1
BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
NGUYỄN VĂN THÀNH
VẤN ĐỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN
Ở NINH BÌNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS,TS.
HÀ NỘI - 2012
Nguyễn Bình Yên
2
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình khoa học
nào khác.
Tác giả
Nguyễn Văn Thành
3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 5
Chƣơng 1: TẦM QUAN TRỌNG, NỘI DUNG, YÊU CẦU CỦA VIỆC
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN NINH BÌNH TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY .............................................................................. 11
1.1. Tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Ninh Bình
trong giai đoạn hiện nay .................................................................................. 11
1.2. Nội dung, yêu cầu của việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Ninh Bình
trong giai đoạn hiện nay .................................................................................. 30
Chƣơng 2: GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN Ở NINH BÌNH
HIỆN NAY: THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA .......................................................................................................... 48
2.1. Thực trạng giáo dục đạo đức cho thanh niên Ninh Bình trong giai đoạn
hiện nay ........................................................................................................... 48
2.2. Nguyên nhân của thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với việc giáo dục
đạo đức cho thanh niên Ninh Bình hiện nay ................................................... 61
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN
NINH BÌNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ....................................... 76
3.1. Những phương hướng cơ bản cần quán triệt trong giáo dục đạo đức cho
thanh niên Ninh Bình hiện nay ....................................................................... 76
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho
thanh niên Ninh Bình hiện nay ....................................................................... 82
KẾT LUẬN .................................................................................................... 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 95
4
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Xã hội chủ nghĩa
:
XHCN
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
:
CNH, HĐH
Chủ nghĩa cộng sản
:
CNCS
Khoa học cơng nghệ
:
KHCN
Đồn viên thanh niên
:
ĐVTN
Thanh niên xung phong
:
TNXP
Trung học phổ thông
:
THPT
Kinh tế, xã hội
:
KT - XH
5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thanh niên là một lực lượng xã hội đặc biệt, có vai trị rất quan trọng
trong lịch sử, trong các giai đoạn cách mạng cũng như trong hiện tại và tương
lai. Khi đánh giá về thanh niên Hồ Chí Minh khẳng định: Thanh niên là người
chủ tương lai của nước nhà, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần
lớn là do thế hệ thanh niên. Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VII chỉ rõ: “Sự nghiệp đổi mới có thành cơng hay
khơng, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế
giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội
chủ nghĩa hay không phần lớn phụ thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc
bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên” [45, tr.7].
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã và đang đem
lại những kết quả to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cùng với
sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước đã và đang tạo điều kiện, cơ hội cho thanh niên được rèn luyện, phấn
đấu và khẳng định mình. Đại bộ phận thanh niên Việt Nam đã tích cực tham
gia, cống hiến, góp phần quan trọng vào sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh
đạo. Song, thực tế cũng cho thấy vẫn tồn tại một bộ phận không nhỏ thanh
niên có biểu hiện suy thối về lý tưởng và đạo đức, lệch lạc về lối sống, lười
lao động, học tập, rèn luyện, sa ngã vào các tệ nạn xã hội, sống ích kỷ, vụ
lợi… Đặc biệt, một bộ phận thanh niên đã vi phạm ở mức hết sức trầm trọng
quy phạm pháp luật và các nguyên tắc đạo đức cơ bản chỉ vì sự thúc đẩy của
việc thỏa mãn nhu cầu cá nhân tầm thường, không phù hợp với điều kiện của
gia đình và xã hội hiện nay.
Với vị trí quan trọng của mình, những hạn chế nói trên của thanh niên
khơng những làm suy giảm khả năng đóng góp, cống hiến của họ đối với sự
6
nghiệp phát triển đất nước mà còn tạo ra nguy cơ đe dọa sự sống còn của chế
độ trong tương lai gần khi lớp thanh niên hiện nay trở thành lực lượng chủ
đạo trong toàn xã hội.
Thực tiễn đang đặt ra hàng loạt vấn đề về thanh niên: Làm thế nào để
thanh niên trong tương lai có đủ năng lực và phẩm chất đáp ứng được yêu cầu
của đất nước đặt ra? Làm thế nào để họ có thể tự định hướng đúng, hình thành
và rèn luyện phẩm chất đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập
quốc tế hiện nay? Do vậy, việc giáo dục thanh niên nói chung và giáo dục đạo
đức cho thanh niên nói riêng là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu
cần được Đảng và toàn xã hội quan tâm. Yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, từng
bước thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh đã khách quan hoá tầm quan trọng và tính bức thiết của việc giáo dục
đạo đức cho thanh niên.
Ninh Bình là một trong những địa phương có số lượng dân cư tương đối
lớn, trong đó thanh niên chiếm khoảng 22,95% dân số toàn tỉnh (theo số liệu
thống kê năm 2011 . Ninh Bình nổi tiếng là vùng “địa linh, nhân kiệt”, có
nhiều anh hùng, nhà văn hóa lớn và những địa danh với những chiến công
vang dội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, lớp lớp các thế hệ thanh niên Ninh
Bình đã góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống
nhất Tổ quốc, xây dựng q hương Ninh Bình anh hùng nói riêng, đất nước
Việt Nam nói chung. Đó là truyền thống quý báu, là niềm tự hào của Đảng bộ
và nhân dân trong tỉnh đồng thời là nhân tố có tác dụng hết sức to lớn trong
việc lôi cuốn, giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng đối với thanh niên trong
giai đoạn hiện nay.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, tồn cầu hố, hội nhập với thế giới,
cũng như thanh niên cả nước, thanh niên Ninh Bình đang có nhiều cơ hội tốt
để phát huy tính năng động, chủ động, sáng tạo, vươn lên để khẳng định
7
mình. Song, mặt khác, trong thanh niên Ninh Bình đã nảy sinh nhiều hiện
tượng suy thoái đạo đức, lối sống, coi trọng đồng tiền, bất chấp đạo lý, đề cao
giá trị vật chất mà xem thường giá trị tinh thần tốt đẹp, dẫn đến một bộ phận
không nhỏ thanh niên rơi vào tội lỗi và các tệ nạn xã hội. Đó vừa là nguyên
nhân vừa là biểu hiện làm suy giảm nguồn lực tuổi trẻ của tỉnh, là nỗi nhức
nhối của từng gia đình, địa phương và xã hội.
