trên địa bàn quận Cầu Giấy phục vụ cho công cuộc cải cách hành chính của
quận hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cung cấp một cái nhìn tổng quan về thực trạng chất lượng
đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở (phường) trên địa bàn quận Cầu Giấy
(thành phố Hà Nội) để từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng cán bộ, cơng chức nói chung và chất lượng cán bộ, cơng chức của quận
Cầu Giấy nói riêng trong bối cảnh đẩy mạnh cải cách hành chính hiện nay.

Để thực hiện mục tiêu đó, nghiên cứu xác định các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Hệ thống hóa lý thuyết về cán bộ, công chức và năng lực của cán bộ,
công chức;
- Phân tích vai trị của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng
chức nói chung và cán bộ, cơng chức phường nói riêng đáp ứng địi hỏi của
cải cách hành chính;
- Phân tích thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức phường trên địa bàn
quận Cầu Giấy hiện nay;
- Đưa ra các đề xuất nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng
chức phường nói chung và đội ngũ cán bộ, công chức phường quận Cầu Giấy
trong thời gian tới.


6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ công chức phường quận Cầu Giấy
không tách rời hệ thống cán bộ của Đảng, của thành phố Hà Nội, của quận
Cầu Giấy.
Luận văn tập trung nghiên cứu khảo sát công tác xây dựng cán bộ công
chức phường ở quận Cầu Giấy gắn chặt với điều kiện kinh tế xã hội những nét
đặc thù của quận Cầu Giấy.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu:
Nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và cải cách hành chính nhà nước
trong thời kỳ đổi mới.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể

Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, trong nghiên cứu tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp
nghiên cứu cụ thể như:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu tại chỗ (desk study);
- Phương pháp thống kê;
- Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu,....
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Những kết quả nghiên cứu của đề tài nhằm góp phần làm sáng tỏ những
vấn đề chung về phường và đội ngũ cán bộ, công chức phường, những yếu tố


7

xác định chất lượng CBCC phường; phân tích những đặc điểm của đội ngũ
CBCC phường trên địa bàn quận Cầu Giấy và chỉ ra những mặt còn hạn chế
về năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức phường của quận Cầu Giấy, để
qua đó đề xuất các giải pháp góp phần tăng cường chất lượng đội ngũ cán bộ,
cơng chức phường trên địa bàn quận Cầu Giấy trong giai đoạn tới.
7. Đóng góp mới của luận văn
Ngồi ra, sản phẩm của nghiên cứu có thể sử dụng để làm tài liệu
tham khảo cho hoạt động giảng dạy và học tập trong lĩnh vực khoa học
hành chính và lập kế hoạch phát triển đội ngũ cán bộ, công chức phường
của quận Cầu Giấy.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 8 tiết, 80 trang


8


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÔNG CHỨC PHƯỜNG
1.1. Quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam về cán bộ, cán bộ cấp cơ sở và
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở
1.1.1 Quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lê nin về cán bộ, cán
bộ cấp cơ sở và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở
“Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có nhưng con người sử dụng lực
lương thực tiễn”. Năm 1844, ngay khi bắt đầu nghiên cứu triết học, Các Mác
đã khẳng định tư tưởng trên. Với tư tưởng là con người hoạt động – con người
sử dụng lực lượng thực tiễn là gạch nỗi tất yếu giữa tư tưởng và hiện thực, là
nhân tố tiên quyết hiện thực hóa mọi tư duy. Điều đó đúng cho mọi lĩnh vực
hoạt động, nghành nghề, ở mọi cấp độ, góc độ. Khơng có những “con người
sử dụng lực lượng thực tiễn” để chuyển hóa tư duy thành hành động, mọi tư
tưởng lớn lao cùng lắm cũng chỉ vĩ đại trên trang giấy. Chính trị khơng nằm
ngồi quy luật đó. Thậm chí, xuất phát từ vai trị đặc biệt trong đời sống xã
hội, sự thành bại của sự nghiệp chính trị theo nghĩa rộng cịn tác động trực
tiếp và quyết định đến những vận động, sự hưng vong của một xã hội, một
dân tộc, một đất nước. Cho nên, mối liên hệ, chuyển hóa giữa tư tưởng và
hiện thực trong lĩnh vực này càng đặt ra vấn đề sống còn về “những con
người sử dụng lực lượng thực tiễn”.
“Những con người sử dụng lực lượng thực tiễn” pử đây, theo nghĩa
rộng nhất, cần được hiểu là con người – hành động tham gia vào các quá
trình hoạt động vật chất hiện thực của xã hội. Với nghĩa đó, “những người


