Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt người khmer của hệ thống chính trị cấp xã ở tỉnh vĩnh long hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (875.06 KB, 125 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN VĂN VIỆT

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT
NGƯỜI KHMER CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP XÃ
Ở TỈNH VĨNH LONG HIỆN NAY

Ngành: Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước
Mã số : 60 31 02 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ
XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS, TS. Nguyễn Văn Giang

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu
độc lập của riêng tôi. Các số liệu và tư liệu được sử
dụng từ nhiều nguồn tài liệu đáng tin cậy và là kết quả
của quá trình tiến hành khảo sát thực tế của tơi. Tơi
xin chịu hồn tồn trách nhiệm về cơng trình nghiên


cứu của mình.

Hà Nội, ngày 05 tháng 4 năm 2014
Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Việt


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÂY ĐỰNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ CHỦ CHỐT NGƯỜI KHMER CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
CẤP XÃ ...................................................................................................... 10
1.1. Cấp xã và hệ thống chính trị cấp xã - quan niệm, vị trí, vai trị và
đặc điểm........................................................................................... 10
1.2. Đội ngũ cán bộ chủ chốt người Khmer của hệ thống chính trị cấp
xã - quan niệm, vị trí, vai trị và đặc điểm ........................................ 22
1.3. Quan niệm và nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt người
Khmer của hệ thống chính trị cấp xã ở tỉnh Vĩnh Long .................... 31
Chương 2: XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT NGƯỜI
KHMER CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP XÃ Ở TỈNH VĨNH LONG CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG, THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN,
KINH NGHIỆM ......................................................................................... 40
2.1. Các yếu tố tác động đến xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt người
Khmer của hệ thống chính trị cấp xã ở tỉnh Vĩnh Long hiện nay ...... 40
2.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt người Khmer của hệ thống
chính trị cấp xã ở tỉnh Vĩnh Long - thực trạng, nguyên nhân và
bài học kinh nghiệm ......................................................................... 46
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT NGƯỜI KHMER CỦA HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ CẤP XÃ Ở TỈNH VĨNH LONG HIỆN NAY...................... 77

3.1. Dự báo tình hình và phương hướng xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt người Khmer của hệ thống chính trị cấp xã ở Vĩnh Long
trong thời gian tới............................................................................. 77
3.2. Những giải pháp chủ yếu xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt người
Khmer của hệ thống chính trị cấp xã ở tỉnh Vĩnh Long hiện nay........... 85
KẾT LUẬN............................................................................................... 109
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 111
PHỤ LỤC


CÁC TỪ VIẾT TẮT

CBCC

:

Cán bộ chủ chốt

HTCT

:

Hệ thống chính trị

HĐND

:

Hội đồng nhân dân


UBND

:

Ủy ban nhân dân

HCM

:

Hồ Chí Minh

DTTS

:

Dân Tộc thiểu số

CNH

:

Cơng nghiệp hóa

HĐH

:

Hiện đại hóa


ĐBSCL

:

Đồng bằng song Cửu Long

TPHCM

:

Thành phố Hồ Chí Minh


DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang
Bảng 2.1: Các chức danh và số lượng CBCC người Khmer của HTCT
cấp xã
Bảng 2.2: Độ tuổi của đội ngũ CBCC người Khmer của HTCT cấp xã

47
48

Bảng 2.3: Trình độ học vấn, chun mơn CBCC người Khmer của
HTCT cấp xã

49

Bảng 2.4: Trình độ lý luận chính trị của CBCC người Khmer của
HTCT cấp xã


49

Bảng 2.5: Thống kê công tác quy hoạch CBCC người Khmer của
HTCT cấp xã, nhiệm kỳ (2015-2020)

58

Bảng 2.6: Thống kê công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC
người Khmer của HTCT cấp xã

60


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cán bộ luôn là nhân tố quan trọng quyết định sự thành bại của cách
mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của cả dân tộc, là khâu then chốt
trong công tác xây dựng Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cán bộ là
cái gốc của mọi công việc”, “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán
bộ tốt hay kém” [28; tr.269, 273].
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam Đảng ta luôn coi
trọng công tác cán bộ. Thực tiễn cũng chứng minh từ khi có Đảng lãnh đạo,
mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, từ cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân đến cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang tiến hành
đều do chúng ta có một đội ngũ cán bộ vững vàng, trong sáng về đạo đức,
nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành, các cấp.
Bước vào thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

(CNH, HĐH) đất nước, việc tuyển chọn những cán bộ trẻ, tài năng, từ công
nhân, nông dân, con em các gia đình có cơng với cách mạng, cán bộ dân tộc
thiểu số (DTTS), cán bộ nữ, không phân biệt đảng viên hay quần chúng...
được nhiều cấp bộ đảng quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện nghiêm túc,
mang lại những chuyển biến tích cực về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của tổ chức đảng ở nhiều địa phương, đơn vị trên cả nước.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã người
DTTS là một bộ phận quan trọng trong đội ngũ cán bộ của Đảng. Đây là đội
ngũ cán bộ góp phần, đưa mọi chủ trương đường lối của Đảng nói chung, chủ
trương đường lối của Đảng về chính sách dân tộc, đoàn kết dân tộc vào cộng
đồng các DTTS. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa IX về cơng tác dân
tộc nhấn mạnh: “Thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng cán bộ là người dân tộc thiểu số cho từng vùng, từng dân tộc”.


