Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Đặc điểm ngôn ngữ tin trên báo mạng điện tử ở việt nam hiện nay (khảo sát các báo điện tử vietnam plus (bản tiếng việt), vnexpress, dantri)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.81 MB, 119 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

TẠ TUẤN ANH

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TIN TRÊN BÁO MẠNG
ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
(Khảo sát các báo điện tử Vietnam Plus (Bản tiếng Việt),
VnExpress, Dantri)

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

HÀ NỘI – 2016


1

v

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

TẠ TUẤN ANH



ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TIN TRÊN BÁO MẠNG
ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
(Khảo sát các báo điện tử Vietnam Plus (Bản tiếng Việt),
VnExpress, Dantri)

Chuyên ngành: Báo chí
Mã số

: 60 32 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ THỊ KIM HOA

HÀ NỘI – 2016


2
Luận văn đã đƣợc chỉnh sửa theo khuyến nghị của Hội đồng chấm
luận văn thạc sĩ.
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG

PGS.TS Đỗ Thị Thu Hằng


3

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tơi.

Luận văn được hồn thành dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Vũ Thị Kim
Hoa. Tài liệu, số liệu trích dẫn trong luận văn là trung thực và đáng tin cậy.
Kết quả nghiên cứu khơng trùng lặp với những cơng trình đã được công bố
trước đây.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Tạ Tuấn Anh


4
DANH SÁCH CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1

Tỷ lệ tin có kèm ảnh, video, biểu đồ trên mỗi tờ báo khảo sát

42

Bảng 2.2

Tỷ lệ tin theo số từ trên mỗi tờ báo khảo sát

47

Bảng 2.3

Tính khn mẫu của tin trên mỗi tờ báo khảo sát

57


Bảng 2.4

Tính liên kết của tin trên mỗi tờ báo khảo sát

59

Bảng 2.5

Tính tương tác của tin trên mỗi tờ báo khảo sát

61

Bảng 2.6

Tính hội nhập của tin trên mỗi tờ báo khảo sát

62


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỬ DỤNG NGÔN
NGỮ TIN TRÊN CÁC TÁC PHẨM BÁO CHÍ........................................... 7
1.1. Nhận diện ngơn ngữ tin .......................................................................... 7
1.2. Ngôn ngữ tin trên báo mạng điện tử ..................................................... 22
Chƣơng 2: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TIN QUA KHẢO SÁT CÁC BÁO
MẠNG ĐIỆN TỬ VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................ 37
2.1 Một số nét về các báo mạng điện tử VietnamPlus (Bản tiếng Việt),
VnExpress, Dantri ........................................................................................ 37
2.2 Đặc điểm ngôn ngữ tin trên các báo mạng điện tử VietnamPlus (Bản

tiếng Việt), VnExpress, Dantri .................................................................... 40
2.3. Ưu điểm và hạn chế trong việc sử dụng ngôn ngữ tin trên các báo mạng
điện tử VietnamPlus (Bản tiếng Việt), VnExpress, Dantri ......................... 64
Chƣơng 3 : DỰ BÁO XU THẾ PHÁT TRIỂN CỦA BÁO MẠNG ĐIỂN
TỬ, CỦA CÔNG CHÚNG BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ VÀ ĐỀ XUẤT CÁC
GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG HIỆU QỦA NGÔN NGỮ TIN TRÊN BÁO
MẠNG ĐIỆN TỬ VIỆTNAM HIỆN NAY ................................................. 70
3.1 Xu thế phát triển của báo mạng điện tử ở Việt Nam ............................. 70
3.2 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của việc sử dụng ngôn ngữ tin trên
báo mạng điện tử.......................................................................................... 77
3.3 Đầu tư nâng cấp ứng dụng ngơn ngữ đa phương tiện ........................... 87
3.4 Tiếp tục hồn thiện các tịa soạn theo mơ hình hội tụ ........................... 88
KẾT LUẬN .................................................................................................... 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 95
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 99


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, khoa học kỹ thuật, phương
tiện kỹ thuật, trong những năm cuối của thế kỷ XX đã xuất hiện những loại
hình truyền thơng mới, có khả năng đáp ứng tốt nhất nhu cầu khách quan về
thông tin – giao tiếp của con người và xã hội. Mạng internet ra đời đã xuất
hiện loại hình báo chí mới – báo mạng điện tử. Do ra đời muộn và hoạt động
dựa trên mạng internet nên báo mạng điện tử đã tận dụng được những lợi thế
của các loại hình báo chí khác (báo in, phát thanh, truyền hình), đặc biệt là lợi
thế về khả năng cập nhật thông tin, khả năng tương tác và các hình thức biểu
đạt thơng tin. Thêm nữa, là một loại hình báo chí độc lập nên báo mạng điện
tử có những đặc trưng và yêu cầu khác trong quá trình sản xuất, cung cấp

thông tin.
Đã hơn 20 năm kể từ khi phiên bản báo mạng điện tử đầu tiên trên thế
giới ra đời. Tờ báo mạng điện tử đầu tiên được biết đến trên thế giới là tờ
Chicago Tribune, ra đời tháng 5/1992, đánh dấu sự ra đời của báo mạng điện
tử hay còn các cách gọi khác như báo điện tử, báo trực tuyến, báo mạng, báo
internet...
Ở Việt Nam, VnExpress ra đời năm 2001, trở thành tờ báo điện tử
thuần túy đầu tiên, hướng đến đối tượng độc giả là người Việt Nam cả trong
nước và quốc tế. Ngày nay báo mạng điện tử đã trở thành món ăn tinh thần
khơng thể thiếu hàng ngày với nhiều triệu dân Việt Nam.
Báo mạng điện tử phá vỡ tính định kỳ của báo chí cùng với những vấn
đề khi phát hành như cần một hệ thống nhà in hay máy phát sóng mà đơn giản
chỉ cần máy tính nối mạng internet, cũng vì vậy tính thời sự và thơng tin đa
dạng, phong phú được đẩy mạnh.