9

sử dụng lực lượng thực tiễn” không chỏ là cán bộ, nhưng bao hàm đội ngũ

“cán bộ”. Thậm chí, cán bộ được coi là lực lượng chủ chốt, bởi cán bộ là
“cái khung, sườn” (carde) theo nghĩa gốc tiếng Anh, Pháp – “bộ phận nịng
cốt” trong các q trình hoạt động xã hội. Trong quan niệm của người Việt
Nam, danh xưng “ cán bộ” có ý nghĩa cao đẹp, đó là mốt lớp người tiên
phong, sẵn sàng chịu đựng mọi gian khó, hi sinh cho cách mạng, phấn đấu vì
lợi ích của nhân dân và dân tộc; là những người lãnh đạo và tổ chức các
phong trào cách mạng đấu tranh bảo vệ tổ quốc và xây dựng đất nước. Như
vậy, có thể nói trong mọi trường hợp “ cán bộ” chính là lực lượng chủ chốt
trong đội ngũ những người sử dụng lực lượng thực tiễn” để hiện thực hóa
các tư tưởng, tổ chức thực hiện ý tưởng trong cuộc sống. Trong lĩnh vực
hoạt động chính trị, “ cán bộ là những người “ đứng mũi chịu sào” trong việc
hoạch đinh, thực thi các chính sách, quyết định khơng chỉ của riêng lĩnh vực
hoạt động chuyên ngành, mà hơn ai hết, họ là những người đầu tiên chịu
trách nhiệm về sự phát triển của xã hội.
Thời kì Mác – Ăng ghen, thực tiễn phong trào công nhân và lý luận
cách mạng đang ở giai đoạn đầu của quá trình hình thành và phát triển. Do đó
các ơng chủ tập trung chủ yếu vào những vấn đề căn bản của cách mạng: lý
luận về mâu thuẫn đấu tranh giai cấp; sứ mệnh của giai cấp công nhân…nhằm
xây dựng và xác lập hệ tư tưởng vô sản trong phong trào công nhân, chuẩn bị
tiền đề cho sự ra đời của Đảng cộng sản và Quốc tế cộng sản. Về mặt thực
tiễn các ông mơi chủ yếu bàn về một số nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt
dộng của các đảng cộng sản, về tiêu chuẩn người đảng viên cộng sản mà chưa
đề cập sâu sắc đến vai trò người cán bộ cách mạng. Tuy nhiên, có thể nói, tư
tưởng bao trùm về “những người sử dụng lực lượng thực tiễn” đã thực sự
phản ánh thỏa đáng và tổng quát vị trí, vai trị của con người hoạt động, đặc


10

biệt là của tầng lớp cán bộ đối với các phong trào thực tiễ. Hơn nữa, các ông

cũng thường xuyên thể hiện nhận thức rõ ràng và nghiêm túc về lực lượng
chủ cơng của cách mạng.
Đến thời kì Lênin, phong trào vô sản đã phát triển đến giai đoạn mới:
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản và xây dựng xã hội của
giai cấp công nhân bước vào giai đoạn hiện thực. Lúc này, cách mạng đã
vượt qua thời kỳ lý luận về mâu thuẫn giai cấp, sứ mệnh giai cấp, mà công
cuộc “thực hiện tư tưởng” đã nhanh chóng và khẩn thiết đặt ra nhu cầu xây
dựng “ những con người sử dụng lực lượng thực tiễn” để đảm đương sứ
mệnh “ biến tướng thành hiện thực”.
Tổng kết các phong trào thực tiễn, Lênin khẳng định: “ Không một
phong trào cách mạng nào mà lại vững chắc được nếu khơng có một tổ chức
ổn định và duy trì được tính liên tục gồm những người lãnh đạo”. Đối với
Lênin, “nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh” là “then chốt”.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam về cán bộ,
cán bộ cấp cơ sở và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở
Chủ tịch Hồ Chí Minh – lãnh tụ của cách mạng Việt Nam cũng nhiều
lần khẳng định “ cán bộ là cái gốc của công việc”. Tư tưởng này được trở đi,
trở lại nhiều lần dưới nhiều hình thức khác nhau. Người coi cán bộ là tiền vốn
của Đảng: “ có vốn mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách cơng tác gì nếu cán bộ
tơt thì thành cơng, tức là có lãi. Khơng có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ
vốn”…coi cán bộ là gốc, là vốn, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy cán bộ
khơng chỉ là một lực lượng chủ đạo , chủ công, tiên phong của cách mạng, tổ
chức thực hiện các phong trào cách mạng và chịu trách nhiệm về sự thành bại
của cách mạng.