2

Vĩnh Long là một trong 13 tỉnh của khu vực Đồng bằng sơng Cửu Long,
có nhiều đồng bào dân tộc là người Khmer sinh sống, đời sống của người dân
Khmer ở nơi đây cịn nhiều khó khăn, trình độ dân trí của họ cịn rất thấp, số
cán bộ người Khmer chiếm chiếm tỉ lệ rất nhỏ so với tổng số cán bộ trong tỉnh.
Thời gian qua Đảng bộ Vĩnh Long rất quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ là
người Khmer, nhất là cán bộ ở cơ sở của tỉnh. Sau Đại hội đại biểu Đảng bộ
tỉnh Vĩnh Long lần thứ IX, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã chỉ đạo đẩy mạnh triển
khai thực hiện công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt người Khmer của hệ
thống chính trị cấp xã, nhờ đó, đội ngũ cán bộ chủ chốt người Khmer ở tỉnh
Vĩnh Long ngày càng phát triển về số lượng và chất lượng.
Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ và vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
người Khmer của hệ thống chính trị cấp xã ở tỉnh Vĩnh Long hiện nay đang
đặt ra nhiều vấn đề mới cần giải quyết. Bên cạnh, những mặt mạnh như: trình độ

của cán bộ được nâng lên, các cấp ủy đảng, chính quyền đã có nhiều cố gắng để
thực hiện tốt các đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, cán bộ nhằm không
ngừng nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ chủ chốt người Khmer của hệ
thống chính trị cấp xã, thì hiện nay ở Vĩnh Long đội ngũ cán bộ chủ chốt
người Khmer trong hệ thống chính trị cấp xã cịn tồn tại nhiều hạn chế, đa số
cán bộ trình độ cịn thấp, chưa được quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng nhiều, ở
nhiều nơi có đơng đồng bào Khmer sinh sống, nhưng vừa yếu, vừa thiếu đội
ngũ cán bộ chủ chốt là người Khmer, điều này cản trở rất lớn đến sự phát triển
chung của tỉnh. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long lần thứ IX đã đề ra
mục tiêu tổng quát: “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng bộ; phát huy sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc, giữ vững ổn định
chính trị; phấn đấu đưa tỉnh Vĩnh Long sớm thành tỉnh phát triển trung bình
khá trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long, rút ngắn khoảng cách so với
các tỉnh trong khu vực”. Muốn tận dụng được những thời cơ và thuận lợi,


3

vượt qua những khó khăn, thách thức nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Đại
hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long lần thứ IX đề ra, thì ngồi những nguồn lực
hiện có, tỉnh Vĩnh Long cần chuẩn bị thật tốt nguồn nhân lực cho tương lai, phải
chú trọng hơn nữa xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt người Khmer của hệ thống
chính trị, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có chun mơn nghiệp vụ hết lịng hết
sức vì sự nghiệp cách mạng.
Trước tình hình đó, việc xây dựng được một đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ
chốt người Khmer của hệ thống chính trị ở cấp xã, là rất cấp bách, mang tính
thời sự nóng bỏng nhằm đáp ứng yêu cầu lãnh đạo phát triển tỉnh Vĩnh Long
trong thời kỳ mới.
Nhận thức rõ tình hình trên, bản thân tôi đang công tác tại Ban Tổ chức
Huyện uỷ, nơi có nhiều đồng bào Khmer, chính vì thế, tôi quyết định chọn

vấn đề “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt người Khmer của hệ thống
chính trị cấp xã ở tỉnh Vĩnh Long hiện nay” làm đề tài nghiên cứu luận văn
tốt nghiệp thạc sĩ ngành xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước, với mong
muốn góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt người Khmer của hệ thống
chính trị cấp xã ở tỉnh Vĩnh Long hiện nay, phục vụ cho sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa của địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định cán bộ
là “gốc của mọi cơng việc”. Vì vậy, vấn đề cán bộ và công tác cán bộ được
quan tâm hàng đầu, trong đó có vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ
sở. Trong thời gian qua, Đảng đã có nhiều chủ trương, chính sách quan trọng
để xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ của tình
hình mới. Đặc biệt, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa VIII) về chiến
lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và quy định tiêu chuẩn cụ
thể đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn. Đây là những định hướng


4

quan trọng để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp
nói chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cấp xã nói riêng.
Các nhà khoa học và hoạt động thực tiễn đã có nhiều cơng trình khoa
học nghiên cứu về cán bộ và công tác cán bộ ở cơ sở, tiêu biểu như:
Đề tài khoa học
Nghiên cứu của Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh,
Đề tài khoa học cấp Bộ: Mẫu hình và con đường hình thành người cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở, Hà Nội, 1992. Đề tài nghiên cứu làm nổi bật đặc
điểm, mẫu hình và con đường hình thành cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở.
Đề tài đề cập đến thực tế những công việc mà đội ngũ này phải đảm nhiệm,
phân tích thực trạng trình độ, từ đó đề xuất những phương hướng, giải pháp

để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, trong đó nhấn
mạnh tầm quan trọng của cơng tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng.
Tỉnh uỷ Hà Tĩnh - Trường Chính trị: Báo cáo kết quả đề tài khoa học
“Đổi mới công tác đào tạo bồi dưỡng và sử dụng cán bộ chủ chốt xã phường
ở Hà Tĩnh”. (Đề tài khoa học cấp tỉnh 1999). Đề tài nghiên cứu tình hình đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ này, tình
hình bố trí sử dụng cán bộ sau đào tạo và đề xuất những giải pháp khả thi.
Sách
PGS,TS Nguyễn Phú Trọng và PGS,TS Trần Xuân Sầm (đồng chủ
biên), (2001), “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước”, Nxb Chính trị
quốc gia, HN. Cơng trình này đã đi sâu phân tích vị trí, tầm quan trọng và thực
trạng đội ngũ cán bộ các cấp. Từ đó, đưa ra những luận cứ khoa học để xác
định cơ cấu và tiêu chuẩn đối với cán bộc chủ chốt cấp cơ sở, cũng như những
giải pháp mang tính tổng quát nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý, trong đó có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở trong thời
kỳ CNH, HĐH đất nước.