2
Với báo chí. ngơn ngữ là cơng cụ khơng thể thiếu bởi báo chí sử dụng
ngơn ngữ như phương tiện cơ bản để truyền tải thông tin tới công chúng.
Trong khi đó, báo mạng điện tử có nội dung thơng tin phong phú và đa dạng
thì việc sử dụng ngơn ngữ để truyền tải thông tin càng trở nên quan trọng.
Báo mạng điện tử lưu hành trên mạng internet toàn cầu nên tốc độ chuyển tải
đồng thời từ nơi này đến nơi khác trên trái đất, vì vậy đăng tải thông tin sai sẽ
khiến hàng ngàn người ở khắp nơi thu nhận sai.
Trong thời đại bùng nổ thông tin, Báo mạng điện tử muốn thu hút độc
giả phải nâng cao cả chất lượng, cả nội dung hình thức, đặc biệt là chú trọng
đến việc sử dụng từ ngữ, cách diễn đạt, bởi viết gì đã là quan trọng, nhưng
"viết cho ai" như Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã dạy cịn quan trọng hơn.
Tin là một thể loại của báo chí mang tính thời sự cao, nhất là tin trên
báo mạng điện tử. Vì vậy việc nghiên cứu đặc điểm ngơn ngữ tin cả về văn

bản (câu chữ, cách trình bày, lỗi chính tả…) cũng như ngơn ngữ phi văn tự
(ảnh, âm thanh, video, đồ họa…) trên báo mạng điện tử để truyền tải thơng tin
nhanh nhất, chính xác nhất, nhiều nhất, hấp dẫn nhất… đến độc giả là việc rất
quan trọng trong việc nâng cao chất lượng của báo mạng điện tử.
Với mong muốn học hỏi để hiểu rõ và làm chủ ngơn ngữ báo chí, với
những đặc điểm, vai trị, các dạng cơ bản của cơng cụ quan trọng, thể hiện
nghiệp vụ này, tác giả luận văn chọn đề tài “Đặc điểm Ngôn ngữ tin trên báo
mạng điện tử ở Việt Nam hiện nay”, (khảo sát các báo điện tử VietnamPlus
(bản tiếng Việt), VnExpress, Dantrí năm 2014).
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu về ngơn ngữ báo chí. Về
ngơn ngữ báo chí nói chung có các cơng trình của các tác giả: Nguyễn Tri
Niên ” [29 ] đi sâu nghiên cứu đặc điểm của ngơn ngữ báo chí và đi đến nhận
định vấn đề thơng tin báo chí ln ln mới, địi hỏi ngơn ngữ thể hiện phải
phục vụ đắc lực cho u cầu có tính ngun tắc về đặc điểm loại hình, những


3
mối quan hệ của ngơn ngữ báo chí, cách tiếp cận hiện thực đặc thù hay quy
trình thơng tin của ngơn ngữ báo chí như các yếu tố, chức năng của các yếu
tố, các mơ hình thơng tin; Vũ Quang Hào ” [18] nghiên cứu ngôn ngữ chuẩn
mực của báo chí, ngơn ngữ các phong cách báo chí, ngơn ngữ của tên riêng
trên báo chí, ngơn ngữ tít báo, ngơn ngữ phát thanh, ngơn ngữ tin quốc tế đối
nội; Hồng Anh ” [2]. Nghiên cứu những kỹ năng về sử dụng ngôn ngữ trong
truyền thông đại chúng”; Vũ Thị Hải Anh ” [4]. Nghiên cứu đặc điểm ngơn
ngữ phóng sự trên báo in, nhận diện những đặc điểm ngôn ngữ phóng sự và
những lỗi sử dụng ngơn ngữ trong các bài phóng sự trên các báo in Thanh
niên, Tiền phong và Tuổi trẻ... đồng thời cũng đưa ra một số giải pháp nâng
cao hiệu qủa sử dụng ngôn ngữ trên báo in. Các tác giả nói trên nghiên cứu
chủ yếu khía cạnh đặc điểm ngơn ngữ báo chí về mặt câu chữ hay nói chung,

về các loại hình báo chí và chủ yếu là báo in chứ không đề cập đến báo mạng
điện tử.
Cịn có rất ít nghiên cứu về ngơn ngữ báo chí trên báo điện tử. TS
Hồng Anh” [3] đã chỉ ra các đặc điểm của ngôn ngữ báo mạng điện tử nói
chung. Tác giả giải thích ngơn ngữ là sự kết hợp của ngôn ngữ thuộc nhiều
loại hình báo chí, trên cơ sở lấy chữ viết làm hạt nhân (ngôn ngữ đa phương
tiện, song gần gũi hơn cả với ngôn ngữ báo in; đặc điểm ngắn gọn, rõ ràng, dễ
hiểu; thể hiện tính thời sự cao nhất trong các loại hình báo chí; các thành tố
ngơn ngữ được trình bày linh hoạt, phục vụ cho liên kết đa chiều; ngơn ngữ
thể hiện tính hội nhập cao; ngơn ngữ mang sắc thái trẻ trung, sinh động; tác
phẩm thường có kết cấu mở, phù hợp với việc giao lưu trực tuyến với cơng
chúng; khơng có tính hồn chỉnh cao nhưng có thể được chỉnh sửa dễ dàng.
Tác giả khơng nghiên cứu cụ thể về thể loại tin. Vũ Thị Hạnh ” [5]. đã bàn
đến một số vấn đề ngôn ngữ phát thanh trên mạng Internet, đối tượng khảo sát
về ngơn ngữ phát thanh, với những đặc điểm loại hình và ngơn ngữ báo phát
thanh nói chung, phát thanh trên Internet nói riêng. Tác giả đã đi sâu tìm hiểu


