Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Văn hóa truyền thông trên báo in hiện nay (khảo sát báo tuổi trẻ, đời sống pháp luật và báo năng lượng mới)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (887.12 KB, 132 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUN TRUYỀN

LÊ HÀ THANH NGỌC

VĂN HỐ TRUYỀN THƠNG
TRÊN BÁO IN HIỆN NAY
(Khảo sát báo Tuổi trẻ, Đời sống Pháp luật và báo Năng lượng Mới)

Ngành: Báo chí học
Mã số: 60 32 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Nguyễn Trí Nhiệm

HÀ NỘI - 2012


2

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tôi, dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS Nguyễn Trí Nhiệm. Các số liệu thống kê, kết quả
nghiên cứu, phát hiện mới là trung thực, chưa từng được cơng bố trong bất kỳ
cơng trình nghiên cứu khoa học nào trước đây. Luận văn có sử dụng, phát


triển và kế thừa một số tư liệu, số liệu, kết quả nghiên cứu từ các sách, giáo
trình, tài liệu,... liên quan đến nội dung đề tài.
Tác giả luận văn

Lê Hà Thanh Ngọc


3

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 5
Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HỐ TRUYỀN THƠNG
VÀ NGƠN NGỮ LOẠI HÌNH BÁO IN........................................................ 8
1.1 Khái niệm cơ bản ........................................................................................ 8
1.2 Về văn hóa truyền thơng trong hoạt động báo chí .................................... 16
1.3 Những yếu tố tác động đến văn hóa truyền thơng trong sản phẩm báo in .... 19
1.4 Những yếu tố văn hóa truyền thơng trong sản phẩm báo in .................... 27
1.5 Mối quan hệ giữa văn hóa truyền thơng trong tác phẩm báo chí và
hiệu quả, hiệu lực báo chí ......................................................................... 35
Chương 2: VĂN HĨA TRUYỀN THƠNG TRÊN BÁO TUỔI TRẺ,
ĐỜI SỐNG PHÁP LUẬT VÀ NĂNG LƯỢNG MỚI ................................... 41
2.1. Khái quát sự ra đời và phát triển của báo Tuổi trẻ, Đời sống Pháp
luật và Năng lượng Mới ........................................................................... 41
2.2 Thực trạng văn hóa truyền thơng trên báo Tuổi trẻ, Đời sống Pháp
luật và báo Năng lượng Mới ..................................................................... 44
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
VĂN HÓA TRUYỀN THÔNG TRÊN BÁO TUỔI TRẺ, ĐỜI SỐNG
PHÁP LUẬT VÀ NĂNG LƢỢNG MỚI ..................................................... 84
3.1 Những vấn đề cần quan tâm ...................................................................... 84
3.2 Giải pháp ................................................................................................... 87

3.3 Kiến nghị ................................................................................................. 100
KẾT LUẬN .................................................................................................. 112
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 115
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 119


4

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

ASEAN

Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á

BBT

Ban Bí thư

BCHTW

Ban chấp hành Trung ương

CT/TW

Chỉ thị/Trung ương

PGS.TS

Phó Giáo sư, Tiến sỹ


TP

Thành phố

TPHCM

Thành phố Hồ Chí Minh

TS

Tiến sỹ

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


5

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Báo chí có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội. Nhận thức được
vị trí, vai trị và tầm quan trọng của báo chí, từ hơn 80 năm trước, những
người cộng sản Việt Nam đầu tiên, tiêu biểu là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đã
sớm khai thác, sử dụng báo chí như một vũ khí sắc bén phục vụ yêu cầu, mục
tiêu của cách mạng. Cũng từ đó, nền báo chí cách mạng nước ta, dưới sự lãnh

đạo của Đảng, liên tục phát triển, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp chung
của Đảng, của dân tộc. Đặc biệt là trong những năm đổi mới, báo chí là kênh
thơng tin quan trọng đưa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
đến đồng bào mọi miền tổ quốc, qua đó, góp phần thực hiện thắng lợi nhiều
mục tiêu kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, thành tích cơ bản, hoạt động báo chí
cũng bộc lộ một số hạn chế, thiếu sót cần khắc phục. Khơng ít tờ báo, do bị chi
phối bởi mặt trái kinh tế thị trường, chạy theo lợi nhuận đơn thuần, không chú
trọng đến yếu tố văn hố truyền thơng trong các sản phẩm báo chí; thậm chí, hạ
thấp yêu cầu quan trọng này, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của giới
báo chí, đưa ra xã hội những sản phẩm báo chí yếu và kém xét trên bình diện văn
hóa truyền thơng.
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) Về cơng tác tư tưởng, lý luận, báo chí
trước yêu cầu mới đã chỉ ra những khuyết điểm, hạn chế của báo chí, như:
khuynh hướng “thương mại hóa”; khuynh hướng thốt ly tơn chỉ, mục đích; tình
trạng thơng tin khơng chuẩn xác; chạy theo thị hiếu tầm thường; tuyên truyền, cổ
vũ lối sống trái với truyền thống văn hóa, đạo đức của dân tộc... Nhiều văn kiện
quan trọng của Đảng, như Chỉ thị 22-CT/TT của BCT ( khá VIII); Thông báo
kết luận 162 của BCT (khố IX), Thơng báo kết luận 41 – TB/TW và Thơng
báo kết luận 68 – TB/TW của BCT (khố X); đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 5


6

(khố X) Về cơng tác tư tưởng, lý luận, báo chí trước yêu cầu mới đã chỉ ra
những khuyết điểm, hạn chế của báo chí, như: khuynh hướng “thương mại hố”;
khuynh hướng thốt ly tơn chỉ, mục đích; tình trạng thông tin không chuẩn xác;
chạy theo thị hiếu tầm thường; tuyên truyền, cổ vũ lối sống trái với truyền thống
văn hoá, đạo đức của dân tộc... Năm 2007, tại Hội nghị tồn quốc sơ kết 2 năm
thực hiện Thơng báo kết luận 162 – TB/TW của Bộ Chính trị (tổ chức tại TP.Hạ