5

Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ
- “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn đồng bằng
sông Cửu Long hiện nay”, (2000) luận án tiến sĩ của Phạm Công Khâm.
- “Xây dựng đội ngũ bí thư đảng uỷ xã ở Kiên Giang trong giai đoạn
hiện nay”, (2000) luận văn thạc sĩ của Nguyễn Văn Phích.
- “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt hệ thống chính trị cấp xã ở huyện
Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay”, (2005) luận văn
thạc sĩ của Trần Trung Trực.
- “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường ở thành phố Cần

Thơ hiện nay-Thực trạng và giải pháp”(2005) luận văn thạc sĩ của Phan
Thị Thúy Vân.
- “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Vĩnh Cửu, tỉnh
Đồng Nai giai đoạn hiện nay” (2005); luận văn thạc sĩ của Đào Văn Hội.
- “Thực hiện chính sách cán bộ đối với đội ngũ cán bộ xã ở Thành phố
Hà Nội giai đoạn hiện nay” (2010); luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Mai.
- “Nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ chủ chốt hệ thống chính trị
cấp xã ở tỉnh Hải Dương giai đoạn hiện nay”(2011); luận văn thạc sĩ của
Nguyễn Thị Kim Hoa.
- “Chất lượng đội ngũ cán bộ cấp xã diện Ban Thường vụ Huyện ủy
quản lý ở tỉnh Trà Vinh giai đoạn hiện nay”(2012); luận văn thạc sĩ của Phạm
Quốc Việt.
Các luận án, luận văn này đã nêu lên thực trạng đội ngũ cán bộ chủ
chốt ở cơ sở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, thành phố Hà Nội và thành
phố Hồ Chí Minh. Các tác giả đã đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm xây
dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở khu vực này đáp ứng yêu cầu, nhiêm vụ của
địa phương.


6

Bên cạnh đó, có một số luận văn thạc sĩ liên quan đến vấn đề dân tộc
Khmer nhìn từ góc độ xây dựng Đảng như:
“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các đảng bộ xã
vùng đông đồng bào Khmer tập trung ở tỉnh Kiên Giang hiện nay” của
Nguyễn Việt Dũng, (2005); “Nâng cao chất lượng và hiệu quả cơng tác tư
tưởng của Đảng ở vùng có đông người Khmer trong giai đoạn hiện nay” của
Nguyễn Sỹ Đệ; “Xây đội ngũ đảng viên ở các xã có đông đồng bào Khmer
tỉnh Trà Vinh giai đoạn hiện nay”, (2005) của Lâm Văn Rạng; “Quản lý đảng
viên là người Khmer ở các đảng bộ xã, thị trấn thuộc huyện Tịnh Biên, tỉnh

An Giang giai đoạn hiện nay”, của Nguyễn Sơn Hải, (2008); “Xây dựng đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã là người Khmer ở tỉnh Kiên Giang giai đoạn hiện
nay” của Danh Tha, (2009). Các luận văn đã làm rõ một số vấn đề lý luận và
thực tiễn liên đến vấn đề quản lý, phát triển đảng viên và xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã người Khmer. Phân tích thực trạng, đề xuất các giải
pháp có tính khả thi để nâng cao chất lượng cơng tác quản lý phát triển đảng
viên, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã người Khmer đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng hiện nay.
Các bài viết đăng trên báo và tạp chí
- “Vấn đề cán bộ ở cơ sở xã, phường, thị trấn” của Lê Đức Bình, Báo
Nhân Dân, tháng 7-2002, tr.3; “Nâng cao chất lượng cán bộ cơ sở: những vấn
đề lý luận và thực tiễn” của Hồi Nhân, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 12,
2002, tr.39, 52. Trong bài báo, tác giả đã nhấn mạnh vị trí, vai trị quan trọng
của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở; đồng thời phân tích thực trạng, nguyên nhân và
đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cấp xã.
Trần Văn Phòng: “Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính
trị hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5/2003; Vĩnh Trọng: “Qui hoạch cán
bộ lãnh đạo quản lý cơ sở”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 1 và 2/2004. Trong các


7

bài báo trên đã đưa ra tiêu chuẩn về đạo đức đối với người cán bộ hiện nay và
phân tích tầm quan trọng của công tác qui hoạch, cũng như trình bày vai trị của
việc mở rộng dân chủ nhằm phát huy trí tuệ của tập thể trong cơng tác cán bộ,
khắc phục tình trạng bố trí cán bộ theo cơ cấu, áp đặt chủ quan.
Dưới các góc độ khác nhau các cơng trình khoa học bàn về vai trị của
đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cấp cơ sở, tầm quan trọng,
nhiệm vụ, giải pháp của việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã nói
chung và cán bộ chủ chốt cấp xã người Khmer nói riêng, là nguồn tư liệu