Để thanh niên Ninh Bình có thể cùng với thanh niên cả nước phát triển
toàn diện, xứng đáng là chủ nhân tương lai của đất nước cần xây dựng và thực
hiện một chiến lược tồn diện, trong đó vấn đề giáo dục đạo đức là một trong
những vấn đề bức xúc, đòi hỏi phải được quan tâm, nghiên cứu một cách hệ
thống. Vì vậy, tơi chọn "Vấn đề giáo dục đạo đức cho thanh niên Ninh
Bình trong giai đoạn hiện nay" để làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sĩ
ngành triết học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xung quanh vấn đề giáo dục đạo đức cho thanh niên, những năm gần
đây đã có nhiều cơng trình nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau. Dưới đây
là một số cơng trình chủ yếu đã đề cập đến vấn đề nghiên cứu của luận văn:
- “Quan hệ kinh tế và đạo đức trong việc định hướng các giá trị đạo đức
hiện nay” của Nguyễn Thế Kiệt, Tạp chí Triết học số 6-1996.
- “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và vấn đề giáo dục, rèn luyện đạo đức
trong nền kinh tế thị trường” của Hồng Trung, Tạp chí Triết học, số 5-1998.
- “Vì sao Hồ Chí Minh lại đặc biệt chú trọng đến vấn đề đạo đức” của
Hồng Trung, Tạp chí Triết học số 4-2000.
- “Tình cảm đạo đức và giáo dục tình cảm đạo đức trong điều kiện hiện
nay” của Nguyễn Văn Phúc, Tạp chí Triết học, số 6-2000.
- “Giá trị đạo đức và sự biểu hiện của nó trong đời sống xã hội ” của
Mai Xuân Lợi, Tạp chí Triết học, số 3-2001.
8
- “Lý tưởng đạo đức và việc giáo dục lý tưởng đạo đức cho thanh niên
trong điều kiện hiện nay” của Đồn Văn Khiêm, Tạp chí Triết học, số 2-2001.
- “Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay”
của Trần Văn Phịng, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5-2003.
- “Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam và cái phổ biến toàn nhân loại
của đạo đức trong nền kinh tế thị trường” của Trần Ngun Việt, Tạp chí
Triết học, số 5-2002.
Các cơng trình nghiên cứu, bài viết nêu trên đã đề cập đến vấn đề đạo
đức; sự biến đổi đạo đức, giáo dục đạo đức một cách khá tồn diện góp phần
quan trọng vào việc phát triển nhận thức, đề xuất giải pháp để giáo dục, xây
dựng nền đạo đức mới ở nước ta nói chung và giáo dục đạo đức cho thanh
niên nói riêng. Tuy nhiên, có thể thấy rằng chưa có cơng trình nào đề cập một
cách cụ thể, trực tiếp đến vấn đề giáo dục đạo đức cho đối tượng thanh niên
trong một không gian, thời gian xã hội cụ thể là tỉnh Ninh Bình. Chính vì thế
việc đi sâu nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo đức cho thanh niên Ninh Bình
trong giai đoạn hiện nay khơng những khơng trùng lặp với các cơng trình đã
có mà cịn là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn: Trên cơ sở phân tích về tầm quan trọng,
yêu cầu, nội dung giáo dục đạo đức, đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức cho
thanh niên ở Ninh Bình trong trong thời kỳ đổi mới luận văn đề xuất phương
hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức
cho thanh niên ở Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn: Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn
cần giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ tầm quan trọng, nội dung, yêu cầu của việc giáo dục đạo đức
cho thanh niên ở Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay.
9
- Phân tích, đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức cho thanh niên ở Ninh
Bình, xác định nguyên nhân và những vấn đề đặt ra.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
hiệu quả giáo dục đạo đức cho thanh niên Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề giáo dục đạo đức cho thanh niên ở
Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay.
4.3. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng vấn đề giáo dục đạo
đức cho thanh niên ở Ninh Bình trong giai đoạn thực hiện đường lối đổi mới
của Đảng với trọng tâm là từ năm 2000 đến nay thông qua khảo sát tại một số
đơn vị cơ sở, trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp trong tỉnh.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về việc giáo dục đạo
đức cho thanh niên. Ngoài ra luận văn cịn kế thừa thành tựu của các cơng
trình khoa học đã được cơng bố có liên quan đến đề tài luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng tổng hợp các nguyên
tắc phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, các phương pháp nghiên cứu
khoa học phổ biến như phương pháp lơgíc, phân tích và tổng hợp, quy nạp và
diễn dịch, điều tra xã hội học nhằm thực hiện các nhiệm vụ và mục đích đã đề ra.
6. Đóng góp khoa học và ý nghĩa của luận văn
- Làm rõ tầm quan trọng và yêu cầu của vấn đề giáo dục đạo đức cho
thanh niên ở Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay.