11

Những đánh giá của các nhà lãnh tụ của phong trào vô sản ở những
giai đoạn khác nhau cho thấy cách mạng càng đi vào hiện thực thì vấn đề “

những con người sử dụng lực lượng thực tiễn” càng trở nên rõ ràng và cấp
thiết. Từ những con người sử dụng lực lượng cách mạng thực tiễn trong
quá trình quy luật tổng quát; đến những “ người cộng sản” hiểu rõ những
điều kiện, tiến trình và kết quả của phong trào và lãnh đạo phong trào;
những “ cán bộ có bản lĩnh” thực hiện những mệnh lệnh và quyết định;
những “ người đem chính sách của Chính phủ, của đoàn thể thi hành trong
dân”, cầu nối giữa đảng , nhà nước với nhân dân; cội nguồn, gốc rễ của
cách mạng…
Cách diễn đạt khác nhau, sự so sánh khác nhau, nhưng có thể thấy tư duy
của các vị lãnh tụ cao nhất của phong trào vô sản tiêu biểu của thế giời cận đại
và hiện đại về đội ngũ cán bộ cách mạng đều hội tụ ở sự coi trọng đặc biệt.
Xuất phát từ ý nghĩa thực hiện và tất yếu của người cán bộ đối với thực
tiễn phong trào cách mạng, thực tiễn hoạt động của xã hội, công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ tự thân nó đã là một công tác ở tầm chiến lược, và trên thực tế,
công tác này cũng luôn được các nhà lãnh tụ, các đảng cách mạng và đặt ở
tầm chiến lược.
Những người trải nghiệm qua thực tiễn cách mạng và trực tiếp xây
dựng lãnh đạo phong trào đều luôn đặc biệt quan tâm đến công tác cán bộ như
vậy. Chủ tịch Hồ Chí Minh – người sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam đã
quan tâm đến điều này ngay từ những ngày đầu tiên gây dựng phong trào cách
mạng. Người trực tiếp đứng ra tập hợp, rèn luyện, đào tạo nên lớp cán bộ đầu
tiên của Đảng và khẳng định từ sớm: “ huấn luyện cán bộ là công việc gốc
của Đảng”. Người đặt công tác cán bộ trong công tác quan trọng nhất của quá
trình “ biến tư tưởng thành hiện thực”. “ Khi đã có chính sách đúng, thì sự


12

thành cơng hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc,
nơi lựa chọn cán bộ và nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài thì chính sách đúng

mấy cũng vơ ích”. Đặc biệt đội ngũ cán bộ ở cơ sở được Người rất coi trọng “
phường là người gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng của hành chính. Phường
làm được việc thì mọi công việc đều xong xuôi”.
Mọi vận động của xã hội, mọi cuộc cách mạng đều yêu cầu trước tiên
một lực lượng cán bộ ưu tú. Để cống hiến cho sự nghiệp địi hỏi khơng chỉ sự
tiên phong, năng nổ trong nhận thức, hành động; mà còn đòi hỏi và trước hết
là địi hỏi sự sẵn sàng hy sinh vì lợi ích của đất nước, của nhân dân.
Xây dựng đội ngũ cán bộ trước hết phải đào tạo, bồi dưỡng lý luận
chính trị. Người phân tích lý luận là do kinh nghiệm cách mạng trong nước và
thế giới được tổng kết, khái quát thành những bài học, quy luật. Lý luận là
kim chỉ nam cho hành động, là điều kiện tiên quyết để đảm bảo thành công
của hành động thực tiễn: “Có kinh nghiệm mà khơng có lý luận, cũng như
một mắt sáng, một mắt mờ”, “Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì thành
thực tiễn mù quáng”, Đường cách mệnh – cuốn giáo trình cách mạng đầu tiên
do chính Người biên soạn được bắt đầu bằng luận điểm nổi tiếng của Lê-nin:
“khơng có lý luận cách mệnh, thì khơng có cách mệnh vận động … Chỉ có lý
luận cách mệnh tiên phong, đảng cách mệnh mới mới làm nổi trách nhiệm
cách mệnh tiên phong” ……
Mà nhằm làm thế nào cho cơng tác của các đồng chí tốt hơn”. Người
cán bộ của Đảng muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình thì bên cạnh kiến
thức lý luận cịn cần phải có kiến thức văn hóa, lịch sử, chun mơn. Đó là
những nền tảng thực tế khơng thể thiếu để cùng với giác ngộ lý tưởng cách
mạng, người cán bộ hiểu dân tộc, đất nước, nhân dân mình, hiểu bản thân
mình – chính là “biết mình, biết người, trăm trận trăm thắng”.