4
thực trạng phát thanh trên Internet của VOVNEWS, đề xuất một số giải pháp
nâng cao hiệu qủa sử dụng ngôn ngữ phát thanh thích hợp đối với Internet.
Phạm Thị Mai ” [6], tác giả luận văn thạc sỹ nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ
thể loại tin trên báo mạng điện tử Việt Nam nhưng chủ yếu thuộc dạng chữ
viết: Nêu những vấn đề lý luận về ngôn ngữ thể loại tin trên báo mạng điện tử
như các khái niệm, thuật ngữ liên quan, chỉ ra đặc điểm ngôn ngữ báo mạng
điện tử, vai trò của thể loại tin trên báo mạng điện tử và ý nghĩa của việc nâng
cao chất lượng sử dụng ngôn ngữ thể loại này. Khảo sát thực trạng ngôn ngữ
thể loại tin trên báo mạng điện tử Vietnamnet và Vnexpress, tác giả tập trung
tìm hiểu ngơn ngữ chữ viết của thể loại tin với ba thành tố chủ yếu là tít, sapơ
và text và đi tới kết luận: Đặc điểm ngôn ngữ thể loại tin trên báo mạng điện

tử là có tính thơng báo, tính biểu cảm, ngắn gọn, cơ đọng, phong cách trẻ
trung, có sự độc lập cao giữa các thành tố tít, sapơ và text. Tác giả chỉ ra
những lỗi về ngôn ngữ. Trên cơ sở các vấn đề lý luận và thực tiễn đã nghiên
cứu, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sử
dụng ngôn ngữ thể loại tin trên báo mạng điện tử. Nhìn chung, các tác giả tập
trung tìm hiểu ngơn ngữ chữ viết của thể loại tin mà chưa đi sâu phân tích về
ngôn ngữ phi văn tự của báo mạng điện tử.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thông qua các tác phẩm tin trên 3 tờ báo, khảo sát việc sử dụng ngôn
ngữ tin trên báo mạng điện tử để tìm ra đặc điểm ngơn ngữ làm tin trên báo
mạng điện tử ở Việt Nam hiện nay. Khảo sát những ngôn ngữ này bao gồm về
văn bản (câu chữ, cách trình bày, lỗi chính tả…) cũng như ngơn ngữ phi văn
tự (ảnh, âm thanh, video, đồ họa…) trên báo mạng điện tử
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu trên các báo điện tử VietnamPlus (Bản tiếng Việt),
VnExpress, Dân tri năm 2014


5
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Mục đích
Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề cơ sở lý luận về sử dụng ngơn
ngữ tin trong báo chí, luận văn khảo sát việc sử dụng ngôn ngữ tin trên các
báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay; đánh giá ưu nhược điểm, chỉ ra những
đặc điểm riêng của ngôn ngữ tin trên các báo mạng điện tử Việt Nam và đề
xuất các giải pháp để nâng cao chất lượng cho các bản tin trên các báo mạng
điện tử Việt Nam hiện nay.
4.2 Nhiệm vụ
 Hệ thống hóa những vấn đề cơ sở lý luận về ngôn ngữ tin trong các

tác phẩm báo chí.
 Khảo sát thực trạng việc sử dụng ngôn ngữ tin trên các báo điện tử
VietnamPlus (Bản tiếng Việt), VnExpress, Dantri năm 2014.
 Đánh giá những ưu nhược điểm và chỉ ra những đặc điểm riêng của
ngôn ngữ tin trên các báo điện tử Vietnam Plus (Bản tiếng Việt), VnExpress,
Dantri năm 2014.
 Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cho các bản tin
trên các báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở Lý luận và Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Nghiên cứu dựa trên Phương pháp luận của Chủ nghĩa Duy vật biện
chứng của Mác-Ănghen và Lê Nin; quan điểm của Đảng và Nhà nước trong
hoạt động báo chí.
Dựa trên cơ sở lý luận Báo chí và truyền thơng và cơ sở lý luận ngôn ngữ.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp thống kê các tác phẩm báo chí trên 3 tờ báo
mạng, sau đó phân tích các nội dung tiêu biểu, tổng hợp các vấn đề, đối chiếu


6
so sánh với các thể loại báo chí khác, khái quát hóa vấn đề để nêu đặc điểm
làm tin trên báo mạng và những giải pháp nâng cao chất lượng của chúng.
6. Đóng góp mới của luận văn
Thơng qua khảo sát các báo điện tử VietnamPlus (Bản tiếng Việt),
VnExpress, Dantri năm 2014, khái qt hóa việc sử dụng ngơn ngữ để thấy những
đặc điểm sử dụng ngôn ngữ trên báo mạng điện tử, kiến nghị những điều chỉnh
cần thực hiện về ngôn ngữ tin trên các báo mạng điện tử Việt Nam.
7. Kết cấu nghiên cứu
Ngoài mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn chia
làm 03 chương 09 tiết.

Chương 1: Những vấn đề cơ sở lý luận về sử dụng ngôn ngữ tin trong
các tác phẩm báo chí.
Chương 2: Đặc điểm ngơn ngữ tin trên các báo mạng điện tử
VietnamPlus (Bản tiếng Việt), VnExpress, Dantri năm 2014.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng ngôn ngữ
tin trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay.