Long, Quảng Ninh), các cơ quan lãnh đạo, quản lý báo chí cũng đã nêu một số
nhận định đáng lo ngại về những vấn đề liên quan văn hố truyền thơng trong
hoạt động báo chí: “Mâu thuẫn giữa chức năng tư tưởng, văn hoá với hoạt động
kinh tế; giữa thơng tin, tun truyền và thương mại hố báo chí ngày càng gia
tăng, tính chất “ hàng hố đặc biệt” của báo chí khơng phải lúc nào cũng được
hiểu đúng, dẫn đến tình trạng vận dụng và thực hiện tuỳ tiện” (Báo cáo của Ban
Tư tưởng - Văn hoá Trung ương, nay là Ban Tuyên giáo Trung ương); “Thông
tin dung tục, không phù hợp với thuần phong, mỹ tục Việt Nam, làm suy giảm
tính định hướng, tính giáo dục và tính thẩm mỹ của báo chí” (Báo cáo của Bộ
Văn hố - Thơng tin).
Từ đó, có thể khẳng định, những thiếu sót, khuyết điểm của báo in
trong thời gian qua, dù trực tiếp hay gián tiếp, đều liên quan đến những vấn đề
văn hóa truyền thơng trong hoạt động báo chí. Và để đáp ứng tốt hơn những
kỳ vọng mà Đảng, Nhà nước và quần chúng nhân dân đưa ra, từng bước khôi
phục lại vị thế trong nền báo chí có tính cạnh tranh cao như hiện nay, việc
nâng cao văn hóa truyền thơng trong hoạt động báo chí nói chung và báo in
riêng đang là yêu cầu cấp thiết với mỗi cơ quan báo chí.
Phát huy vai trị của báo chí với tư cách là một bộ phận quan trọng
trong cơng tác tư tưởng và văn hố của Đảng, theo tinh thần Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 5 (khoá VIII): “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội,
vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế-xã hội”; “… làm cho văn
hoá thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội…”, trong điều kiện


7

kinh tế thị trường và xu hướng tồn cầu hố truyền thông hiện nay, vấn đề đặt
ra là phải vừa phát huy ưu điểm, thành tích; khắc phục thiếu sót, khuyết điểm,
vừa có biện pháp nâng cao văn hố truyền thơng trong sản phẩm báo chí:
“Nâng cao chất lượng tư tưởng, chính trị, văn hố, khoa học của từng cơ quan

báo chí, để báo chí thực sự là tiếng nói của Đảng, Nhà nước; các tổ chức
chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp; diễn đàn tin cậy của nhân dân” (Báo
cáo của Ban Tư tưởng – Văn hố Trung ương tại Hội nghị tồn quốc sơ kết 2
năm thực hiện Thông báo kết luận 162 – TB/TW của Bộ Chính trị, năm
2007); “Tiếp tục phát huy tiềm lực và ưu điểm, khắc phục các yếu kém,
khuyết điểm, nâng cao chất lượng tư tưởng, văn hoá, mở rộng đối tượng độc
giả…” (Nghị quyết TW 5, Khoá X).
Về lý luận, việc nghiên cứu văn hố truyền thơng trong hoạt động báo
chí nói chung và báo in nói riêng cịn nhiều khoảng trống. Cho đến nay, sau
gần 30 năm đổi mới báo chí, chưa có chun luận, đề tài nào nghiên cứu trực
tiếp, có hệ thống vấn đề văn hố trong sản phẩm báo chí ở nước ta.
Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi nhận thấy, việc nghiên cứu đề tài
Văn hóa truyền thơng trên báo in hiện nay (Khảo sát báo Tuổi trẻ, Đời sống
Pháp luật và báo Năng lượng Mới) mang cả ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Qua tìm hiểu chúng tơi thấy có một số cơng trình nghiên cứu liên quan
như sau:
- Giáo trình Lý luận và đường lối văn hóa của Đảng, phần thơng tin đại
chúng do nhóm tác giả Khoa Văn hóa Xã hội chủ nghĩa, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh (nay là Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ
Chí Minh, biên soạn ; Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, H. 2000).
- Cuốn Trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của nhà báo do Hội
Nhà báo Việt Nam biên soạn.


8

- Kỷ yếu Hội thảo khoa học Văn hóa truyền thông trong thời kỳ hội
nhập do Hội nhà báo Việt Nam và Khoa báo chí - truyền thơng, Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức.

- Kỷ yếu Hội thảo khoa học Đạo đức nghề báo trong khai thác và xử
lý nguồn tin do Hội nhà báo Việt Nam và Học viện Báo chí và tuyên
truyền tổ chức.
- Tập sách: Tiếp tục thực hiện Chỉ thị 22 – CT/TW của Bộ Chính trị (khóa
VIII) về đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý cơng tác báo chí (Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002).
- Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học: Đội ngũ
nhà báo Việt Nam trong công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN của Chu
Thái Thành (Học viện Chính trị Quốc gia, 2000).
- Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Triết học: Sự lãnh đạo của Đảng đối với
báo chí trong thời kỳ đổi mới của Nguyễn Vũ Tiến (Học viện Chính trị Quốc
gia, 2003).
- Chuyên đề khoa học Tình hình phát triển và quản lý báo chí qua 20
năm đổi mới do PGS.TS Vũ Duy Thơng chủ trì (2006).
Ngồi ra cịn có một số luận văn, tham luận tại các hội thảo chuyên đề
về báo chí, các bài báo viết trên một số báo và tạp chí như Tạp chí Người làm
báo (Hội Nhà báo Việt Nam), Nghề báo (Hội Nhà báo TP Hồ Chí Minh), Báo
chí và truyền thơng (Học viện Báo chí và tuyên truyền),…
Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của các cơng trình trên phần lớn mang
tính pháp lý, lý thuyết mà chưa có những nghiên cứu, khảo sát thực tiễn để
đưa ra những đánh giá tổng quan về thực trạng văn hóa truyền thơng cũng
như việc nâng cao văn hóa truyền thơng, để từ đó tìm kiếm và đưa ra các giải
pháp cụ thể.
Từ thực tế đó, chúng tơi hy vọng rằng đề tài Văn hóa truyền thông trên
báo in hiện nay (Khảo sát báo Tuổi trẻ, Đời sống Pháp luật và báo Năng