13

Thực tế cịn là thực tế địi hỏi của cơng tác. “Huấn luyện cán bộ là cốt
để cung cấp cán bộ cho các nghành cơng tác: Đồn thể (lúc bấy giờ là Đảng –

TG), Mặt trận, Chính quyền, Quân đội. Các nghành công tác như là người tiêu
thụ hàng. Ban huấn luyện như là người làm ra hàng. Làm ra hàng phải đúng
với nhu cầu của người tiêu thụ> Nếu người ta cần nhiều xe mà mình làm ra
nhiều bình tích thì hàng ế”. Vấn đề chính của việc xây dựng đội ngũ cán bộ là
cung cấp “lực lượng hành động” cho cách mạng. Vì vậy, người cán bộ phải
đáp ứng được các yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng, đáp ứng được những
cơng việc của cách mạng. Người nói: “hiểu chủ nghĩa Mác – Lê nin tức là các
mạng phân cơng cho việc gì, làm Chủ tịch nước hay nấu ăn, đều phải làm trịn
nhiệm vụ. Khơng nên đào tạo ra những con người thuộc sách làu làu, cụ Mác
nói thế này, cụ Lê nin nói thế kia, nhưng nhiệm vụ của mình được giao quét
nhà lại để cho nhà đầy rác”.
Có thể thấy, xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhiệm vụ, trách
nhiệm, mục tiêu cơ bản của công tác cán bộ của Đảng là phải xây dựng được
một đội ngũ cán bộ cách mạng có đức, có tài, thơng lý luận, giỏi thực tiễn,
thạo chun mơn. Đây khơng phải là những tiêu chí hình thức để làm “đẹp
đội ngũ”, mà là đòi hỏi của cách mạng, địi hỏi của cơng việc, là chính cơng
việc của người cán bộ. Đó có thể coi như những tiêu chí nền tảng của người
cán bộ, mục tiêu nền tảng của cơng tác cán bộ, để từ đó, Đảng ta có đội ngũ
cán bộ đủ sức gánh vác sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc,
giải phóng nhân dân.
Là người sáng lập và dìu dắt Đảng Cộng sản Việt Nam, người lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, hơn nữa – người luôn quan tâm và trực tiếp dạy
dỗ, đào tạo các thế hệ cán bộ cách mạng, những tư tưởng đó của Hồ Chí
Minh từ lâu đã thấm nhuần một cách tự nhiên trong quan điểm, đường lối,


14

thực tiễn hoạt động của Đảng ta về công tác cán bộ. Từ khi thành lập đến
nay, các văn kiện của Đảng và Nhà nước ln nói rõ vị trí, vai trò của đội