7
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỬ DỤNG NGƠN NGỮ TIN
TRÊN CÁC TÁC PHẨM BÁO CHÍ
1.1. Nhận diện ngôn ngữ tin
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1 Khái niệm tin
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa tin là (1) “Điều được truyền đi, báo đi
cho ai biết về sự việc, tình hình xảy ra; (2) Sự truyền đạt, sự phản ánh dưới các
hình thức khác nhau, cho biết về thế giới xung quanh và những q trình xảy ra
trong nó [20, tr.41]. Tuchman Gaye cho rằng tin là “dữ kiện và thực tế, được ghi
lại một cách trung thực về các sự kiện xảy ra trên thế giới” [20, tr.42].
Trong cuộc sống thường ngày, trước khi báo chí ra đời, những thông điệp
về một sự kiện, hiện tượng mới xảy ra hay mới xuất hiện được lan truyền dưới
dạng văn bản hoặc các tín hiệu riêng có giao ước trước, đó là tin (hay tin tức).
“Tin tức” có thể hiểu theo hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất là những thông
điệp (message) về các sự kiện, vấn đề, con người trong xã hội, được phản ánh
trong các tác phẩm báo chí nói chung. Nghĩa thứ hai, chỉ một thể loại báo chí
độc lập. Khái niệm tin chúng ta xem xét ở đây với tư cách là một thể loại báo
chí, gắn liền với sự ra đời và phát triển của báo chí.
Tin là một trong các thể loại của tác phẩm thông tấn. Có thể nói tin là
thể loại cơ bản, là thể loại có sớm nhất, thơng dụng nhất trong báo chí. Trong

các thể loại báo chí, tin phản ánh những cái mới, xảy ra ở địa điểm, không
gian cụ thể, có ý nghĩa cụ thể theo quan điểm nhất định. Tin tức là thể loại
báo chí cơ bản, ngắn gọn nhất, cơ đúc nhất, nhanh chóng nhất, kịp thời nhất,
được thể hiện bằng chữ, bằng lời, bằng hình ảnh... để phản ánh những sự
kiện có thật, sự việc có thật, tiêu biểu, mới xảy ra, đang xảy ra, sắp xảy ra có
quan hệ và có ý nghĩa với nhiều người.


8
Sự kiện là đối tượng phản ánh, đối tượng nhận thức của thể loại tin. Sự
kiện cũng là nội dung của tin. Sự kiện là đối tượng phản ánh của tin tức báo
chí là các sự kiện thời sự cấp bách. Tin không phản ánh về những vấn đề của
đời sống, mặc dù trong bất cứ sự kiện tiêu biểu nào mà tin phản ánh cũng
chứa đựng những vấn đề. Nếu đó là vấn đề báo chí cần phản ánh kỹ càng hơn,
sẽ có một số thể loại khác như bình luận, điều tra, phóng sự...
Tin phản ánh sự kiện mới xảy ra, mới biết hoặc xảy ra đã lâu nhưng
bản thân nó mang ý nghĩa xã hội mới. Tính mới mẻ là một trong những yếu tố
cơ bản tạo nên giá trị của tin tức.
Thông tin sự kiện trên báo chí ln gắn với lợi ích của chủ thể thơng
tin. Sự kiện phải vừa “mới” và phải có ý nghĩa, có ích với đối tượng tiếp nhận
thơng tin (do chính người tiếp nhận thơng tin đánh giá). Chính nó tạo nên giá
trị cơ bản của tin tức báo chí.
Đặc điểm chung về hình thức của tác phẩm tin báo chí là đơn giản, cụ
thể, dễ hiểu và ngắn gọn. Kết cấu của tin phù hợp với yêu cầu, mục đích cung
cấp cho người đọc những thơng tin mới nhất, nhanh nhất về các sự kiện thời
sự cấp bách.
Tin trả lời những câu hỏi cơ bản một cách đặc biệt ngắn gọn. Trước hết
nó tập trung vào sáu câu hỏi đầu tiên về sự kiện là: What (chuyện gì, cái gì
xảy ra?), Who (ai liên quan, ai là người trong cuộc?), Where (xảy ra ở đâu?),
When (xảy ra khi nào?), Why (tại sao xảy ra?), và How (xảy ra như thế nào?).

1.1.1.2 Ngôn ngữ tin
Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng hàng đầu trong tác phẩm báo chí. Ngơn
ngữ là phương tiện chuyển tải toàn bộ nội dung tác phẩm báo chí. Ngơn ngữ
báo chí nói chung là ngơn ngữ dùng để thông báo tin tức thời sự trong nước
và quốc tế, phản ánh chính kiến của tờ báo và dư luận quần chúng, nhằm thúc
đẩy sự tiến bộ xã hội.


9
Ngơn ngữ báo chí tồn tại và vận động như một loại hình phong cách
ngơn ngữ xã hội. Mối quan hệ thông tin cũng như các chức năng hoạt động
xã hội của báo chí quyết định tính chất của ngơn ngữ báo chí: (1) tính chính
xác, khách quan, (2) tính tiết kiệm ngắn gọn, (3) tính chất phổ cập xã hội
[38, tr.23-25].
Mặc dù trong báo chí tồn tại những khn khổ ngơn ngữ với những mơ
hình cấu trúc tác phẩm nhất định, song tính sáng tạo, phong cách ngơn ngữ
riêng của mỗi thể loại, mỗi cá nhân gắn với khả năng của người làm báo trong
phát hiện, nhận thức các sự kiện, hiện tượng, vấn đề có ý nghĩa xã hội mới
quyết định thành công và giá trị của mỗi tác phẩm báo chí.
Khi sử dụng phương tiện ngơn ngữ, nhà báo cần chú ý các yếu tố như
(1) Tính chất, quy mơ của sự kiện; mục đích, nhu cầu thơng tin về sự kiện đó;
(2) Tính chất của thể loại tác phẩm; (3) Đặc điểm của loại hình phương tiện
thơng tin đại chúng; (4) Tính chất, trình độ văn hóa của đối tượng cơng chúng
tiếp nhận thơng tin. Sự thống nhất của các yếu tố này là điều kiện để hình
thành phương pháp, cách thức, mức độ sử dụng ngôn ngữ, nhằm tăng cường
hiệu quả thông tin của tác phẩm báo chí.
Là một trong những thể loại ra đời sớm nhất của báo chí, tác phẩm tin
có ngơn ngữ mang tính đặc thù riêng. Ngơn ngữ của tin thể hiện rõ tính chất
thơng báo. Do đó, nó thường đơn giản, trực tiếp, cụ thể, ít có tính hình tượng.
Đối với ngơn ngữ viết và nói thường khơng giàu cảm xúc và cũng hầu như