quan trọng để tác giả tham khảo trong quá trình triển khai nghiên cứu đề tài.
Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một cơng trình nào đi sâu nghiên cứu vấn đề
xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt người Khmer của hệ thống chính trị cấp xã
ở Vĩnh Long hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn góp phần làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn, đánh giá
đúng thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt người Khmer của hệ thống
chính trị cấp xã ở tỉnh Vĩnh Long hiện nay. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất
những giải pháp khả thi để xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt người Khmer của
hệ thống chính trị cấp xã ở tỉnh Vĩnh Long đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính
trị hiện nay và những năm tiếp theo.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ vị trí, vai trị, tầm quan trọng, nội dung việc xây dựng đội ngũ cán
bộ chủ chốt người Khmer của hệ thống chính trị cấp xã ở Vĩnh Long hiện nay.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt người Khmer của hệ thống chính trị cấp xã ở tỉnh Vĩnh Long, chỉ ra
nguyên nhân của những ưu điểm, khuyết điểm, hạn chế, từ đó rút ra những
kinh nghiệm.


8

- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu có tính khả thi để
xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt người Khmer của hệ thống chính trị cấp xã
ở tỉnh Vĩnh Long đến năm 2020.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt người Khmer của hệ thống chính trị cấp xã ở tỉnh Vĩnh Long.

4.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn khảo sát việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt người Khmer
của hệ thống chính trị cấp xã ở tỉnh Vĩnh Long từ năm 2008 đến nay.
Phương hướng và giải pháp đưa ra trong luận văn có giá trị đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
xây dựng Đảng, về cán bộ và công tác cán bộ.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, cơ sở
ngành và chuyên ngành. Đồng thời, sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu khoa học khác như: phân tích - tổng hợp, lịch sử - lơgic, tổng kết
thực tiễn, thống kê, so sánh, đánh giá...
6. Những đóng góp khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
6.1. Những đóng góp khoa học của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ nội dung việc xây dựng đội ngũ cán bộ
chủ chốt người Khmer của hệ thống chính trị cấp xã; đề xuất một số giải pháp
có tính đặc thù để xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt người Khmer của hệ
thống chính trị cấp xã ở tỉnh Vĩnh Long trong tình hình mới.


9

6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo trong công tác cán bộ của các cấp uỷ, tổ chức đảng ở tỉnh Vĩnh Long,
hoặc có thể sử dụng những kết quả nghiên cứu đó làm tài liệu tham khảo
trong học tập, nghiên cứu môn xây dựng đảng ở Trường Chính trị tỉnh Vĩnh
Long và các Trung tâm bồi dưỡng chính trị ở các huyện, thị trong tỉnh.
7. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm
03 chương, 07 tiết.


10

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÂY ĐỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CHỦ CHỐT NGƯỜI KHMER CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP XÃ
1.1. Cấp xã và hệ thống chính trị cấp xã - quan niệm, vị trí, vai trị
và đặc điểm
1.1.1. Quan niệm về xã và cấp xã
Xã ở Việt Nam được hình thành và cơng nhận bắt đầu từ Thế kỷ thứ X,
khi họ Khúc giành được quyền tự chủ, thi hành những cải cách hành chính
biến Cơng xã thành đơn vị hành chính cấp cơ sở gọi là “xã”. Từ đây, cái tên
xã ở nước ta trải qua nhiều biến đổi, qua các triều đại phong kiến bản địa. Khi
xã được gọi tên và định hình như một cấp cơ sở của quản lý hành chính nhà
nước trong thời kỳ phong kiến, tuy về tính chất và quy mơ có nhiều lúc khác
nhau, nhưng nó đã trở thành một nét riêng tiêu biểu ở vùng nông thôn nước
nhà và đi vào lịch sử, vào cộng đồng người Việt trở thành nơi hội tụ cộng cư,
cộng đồng và cộng cảm của con người.
Theo Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gịn, thì xã
được hiểu là: “Đơn vị hành chính cơ sở ở nơng thơn, bao gồm một số thơn”
[42, tr.1832]. Nói đến cấp xã là nói đến đơn vị hành chính nhỏ nhất trong hệ
thống tổ chức hành chính của quốc gia, trong đó có các cộng đồng dân cư, có
bộ máy chính quyền, cùng với các thiết chế kinh tế, văn hóa và xã hội.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, quy định:
đơn vị hành chính của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được
phân định như sau: nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương; tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố trực thuộc tỉnh; thành

phố trực thuộc Trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn bị hành
chính tương đương; huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố
thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường [34, tr.58].


11

Từ đó cho thấy, các đơn vị hành chính địa phương được chia thành ba cấp:
- Cấp tỉnh gồm: tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
- Cấp huyện gồm: huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
- Cấp xã được gọi là cấp cơ sở, bao gồm: xã, phường, thị trấn.
Như vậy, xã là một đơn vị hành chính cuối cùng trong bốn cấp của hệ
thống quản lý hành chính, là cấp thấp nhất trong sự phân cấp quản lý, song
đây là cấp vô cùng quan trọng, là cấp mà mọi quyết định, mọi việc làm của nó
đều gắn bó mật thiết với đời sống nhân dân vùng nông thôn nước nhà. Hơn
thế nữa, cấp xã còn là chủ yếu và điển hình, bao trùm, phổ biến trong sự hình
dung về cấp cơ sở, về đời sống kinh tế - xã hội, văn hóa cũng như về hệ thống
chính trị ở Việt Nam.
Cấp xã là cơ sở của xã hội, là nơi cư trú, sinh sống của người dân, nơi
trực tiếp thực thi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, là cầu nối trực tiếp giữa dân với Đảng, giữa Đảng với dân. Cấp xã
còn là nơi đảm nhận một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, nhiệm vụ đảm bảo ổn
định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, đập tan mọi âm mưu thủ đoạn diễn
biến hịa bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc tổ
quốc Việt Nam XHCN. Chính vì lẽ đó, Đảng ta rất xem trọng cấp xã, xem
đây là nền tảng của Đảng và không ngừng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây
dựng cấp xã trở thành những pháo đài vững chắc nhất.
1.1.2. Hệ thống chính trị cấp xã và vị trí, vai trị, đặc điểm của hệ
thống chính trị cấp xã
1.1.2.1. Quan niệm về hệ thống chính trị cấp xã