ngũ cán bộ. Đặc biệt, bước vào thời kỳ đổi mới, cùng với sự khởi dodongjj
của công cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, những bức
thúc thực tiễn càng làm bật lên tầm quan trọng của công tác cán bộ. Sự
nghiệp cách mạng của dân tộc bước sang một trang mới, công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ cũng bước sang một trang mới với những nhận thức và bài
học ngày càng sâu sắc.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã chỉ ra: “ đổi mới
đội ngũ cán bộ có nghĩa là đánh giá, lựa chọn, bố trí lại, đi đơi với đào tạo, bồi
dưỡng để có một đội ngũ cán bộ có đủ những tiêu chuẩn về phẩm chất và
năng lực lãnh đạo, quản lý, ngang tầm nhiệm vụ”.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng dã chỉ ra phương
hướng và nhiệm vụ của công tác cán bộ: “Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán
bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao, Đảng
quan tâm bồi dưỡng, đào tạo người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và
của nhân dân”. Mục tiêu của công tác cán bộ là “xây dựng đội ngũ cán bộ
đồng bộ và có chất lượng, mà nịng cốt là đội ngũ cán bộ chủ chốt các
nghành, các cấp và cơ sở, trước hết là đội ngũ cán bộ chiến lược, có đủ phẩm
chất và năng lực, bảo đảm thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ của 5 năm tới
và sự vững vàng của Đảng trước mọi khó khăn, thử thách, đồng thời tích cực
chuẩn bị cán bộ cho những năm tiếp theo”
Đến Hội nghị Trung ương lần thứ 3 ( khóa VIII), chiến lược cán bộ thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đạo hóa đất nước được xây dựng, trong
đó khẳng định: “ cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng,
gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và của chế độ, là khâu then


15

chốt trong công tác xây dựng Đảng”. Đặc biệt với nhận thức ngày càng rõ
ràng và sâu sắc về vai trị của đội ngũ cán bộ cơ sở và cơng tác xây dựng đội

ngũ cán bộ cơ sở, chiến lược cán bộ của Đảng đã xác định mục tiêu “xây
dựng đội ngũ cán bộ các cấp từ Trung ương đến cơ sở , đặc biệt là cán bộ
đứng đầu, có phẩm chất năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở
lập trường của giai cấp công nhân, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đảm
bảo sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ nhằm thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, giữ vững độc lập tự
chủ, đi lên chủ nghĩa xã hội”.
1.2. Cán bộ công chức phường và tiêu chuẩn đội ngũ cán bộ công
chức phường
1.2.1. Đặc điểm, vị trí, chức năng, vai trị của phường
Đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội của phường
Có nhiều quan điểm về phường, trong đó phổ biến có hai loại quan
điểm mang những yếu tố giao thoa, đan xen nhau là quan điểm về “phường”
gắn với hoạt động nghề nghiệp và quan điểm về “phường” từ góc độ khoa học
quản lý hành chính.
“Phường” gắn với hoạt động nghề nghiệp chỉ những nhóm mới cùng
chung một nghề tập trung lại trên một địa bàn lãnh thổ nhất định. Quan điểm
này tồn tại chủ yếu trong thời kỳ phong kiến, theo đó, phường vừa mang yếu
tố địa lý vừa mang yếu tố nghề nghiệp. Hà Nội cổ với “ 36 phố phường” là
phương ngũ truyền thống chứa đựng sự giao thoa đó.
Theo quan điểm quản lý hành chính: “Phường” là đơn vị hành chính cơ
sở ở đơ thị.
Theo dịng quan điểm này mộ số nhà nghiên cứu về chính quyền đô thị
ở Việt Nam cho rằng về mặt lịch sử thuật ngữ “phường” là thuật ngữ Hán


16

Việt được ghép từ 2 chữ “thổ” “Phương” có nghĩa là “khu đất được quy
hoạch” thuật ngữ này được sử dụng ở nước ta từ thời kỳ chống Bắc thuộc.