khơng có sự trau chuốt về câu chữ.
Ấn tượng báo chí hình thành trong lịng người đọc là ngôn ngữ sự kiện.
Ngôn ngữ sự kiện tạo ra độ tin cậy, sự hấp dẫn, tính khách quan khi phản ánh.
Ngôn ngữ trong các tác phẩm tin là ngơn ngữ sự kiện đặc trưng: chính xác, cơ
đọng, hàm súc, biểu cảm. Các từ và đơn vị mệnh đề, câu đều tập trung cố
gắng để phán đoán trực tiếp về sự kiện, chỉ ra quy mơ, tính chất, ý nghĩa của


10
sự kiện. Các mỹ từ, hình dung từ, các kiểu câu phức hợp có nhiều tầng ít được
sử dụng trong các tác phẩm tin.
Theo nhà ngôn ngữ học Nguyễn Tri Niên, ngôn ngữ tin cần đảm bảo
những yêu cầu sau đây: (1) Loại bỏ ngay những câu chữ có tính chất đưa đẩy,
rào đón hồn tồn khơng cần thiết đối với tin để ngôn ngữ chuyển tải ngay
những thông tin thiết yếu; (2) Tuân thủ nguyên tắc 5 W+H trong đó ở đoạn
mở đầu phải có ngay ngơn từ biểu thị những nội dung số một là: What (cái gì)
When (khi nào) và Where (ở đâu). Nên nhớ trong ba nội dung đó thì What là
nội dung có lượng thơng tin cao nhất và quan trọng nhất; (3) Câu phải ngắn
gọn để đáp ứng yêu cầu của người nhận tin là tiếp nhận thông tin ngay mà
không phải qua sự chờ đợi do câu chữ gây ra. Nghĩa là người nhận tin khơng
có tâm lý tiếp nhận tin một cách từ từ; (4) Mỗi câu chứa đựng một ý. Do đó,
người Việt thường sử dụng câu theo cấu trúc “Chủ ngữ–Vị ngữ–Tân ngữ” (C–
V–T); (5) Ngôn ngữ phải rõ ràng,dễ hiểu và chính xác.Tránh dùng những từ
có lượng nghĩa đơi, những từ nhiều nghĩa, những từ ngữ không chuẩn xác,
những từ khơng thơng dụng.
Từ khái niệm ngơn ngữ báo chí nói chung và những tính chất đặc thù
của ngơn ngữ thể loại tin, có thể hiểu Ngơn ngữ tin là ngôn ngữ sự kiện, được
thể hiện bằng chữ, bằng lời, bằng hình ảnh... để phản ánh những sự kiện có
thật, sự việc có thật, tiêu biểu, mới xảy ra, đang xảy ra, sắp xảy ra có quan hệ
và có ý nghĩa với nhiều người một cách khách quan, chính xác cô đọng và dễ

hiểu, theo nguyên tắc 5W+H.
1.1.2. Đặc điểm ngơn ngữ tin.
Ngơn ngữ tin có tính cụ thể: Tính cụ thể của ngơn ngữ báo chí trước hết
thể hiện ở chỗ mảng hiện thực được nhà báo miêu tả, tường thuật phải cụ thể,
phải cặn kẽ tới từng chi tiết nhỏ. Có như vậy, người đọc, người nghe mới có
cảm giác mình là người trong cuộc, đang trực tiếp được chứng kiến những gì
nhà báo nói tới trong tác phẩm của mình.


11
Tin chỉ phản ánh những sự kiện cụ thể, xảy ra ở địa điểm, khơng gian
cụ thể, có ý nghĩa cụ thể trên cơ sở một quan điểm chính trị nhất định. Những
sự kiện đó là những sự kiện có thật, vừa mới xảy ra, đang xảy ra, sắp xảy ra.
Với năng lực phản ánh các sự kiện, sự việc tin đáp ứng những câu hỏi bức xúc
của quần chúng về những cái mới xảy ra, cung cấp cho họ những thơng tin
nóng hổi về sự thật để họ có những hành động phù hợp với thực tiễn, phục vụ
cuộc sống và sự phát triển của xã hội. Bên cạnh đó, tính cụ thể của ngơn ngữ báo
chí cịn nằm ở việc tạo ra sự xác định cho đối tượng được phản ánh. Như thực tế
cho thấy, mỗi sự kiện được đề cập trong tác phẩm báo chí đều phải gắn liền với
một không gian, thời gian xác định; với những con người cũng xác định (có tên
tuổi, nghề nghiệp, chức vụ, giới tính... cụ thể). Đây là cội nguồn của sự thuyết
phục, vì nhờ những yếu tố đó người đọc có thể kiểm chứng thơng tin một cách
dễ dàng. Do đó, trong ngơn ngữ báo chí nên hạn chế tối đa việc dùng các từ ngữ,
cấu trúc không xác định hay có ý nghĩa mơ hồ kiểu như "một người nào đó”, "ở
một nơi nào đó", "vào khoảng", "hình như"...
Tin phản ánh những sự kiện và thông tin thời sự nên tin phải hàm chứa
những thông tin cụ thể, có chọn lọc, thường theo nguyên tắc 5 W+H. Độc giả
đọc tin tức là quan tâm đến những sự kiện có ý nghĩa, do đó ngơn ngữ tin phải
ngắn gọn, dễ hiểu, giúp người đọc nhận thức được vấn đề một cách trực tiếp,
chính xác, nhanh chóng. Hãy giải thích một cách ngắn gọn và phù hợp những