- Trên cơ sở khái quát thực trạng giáo dục đạo đức cho thanh niên
Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay, bước đầu đề xuất những giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao hiệu quả của việc giáo dục đạo đức cho thanh niên ở
10
Ninh Bình trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho
các cơ quan Đảng, chính quyền, đồn thể, các trường Đại học, Cao đẳng,
Trung học chuyên nghiệp… của Ninh Bình trong nghiên cứu, xác định chủ
trương, giải pháp tiến hành giáo dục đạo đức cho thanh niên, sinh viên Ninh
Bình trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
Luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
11
Chƣơng 1
TẦM QUAN TRỌNG, NỘI DUNG, YÊU CẦU CỦA VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC CHO THANH NIÊN NINH BÌNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1. Tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Ninh Bình
trong giai đoạn hiện nay
1.1.1. Đạo đức, giáo dục đạo đức
- Đạo đức và đạo đức mới
+ Đạo đức:
Đạo đức là một hiện tượng xã hội, một hình thái ý thức xã hội đặc biệt,
một trong những giá trị tinh thần mà xã hội lồi người đã sáng tạo ra. Đó là
một hệ thống chuẩn mực, quan niệm, giá trị và nguyên tắc được hình thành
trong đời sống xã hội nhằm điều chỉnh hành vi của con người, qua đó điều
chỉnh mối quan hệ giữa người này với người khác, giữa cá nhân với xã hội,
được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, truyền thống, tập quán và sức mạnh của
dư luận xã hội. Vì vậy, trong suốt quá trình phát triển của lịch sử nhân loại,
vấn đề đạo đức luôn được xã hội quan tâm, đặc biệt là đối với các nhà triết
học. Cho đến nay đã có nhiều hệ thống lý thuyết tiếp cận đạo đức theo các
khuynh hướng khác nhau.
Các nhà triết học duy tâm khách quan như Platon và Hêghen lấy “ý
niệm” hoặc “ý niệm tuyệt đối” để giải thích nguồn gốc và bản chất của đạo
đức. Còn các nhà chủ nghĩa duy tâm chủ quan thì coi đạo đức như là năng lực
“tiên thiên” của lý trí con người. Ý chí hay “thiện ý”, theo cách gọi của
I.Cantơ, là một năng lực có tính nhất thành, bất biến, có trước kinh nghiệm,
nghĩa là có trước và độc lập với những hoạt động mang tính xã hội của con
người. Các nhà duy vật trước Mác đã nhận thấy đạo đức trong mối quan hệ
của con người nhưng lại coi con người chỉ là một thực thể trừu tượng và bất
biến; con người ở bên ngoài lịch sử, giai cấp, dân tộc và nhân loại.
12
Với cách tiếp cận khoa học, chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ ra rằng đạo đức
được hình thành và phát triển trong quá trình con người hoạt động, lao động
sản xuất, từ những quan hệ con người với con người trong quá trình hoạt
động. Sự hình thành những phẩm chất đạo đức của con người gắn với tình
cảm gia đình, với ý thức cộng đồng, giai cấp, dân tộc và nhân loại. Trong tác
phẩm Chống Đuyrinh, Ăngghen viết “Xét cho đến cùng, mọi học thuyết về
đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế xã hội
lúc bấy giờ” [23, tr.137]. Theo từ điển Tiếng Việt thì “Đạo đức là những tiêu
chuẩn, những nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi,
quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội” [48, tr.101].
Như vậy, các khái niệm về đạo đức đều phản ánh mối quan hệ tương trợ
của con người một cách trực tiếp hay gián tiếp nhằm mang lại lợi ích cho
người khác, cho xã hội trên cơ sở những chuẩn mực, những quy tắc định
hướng điều chỉnh hành vi của con người hướng tới mục tiêu thống nhất, đó là
mục tiêu đạo đức. Vì thế, có thể hiểu khái niệm đạo đức một cách khái quát
như sau: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những quy tắc,
nguyên tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và tự đánh giá cách ứng xử
của con người với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện với niềm
tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội” [14, tr.8].
Với tư cách là phương thức để điều chỉnh hành vi của con người trong
các mối quan hệ thì đạo đức có 3 chức năng là: nhận thức, giáo dục và điều
chỉnh hành vi. Các chức năng đều có vai trị, vị trí riêng và có quan hệ mật
thiết với nhau, tác động lẫn nhau. Trong đó chức năng giáo dục và điều chỉnh
hành vi có vai trị quan trọng nhất vì trên cơ sở nhận thức được chức năng
giáo dục đạo đức giúp con người hình thành nhân cách, định hướng giá trị và
các chuẩn mực đạo đức, điều chỉnh ý thức và hành vi cho phù hợp với lợi ích
của xã hội. Q trình điều chỉnh hành vi được tiến hành một cách tự giác của
13
các cá nhân trên cơ sở của những chuẩn mực đạo đức xã hội và nó cần được
sự quan tâm đánh giá, khen ngợi, khuyến khích hay phê bình của dư luận xã
hội trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức chung. Đây chính là chức năng xã
hội hết sức quan trọng của đạo đức. Qua đó mới tạo nên sự phát triển cân đối
trong quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội.
Bản chất của đạo đức là quan hệ lợi ích, biểu hiện ở sự quan tâm, tự
nguyện, tự giác của mỗi người đối với lợi ích của người khác và lợi ích của xã
hội, từ đó hình thành những phẩm chất, những đức tính của cá nhân thông qua
việc thực hiện các hành vi phù hợp với chuẩn mực, nguyên tắc, giá trị và yêu
cầu của xã hội.
Trong cấu trúc nhân cách, đạo đức là một bộ phận đặc biệt, là nét đặc
trưng, là thuộc tính căn bản. Theo tác giả Gbandzeladze: "Đạo đức là nội
dung cốt yếu của tính cách con người" [17]. Sự khác nhau giữa nhân cách này
hay nhân cách khác là khác nhau về nhiều mặt nhưng khác nhau về đạo đức là
mặt dễ nhận thức nhất.