9

lượng Mới) sẽ góp phần đưa ra một cách cơ bản, hệ thống, đồng bộ các vấn đề

về văn hóa truyền thơng trong hoạt động báo chí hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của đề tài là đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao văn hóa truyền
thơng trong các sản phẩm báo in, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công chúng.
Và để thực hiện mục đích trên, trong đề tài Văn hóa truyền thông trên báo
in hiện nay (Khảo sát báo Tuổi trẻ, Đời sống Pháp luật và báo Năng lượng
Mới) sẽ giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa được lý luận về văn hóa truyền thơng.
- Đánh giá các yếu tố tác động đến văn hóa truyền thơng.
- Khảo sát, đánh giá, so sánh được thực trạng văn hóa truyền thơng và hiệu
quả của văn hóa truyền thơng trên báo Tuổi trẻ, Đời sống Pháp luật và báo
Năng lượng Mới.
- Từ kết quả khảo sát thu được cùng với những nghiên cứu thực trạng
văn hóa truyền thơng trên báo Tuổi trẻ, Đời sống Pháp luật và Năng lượng
Mới, đề tài sẽ đưa ra được giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao văn hóa truyền
thơng báo Tuổi trẻ, Đời sống Pháp luật và Năng lượng Mới nói riêng cũng
như để các tồn soạn báo in khác tham khảo nói chung.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các yếu tố văn hố truyền thơng trong
tác phẩm báo chí đã đăng trên báo Tuổi trẻ, Đời sống Pháp luật và báo Năng
lượng Mới từ đầu năm đến nay.
Phạm vi nghiên cứu: Các yếu tố văn hóa trong hoạt động báo chí trên báo
Tuổi trẻ, Đời sống Pháp luật và Năng lượng Mới.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Đề tài được thực hiện trên cơ sở quan điểm Chủ nghĩa Mác – Lê-nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng về văn hóa, văn hóa báo chí và
đường lối đổi mới của Đảng về báo chí.


10


- Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở có tính ngun tắc của lơgíc biện chứng, đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
+ Phương pháp điều tra bảng hỏi anket - được sử dụng để điều tra cơng
chúng – nhóm đối tượng khảo sát;
+ Phương pháp phỏng vấn sâu được sử dụng khai thác thông tin định
tính nhóm đối tượng các chun gia.
+ Phương pháp khảo sát, thống kê;
+ Phân tích văn bản;
+ Điều tra xã hội học;
+Trao đổi, tọa đàm;…
Với các phương pháp nghiên cứu nói trên, tác giả sử dụng một số cơng
cụ nghiên cứu như bảng hỏi, phiếu điều tra;…
6. Đóng góp của đề tài
- Đề tài bước đầu đóng góp những nghiên cứu khoa học về văn hóa
truyền thơng trên báo Tuổi trẻ, Đời sống Pháp luật và báo Năng lượng Mới, từ
đó đi vào nhận diện, tìm hiểu vấn đề, góp phần giúp đội ngũ những người làm
báo Tuổi trẻ, Đời sống Pháp luật và báo Năng lượng Mới kịp thời có những
điều chỉnh, nhằm nâng cao hơn nữa văn hóa truyền thơng, đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của độc giả, phục vụ tốt hơn nữa công tác thông tin tuyên
truyền của Đảng, Chính phủ và Nhà nước.
- Đề tài đưa ra được một số giải pháp nâng cao yếu tố văn hóa truyền
thơng làm cơ sở cho Ban biên tập các báo khác tham khảo.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn làm rõ đặc điểm, thực trạng của văn hóa truyền thơng trên
báo Tuổi trẻ, Đời sống Pháp luật và báo Năng lượng Mới.
- Luận văn góp phần hệ thống hóa những nhận thức lý luận về văn hóa
truyền thơng, những cách đi mới của báo in hiện đại trong xu hướng phát triển
mạnh mẽ của báo chí thế giới thời đại kỹ thuật số.



11

- Luận văn góp phần khẳng định tầm quan trọng của văn hóa truyền
thơng trong hoạt động báo chí nói chung và báo in nói riêng.
- Đây là cơng trình nghiên cứu đề cập một cách cơ bản và hệ thống về
văn hóa truyền thơng trên báo Tuổi trẻ, Đời sống Pháp luật và báo Năng
lượng Mới. Do đó, luận văn có ý nghĩa tích cực, góp phần tổng kết, đánh giá
văn hóa truyền thơng trên báo Tuổi trẻ, Đời sống Pháp luật và báo Năng
lượng Mới và đưa ra cái nhìn tổng quan, thực tế hơn về văn hóa truyền thơng,
nhằm góp phần đưa ra những giải pháp phát triển các cơ quan báo chí một
cách bền vững, hiệu quả.
- Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao văn hóa
truyền thơng trong sản phẩm báo chí trước yêu cầu mới.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3
chương, 11 tiết.