Tuy nhiên, chúng ta khơng có tư kiệu cụ thể về mơ hình tổ chức chính quyền
trong giai đoạn đó chỉ biết rằng, năm 1230, Nhà Trần chia Thăng Long thành
61 phường đến thời Lê Thánh Tông, những ghi chép về đơn vị hành chính
“phường” mới cụ thể và hệ thống hơn. Theo đó, “phường” là đơn vị hành
chính cơ sở đặc thù ở kinh thành. Khác với “xã” là hình thức tổ chức đơn vị
hành chính cơ sở phổ biến trong cả nước: “cả nước chia làm 13 đạo, đưới đạo
là phủ, rồi huyện, rồi châu rồi cuối cùng là xã” thì Thăng Long được gọi là
Phủ Phụng Thiên trực thuộc chính quyền Trung ương (triều đình) Và suốt đời
Lê Thánh Tông đến hết đời nhà Lê (1788) luôn luôn chỉ gồm có 2 huyện mỗi
huyện 18 phường, tức Thăng Long 36 phường. Sau này dưới thời nhà Nguyễn
có một số thay đổi trong tổ chức hành chính nhà nước. ở cấp cơ sở, cùng với
“phường” nhà Nguyễn đặt ra loại hình” thơm”, “trại”. Lúc này sự phân biệt
giữa “phường” và các loại hình đơn vị hành chính cơ sở trung ương cũng
được định hình rõ ràng hơn. “Phường” chủ yếu là cư dân thương nghiệp và
thủ công; trong khi “ thơn” có đan xen sản xuất nơng nghiệp và “trại” chủ yếu
sản xuất nông nghiệp [sđđ.tr21]. Tại Kinh đô Huế dưới thời nhà Nguyễn thì
đơn vị hành chính cơ sở đã hình thành và dần đinhk hình qua các triều đại
phong kiến và về mặt chun mơn, đã có những phân biệt cơ bản với “phường
nghề”, “phường hội”….
Đơn vị “phường” hiện nay trong hệ thống quản lý hành chính nhà nước
bốn cấp của chúng ta cũng kế thừa những nguyên tắc tổ chức cơ bản đó theo
Quyết định số 94/HĐBT của hội đồng bộ trưởng(nay là chính phủ) ngày
26.09.1981 thì phường là đơn vị hành chính cơ sở ở nội thành, nội thị, tổ chức
theo khu vực dân cư ỏ đường phố, có khoảng từ 7000 dến 12000 dân. Về


17

phân cấp tổ chức, phường tương đương với “xã”, “thị trấn” là đơn vị hành
chính cơ sở ở ngoại thành, ngoại thị, khu vực nơng thơn.

Về phân loại phường, có nhiều cách phân loại khác nhau:
- Theo đặc điểm riêng của phường, gắn với đối tượng, nội dung quản
lý, có thể chia thành 3 loại:
+ Phường ở phố cổ đã đơ thị hóa xong;
+ Phường mới chuyển từ xã sang;
+ Phường được tổ chức ở khu đô thị mới hiện đại.
- Theo đặc điểm của loại thành phố, thị xã mà phường trực thuộc, có 3 loại:
+ Thứ nhất là phường thuộc quận ở các thành phố trực thuộc Trung
ương (phường ở các quận nội thành Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố
Hồ Chí Minh, Cần Thơ).
+ Thứ hai là phường thuộc thành phố cấp 2 trực thuộc tỉnh (phường ở
thành phố Hạ Long trực thuộc tỉnh Quảng Ninh, ở thành phố Vinh thuộc tỉnh
Nghệ An, ở thành phố Huế trực thuộc tỉnh Thừa Thiên – Huế, ở thành phố
Nha Trang trực thuộc tỉnh Khánh Hòa, ở thành phố Buôn Mê Thuột trực
thuộc tỉnh Đăk Lák..)
+ Thứ ba là phường thuộc các thị xã ở các tỉnh, thành (như phường
thuộc thị xã Đồ Sơn- thành phố Hải Phòng, phường thuộc thị xã Cầu Giấytỉnh Hà Tây..).
Mỗi loại hình phường có những đặc điểm riêng biệt. Loại hình phường
ở các thành phố trực thuộc Trung ương tập trung các cơ quan đầu não của
thành phố, các cơ quan, công sở của Trung ương. Xuất phát từ các đặc điểm
đó, địa bàn của phường là nơi thường xuyên diễn ra các hoạt động chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh – quốc phòng quan trọng của Trung ương và
thành phố. Cơ sở hạn tầng tốt và hiện đại thể hiện sự đồng bộ, tính thống nhất


18

cao, có nhiều mạng lưới xun suốt địa bàn, khơng phụ thuộc và đại giới hành
chính. Trong loại hình phường này lại chia ra các phường năm trong khu vực
nội thành và khu vực ven đô. Các phường nội thành là nơi tập trung dân cư,