Đạo đức còn là phạm trù xã hội có tính lịch sử. Trong mỗi giai đoạn
phát triển của lịch sử xã hội, nội hàm của khái niệm đạo đức về cơ bản ln
có sự thay đổi một cách phù hợp với sự thay đổi của tồn tại xã hội đã sinh ra
nó. Trong xã hội nguyên thủy, ý thức đạo đức, quan hệ đạo đức còn rất đơn
giản, nó được biểu hiện thơng qua các hành vi giao tiếp, ứng xử trong các mối
quan hệ xã hội trên cơ sở phong tục tập quán, truyền thống, thói quen, kinh
nghiệm, tín ngưỡng… Khi xã hội lồi người có sự phân chia giai cấp, xã hội
chiếm hữu nơ lệ ra đời thì đạo đức cũng mang tính giai cấp; trong xã hội hình
thành một nền đạo đức phức tạp hơn: đạo đức của giai cấp áp bức bóc lột và
đạo đức của giai cấp bị áp bức bóc lột. Những mâu thuẫn trong đạo đức của
các xã hội có đối kháng giai cấp cần phải được khắc phục, xóa bỏ bằng sự ra
đời của một nền đạo đức mới tiến bộ hơn - đạo đức cộng sản chủ nghĩa.
14
+ Đạo đức mới:
Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, để thực hiện thành công sự
nghiệp xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng XHCN, với mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh địi hỏi phải có
những con người mới với những phẩm chất cần thiết xứng đáng là nguồn
nhân lực, động lực của sự nghiệp CNH - HĐH. Đó là con người phát triển
tồn diện: Có tri thức khoa học, được đào tạo về chun mơn nghiệp vụ, có
năng lực sáng tạo trong tiếp thu và ứng dụng những thành tựu khoa học công
nghệ hiện đại cùng những phẩm chất đạo đức cần thiết - đạo đức mới CSCN.
Đạo đức cộng sản chủ nghĩa là đạo đức của giai cấp vơ sản cách mạng,
phản ánh những lợi ích căn bản của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh tự giải
phóng mình và giải phóng nhân loại khỏi ách áp bức bóc lột, bất cơng, đem lại
hạnh phúc chân chính cho con người. Vì vậy đạo đức cộng sản chủ nghĩa là
tiến bộ nhất, nhân đạo nhất, có tính cách mạng và khoa học, hoàn toàn đối lập
với đạo đức của giai cấp tư sản và các giai cấp bóc lột khác. Khi nói về đạo đức
cộng sản V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: “Đạo đức, đó là những gì góp phần phá hủy
xã hội cũ của bọn áp bức bóc lột và góp phần đồn kết tất cả những người lao
động xung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới” [21, tr.369].
Vận dụng sáng tạo lý luận đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực
tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trị, vị trí
của đạo đức mới - đạo đức cách mạng trong sự nghiệp cách mạng XHCN.
Người chỉ rõ: “Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì
sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải
có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân” [32, tr.252 - 253]. Người cho rằng, làm cách mạng để cải tạo một
xã hội cũ thành một xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng
là một nhiệm vụ rất nặng nề; vì vậy “người cách mạng phải có đạo đức cách
15
mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã khẳng định;
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa. Tức là
phải có những người có đạo đức xã hội chủ nghĩa” [31, tr.186].
Như vậy, đạo đức mới là đạo đức của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động tiến bộ, phán ánh thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc
và xây dựng chủ nghĩa xã hội, là tổng hòa các giá trị và chuẩn mực tạo nên nền
tảng nhân cách của con người mới, nó vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự
nghiệp cách mạng cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội XHCN.
Đạo đức mới kế thừa có phê phán đối với các nền đạo đức cũ, đặc biệt
là kế thừa những tinh hoa đạo đức truyền thống của dân tộc. Nhờ đó, đạo đức
mới khơng những không đối lập với các giá trị truyền thống mà còn là khâu
kết nối truyền thống với hiện tại và tương lai.
Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là
động cơ, là xúc cảm đạo đức thôi thúc các thế hệ, các cá nhân nỗ lực hoạt
động trên mọi lĩnh vực đề làm giàu cho bản thân và cho xã hội. Lợi ích cá
nhân chính đáng được thực hiện trong sự thống nhất biện chứng với lợi ích xã
hội. Sự quan tâm đến lợi ích xã hội, tới sự giàu có cho quê hương, đất nước là
tiêu chí đánh giá mọi hoạt động của cá nhân. Chính vì vậy, những giá trị đạo
đức như u nước, lịng nhân ái, ý thức cộng đồng, tình yêu lao động, tính
trung thực, tận tụy, ý chí tự lực, tự cường vẫn giữ vai trò chi phối mọi hoạt
động của con người, đặc biệt là đối với thanh niên. Yêu cầu của một nhân cách
phát triển toàn diện là những con người “có lý tưởng cao đẹp, ý thức, trách
nhiệm cơng dân, có tri thức, có sức khoẻ và lao động giỏi, sống có văn hố và
có tình nghĩa, giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính” [5, tr.83].
Trong luận văn này, đạo đức được đề cập đến là đạo đức mới, đạo đức
cách mạng, là đạo đức cần giáo dục cho thanh niên.
16
- Giáo dục đạo đức
Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự
phát triển thể chất và tinh thần của một đối tượng nào đó làm cho đối tượng
ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực theo yêu cầu chủ thể giáo
dục đặt ra. Giáo dục là con đường ngắn nhất, hiệu quả nhất để xã hội có thể
đạt được mục đích xây dựng những thế hệ người mới để tiếp tục lịch sử phát
triển của mình.
Giáo dục đạo đức là quá trình tác động đến đối tượng nhằm hình thành
ở họ ý thức, tình cảm, niềm tin, lý tưởng, hành vi đạo đức, đó là những phẩm
chất đạo đức cần thiết theo yêu cầu của xã hội trong từng giai đoạn phát triển
nhất định.
Giáo dục đạo đức là con đường, là cách thức cơ bản và chủ yếu để hình
thành những phẩm chất đạo đức cho đối tượng giáo dục.
Trước hết, giáo dục đạo đức là nâng cao nhận thức của đổi tượng giáo
dục về các giá trị, chuẩn mực đạo đức. Thông qua giáo dục đạo đức, những
quan niệm đạo đức, những chuẩn mực và nguyên tắc đạo đức từ yêu cầu xã
hội sẽ được chuyển giao cho đối tượng, giúp họ nhận thức nội dung, yêu
cầu, quy tắc đạo đức, điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với yêu cầu
của xã hội.