12

Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HỐ TRUYỀN THƠNG
VÀ NGƠN NGỮ LOẠI HÌNH BÁO IN
1.1 KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1.1 Văn hóa, truyền thơng và văn hóa truyền thơng
1.1.1.1 Văn hóa
Văn hóa là một lĩnh vực rộng lớn và phức tạp, đối tượng nghiên cứu cũng
rất đa dạng, gồm nhiều ngành khoa học nghiên cứu như nhân loại học, dân tộc
học, xã hội học, triết học,… Ngay từ năm 1952, hai nhà nhân loại học Mỹ là
Alfred Kroeber và Clyde Kluckhonhn đã từng thống kê có tới 164 định nghĩa

khác nhau về văn hóa trong các cơng trình nổi tiếng thế giới (theo
). Và tính đến thời điểm hiện tại cũng đã có hàng trăm
định nghĩa khác nhau về văn hóa đã được đưa ra, chính vì vậy, chúng tơi nhận
thấy cần phải đưa ra một khái niệm về văn hóa làm cơ sở cho việc triển khai đề
tài bởi nếu khơng giới hạn nội dung của khái niệm văn hóa thì rất khó xác định
khái niệm văn hóa truyền thơng trong hoạt động báo chí nói riêng.
Trong số hàng trăm định nghĩa trên, chúng tôi chọn định nghĩa của Tổ chức
Văn hóa – Khoa học – Giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO) đưa ra tại buổi lẽ
phát động Thập kỷ thế giới văn hóa vì sự phát triển, ngày 21/1/1998: “Văn hóa là
tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của các cá nhân và cộng đồng, trong
quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành tạo
nên hệ thống giá trị, các truyền thống, thị hiếu - đặc trưng riêng của mỗi dân tộc”.
Chúng tôi chọn định nghĩa này bởi:
- UNESCO tập hợp được hầu hết các quốc gia trên thế giới, tập trung ý
kiến của nhiều nhà khoa học và hoạt động chính trị - xã hội nổi tiếng của
nhiều nước, nên quan niệm của nó mang tính đại diện và tính khoa học cao.


13

- Quan niệm về văn hóa này của UNESCO có những nội dung cơ bản
phù hợp với tư tưởng của C.Mác và Hồ Chí Minh về văn hóa. Chẳng hạn: Về
nguồn gốc và bản chất của văn hóa, C.Mác cho rằng: “Căn cứ vào mức độ tự
nhiên được con người biến thành bản chất người, tức là mức độ tự nhiên
được con người khai thác, cải tạo thì có thể xét được trình độ văn hóa chung
của con người” (Bản thảo kinh tế - triết học 1844). Văn hóa do con người
sáng tạo ra, là kết quả hoạt động người của con người. Văn hóa chính là năng
lực bản chất người của con người. Cịn Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng:
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo
và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn

giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về
mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Tồn bộ những sáng tạo và phát
minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức
sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm
thích ứng những yêu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [24, tr.421].
Qua đó để thấy rằng, định nghĩa văn hóa trên của UNESCO khơng
những chỉ rõ nguồn gốc, bản chất mà còn bao quát đầy đủ các đặc trưng của
văn hóa: Văn hóa mang tính nhân sinh, tính lịch sử, tính hệ thống, tính giá trị
và tính dân tộc.
Liên quan đến văn hóa, C.Mác trong Luận cương về Phoiơbắc nói:
“Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ
xã hội”. Nghiên cứu văn hóa là nghiên cứu các mối quan hệ xã hội của con
người - đây là vấn đề có tính phương pháp luận nghiên cứu về văn hóa và văn
hóa truyền thơng, văn hóa báo chí.
Văn hóa chính là con người, là sức mạnh bản chất của con người, thể hiện
trong hoạt động sống và phương thức sống của con người, thể hiện trong bản
thân sự phát triển và tầm vóc của con người. Thực chất văn hóa là một phạm trù


14

đa diện, có biểu hiện bề ngồi và chiều sâu bên trong, vừa là hiện tượng vừa là
bản chất, vừa là giá trị vừa là sức mạnh của con người. Cần phải tiếp cận nội
hàm của khái niệm văn hóa như một chỉnh thể với ba chiều cạnh cơ bản sau:
- Văn hóa là trình độ phát triển con người, phát triển xã hội - tiếp cận từ
góc độ lịch sử.
- Văn hóa là tồn bộ giá trị tinh thần, giá trị vật chất do con người sáng tạo
ra - tiếp cận từ góc độ giá trị.
- Văn hóa là những năng lực, phẩm chất của con người - tiếp cận từ
góc độ nhân cách.

Tiếp cận tồn diện như vậy, chúng ta thấy văn hóa thực sự là bản chất,
đặc trưng, sức mạnh của con người - chủ thể xã hội. Đồng thời con người vừa
là chủ thể vừa là sản phẩm của văn hóa. Các hoạt động xã hội của con người,
trong đó có hoạt động báo chí, vừa biểu hiện trình độ văn hóa vừa biểu hiện
phẩm chất văn hóa của con người. Từ đó ta mới có văn hóa lao động, văn hóa
giao tiếp, văn hóa đạo đức, văn hóa chính trị, văn hóa lãnh đạo, văn hóa quản
lý, văn hóa truyền thơng (trong đó báo chí là bộ phận quan trọng)…
Như vậy, văn hóa là phương thức tồn tại và phát triển lịch sử nhân loại.
Trên các phương diện của đời sống, văn hóa là yếu tố nội sinh tạo nên động
lực và cũng chính là mục tiêu của sự phát triển.
1.1.1.2. Truyền thông
Cũng giống như văn hóa, truyền thơng (Communication) cũng đang được
hiểu với rất nhiều khái niệm khác nhau. Ví như:
- Theo John R.Hober (1954) thì truyền thơng là q trình trao đổi tư duy
hoặc ý tưởng bằng lời [41, tr.13].
- Theo Frank Dance (1970), truyền thơng là q trình làm cho cái trước
đây độc quyền của một hoặc vài người trở thành cái chung của hai hoặc nhiều
người [41, tr.13].