các trụ sở công quyền, các tụ điểm văn hóa, vui chơi; là nơi tập chung chủ yếu
các hoạt động kinh doanh và thương mại của đơ thị. Vì vậy, nhìn chung đời
sống cư dân ở các phường nội thành khá hơn ở các phường ven đơ.
Loại hình phường ở thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. Loại hình phường
này có nhiều điểm khác biệt so với loại hình phường nêu trên. Về kinh tế:
thương nghiệp tuy phát triển nhưng kinh tế đơn ngành và tiểu thủ công nghiệp
chiếm tỷ trọng lớn trong thu nhập của người dân và nguồn thu ngân sách. Một
số nơi tuy địa giới hành chính của phường lớn nhưng mật độ dan số lại ít và
phân bố khơng đồng đều. Cơ sở hạ tầng còn kém, chưa đồng bộ cần có sự dầu
tư hơn nữa của các cấp chính quyền.
Tính đa dạng này có thể nhận thấy từ sự phân biệt cấp trên trực tiếp của
phường vì chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Xuất phát từ nét đặc thù
của mỗi loại hình phường nêu trên, mỗi loại phường đều có những thuận lợi
đồng thời cũng có khó khăn riêng đối với chính quyền cấp ủy Đảng trong việc
thực hiên thắng lợi các mục tiêu kinh tế- xã hơi ở địa phương. Sự đa dạng của
các loại hình phường quy định tính đa dạng và linh hoạt trong hoạt động thực
tiễn và yêu cầu công việc đặc thù của đội ngũ cán bộ ở từng loại hình phường.
Ví dụ như các phường ơ thành phố lớn ln địi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo
có năng lực quản lý đất đai, quản lý thị trường, quản lý đô thị, kiến thức pháp
luật, và tính nhanh nhạy trong xử lý cơng việc thực tiễn; cịn các phường ở
các thị xã, thành phố mới chuyển đổi còn nhiều yếu tố nơng nghiệp lại địi hỏi
đội ngũ cán bộ lãnh đạo có khả năng dân vận, kiến thức khuyến nơng, kiến
thức quy hoạch đơ thị… Đặc biệt có những phường với đặc điểm là phường


19

giáp biên (như một số phường ở thành phố Lào Cai- tỉnh Lào Cai, phường
thuộc thành phố Móng Cái- tỉnh Quảng Ninh…), người cán bộ lãnh đạo
phường ngoài các yêu cầu trên cịn đỏi hỏi phải có kỹ năng quản lý biên mậu,

đối ngoại, tiếng địa phương…
Sự đa dạng cũng cho thấy một điều khơng thể có một quyết định khuôn
mẫu về công tác cán bộ cho tất cả các loại hình phường, nếu muốn đạt tới một
giá trị cụ thể và thực tế nào đó. Vì vậy đề tài này xác định ngay từ đầu giới
hạn nghiên cứu của mình là cơng tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở các
phường thuộc các thành phố lớn trực thuộc Trung ương cso bề dày đô thị như:
Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phịng, Đà Nẵng. Đây là những phường
có tình đơ thị cao, kinh tế hàng hóa phát triển năng động cùng với nhiều đặc
điểm văn hóa, xã hội kéo theo. Việc giới thiệu phạm vi này giúp những
nghiên cứu được thực hiện tập trung và cụ thể hơn, do đó có thể đạt tới tính
sát thực và khả thi hơn. Tuy nhiên, trên thực tế, giới hạn này chỉ có ý nghĩa
trong nghiên cứu khao học, cịn về mặt thực tiễn, tác dụng của nó khơng nằm
trong phạm vi hành chính được xác định đó, mà cịn áp dụng được đối với
một số lượng khơng nhỏ các phường tuy không nằm tại các thành phố trực
thuộc Trung ương nhưng cũng có những đặc điểm tương tự: kinh tế cơng
nghiệp- dịch vụ năng động, tính đơ thị cao, độ giao lưu kinh tế- văn hóa- xã
hơi lớn như các phường ở thành phố Hạ Long, Huế, Nha Trang, Vũng Tàu,
Biên Hịa… Vì vậy, các vấn đề thực tiễn phân thích dưới đây đều tuân theo
giới hạn nghiên cứu đó.
Với tư cách là cấp hành chính cơ sở (tương đương với xã, thị trấn ở khu
vực nông thôn), về chức năng nhiệm vụ, phường là cấp hành chính, là cầu nói
trực tiếp giữa hệ thống chính trị với nhân dân, hàng ngày tiếp xúc, nắm bắt và
phản ánh những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; tổ chức và vận động nhân