Cùng với việc nâng cao trình độ nhận thức các chuẩn mực, giá trị đạo
đức, giáo dục đạo đức là một phương thức để xây dựng những quan điểm,
phẩm chất đạo đức, giúp đối tượng hình thành quan niệm và lẽ sống theo yêu
cầu của xã hội; giúp cho họ nhận diện phê phán và đấu tranh loại bỏ những
biểu hiện vi phạm đạo đức, những quan niệm đạo đức sai lầm, lạc hậu, lệch
chuẩn hay khơng cịn phù hợp với điều kiện mới.
Giáo dục đạo đức còn bao hàm việc truyền lại cho thế hệ đang lớn lên
những giá trị đạo đức truyền thống. Trên cơ sở đó họ sẽ nhận thức được
17
những giá trị đích thực của cuộc sống hiện tại, đó là tính nhân bản, nhân ái và
nhân văn sâu sắc. Giáo dục đạo đức góp phần to lớn vào q trình nhân đạo
hố mơi trường sống, củng cố những phẩm chất tốt đẹp, những giá trị bền
vững. Chẳng hạn, thơng qua giáo dục chủ nghĩa u nước mà hình thành nên
niềm tự hào dân tộc, u hồ bình, độc lập, tự do, sẵn sàng đấu tranh, hy sinh
bảo vệ Tổ quốc và tôn trọng chủ quyền của dân tộc khác.
Thơng qua giáo dục đạo đức, hình thành những xúc cảm, tình cảm đạo
đức như tình yêu quê hương, đất nước, u thương con người, tơn trọng lao
động. Chính tình cảm đạo đức là động lực thúc đẩy thanh niên thực hiện
những hành vi đạo đức, là động lực làm tăng thêm sự phong phú, sâu sắc và
tinh tế của thế giới nội tâm, thúc đẩy con người vươn lên trong cuộc sống.
Giáo dục đạo đức khơng chỉ hình thành những phẩm chất đạo đức mà gắn liền
với việc hình thành và phát triển tài năng. Tài và đức, phẩm chất và năng lực
là hai mặt không thể tách rời. Tài năng được khẳng định và phát triển trên cơ
sở đạo đức. Khơng có những phẩm chất, những giá trị đạo đức làm cơ sở làm
nền tảng thì tài năng khó đem lại những giá trị chân chính, thậm chí có khi
dẫn đến những hành vi lệch lạc, phản đạo đức, gây tai họa cho người khác.
Tài năng được bộc lộ, được phát triển khi nó thực hiện có mục đích tích cực,
chủ động, sáng tạo, tạo ra những giá trị xã hội, với năng xuất, chất lượng và
hiệu quả cao, đó là biểu hiện về mặt đạo đức. Đồng thời, người có đạo đức
khơng chỉ thể hiện ở thái độ, động cơ mà khẳng định ở kết quả, hành động,
thống nhất giữa động cơ và hiệu quả. Như vậy, đạo đức được thể hiện ở tài
năng và tài năng phải dựa trên cơ sở đạo đức. Sự thống nhất giữa tài năng và
đạo đức đã khẳng định tầm quan trọng của giáo dục đạo đức, bao hàm cả sự
phát triển về tài năng, thống nhất giữa phẩm chất và năng lực là yêu cầu và
biểu hiện của nhân cách phát triển toàn diện của thanh niên hiện nay.
18
Tầm quan trọng của giáo dục đạo đức cho thanh niên Ninh bình hiện
nay được quy định bởi vai trị của đạo đức đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách thanh niên. Đồng thời, việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Ninh
Bình cần được quan tâm, chú trọng còn bởi đặc điểm và vai trò của thanh niên
Ninh Bình đối với sự phát triển kinh thế - xã hội.
1.1.2. Thanh niên Ninh Bình và sự cần thiết của việc giáo dục đạo
đức cho thanh niên Ninh bình trong giai đoạn hiện nay
- Khái niệm thanh niên
Thanh niên là lực lượng xã hội quan trọng, luôn mang trong mình
những tính đa dạng của thế hệ đang lớn. Vì thế, trong suốt tiến trình phát triển
của lịch sử nhân loại, vấn đề thanh niên đã được tất cả các quốc gia và nhân
loại coi là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt. Có rất nhiều khái niệm khác
nhau về thanh niên. Tùy thuộc vào từng cách tiếp cận của vấn đề này, vào
trình độ phát triển kinh tế chính trị, đặc điểm truyền thống, tuổi thọ bình
qn... mà mỗi quốc gia có quy định độ tuổi thanh niên khác nhau. Hầu hết,
các nước trên thế giới đều có sự thống nhất tuổi thanh niên bắt đầu từ 14 hoặc
15 tuổi và kết thúc ở tuổi nào thì có sự khác biệt. Có nước quy định là 25 tuổi,
có nước quy định là 30 và cũng có nước quy định là 40 tuổi.
Ở Việt Nam cũng có rất nhiều cách hiểu khác nhau về thanh niên:
“Thanh niên là một tầng lớp người - xã hội đặc thù, với độ tuổi nằm trong giới
hạn từ 14, 15 đến trên dưới 30 tuổi” [35, tr.179]. Tương lai độ tuổi của thanh
niên Việt Nam có thể sẽ tăng vì theo khoản 2 điều 1 của dự thảo luật thanh
niên, độ tuổi của thanh niên từ 16 đến 35. “Thanh niên là nhóm nhân khẩu xã hội đặc thù có độ tuổi nhất định được phân bố rộng khắp trong các giai
cấp, các tầng lớp xã hội, trong các ngành kinh tế xã hội của đất nước” [40].
Khi nói đến thanh niên Hồ Chí Minh đã đưa ra một khái niệm đầy hình ảnh:
“Một năm bắt đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa
19
xuân của xã hội” [28, tr.69]. Hồ Chí Minh cho rằng thanh niên là lứa tuổi
sống động nhất, mạnh mẽ và đẹp đẽ nhất của cuộc đời.