15

-Truyền thơng là một q trình trao đổi thơng điệp giữa các thành viên
trong xã hội nhằm đạt được sự hiểu biết, qua đó liên kết với nhau” [35, tr.10].
- Truyền thơng ở bình diện tổng qt, được hiểu là q trình trao đổi thơng
tin, tư tưởng, tình cảm, chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm giữa hai hoặc nhiều người
nhằm góp phần nâng cao (thay đổi) nhận thức, mở rộng hiểu biết, tiến tới thay đổi
thái độ và hành vi của cơng chúng – nhóm đối tượng phù hợp với mục tiêu phát
triển bền vững [42, tr.32]..
-Truyền thông là sự trao đổi thông điệp giữa các thành viên hay các nhóm

người trong xã hội nhằm đạt được sự hiểu biết lẫn nhau [45, tr.8].
-Truyền thông (tiêu biểu là báo chí) có vị trí và vai trị cực kỳ quan trọng và
to lớn. Với tư cách là phương tiện và biện pháp quảng bá thơng tin bằng các hình
thái biểu tượng riêng như ngôn ngữ, nghệ thuật, truyền thông là một phương tiện
đặc thù mà con người sáng tạo ra để tự tách mình ra khỏi thế giới một cách dứt
khốt và đồng thời trong sự chia tách này có liên kết con người một cách chặt chẽ
hơn [32, tr.246].
Đó chỉ là một trong rất nhiều quan niệm về truyền thơng được đưa ra
nhưng tựa chung lại, chúng ta có thể hiểu: Truyền thơng là q trình trao
đổi thơng điệp giữa các thành viên hay các nhóm người trong xã hội thông
qua hệ thống các ký hiệu hoặc không cần đến ký hiệu nhằm đạt được sự
hiểu biết lẫn nhau.
Theo PGS.TS Nguyễn Văn Dững thì, “căn cứ vào các tiêu chí khác nhau,
có nhiều cách phân loại truyền thơng khác nhau” [41, tr.216]. Trong đó, chúng tơi
thấy việc phân loại truyền thông căn cứ vào phạm vi tham gia và chịu ảnh hưởng
của truyền thông là phù hợp nhất và khái quát nhất.
Dựa theo căn cứ này, PGS.TS Nguyễn Văn Dững chia truyền thông
thành: Truyền thông cá nhân, truyền thông nhóm và truyền thơng đại
chúng. Trong đó:


16

“Truyền thông đại chúng là hệ thống các phương tiện truyền thông hướng
tác động vào đông đảo công chúng xã hội (nhân dân các vùng miền, cả
nước, khu vực hay tồn bộ thế giới) nhằm thơng tin, chia sẻ, nhằm lôi kéo
và tập hợp, giáo dục thuyết phục và tổ chức đông đảo nhân dân tham gia
giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội đã và đang đặt ra” [41, tr.112].
Từ khái niệm truyền thơng đại chúng, nhìn từ các yếu tố cấu thành, có thể
được mơ tả như sau:

Sách

-

Tờ
rơi,
tờ gấp

Pano,
áp phích

Quảng cáo

Báo chí
Báo in và ấn phẩm báo in
Phát thanh
Truyền hình
Báo mạng, Internet
Báo bảng điện tử

Điện
ảnh

v.v...

“Trong khái niệm nêu trên đây có thể thấy vai trị trung tâm, nền tảng của
báo chí trong hệ thống các phương tiện truyền thơng đại chúng. Báo chí có
vai trị chi phối, quyết định sức mạnh, tính khuynh hướng của truyền thơng
đại chúng. Cho nên trong nhiều trường hợp, người ta dùng thuật ngữ báo
chí để chỉ các phương tiện truyền thơng đại chúng; mặt khác, nói đến

truyền thơng đại chúng trước hết là nói đến báo chí” [41, tr.113].


17

Từ đó để thấy rằng, nói đến truyền thơng là nói tới truyền thơng đại chúng
và nói tới truyền thơng đại chúng tức là nói tới báo chí. Báo chí chính là bộ phận
quan trọng nhất trong hoạt động truyền thơng hiện nay và nó mang đầy đủ các đặc
tính của truyền thơng.
Nói đến báo chí chúng ta có thể hiểu theo các quan niệm rộng và hẹp.
Quan niệm hẹp về báo chí, theo Từ điển tiếng Việt, báo chí là những ấn
phẩm xuất bản định kỳ: “Báo và tạp chí; xuất bản phẩm định kỳ (nói khái qt)”
theo nghĩa danh từ .
Quan niệm rộng về báo chí, báo chí là một thiết chế xã hội đặc thù để
chuyển tải thơng tin đến đơng đảo cơng chúng, có chức năng tun truyền, định
hướng, dẫn dắt cơng chúng. Tuy báo chí có tính độc lập tương đối, song về
ngun tắc, báo chí ln ln chịu sự chi phối của chủ thể sáng lập ra nó. Đó là
các tổ chức chính trị, xã hội, tôn giáo, nghề nghiệp… trong xã hội.
Nếu xem xét báo chí từ phương diện năng lực và trình độ sáng tạo của con
người thì báo chí là sản phẩm của sự sáng tạo xã hội của nhân loại.
Nếu xem xét báo chí từ phương diện thiết chế xã hội của con người thì báo
chí là một thiết chế xã hội đặc thù góp phần vào sự vận thơng xã hội. Báo chí là
một thiết chế khơng thể thiếu trong đời sống xã hội văn minh hiện đại.
1.1.1.3 Văn hóa truyền thơng
Văn hóa truyền thơng là một khái niệm được kết hợp bởi khái niệm “văn
hóa” với khái niệm “truyền thơng”. Từ các khái niệm về văn hóa và truyền thơng
ở trên, chúng ta có thể hiểu theo phạm vi rộng và phạm vi hẹp như sau:
- Phạm vi rộng: Văn hóa truyền thơng là một lĩnh vực (thành tố) của
nền văn hóa tinh thần xã hội. Người ta có thể phân chia cơ cấu của nền văn
hóa tinh thần xã hội theo các lĩnh vực sau: Văn hóa đạo đức, văn hóa thẩm mỹ

(nghệ thuật), văn hóa chính trị, văn hóa pháp luật, văn hóa truyền thơng,…
Nếu mơ hình hố nền văn hóa tinh thần của một xã hội như lát cắt ngang của


18

một trái cây thì các lĩnh vực (thành tố) của nó như lát cắt ngang của các múi
của trái cây đó (xem hình vẽ).