gì mà có thể độc giả không hiểu. Tốt nhất, ngôn ngữ tin là là ngôn ngữ sử
dụng hàng ngày chứ không phải biệt ngữ, khơng phải ngơn ngữ của các chính
trị gia, luật sư hay các nhà kinh tế học.
Ngôn ngữ tin thể hiện tính khách quan: Tin phải phản ánh đúng hiện
thực khách quan, không thêm thắt, không đưa ra những nhận xét, bình luận
chủ quan của người viết. Tin phải phản ánh chính xác hiện tượng, đúng bản
chất của sự kiện và thuật lại một cách hoàn toàn khách quan và vô tư, thể hiện
sự tôn trọng độc giả. Văn bản tin phải bám lấy sự kiện và thuật lại một cách


12
hồn tồn khách quan và vơ tư. Đây là đặc điểm chung của tất cả thể loại báo
chí. Thể loại tin tức càng yêu cầu cao về sự chính xác, tính khách quan, nó
phản ánh đúng như hiện thực khách quan, khơng thêm thắt những nhận xét,
bình luận chủ quan của nhà báo, không để ý kiến cá nhân chi phối nội dung
thơng tin, khơng được nói độc giả nên nghĩ gì và làm gì. Do vậy ngơn từ phải
rõ ràng, không suy diễn, sử dụng những tên người, địa danh cụ thể, chính xác
về thời gian, mang tính khách quan.
Ngôn ngữ tin phải đem lại cho người đọc tin cảm giác như chính họ
đang có mặt tại hiện trường xảy ra sự kiện. Những câu trích dẫn là yếu tố giúp
bản tin có tính xác thực và hấp dẫn hơn đối với cơng chúng.
Ngơn ngữ tin thường mang tính “khn mẫu”: Nói đến khn mẫu
chúng ta có thể hiêu là những gì có sẵn, được đúc kết thành quy tắc, điều này
làm cho việc đưa tin tức trở nên dễ dàng và nhanh chóng. Cụ thể là quy tắc
5W + 1H , nhờ áp dụng tính khn mẫu này mà những thông tin được đưa
đầy đủ nhưng cũng rất nhanh. Tuy nhiên các thành tố này có thể được người
đưa tin đổi trình tự trước sau khiến cho tin tức trở nên mềm dẻo mà khơng bị
bó buộc.
Ngơn ngữ tin ngắn gọn, súc tích. Có thể nói đây là đặc điểm để phân
biệt tin với bài viết, sự ngắn gọn giúp người đưa tin truyền tải nội dung quan

trọng đến với độc giả một cách nhanh nhất nhưng vẫn đầy đủ những thơng tin
mà độc giả quan tâm. Đó là những gì mà: Ai? Cái gì? Ở đâu? Bao giờ? Như
thế nào? Tại sao? mang đến.
Cấu trúc đoạn văn trong tin thường có câu chủ đề:
Câu chủ đề mang thông tin quan trọng nhất trong nội dung tin. Câu chủ
đề có thể xuất hiện ở nhiều vị trí khác nhau trong tin tức, tuy nhiên vì tin cần
ngắn gọn nên câu chủ đề thường ở tiêu đề của bài báo. Đối với những tin dài
thì câu chủ đề có thể nằm ở các vị trí đầu, thân hoặc cuối tin tức. Câu chủ đề
nằm ở vị trí nào thì những phần cịn lại có tác dụng bổ trợ thêm thông tin.


13
1.1.3. Các dạng ngôn ngữ đặc trưng của tin trên báo chí hiện nay
1.1.3.1 Ngơn ngữ tít (đầu đề )của tin
Tít (đầu đề) là một thứ tên gọi đặc biệt của tác phẩm báo chí. “Tít”
khơng chỉ đơn thuần là một ký hiệu dùng để phân biệt tác phẩm này với tác
phẩm khác, mà cịn là sự biểu đạt cơ đọng nội dung, thể hiện bản chất, tư
tưởng chính trị của tác phẩm đó [38, tr.111].
Tít là bộ phận đầu tiên tiếp xúc với người tiếp nhận thông tin trong tác
phẩm, nó có khả năng tạo sự chú ý, thu hút sự quan tậm của công chúng đối
với tác phẩm. Tít là câu quan trọng nhất của tin, dù là thể loại tin nào. Tít cho
độc giả biết chuyện gì đã xảy ra và vì sao độc giả phải quan tâm tới nó. Tít là
phần độc giả đọc trước tiên. Nếu tít hay, độc giả có thể sẽ tiếp tục đọc bài báo.
Nếu tít dở, tồn bộ bài báo cơng phu rất có thể sẽ bị bỏ qua.
Tít có những đặc điểm nổi bật sau: (1) Số lượng tít báo là rất lớn so các ấn
phẩm khác. Mỗi trang báo có thể có hàng chục tít; (2) Độc giả rất khó nhớ tít, trừ
những tít rất đặc biệt, rất hấp dẫn, vì số lượng tít báo rất lớn; (3) Đời sống của tít
báo rất ngắn ngủi, nó hầu như chỉ được nhớ tới giữa hai kỳ ra báo; (4) Tít đòi hỏi
sự hấp dẫn cao so các ấn phẩm khác để “níu” mắt người đọc.
Tít là cơ sở để phân biệt bài báo này với bài báo khác dù cùng viết về một