Để có thể có một khái niệm chung nhất và thống nhất về thanh niên cần
có cách tiếp cận liên ngành khoa học. Thanh niên là đối tượng nghiên cứu đặc
thù, là lực lượng xã hội đặc biệt. Ở họ có những đặc điểm phát triển đạo đức
riêng, gắn liền với đặc trưng, tâm lý lứa tuổi, các phẩm chất tốt và xấu, tích
cực và hạn chế... tồn tại đan xen nhau, tác động qua lại với nhau.
Thứ nhất, thanh niên là một nhóm nhân khẩu xã hội đặc thù có độ tuổi
từ 14, 15 đến trên dưới 30 tuổi. Thanh niên dù xét bất cứ dưới góc độ nào,
phương diện nào cũng thuộc phạm trù con người, phạm trù xã hội. Họ là một
lớp người, một thế hệ sống trong cộng đồng xã hội với những đặc điểm
chung, riêng trong quan hệ với chính họ, với giai cấp và với xã hội.
Thứ hai, thanh niên là giai đoạn đang trưởng thành có khả năng phát
triển về trí tuệ và nhân cách mạnh mẽ cùng với sự phát triển nhanh chóng về
thể chất. Đây là giai đoạn đầu của người lớn, là những năm tháng sung sức
đẹp đẽ nhất của đời người và cũng có những đặc điểm tâm sinh lý đặc trưng
của lứa tuổi.
Về tâm lý, thanh niên luôn là những người giàu ước mơ, hồi bão, đầy
lịng nhiệt tình, hăng say, ý chí, nghị lực, ln có nhu cầu tìm hiểu, thích
khám phá, sáng tạo, giàu óc tưởng tượng, thích giao tiếp, thích tham gia các
hoạt động xã hội, thích cơng bằng, ghét bất cơng, có nhu cầu cao về tình bạn,
tình yêu nam nữ và lập gia đình. Bên cạnh sự dám nghĩ, dám làm là tính bồng
bột, thiếu kinh nghiệm, thậm chí cả sự liều lĩnh; giàu ước mơ, hồi bão và lạc
quan nhưng khi gặp thất bại thì hồi nghi, dao động, tự ti và chán nản; có tính
tự lập, tự khẳng định cao nhưng cũng dễ tự cao, tự đại, kiêu ngạo và nhầm lẫn
giữa hiện tượng và bản chất, giữa đúng và sai, thật và giả; họ có khát vọng về
tự do dân chủ nhưng cũng rất dễ có hành vi vơ chính phủ, vơ kỷ luật; giàu óc
20
tưởng tượng, nhạy cảm nhưng hay thần tượng hoá, dễ thay đổi, chính vì vậy
mà họ dễ tiếp thu những hệ tư tưởng này hay hệ tư tưởng khác kể cả tích cực
hay tiêu cực. Đây là một trong những điểm dễ bị kẻ xấu lợi dụng. Điều đó cho
thấy lứa tuổi thanh niên rất cần đến những tác động tích cực của xã hội.
Thanh niên, xét về bản chất, là đối tượng dễ giáo dục, dễ cảm hoá, dễ thuyết
phục, nhất là từ những tác động tinh tế của văn hoá.
Về sinh lý, lứa tuổi thanh niên được coi là một cấp độ phát triển hoàn
thiện về mặt thể chất. Sự hoàn thiện này thể hiện ở tất cả các mặt như chiều
cao, cân nặng, sự phát triển hoàn thiện của các cơ quan chức năng; hệ cơ, hệ
xương, hệ tuần hoàn, hệ thần kinh, hệ sinh dục... sự phát triển này là điều kiện
để thanh niên tự khẳng định vai trị, vị trí và trách nhiệm của mình trong xã hội.
Thứ ba, thanh niên là đối tượng có mặt ở tất cả các vùng miền, các thành
phần kinh tế, xã hội. Tuỳ theo môi trường hoạt động và đặc điểm nghề nghiệp
mà thanh niên được phân thành nhiều nhóm khác nhau, các đối tượng xã hội
khác nhau: thanh niên nông thôn, thanh niên công nhân, thanh niên học sinh sinh viên, thanh niên trí thức, thanh niên dân tộc, thanh niên tơn giáo... Mỗi
một nhóm này lại có đặc điểm nhu cầu, sở thích riêng, nguyện vọng riêng.
- Những đặc điểm chủ yếu của thanh niên Ninh Bình hiện nay
Hiện nay, Ninh Bình có khoảng 207.495 thanh niên độ tuổi từ 16 - 30,
chiếm 22,95% dân số và 39,5% lực lượng lao động xã hội, với nhiều thành
phần, trong đó thanh niên nơng thơn chiếm 61,5% tổng số thanh niên của tỉnh.
Đây là lực lượng lao động đông đảo góp phần khơng nhỏ vào q trình CNH HĐH đất nước nói chung và của tỉnh nói riêng.
Ngồi những đặc điểm của thanh niên nói chung, do ảnh hưởng của điều
kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống lịch sử, văn hoá, phong
tục, tập quán của địa phương, thanh niên Ninh Bình có những đặc điểm riêng.