VHTT

VH
ĐĐ

VHTC

VHTM

VHKH

VHCT
VH

VH

GD

PL

Như vậy, văn hóa truyền thơng (báo chí) là một thành tố của nền văn

hóa tinh thần xã hội. Nó được xếp cạnh các yếu tố khác và có quan hệ với các
yếu tố ấy tạo nên đời sống tinh thần xã hội. Từ đó có thể đưa ra một quan
niệm về văn hóa báo chí theo nghĩa rộng: Văn hóa truyền thơng là một thành
tố của nền văn hóa tinh thần xã hội, thể hiện trình độ sáng tạo của con người
trong việc tiếp nhận, xử lý, phổ biến và sử dụng thông tin phục vụ cho sự phát
triển đời sống của xã hội và cá nhân trong thời đại văn minh.
Và nếu tách văn hóa truyền thông ra khỏi hệ thống lớn (là nền văn hóa
xã hội) thì nó tồn tại như một tiểu hệ thống bao gồm:
+ Hệ thống triết lý, ý niệm: Truyền thông được thực hiện dựa trên các
quan điểm triết học, chính trị, đạo đức, văn hóa của một giai cấp, một cộng
đồng để xác lập quan điểm về sự ra đời, tồn tại và mục đích.
+ Hệ thống hoạt động: bao gồm toàn bộ các thể chế, thiết chế đối với
hoạt động truyền thơng, đó là hệ thống luật pháp, quy chế, điều lệ, quy định


19

về tổ chức, hoạt động của truyền thông và bộ máy tổ chức, các cơ quan, các
bộ phận, và hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật hợp thành. Dựa vào hệ thống thể
chế mà tổ chức, quản lý hoạt động của mình, tạo ra sự liên kết bên trong và
các mối quan hệ nhằm thực hiện nhiệm vụ truyền thông.
+ Hệ thống các chủ thể truyền thông: bao gồm chủ thể lãnh đạo, quản lý,
chủ thể sáng tạo, chủ thể sản xuất, phân phối. Trong đó chủ thể lãnh đạo, quản lý
và chủ thể sáng tạo ra các sản phẩm truyền thơng là quan trọng nhất. Trình độ,
năng lực, kỹ năng lãnh đạo, quản lý và sáng tạo của họ quyết định giá trị của sản
phẩm truyền thông. Nhân cách của họ quyết định thuộc tính văn hóa của các cơ
quan truyền thơng nói chung hay của một sản phẩm truyền thơng nói riêng.
+ Hệ thống sản phẩm: Bao gồm các tác phẩm báo chí, hội thảo, hội
nghị, tổ chức sự kiện, phim, ảnh, băng – rôn,…
+ Hệ thống biểu hiện: Bao gồm các thể thức, các biểu tượng hay hình

thức bên ngồi khi thực hiện truyền thơng. Qua đó các triết lý, ý niệm, thái
độ, tình cảm của chủ thể truyền thông được bộc lộ và người ta có thể cảm
nhận một cách rõ ràng. Hệ thống biểu hiện thường được bộc lộ dưới dạng:
lôgô, biển hiệu, biểu trưng của cơ quan, đơn vị truyền thông, tập quán, lễ hội,
nếp sống, cách thức trang trí trụ sở, phương tiện làm việc… của nó.
Như vậy, năm yếu tố trên hợp thành văn hóa truyền thơng hay cịn gọi
là một “kiểu”, một “dáng” truyền thơng. Trong đó triết lý, ý niệm giữ vai trò
định hướng và là nền tảng tư tưởng của truyền thơng.
- Phạm vi hẹp: Văn hóa truyền thơng là khái niệm dùng chỉ thuộc tính
văn hóa, trình độ, phẩm chất văn hóa của một sản phẩm truyền thơng.
Như trên đã phân tích, sản phẩm truyền thơng là sự thể hiện tập trung
nhất trình độ, năng lực sáng tạo, vai trò, tác dụng của một nền, một cơ quan
truyền thơng. Do vậy, khi đánh giá văn hóa truyền thông của một nền truyền
thông hay một cơ quan truyền thơng người ta chỉ cần xem xét văn hóa truyền
thơng trong các sản phẩm truyền thông là đủ. Trong khuân khổ luận văn,


20

chúng tơi chọn khái niệm văn hóa truyền thơng theo nghĩa hẹp làm cơ sở để
triển khai đề tài “Văn hóa truyền thơng trên báo in hiện nay (Khảo sát báo
Tuổi trẻ, Đời sống Pháp luật và báo Năng lượng Mới).
1.2 VĂN HĨA TRUYỀN THƠNG TRONG HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ
1.2.1 Một số quan điểm về văn hóa truyền thơng
Những năm gần đây, vấn đề nghiên cứu văn hóa truyền thơng đã được
nhiều học giả, nhà nghiên cứu quan tâm đến dưới nhiều mức độ khác nhau.
Chúng tôi xin điểm một vài quan điểm của các học giả, nhà nghiên cứu
trong nước về văn hóa truyền thơng trong hoạt động báo chí như sau:
- GS Hà Minh Đức:
“Văn hóa truyền thơng cần chú ý tới các nguyên tắc sau:

Thứ nhất, văn hóa truyền thơng phải góp phần bảo vệ quyền lợi thiêng
liêng của dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc.
Thứ hai, văn hóa phải đề cao những giá trị nhân văn của truyền thống
văn hóa Việt Nam trong quá khứ và hiện tại.
Thứ ba, văn hóa truyền thơng xã hội chủ nghĩa phải đảm bảo tính
trung thực.
Thứ tư, văn hóa truyền thơng phải tránh khuynh hướng thực dụng,
thương mại hóa.
Thứ năm, văn hóa truyền thơng cần phải nâng cao phê phán cái tiêu
cực, cái xấu trong lĩnh vực văn hóa” [32, tr.6 - 16].
- TS Nguyễn Đức Hạnh:
“Thuật ngữ văn hóa truyền thơng trước hết xác định truyền thơng là
một hiện tượng văn hóa. Bất kỳ một hiện tượng văn hóa nào cũng vừa
mang tính phổ biến đồng thời lại vừa là hiện tượng đặc thù. Nói tới
văn hóa truyền thơng nghĩa là muốn nói tới những hoạt động do con
người tiến hành xuất phát từ động cơ văn hóa thuộc tính người và