Chính trị là một hiện tượng lịch sử, xuất hiện và tồn tại khi xã hội phân
chia thành các giai cấp, có đấu tranh giai cấp và sự hình thành nhà nước.
Chính trị là lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội có giai cấp, nó bao hàm
những quan hệ, hiện tượng, khía cạnh rất đa dạng, phức tạp. Chính vì lẽ đó,
đứng trên từng góc độ khác nhau, sẽ có quan niệm khác nhau về chính trị.


12

Theo từ điển bách khoa Triết học, chính trị “theo ngun nghĩa của nó
là những cơng việc Nhà nước, là phạm vi hoạt động gắn với những quan hệ
giai cấp, dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề
giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước” [5; tr.507].
Platơn cho rằng, chính trị là sự thống trị của trí tuệ tối cao, là nghệ thuật
cai trị, dẫn dắt xã hội con người với sự bằng lịng của người cai trị.
Theo Arixtốt, “chính trị là khoa học lãnh đạo con người, khoa học kiến
trúc xã hội của mọi công dân” [22; tr.11].
Riêng ở phương Đơng cổ đại, chính trị được hiểu là sắp đặt, lo liệu,
quản lý xã hội có kỷ cương, nề nếp. Khổng Tử khẳng định “chính trị là chính
đạo, chính danh” và đến Tơn Trung Sơn, ơng quan niệm “chính trị là quản lý
việc của dân chúng” [1; tr.11].
Có thể nhận thấy rằng, trong suốt thời cổ đại, cho đến thời kỳ trung,
cận đại, các nhà tư tưởng phương Tây, cũng như phương Đơng đã định nghĩa
về chính trị thơng qua việc cố gắng đi tìm một hình thức nhà nước lý tưởng để
cai trị đất nước có hiệu quả nhất, hợp lý nhất.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng khẳng định chính trị với nghĩa là cơng
việc của nhà nước, “là sự tham gia vào công việc nhà nước, là việc vạch
hướng đi cho nhà nước, là việc xác định hình thức, nhiệm vụ, nội dung của
nhà nước”[27; tr.404]; chính trị đó là quan hệ giữa những nhóm xã hội lớn mà
trước hết là quan hệ giai cấp, quan hệ giữa các dân tộc và quan hệ giữa các

quốc gia, trong đó quan hệ giữa các giai cấp là quan hệ cơ bản. Mỗi giai cấp,
trong quá trình đi đến các mục tiêu lợi ích kinh tế của mình bao giờ cũng đặt
trong mối quan hệ của nó với chính trị, đặc biệt là với chính quyền. Vì thế,
trung tâm của các quan hệ chính trị là cơng việc nhà nước, là việc giành, giữ
và thực thị quyền lực nhà nước, là việc xác định cách thức tổ chức, chính
sách, cơ chế hoạt động của nhà nước đối với toàn bộ đời sống xã hội. Thực


13

chất trong các quan hệ chính trị là giải quyết các quan hệ về quyền lực để đi
đến mục tiêu lợi ích kinh tế “chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”
hay “chính trị là kinh tế cơ đọng lại” [26; tr. 349].
Mặc dù cịn nhiều ý kiến khác nhau, song có thể hiểu một cách khái
quát: chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, dân tộc, quốc gia xoay
quanh vấn đề giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị, mà tập trung ở quyền
lực nhà nước.
Cũng giống như chính trị, quan niệm về hệ thống chính trị (HTCT)
xuất hiện cùng với sự xuất hiện của giai cấp, nhà nước nhằm thực hiện đường
lối chính trị của giai cấp, đảng phái cầm quyền. HTCT là một bộ phận kiến
trúc thượng tầng xã hội, bao gồm các thiết chế và thể chế có quan hệ với nhau
về mặt mục tiêu, chức năng trong việc thực hiện quyền lực chính trị.
Trước Mác chưa có khái niệm HTCT. Các nhà kinh điển Mác, Ăngghen,
Lênin vẫn chưa dùng khái niệm HTCT. Thay vào đó, các ơng sử dụng những
phạm trù: hình thức chính trị, thiết chế chính trị, thể chế chính trị, kết cấu
chính trị của xã hội hay tư tưởng chính trị và các thiết chế tương ứng… Sau
Mác, sớm hơn là ở các nước phương Tây tư bản chủ nghĩa (đầu những năm 50
của thế kỷ XX) và ở các nước xã hội chủ nghĩa cũ (Liên Xô muộn hơn vào đầu
những năm 80 của thế kỷ XX) mới xuất hiện khái niệm HTCT.
Ở các nước xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây quan niệm HTCT bao

gồm những tổ chức chính trị - xã hội mang bản chất của giai cấp cầm quyền
nhằm phục vụ cho quyền lực chính trị của giai cấp đó. Quan điểm này đã đồng
nhất phạm trù “HTCT” với phạm trù “hệ thống chun chính của giai cấp cầm
quyền”. Từ đó, cho rằng HTCT trong chủ nghĩa tư bản chính là hệ thống chun
chính tư sản, cịn HTCT chủ nghĩa xã hội là hệ thống chun chính vơ sản.
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về HTCT, nhưng khái niệm
hệ thống chính trị thường được hiểu theo hai nghĩa:


14

Theo nghĩa rộng, khái niệm “HTCT” được sử dụng để chỉ tồn bộ lĩnh
vực chính trị của đời sống xã hội với tư cách là một hệ thống hoàn chỉnh bao
gồm các tổ chức, các chủ thể chính trị, các quan điểm, quan hệ chính trị, hệ tư
tưởng và các chuẩn mực chính trị.
Theo nghĩa hẹp, khái niệm “HTCT” được sử dụng để chỉ hệ thống các cơ
quan, tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động mang tính chính trị trong xã hội
gồm nhân dân, các tổ chức chính trị, các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị
- xã hội có mối liên hệ trực tiếp hay gián tiếp với quyền lực chính trị. Trong đó,
nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị và là nền tảng của HTCT.
Tuy còn nhiều quan điểm khác nhau, nhưng dưới góc nhìn xây dựng
Đảng, có thể hiểu hệ thống chính trị là: một hệ thống các tổ chức chính trị
hợp pháp bao gồm đảng chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội,
cùng các quan hệ ràng buộc, gắn kết các tổ chức đó thành một chỉnh thể để
tác động vào các quá trình của đời sống xã hội nhằm củng cố, duy trì và phát
triển chế độ đương thời phù hợp với lợi ích của chủ thể giai cấp cầm quyền.
Ở Việt Nam, khái niệm “HTCT” lần đầu tiên được Đảng ta sử dụng trong
Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương (khoá VI) thay cho
khái niệm “hệ thống chun chính vơ sản”. Bắt đầu từ đó trở đi, khái niệm
HTCT được sử dụng rộng rãi không chỉ trong các nghị quyết của Đảng, các cơng

trình nghiên cứu khoa học mà cả trong sinh hoạt chính trị thường nhật.
HTCT xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện bản chất của nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ. Trong đó, Đảng Cộng sản Việt Nam có sứ mệnh lãnh đạo tồn bộ xã hội
thơng qua Nhà nước và các đồn thể nhân dân; Nhà nước có chức năng quản
lí mọi mặt đời sống xã hội, là cơng cụ, phương tiện để qua đó nhân dân thực
hiện quyền làm chủ của mình; các tổ chức chính trị-xã hội có chức năng tập
hợp các giai cấp, tầng lớp xã hội tham gia quản lí Nhà nước, quản lí xã hội.


15

Từ sự phân tích trên, có thể hiểu HTCT nước ta là hệ thống các tổ chức
gồm Đảng Cộng Sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, và các tổ chức chính trị - xã hội. Các mối quan hệ giữa chúng với nhau
hợp thành cơ chế dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo đảm và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân chủ yếu bằng nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng trong
xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh.
Cấu trúc của HTCT không chỉ là hệ thống các tổ chức và các quan hệ
về tổ chức mà còn là hệ thống các cấp độ và các quan hệ về cấp độ nhìn theo
hai chiều vận động từ dưới lên và từ trên xuống. Có các cấp độ của từng tổ
chức (Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đồn thể) quy định vị trí, vai trị, chức
trách, thẩm quyền của các cấp, của cấp trên với cấp dưới trong phạm vi một tổ
chức với sự tác động của bộ máy tương ứng với từng cấp.
HTCT được cấu thành bởi các tổ chức nêu trên cũng có các cấp độ này,
biểu hiện thành quan hệ tác động qua lại giữa Trung ương với địa phương và
cơ sở. Giữa các tổ chức lại hình thành quan hệ tác động lẫn nhau trong hệ
thống và trong từng cấp độ. Cụ thể, ở cấp Trung ương là quan hệ giữa Đảng
với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể. Ở cấp tỉnh là

quan hệ giữa Đảng bộ tỉnh với chính quyền tỉnh, Mặt trận và các đồn thể cấp
tỉnh. Ở cấp xã, là quan hệ giữa Đảng bộ xã với chính quyền và Mặt trận cùng
các đồn thể trong xã.
Như vậy, hệ thống chính trị cấp xã (xã, phường, thị trấn) là tồn bộ
các thiết chế chính trị cấp xã, gồm tổ chức Đảng, chính quyền và các tổ chức
chính trị - xã hội, cùng các quan hệ giữa chúng; được tổ chức và hoạt động
theo những nguyên tắc xác định, gắn bó hữu cơ, thống nhất với nhau về mục
đích, chức năng, nhiệm vụ nhằm thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý
của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.


16

1.1.2.2. Vị trí, vai trị và đặc điểm của hệ thống chính trị cấp xã
Nói đến HTCT là nói đến hệ thống tổ chức bộ máy, nội dung và
phương thức hoạt động của các tổ chức Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính
trị - xã hội. Tuy nhiên, sẽ khơng thể hình dung và làm rõ được tổ chức và sự
vận hành của HTCT nếu chỉ nghiên cứu về mặt tổ chức và hoạt động của từng
bộ phận cấu thành. Với tư cách là một hệ thống chỉnh thể, như một cơ thể
sống, tổ chức và hoạt động của từng bộ phận cấu thành HTCT được biểu hiện
bởi những quan hệ, liên hệ nội tại của bản thân nó cũng như những mối liên
hệ, quan hệ tác động qua lại giữa nó với các bộ phận, thực thể khác. Xem xét
những quan hệ trong tổ chức và hoạt động giữa các bộ phận và cả hệ thống
mới thấy rõ vị trí, vai trị và chức năng, nhiệm vụ của cả HTCT.
Hiện nay, HTCT Việt Nam có bốn cấp, Hiến pháp năm 2013 nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: nước chia thành tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương; tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố trực
thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc Trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và
đơn bị hành chính tương đương; huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành
phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường [34, tr.58].