21
Một là, thanh niên Ninh Bình, thế hệ được sinh ra và lớn lên ở cực nam
đồng bằng Bắc Bộ, nơi tiếp giáp giữa Bắc Bộ với Trung Bộ, hầu hết họ đều
xuất thân từ những gia đình nơng thơn, vốn giàu truyền thống cách mạng, nên
họ luôn là những người u chuộng hồ bình, ghét chiến tranh, thích cơng
bằng, ưa dân chủ, chuộng cái mới. Được sự giáo dục của gia đình, nhà trường
và xã hội, thanh niên Ninh Bình ln mang trong mình niềm tự hào về truyền
thống quê hương, họ đã và đang phát huy truyền thống của cha anh, ln ln
là lực lượng xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, thanh niên Ninh Bình hiện nay có trình độ học vấn cao hơn
trước; khiêm tốn, ham hiểu biết, chịu khó học hỏi và giúp nhau tiến bộ; có
tinh thần tương thân tương ái, giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau, sống có tình có
nghĩa và ln vượt khó khăn vươn lên. Đại đa số thanh niên đồng tình và ủng
hộ sự nghiệp đổi mới của Đảng, ham học, ham làm, sẵn sàng tình nguyện thực
hiện những nhiệm vụ khó khăn vì lợi ích của xã hội. Tính năng động, sáng
tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, chịu thương, chịu khó... đã
giúp họ vươn lên lập thân, lập nghiệp và khẳng định mình trước sự phát triển
của xã hội. Nhiều thanh niên đã nhanh chóng nhập cuộc và đã tìm thấy chỗ
đứng của mình trong học tập, nghiên cứu và ứng dụng KHCN, lao động sản
xuất, phát huy tốt khả năng, sức lực của mình vì sự phát triển của quê hương,
đất nước. Nhiều người đã vượt qua được những khó khăn, thử thách khắc
nghiệt của cuộc sống, trở thành những người có học vấn cao, những người trí
thức giỏi, những nhà quản lý đầy năng lực, những chủ doanh nghiệp lớn có uy
tín, làm ăn phát đạt. Chính những con người đó đã làm rạng danh truyền
thống của quê hương, đất nước, trở thành những tấm gương tiêu biểu cho thế
hệ thanh niên trong tỉnh và cả nước.
Ba là, kế tiếp truyền thống cách mạng của thế hệ cha anh, tuổi trẻ Ninh
Bình mang trong mình hồi bão lớn lao, khát khao lý tưởng, ham muốn hoạt
22
động, giàu nghị lực phấn đấu. Lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tinh thần
đoàn kết, ý thức cộng đồng ngày càng được củng cố; tinh thần xung phong
tình nguyện, tính tích cực chính trị - xã hội của thanh niên Ninh Bình được
khơi dậy và phát huy. Với ý thức tự lực, tự cường, thanh niên Ninh Bình luôn
chủ động nỗ lực vươn lên trong cuộc sống để khẳng định mình.
Bốn là, Được thiên nhiên ưu đãi nên con người Ninh Bình nói chung và
thanh niên nói riêng có cách sống thống đạt, nhiệt tình, khơng vụ lợi, sống
hết mình vì bạn bè, nhưng cũng rất sịng phẳng và nghiêm khắc trong công
việc. Mạnh mẽ, thẳng thắn, trung thực là những nét tính cách nổi trội của
thanh niên Ninh Bình nói riêng, con người Ninh Bình nói chung.
Nhân dân Ninh Bình chịu thương, chịu khó, thơng minh, cần cù, sáng
tạo trong lao động, học tập, anh dũng, kiên cường, bất khuất trong đấu tranh
chống kẻ thù xâm lược, ngoan cường, vật lộn chiến thắng thiên tai; luôn luôn
nỗ lực vươn lên trong cuộc sống, trong lao động, học tập cũng như trên mọi
lĩnh vực. Ninh Bình vốn nổi tiếng là vùng “đất học”. Những phẩm chất đạo
đức quý báu của con người nơi đây đã được hình thành, tơi luyện và khẳng
định trong gian khó. Lớp lớp thanh niên Ninh Bình lớn lên trên mảnh đất quê
hương đã được thừa hưởng, tiếp thu những giá trị truyền thống quý báu.
Những giá trị truyền thống ấy góp phần tạo nên nét tính cách cứng rắn, bản
lĩnh, nghị lực và sự nhiệt thành của tuổi trẻ Ninh Bình.
Năm là, Những hạn chế trong điều kiện tự nhiên, lịch sử và kinh tế xã
hội mang tính đặc thù của địa phương cũng in đậm dấu trong thanh niên Ninh
Bình. Điều kiện tự nhiên có nhiều ưu đãi nhưng cũng khơng kém phần khắc
nghiệt như nắng nóng, hạn hán, bão lụt... Nhân dân Ninh Bình ln phải vật
lộn chống thiên tai, lúc ruộng đồng khô hạn nứt nẻ, lúc lại ra sức chống lại
thiên tai lũ lụt, người dân Ninh Bình quanh năm lam lũ, vất vả, cực nhọc “bán
mặt cho đất, bán lưng cho trời” mà vẫn khó khăn, thiếu thốn. Sự khó khăn, vất
23
vả ấy làm cho con người nơi đây luôn bộc trực đến nóng nảy có phần cứng
nhắc, vụng về trong giao tiếp, ứng xử. Một bộ phận thanh niên ở Ninh Bình
cũng bộc lộ những thiếu hụt về tri thức, mặt bằng chung về trình độ học vấn,
việc làm, tay nghề, kỹ thuật của một bộ phận thanh niên Ninh Bình chưa đáp
ứng được yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước. Đặc biệt trên
lĩnh vực đạo đức, lối sống, bộc lộ biểu hiện những phong thái, hành vi lời
nói... trái với chuẩn mực đạo đức, nếp sống văn hố của cộng đồng, của dân
tộc. Đó là hiện tượng thiếu ý thức chính trị xã hội, thiếu cầu tiến, chây lười
trong lao động và học tập, tham gia vào những tệ nạn xã hội, thái độ ngang
ngạch, xấc xược, nói năng thơ lỗ, tục tằn, thiếu văn hố.