21

chính vì thế hoạt động truyền thơng là hoạt động phổ biến của xã hội
lồi người.
Văn hóa truyền thơng là tồn bộ q trình xuất hiện và biến đổi của
hiện tượng truyền thông trong đời sống nhân loại cùng sự xác lập
những mối tương tác của nó đối với các hiện tượng xã hội khác.
Xã hội hiện đại là xã hội bùng nổ truyền thơng, nếu khơng có kiến
thức văn hóa truyền thơng vững vàng con người khơng những khơng
làm chủ được những thành quả của văn minh nhân loại mà có thể cịn
bị những tác động tiêu cực của truyền thông chi phối.
Đối với lĩnh vực hoạt động báo chí, văn hóa truyền thơng là một trong

những kiến thức nền tảng để các nhà báo mở rộng và nâng cao tri
thức xã hội, đồng thời biết phát huy tốt sức mạnh của vũ khí truyền
thơng trong hoạt động thực tiễn” [32, tr.137 - 138].
- TS. Đặng Thị Thu Hương:
“Văn hóa truyền thơng cần phải được xây dựng trên nền tảng giá trị và
tính liên tục lịch sử, khơi dậy khả năng sáng tạo của công chúng, và
phục vụ công chúng. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã khẳng định
“đổi mới tư duy về phát triển văn hóa, coi văn hóa là nền tảng tinh thần
của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh
tế xã hội”. Không thể đánh đồng văn hóa đại chúng với khuynh hướng
thương mại hóa, tầm thường hóa và dung tục hóa nền văn hóa. Do vậy,
truyền thơng đại chúng phải đóng vai trị then chốt trong việc phát triển
ngành cơng nghiệp văn hóa Việt Nam, nâng cao tính đề kháng cho nền
văn hóa dân tộc trước những ảnh hưởng tiêu cực của tồn cầu hóa văn
hóa, đồng thời hạn chế tác động tiêu cực của xu hương thương mại văn
hóa và thương mại hóa báo chí” [32, tr.39].


22

- Nhà báo Phạm Xn Chiến:
“Văn hóa trong báo chí (báo in, phát thanh, truyền hình, báo điện tử)
được hình thành từ hoạt động báo chí, trong q trình thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của báo chí: thơng tin, tun truyền tập thể, cổ động
tập thể; cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; diễn đàn dân chủ,
rộng rãi của nhân dân” [32, tr.298].
1.2.2 Quan điểm của Đảng về văn hóa truyền thơng
Văn hóa nếu xét từ góc độ giá trị thì là sự kết hợp hài hịa giữa các giá
trị chân - thiện - mỹ (theo quan niệm của phương Tây) hay ích - thiện - mỹ
(theo quan niệm của phương Đông) hoặc chân - thiện - mỹ - ích (theo sự tích

hợp quan niệm của cả hai nền văn hóa Đơng và Tây). Từ đó suy ra văn hóa
truyền thơng chính là sự kết hợp các giá trị văn hóa được thể hiện trong sản
phẩm truyền thơng. Tiêu chí đánh giá của sự kết hợp đó là sự hài hịa ở trình
độ phát triển cao của các giá trị văn hóa.
Hiện nay, rất nhiều quan điểm cho rằng, trong thời đại tồn cầu hóa,
cuộc cách mạng khoa học, công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, công nghệ thơng
tin bùng nổ, truyền thơng nói chung và báo chí nói riêng cần nâng cao thuộc
tính văn hóa. Nghĩa là cần phải nhấn mạnh tính định hướng, nhân bản, nhân
văn, đạo đức hướng tới các giá trị văn hóa như Chân, Thiện, Mỹ, hịa bình,
hội nhập, phát triển bền vững. Đồng thời truyền thơng là sản phẩm văn hóa
cần phải chú ý đến hình thức trình bày, cách thức truyền đạt thông tin đáp ứng
nhu cầu thị hiếu thẩm mỹ của người đọc.
Sự nâng cao và kết hợp hài hòa, tinh tế các phẩm chất trên của truyền
thông thực chất là nâng cao các giá trị Chân - Thiện - Mỹ trong sản phẩm
truyền thơng. Đó chính là văn hóa truyền thơng trong tác phẩm báo chí mà Hồ
Chí Minh - nhà văn hóa lớn, người sáng lập ra nền báo chí cách mạng Việt
Nam - đã nhiều lần đề cập tới, trong Bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ III Hội


23

nhà báo Việt Nam, ngày 8/9/1962, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Cần phải nâng
cao chất lượng của báo chí để nó làm trịn nhiệm vụ cao cả của nó”.
Văn hóa truyền thơng trong sản phẩm báo chí, theo Hồ Chí Minh còn
thể hiện ở sự kết hợp giữa nội dung và hình thức của sản phẩm báo chí, giữa
tính chân thật và tính hữu ích của chúng: “Quần chúng mong muốn những tác
phẩm có nội dung chân thật và phong phú, có hình thức trong sáng vui tươi.
Khi chưa xem thì muốn xem, xem rồi thì có bổ ích”. (Hồ Chí Minh: Bài nói
chuyện tại Đại hội Văn nghệ tồn quốc lần thứ III, ngày 1/12/1962)
Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng chỉ rõ:

“Nâng cao chất lượng tư tưởng và văn hóa, vươn lên hiện đại về mơ hình, cơ
cấu tổ chức và cơ sở vật chất - kỹ thuật; đồng thời xây dựng cơ chế quản lý
phù hợp, chủ động, khoa học” [17, tr.107].
Như vậy, văn hóa truyền thơng trong sản phẩm báo chí là sự kết hợp
hài hịa và ở trình độ cao của tính khuynh hướng (đối với báo chí cách mạng
là tính Đảng Cộng sản) với tính khách quan, trung thực (hướng tới cái Chân)
và với tính nhân dân, tính dân tộc, tính nhân loại (vì lợi ích của nhân dân, dân
tộc và nhân loại hướng tới cái thiện và cái ích). Những giá trị đó đem lại cho
cơng chúng những tư tưởng, tri thức mới mẻ, hiểu biết phong phú, thái độ
sống tích cực và cảm hứng thẩm mỹ lành mạnh cho người đọc. Chỉ thị 22CT/TW của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về Tiếp tục đổi mới và
tăng cường sự lãnh đạo, quản lý báo chí, xuất bản đã chỉ rõ việc nâng cao văn
hóa truyền thơng: “Khơng ngừng nâng cao chất lượng chính trị, văn hóa, khoa
học, cơng nghệ, nghề nghiệp, từng bước hiện đại hóa” báo chí.
1.3 NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VĂN HĨA TRUYỀN
THƠNG TRONG SẢN PHẨM BÁO IN
Báo chí có tính chất khuynh hướng, có tính giai cấp nên văn hóa truyền
thơng trong sản phẩm báo chí cũng phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, cả khách
quan và chủ quan như: mơi trường chính trị - xã hội, điều kiện kinh tế, cơ sở


24

vật chất, phương tiện kỹ thuật, thể chế, thiết chế của nền báo chí và trình độ,
năng lực của người làm báo. Trong đó trình độ, năng lực của người làm báo là
yếu tố chủ quan, giữ vai trò quan trọng nhất. Bởi sản phẩm báo chí là sản
phẩm tinh thần mang dấu ấn sáng tạo của chủ thể.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: “Nói đến báo chí trước hết
phải nói đến người làm báo chí” [25, tr.107].
1.3.1 Yếu tố chủ quan
Nếu văn hóa truyền thơng của tác phẩm văn chương, nghệ thuật là do

tài năng của nghệ sĩ làm nên thì văn hóa truyền thơng trong sản phẩm báo chí
do trình độ, năng lực của nhà báo tạo nên. Người nghệ sĩ trong tác phẩm nghệ
thuật của mình có thể thể hiện sự chủ quan hóa cái khách quan của đời sống
xã hội, còn nhà báo thì vừa thể hiện sự chủ quan hóa đó nhưng cũng vừa phản
ánh có tính đánh giá, định hướng cái khách quan của đời sống xã hội một
cách hữu thức.
V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, do trách nhiệm chính trị - xã
hội của người làm báo mà họ cần có các phẩm chất chính trị, đạo đức, trình
độ chuyên môn, nghề nghiệp mới đạt đến thành công.
Về trách nhiệm báo chí, Hồ Chí Minh nói:
“Báo chí là người tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, tổ chức tập thể.
Vì vậy, nhiệm vụ của người làm báo là quan trọng và vẻ vang. Muốn
hoàn thành tốt nhiệm vụ ấy thì phải cố gắng học tập chính trị, nâng cao
tư tưởng, đứng vững trên lập trường của giai cấp cơng nhân; phải
nâng cao trình độ văn hóa, phải đi sâu vào nghiệp vụ của mình. Cần
phải ln ln cố gắng thì nhất định thành cơng” [25, tr.423].
- Phẩm chất chính trị: Báo chí cách mạng trong giai đoạn hiện nay
cịn góp phần nâng cao dân trí, bảo vệ và phát huy bản sắc, truyền thống
văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, góp phần
tăng cường ổn định chính trị, xã hội, tạo ra bầu khơng khí dân chủ, cởi mở


25

trong xã hội, hịa bình, hợp tác hữu nghị với bạn bè thế giới, góp phần
chống âm mưu diễn biến hịa bình của các thế lực thù địch, chống lại những
tác động tiêu cực của xu thế tồn cầu hóa, giao lưu văn hóa quốc tế… Điều
đó địi hỏi nhà báo phải có một sự giác ngộ chính trị sâu sắc, một lập
trường chính trị vững vàng thì mới có thể sáng tạo những tác phẩm báo chí
phục vụ có hiệu quả mục tiêu chính trị của Đảng, của dân tộc. Hồ Chí Minh

đã lý giải vai trị của phẩm chất chính trị của nhà báo có ý nghĩa quyết định
đối với chất lượng sản phẩm báo chí: “Tất cả những người làm báo (người
viết, người in, người sửa báo, người phát hành, v.v..) phải có lập trường
đúng thì những việc khác mới đúng được. Cho nên các báo chí của ta phải
có đường lối chính trị đúng”[25, tr.422 – 423].
Báo chí ngày nay cịn giữ chức năng rất quan trọng và mới mẻ là làm
người phản biện xã hội, trước những quan điểm, đường lối của Đảng, chính
sách của Nhà nước nhiều vấn đề phức tạp đang đặt ra, trước dư luận xã hội
nhiều ý kiến đánh giá đúng/sai khác nhau, nên nhà báo khơng có một lập
trường chính trị vững vàng thì sẽ khơng hồn thành được nhiệm vụ của mình,
qua đó đóng góp cho Đảng, cho Nhà nước và định hướng cho xã hội.
- Lập trường chính trị vững vàng đi liền với sự nhạy cảm chính trị
cũng là một phẩm chất quan trọng làm nên văn hóa truyền thơng trong sản
phẩm báo chí. Nhà báo như cần ăng-ten của đời sống chính trị trong nước
và quốc tế, vừa cần đến sự tinh nhạy vừa cần đến sự phản ứng linh hoạt,
kịp thời trước các vấn đề chính trị đặt ra hàng ngày, hàng giờ. Từ lập
trường chính trị mà rèn luyện bản lĩnh chính trị, từ bản lĩnh chính trị đến sự
nhạy cảm chính trị và cuối cùng là tinh thần đấu tranh kiên quyết trước cái
đúng, cái sai, cái tích cực, cái tiêu cực trong đời sống chính trị hiện nay.
Khơng có phẩm chất chính trị như vậy sẽ khơng có những sản phẩm báo
chí đảm bảo văn hóa truyền thơng.


×