Như vậy, xã là đơn vị hành chính - lãnh thổ, cấp cuối cùng, nhỏ nhất trong
HTCT bốn cấp của nước ta. Đó là một loại hình cơ sở hồn chỉnh có đầy đủ
các tổ chức trong HTCT, các tổ chức kinh tế, xã hội; ở đó diễn ra phần lớn
các hoạt động trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Mỗi cấp có vị trí, vai trị khác nhau, song, có hai cấp giữ vai trị trọng
yếu đó là cấp Trung ương có vai trị chiến lược, nơi trực tiếp đề ra cương
lĩnh, đường lối, nghị quyết và chỉ đạo thực hiện thắng lợi đường lối, chủ
trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước; cấp xã là nền tảng của cả HTCT.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh ln quan tâm chăm lo xây dựng cấp xã,
Người cho rằng “cấp xã là gần gũi dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp


17

xã làm được cơng việc thì mọi cơng việc đều xong xi” [28; tr.371]. Vì thế,
mặt dù ở vị trí thấp nhất, nhỏ nhất trong cả hệ thống, song HTCT cấp xã có
vai trị đặc biệt quan trọng, có những đặc điểm riêng thể hiện ở những khía
cạnh sau đây:
Thứ nhất, cấp xã là nơi trực tiếp tổ chức và lãnh đạo nhân dân thực
hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước và các
nhiệm vụ chính trị cụ thể ở mỗi cơ sở.
HTCT cấp xã có chức năng, nhiệm vụ thơng tin, tun truyền, giải
thích đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đến người dân;
giúp cho nhân dân hiểu rõ và từ đó có ý thức tự giác thực hiện; tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đây là nơi
hiện thực hóa các Nghị quyết của Đảng trong cuộc sống, là phản ánh trực tiếp
tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu của nhân dân với Đảng, Nhà nước, đồng thời
cũng là nơi khởi đầu của những sáng kiến, kinh nghiệm để bổ sung, điều
chỉnh các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước cho phù hợp với thực tiễn cuộc sống. Đồng thời, gần nhất với thực tiễn

và trực tiếp nhất với cuộc sống nên cấp xã là cấp trực tiếp tổ chức thực hiện
đường lối, chính sách - cấp hành động. Mọi đường lối chính sách của Đảng,
Nhà nước có trở thành hiện thực hay khơng đều tùy thuộc vào việc tổ chức
triển khai thực hiện ở cơ sở. Ngồi ra, cấp xã cịn là trường học thực tiễn để
giáo dục, rèn luyện cán bộ, làm cho cán bộ trưởng thành, phát huy được phẩm
chất, năng lực trong thực tiễn cơng tác, nhờ đó làm tăng uy tín, ảnh hưởng của
Đảng, Nhà nước đối với nhân dân.
Thứ hai, hệ thống chính trị cấp xã là nền tảng của chế độ.
Mặt dù là cấp thấp nhất, cấp cuối cùng trong hệ thống thang bậc quản lý,
nhưng cấp xã là mắt khâu vô cùng quan trọng đối với sự ổn định và phát triển
của toàn xã hội. Là cấp thấp nhất nhưng lại là tầng sâu nhất, là nền tảng của cả


18

HTCT, không thể thiếu trong sự vận hành tổng thể của cả HTCT. Chính quyền
cấp cơ sở là chính quyền trong lòng dân, các cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã
sống và làm việc hàng ngày cùng với dân, gần gũi trực tiếp và thường xuyên
với nhân dân. Thế nên, họ là những người hiểu biết rõ nhất tình hình tại cơ sở,
thấy được nhu cầu, nguyên vọng và những địi hỏi chính đáng của nhân dân.
Phẩm chất, năng lực của cán, công chức cấp xã, cũng như chất lượng hoạt động
của tổ chức đảng, chính quyền, đồn thể cơ sở có ảnh hưởng rất lớn đến tình
cảm, thái độ và niềm tin của dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.
Tổ chức đảng ở cấp xã là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ
sở, là tế bào đầu tiên, trực tiếp liên kết các đảng viên lại với nhau thành một tổ
chức, “là sợi dây chuyền liên kết Đảng với quần chúng” [29; tr.243], là điểm
tựa để Đảng thực hiện công tác tuyên truyền, động viên và tổ chức thực hiện
đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước trong nhân dân. Đồng
thời, thông qua phong trào cách mạng ở địa phương, cán bộ, công chức cấp ở
cơ sở đảng nắm được tâm tự, nguyện vọng của nhân dân phản ánh lại với

Đảng, để Đảng có những bổ sung, điều chỉnh, phát triển đường lối, chính sách
cho phù hợp.
Các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân, thống nhất, phối hợp hoạt động của các tầng lớp nhân dân nhằm
thực hiện đường lối, chính sách của đảng, pháp luật của nhà nước; giám sát
việc thực thi dân chủ; bảo vệ, chăm lo lợi ích chính đáng của nhân dân; tham
gia củng cố hệ thống chính trị, thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội, giữ vững an ninh quốc phòng ở cơ sở.
Thứ ba, HTCT cấp xã là tầng sâu nhất mà sự vận hành của thể chể từ vĩ
mô phải tác động tới. Cấp xã là địa chỉ quan trọng và mang tính quyết định
mà mọi chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước
phải tìm đến. Đường lối, Nghị quyết có đi vào cuộc sống thật sự hay không