đề tài. Tít xác định mức độ quan trọng của thông tin giúp độc giả lựa chọn đọc.
Giảng viên Fabienne Gérault thuộc Đại học Báo chí Lille, Pháp, nêu 6 chức năng
chủ yếu của tít: (1) Thu hút sự chú ý vào trang giấy; (2) Cung cấp thông tin
chính trong một cái liếc mắt; (3) Giúp độc giả lựa chọn bài; (4) Khiến độc giả
muốn đọc; (5) Tổ chức trang tin và (6) Sắp xếp thơng tin.
Lơíc Écvu ê, trong cuốn “Viết cho độc giả” [38, tr.141] thì cho rằng
“chức năng đầu tiên của tít là “bắt mắt” độc giả khi họ lướt xem tờ báo lần
đầu tiên…Một đầu đề hấp dẫn, ngay lập tức sẽ thu hút sự chú ý của độc giả”.
Chức năng thứ hai của tít là “phân biệt bài nào quan trọng hơn bài nào. Nó thể
hiện sự lựa chọn của ban biên tập… Đầu đề phải nêu bật được chủ đề… phải


14
nhấn mạnh có gì mới, có gì hay đáng đọc” để độc giả có thể lựa chọn ngay
khi xem lướt qua tờ báo.
Trần Thị Thu Nga, trong Luận án tiến sĩ “Đầu đề tác phẩm báo chí trên
báo in Việt Nam” (2007) đã đưa ra những yêu cầu đối với đầu đề (tít) như sau
đối với báo in: (1) Yêu cầu về nội dung: Tít phải có thơng tin, phải có tính
thời sự, phải hợp với nội dung của tác phẩm và phải phù hợp với đặc điểm
của từng loại báo in và đặc điểm của từng thể loại; (2) u cầu về ngơn ngữ:
Tít phải đúng chuẩn ngơn ngữ, phải ngắn gọn, phải hấp dẫn, phải gợi mở và
phải tiêu biểu.
Có hai dạng tít cơ bản: (1) Tít có tính thơng tin: Trả lời phần nào cho
các câu hỏi đặt ra (chủ yếu là ai, cái gì), thường loại bỏ những câu rườm rà,
những từ không cần thiết, những thơng tin bổ sung và thường dựa vào những
tít khác, nhất là tít lớn; (2) Tít gợi: Tít gợi khơng đưa ra thơng tin chính của
bài báo, nhưng nêu ý nghĩa chung của nó bằng cách kích thích người ta đọc
bài báo. Khi thơng điệp chính đã được xác định, cần tìm một hình thức khơi
gợi, một câu ngắn gọn. Có rất nhiều cách để viết tin gợi như dùng từ gây sốc,
từ đa nghĩa, câu gợi trí tị mị, một điều khó tin, một chuyện buồn cười, một

mẫu nhân cách hóa, lối chơi chữ, một câu nói quen thuộc được sửa đi, một
công thức, một câu ngạn ngữ… Nếu dùng hỗn hợp hai loại tít: vừa dùng tít
lớn có tính thơng tin, vừa dùng tít có tính gợi thì hiệu quả càng cao.
Thơng thường có các loại tít sau: (1) Tít chính: trình bày chữ to, chứa
đựng những từ khóa; (2) Tít phụ: thường đóng vai trị định vị sự việc: chỉ rõ
thời gian và địa điểm hoặc đưa ra miền thông tin. Đôi khi chỉ rút lại thành
một từ; (3) Tít nhỏ: bổ sung thơng tin cho tít (như thế nào, tại sao) và (4) Tóm
tắt: liệt kê những nội dung quan trọng được xử lý trong bài báo hoặc trong
chùm bài.
Đối với các tin có độ dài trên 500 từ nên có các tít xen, giúp phân chia
ý một cách mạch lạc và logic và giúp người đọc hiểu nhanh được nội dung


15
tồn bài. Đối với báo mạng điện tử, thơng tin trên màn hình máy tính thường
được đọc theo từng khối thì các tít xen càng rất cần thiết và quan trọng.
Tít của tin mang tính chất đặc thù, phù hợp với mục đích thơng tin của
thể loại này. Một số tin vắn, tin ngắn, hoặc trong một số mục cụ thể có thể
khơng được đặt đầu đề. Để tạo sự chú ý và phân biệt các tin với nhau, có thể
dùng các dấu đậm hay in đậm chữ cái đầu tin.
Tít trên báo mạng điện tử cũng có những đặc trưng riêng: Khác với báo
in (bài nào thì đi liền với tít đó), tít trên báo điện tử thường xuất hiện khơng
gắn liền với ngữ cảnh, tít trên báo điện tử có thể dưới dạng một danh sách các
bài báo, trong một danh mục của cơng cụ tìm kiếm…Một số tình huống xảy
ra hồn tồn chẳng liên quan đến một ngữ cảnh nhất định nào. Chẳng hạn
những mục hiện lên trên danh sách khi tìm kiếm trên các trang Google,
Yahoo có thể liên quan đến một chủ đề bất kỳ, vì thế người sử dụng khơng dễ
hiểu được ngay các tít nếu khơng có kiến thức cơ bản về một lĩnh vực nào đó.
Ngay cả khi tít đi liền cùng với bài, khó khăn của việc đọc chữ trên màn hình
khiến người sử dụng khó nắm bắt được vấn đề. Đối với báo in, tít gắn chặt với