20

dân thực hiện đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước; tăng cường đại
địng kết tồn dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
tổ chức cuộc sống dân cư; đông thời về mặt tổ chức phường cũng là cấp có bộ

máy đơn giản nhất trong hệ thống chính trị.
Như vậy, phường cùng là cấp cơ sở như xã và thị trấn. Tuy nhiên, so
với hai lọa hình đơn vị hành chính cơ sở đó, phường có một số đạc điểm đặc
thù sau:
Về vị trí hành chính: phường nằm trong đơ thị. Đơ thị là trung tâm
chính trị, hành chính, kinh tế, văn hóa, xã hội; là hạt nhân và động lực thúc
đẩy sự phát triển của địa phương, tỉnh, thành phố.
Về kinh tế: kinh tế ở phường là kinh tế đa ngành, chủ yếu là kinh tế
hàng hóa phi nơng nghiệp, tập trung trong các lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, thương mại, dịch vụ. Các thành phần kinh tế cũng hết sưc đa
dạng với sự có mặt của các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân,
các công ty liên doanh, cơng ty cổ phần, các văn phịng đại diện của các
cơng ty trong nước và ngồi nước… Đặc trưng này thể hiện rõ nét ở các
thành phố lớn có bề dày truyền thống: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải
Phịng, Đà Nẵng. Đó cũng là đặc thù của các thành phố công nghiệp- dịch vụ
mới: Hạ Long, Nha Trang, Vũng Tàu, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Cần Thơ…
Còn một bộ phận phường mới chuyển đổi từ xã trong q trình đơ thị hóa,
nhất là của các thành phố, thị xã mới được nâng cấp thì vẫn cịn duy trì một
bộ phận dân cư sản xuất nơng nghiệp. Ở đó, về mặt đời sống dân cư, có sự
tồn tại đan xen của tập quán, lối sống nông nghiệp và cơng nghiệp, chưa có
tính phức tạp và biến động cao.
Về dân cư: Mật độ dân số ở phường thường cao, thành phần dân cư đa
dạng, phức tạp, nhiểu biến động, nguồn gốc không thuần nhất; tập quán và lối


21

sống khác nhau, nhu cầu của đời sống vật chất và tinh thần rất phong phú và
đa dạng. Có phường tập trung nhiều cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước
(ví dụ: Phường Liễu Giai- Quận Ba Đình, Phường Phạm Đình Hổ, Nguyễn

Du- Quận Hai Bà Trưng, Hà Nơi…). Có phường tập trung nhiều dân cư buôn
bán, kinh doanh, tiểu thương (một số phường thuộc Quận Hồn Kiếm- Hà
Nội). Có phường là nơi cư trú tạm thời của nhiều thành phần dân cư có tính
chất khơng ổn định (Phường Phúc Xá, Phúc Tân, Khâm Thiên, Trung Phụng,
Thanh Nhàn- Hà Nội…). Có phường tập trung nhiều sinh viên, học sinh
(Phường Mai Dịch, Bách Khoa, Thanh Xuân- Hà Nội,…). Bên cạnh đó là sự
phân tầng mạnh mẽ về đời sống của các tầng lớp dân cư. Sự phức tạp và đa
dạng đó ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động của bộ máy hành chính phường,
nó tạo nên tính đặc thù của từng phường, kể cả trong cùng một thành phố
trong hoạt động thực tiễn của mình.
Về địa giới hành chính: do tính phức tạp và đa dạng nêu trên, phường
chỉ thực sự có ý nghĩa trong quản lý hành chính nhà nước, mỗi lĩnh vực hoạt
động khác hầu như khơng có sự phân biệt địa giới hành chính.
Rõ ràng, chúng ta thấy tính động và mở về mặt đời sống kinh tế, văn
hóa, xã hội…của phường là rất lớn. Đây là điều phân biệt rất rõ phường với
xã, thị trấn, nơi các hoạt động kinh tế, văn hóa, sinh hoạt của các tầng lớp
dân cư còn tương đối tập trung, ổn định, thuần nhất và tĩnh. Sự tương đối tập
trung, thuần nhất đó của xã là một yếu tố để các cơ quan quản lý nhà nước
xã hội tại đây có chức năng tổ chức hoạt động quản lý trên mọi mặt của đời
sống xã hội một cách tương đối toàn diện, từ định hướng phát triển kinh tế
đến giáo dục, từ quản lý hành chính đến chăm lo đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân…


×