19

phải được nhận biết ở chỗ dân có thấu hiểu và tin tưởng hay khơng, dân có
được tổ chức hành động trong phong trào rộng khắp để biến khả năng thành
hiện thực hay khơng. Đường lối chính sách có tác dụng, hiệu quả đến đâu,
phù hợp với thực tế ra sao được chứng thực bởi cuộc sống, tâm trạng, thái độ,
niềm tin và hành động thực tế của nhân dân.
HTCT cấp xã ở Vĩnh Long cũng có vị trí, vai trò và đặc điểm nêu trên.
Song, mỗi vùng, miền, mỗi địa phương lại không giống nhau về điều kiện tự
nhiên, vị trí địa lý, mật độ dân cư,... Điều đó cho thấy, bên cạnh những điểm
chung HTCT cấp xã ở Vĩnh Long còn nổi lên một số đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là, cấp xã ở Vĩnh Long gồm nhiều loại hình, từng loại hình có
những đặc trưng và thế mạnh về phát triển kinh tế - xã hội.
Hiện nay, HTCT xã ở Vĩnh Long có 10 phường, 6 thị trấn và 93 xã,
có thể chia thành các loại hình chủ yếu như: Các xã ở ven thành phố, thị
xã; các xã cù lao và các xã còn lại. Các xã ven thành phố, thị xã có nhiều

điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, trình độ dân trí cao, tốc độ
phát triển về mọi mặt khá nhanh, đặc biệt là q trình đơ thị hố, q trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng kinh tế nông nghiệp giảm dần, các
ngành tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ tăng nhanh, đời sống vật chất, tinh
thần của người dân được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, cùng với sự phát
triển của các mặt nêu trên, nhiều vấn đề phức tạp đang nảy sinh, như tệ nạn
xã hội có chiều hướng gia tăng, mơi trường sinh thái bị ô nhiễm đặc biệt là
các cụm, tuyến công nghiệp và các trang trại chăn ni; vấn đề giải phóng
mặt bằng phục vụ các cơng trình, dự án trên địa bàn, tình trạng khiếu kiện
của người dân, vấn đề an ninh trật tự… địi hỏi cấp uỷ, chính quyền và các
đồn thể phải giải quyết có hiệu quả.
Các xã cù lao tập trung ở hai huyện Long Hồ và Vũng Liêm, nằm dọc
theo sông Tiền, đất đai màu mở và trù phú. Kinh tế chủ yếu là trồng cây ăn


20

quả như chơm chơm, sầu riêng, măng cụt, xồi,...mang lại hiệu quả kinh tế
cao. Bên cạnh đó, với thế mạnh là vùng sông nước, trồng nhiều cây ăn quả
đặc sản, nên có một số doanh nghiệp và bà con nơi đây xây dựng mơ hình du
lịch miệt vườn, hàng năm thu hút được đơng đảo du khách trong và ngồi
nước đến với Vĩnh Long.
Mặt khác, do nằm trải dài dọc theo sông Tiền, nên nơi đây phát triển
mạnh mẽ nghề ni cá tra, cá basa có thương hiệu nổi tiếng khắp thế giới, đã
mang lại lợi ích kinh tế cao, giúp cho người dân cải thiện cuộc sống, thoát
nghèo, vươn lên khá giả.
Các xã còn lại chiếm tỷ lệ rất lớn so với tổng số xã của tỉnh, đây là các xã
xa đơ thị, nhìn chung là thuần nơng, chủ yếu là trồng lúa nước, hoa màu và các
làng nghề truyền thống như gốm sứ, đan lát lục bình,... Đời sống nhân dân tuy
được cải thiện, song vẫn còn nhiều khó khăn. Các xã thuần nơng ở Vĩnh Long

chủ yếu độc canh cây lúa, với trình độ thâm canh cao. Tính liên kết cộng đồng,
dịng họ, láng giềng được hình thành từ lâu đời, có nhiều điểm chiến tích trong
đánh đuổi ngoại xâm, chống thiên tai và giúp đỡ nhau lúc hoạn nạn. Tuy nhiên,
cũng có những tác động hạn chế nhất định hoạt động của cư dân, nhất là trong
công cuộc đổi mới, tăng cường dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền của
dân, do dân và vì dân, cũng như trong xây dựng nông thôn mới hiện nay.
Thứ hai, hầu hết các xã có đơng đồng bào Khmer sinh sống kinh tế - xã
hội chậm phát triển, vùng sâu và cịn nhiều khó khăn
Vĩnh Long là một trong 13 tỉnh của đồng bằng sơng Cửu Long có đơng
đồng bào người Khmer sinh sống. Cũng giống các tỉnh trong khu vực, người
Khmer ở Vĩnh Long cư trú khá tập trung ở 17 xã của 4 trên 8 huyện thị trong
tỉnh. Phần lớn đều là những xã cịn nhiều khó khăn, kinh tế kém phát triển, có
4 xã đặc biệt khó khăn, người Khmer chiếm hơn 43% dân số tồn xã, là xã
vùng nơng thơn khó khăn thuộc chương trình 135 của Chính Phủ.


×