Trong q trình vận động của xã hội hiện nay cũng có khá nhiều thanh
niên, hoặc khơng thích nghi được với những quy tắc khắt khe và nhiều lúc
còn “tàn bạo” của nền kinh tế thị trường, hoặc bị tập nhiễm những mặt tiêu
cực và sai lệch của nó mà đã trở nên lạc lõng hoặc mất phương hướng. Một
nhóm thanh niên đã bi quan chán nản khi khơng đủ sức để vươn lên đáp ứng
những đòi hỏi ngày càng cao của thực tế cuộc sống. Một số khác, trước những
thay đổi phức tạp ở môi trường sống xung quanh, đã khơng đủ sức mạnh để
vượt qua chính mình, bị sa ngã, tha hoá về đạo đức lối sống. Tư tưởng bằng
lòng với cuộc sống hiện tại, thiếu ý chí khắc phục khó khăn để vươn lên thốt
khỏi nghèo nàn lạc hậu... còn tồn tại trong một bộ phận không nhỏ thanh niên.
Điều kiện kinh tế của tỉnh tuy có phát triển nhưng với tốc độ chậm dẫn đến
tính trì trệ, bảo thủ, kém năng động, sáng tạo vẫn diễn ra trong các thế hệ, do
vậy vẫn còn tồn tại trong họ cách sống, quan điểm và cách nghĩ lạc hậu.
Những ưu điểm và tồn tại, những mặt tích cực và những mặt còn hạn
chế cả khách quan và chủ quan trong từng đặc điểm, tính cách của thanh niên
ở Ninh Bình đặt ra yêu cầu phải quan tâm, chú trọng đến việc giáo dục đạo
đức nhằm phát huy mặt tích cực và khắc phục những mặt cịn hạn chế của
24
thanh niên ở Ninh Bình, góp phần xây dựng thế hệ trẻ vừa đức vừa tài đáp
ứng yêu cầu đất nước trong giai đoạn hiện nay.
- Sự cần thiết của việc giáo dục đạo đức cho thanh niên Ninh Bình
trong giai đoạn hiện nay
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, đạo đức đang là một hiện
tượng hết sức phức tạp, quan niệm về đạo đức đang có nhiều biến đổi, có
nhiều yếu tố mới nảy sinh và phát triển cùng với các điều kiện kinh tế, vật
chất xã hội. Do đó, muốn xây dựng và phát triển con người với tư cách là
nguồn nhân lực - chủ thể tồn diện của q trình phát triển đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa tất yếu phải tiến hành giáo dục đạo đức đồng thời với
các quá trình kinh tế xã hội khác. Giáo dục đạo đức là phải hướng con người
tới những giá trị đích thực của đời sống xã hội, làm cho họ nhận thức và thể
hiện được những chuẩn mực đạo đức xã hội qua những hành vi đạo đức của
mình. Có thể khái qt sự cần thiết của giáo dục đạo đức mới cho thanh niên
nói chung, thanh niên Ninh Bình nói riêng như sau:
Một là, giáo dục đạo đức góp phần xây dựng, phát triển toàn diện nhân
cách cho thanh niên, đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH,
HĐH, phát triển địa phương và đất nước.
Khi bàn về bản chất con người, C.Mác đã chỉ rõ: “trong tính hiện thực
của nó, bản chất con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội” [22, tr.11].
Như vậy, C.Mác khẳng định rằng các quan hệ xã hội tham gia vào việc hình
thành bản chất con người, cũng như vai trò của thực tiễn và hoạt động thực
tiễn đối với sự bộc lộ những sức mạnh bản chất con người. Con người là thực
thể sinh học - xã hội mang bản chất xã hội; sự phát triển của nhân cách phản
ánh trình độ phát triển về mặt xã hội, phản ánh mức độ cá thể hóa, tính độc
đáo trong mỗi cá nhân con người. Nhân cách con người được hiểu một cách
toàn diện gồm cả đạo đức và tài năng, năng lực thể chất và năng lực tinh thần,
25
là sự thống nhất giữa mặt cá nhân và mặt xã hội trong mỗi cá nhân con người
cụ thể.
Trong điều kiện hiện nay, để thực hiện mục tiêu xây dựng CNXH địi
hỏi phải có con người với tư cách là nguồn nhân lực, động lực của sự nghiệp
CNH, HĐH phải là con người phát triển toàn diện. Nhân cách thanh niên
được hình thành và phát triển trong học tập, lao động và rèn luyện. Thơng qua
các hình thức hoạt động mà thanh niên nhận thức được mối quan hệ giữa lợi
ích cá nhân và lợi ích xã hội. Động cơ thúc đẩy cá nhân hoạt động là lợi ích
của chính họ. Những lợi ích cá nhân được thực hiện một cách chân chính mới
là động lực phát triển nhân cách cá nhân. Hiện nay, những tác động mạnh mẽ
của cơ chế thị trường đã cho thấy: Nếu con người chưa thực sự trưởng thành
về phẩm chất đạo đức, ý thức pháp luật, sự giác ngộ về nghĩa vụ và trách
nhiệm thì mỗi người nói chung và thanh niên nói riêng chưa thể trở thành một
nhân cách phát triển và hoàn thiện. Do đó việc giáo dục đạo đức, rèn luyện
những phẩm chất đạo đức là điều kiện, là cơ sở cho sự phát triển toàn diện
nhân cách thanh niên.
Chúng ta đều biết, tình cảm đạo đức chính là động lực của hành vi đạo
đức, nó là một đặc trưng hết sức bản chất của con người, của nhân cách đạo đức,
nó được biểu hiện như là những phản ứng có điều kiện của tình cảm con người
đối với những hiện tượng đạo đức. Giáo dục đạo đức mới cho thanh niên trước
hết phải nhằm giáo dục tình cảm đạo đức cho họ - đó là tình cảm với gia đình,
với thầy cơ, với bạn bè… giáo dục tính trung thực trong học tập, rèn luyện, lịng
dũng cảm, kính trọng và giúp đỡ lẫn nhau trong học tập và lao động.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn thanh niên: “Phải tự nguyện, tự
giác, xem công tác học tập cũng là một nhiệm vụ mà người cách mạng phải
hoàn thành cho được”. “Khơng được lùi bước trước bất kỳ khó khăn nào
trong học tập”. “Phải đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong học tập” [49, tr.256].