nội dung, các bức ảnh, các tiểu mục - cả tờ báo lại nằm trên tay – nên chỉ cần
liếc qua cũng hiểu. Cịn đối với báo điện tử, trên màn hình chỉ nhìn thấy một
lượng thơng tin giới hạn, khi đọc lại có cảm giác nhức mắt và khơng thoải
mái, vì vậy, khi lướt qua một danh mục các tin tức, người sử dụng thường chỉ
nhìn vào những tít nổi bật nhất và bỏ qua hầu hết các phần tóm tắt. Do những
khác biệt như vậy, phần tít trên báo mạng điện tử phải có khả năng đứng độc
lập và dễ hiểu mà khơng cần nhìn vào tồn bộ phần nội dung.
1.1.3.2 Ngôn ngữ mào đầu (sapo, lead, câu giới thiệu)
Mở đầu của tin thường là phần “mào đầu” hay là phần dẫn nhập. Phần
này cịn có tên gọi là Sapơ (Chapeaux) theo tiếng Pháp hoặc là phần “Lead”
theo tiếng Anh. Phần mào đầu phải nêu đuợc các thông tin cốt lõi, thể hiện
hình thức ấn tượng, và nội dung cơ đọng với câu chữ ngắn gọn. Mào đầu phải


16
hay, có nghĩa, phải nêu đuợc ý chính của bài mà tít khơng làm đuợc. Nhưng
mào đầu chỉ mang tính chất gợi ý, kích thích người đọc đọc bài.
Mào đầu có các tính chất sau: (1) Xác định chủ đề của bài báo, bổ sung cho
đầu đề; (2) Chứng minh tính thời sự của bài báo; (3) Tóm tắt thơng tin chính, kể
lại bài báo trong vài ba dịng; (4) Nêu được dàn bài; (5) Xác định hoàn cảnh diễn
ra sự kiện; (6) Khiến cho độc giả muốn đọc; (7) Chỉ rõ nguồn tin.
Được viết nhằm quyến rũ độc giả nhưng mào đầu cũng cần phải phục
vụ họ. Cũng giống như tít, nhưng bằng một cách thức chi tiết hơn, mào đầu có
vai trị định hướng trong một tờ báo. Mỗi người sẽ tự quyết định dành thời
gian cho đề tài này hay đề tài khác. Nếu họ không đọc cả bài báo, mào đầu dù
sao cũng có vai trị thông tin cho độc giả, cho họ biết nội dung chủ yếu của tin
tức. Một bạn đọc bận rộn lướt qua các tít của tờ báo, sau đó đến mào đầu của
những tin tức đáng chú ý, sẽ nắm được tình hình thời sự về những lĩnh vực
mà họ quan tâm – đương nhiên là nếu các tít và các mào đầu được viết tốt.
Mang lại cho công chúng các tin tức thời sự ở dạng cơ đặc, đó là chức năng

chính của mào đầu.
Trong một bản tin thời sự, đoạn mào đầu thơng thường chỉ có một câu.
Câu này cho chúng ta biết tin đó là về những gì, và chứa đựng những điểm
quan trọng nhất. Mào đầu hay cần hấp dẫn ngay được sự chú ý của độc giả và
kích thích họ đọc tiếp phần cịn lại. Đa số độc giả báo mạng điện tử đọc tin
khi đang làm việc. Họ chỉ tranh thủ thời gian làm việc, nhấn chuột vào đường
dẫn khi thấy một mào đầu hấp dẫn hoặc một vấn đề quan tâm. Hơn nữa, độc
giả của báo mạng điện tử có quá nhiều sự lựa chọn nên nhìn chung họ ln có
xu hướng tìm đọc những tin bài nổi bật, lướt nhìn một vài từ đầu tiên của tít
(đặc biệt những tiêu đề ở phía trên), sao đó lướt đến sapo để xem qua nội
dung thơng tin. Nếu khơng tìm thấy thơng tin nào hấp dẫn hoặc quan tâm, họ
sẽ không tiếp tục xem tin chi tiết. Như vậy, trong sự cạnh tranh quyết liệt giữa
các loại hình báo chí thì việc phải lơi cuốn, hấp dẫn công chúng từ câu đầu


17
tiên của tin, một câu mở đầu hấp dẫn, một câu mở đầu sắc sảo và có sức
nặng… vơ cùng quan trọng. Lượng thông tin chủ đạo phải được cô đọng trong
câu mào đầu. Câu mào đầu thường phải gây sự chú ý của công chúng muốn
theo dõi diễn biến và nguyên nhân của sự kiện.
Mào đầu là phần quan trọng đối với phần văn bản của tin, thường được
in đậm dưới tít hoặc bên lề của tin, nó giúp cơng chúng có nhu cầu biết nhanh
nhất những thơng tin quan trọng, hấp dẫn, thú vị, quyết định có đọc tiếp bài
báo hay khơng. Mào đầu có nhiệm vụ tóm tắt hoặc cho biết thông tin quan
trọng, cần thiết, hấp dẫn của sự kiện hoặc vấn đề. Đôi khi mào đầu không cần
thông báo kết quả của sự kiện mà chỉ cần dẫn dắt, lơi cuốn người đọc đến với
tồn bộ sự kiện.
Mào đầu tin có thể là một từ, một hình ảnh, một câu gây ấn tượng, gợi
tính tị mị cho người đọc. Sau đó tăng dần mức độ quan trọng, hấp dẫn ở thân
tin, và sức nặng nhất, quan trọng nhất, hay nhất của tin ở phần kết luận. Đây

là cách viết theo lối câu nhử, dẫn dắt, tăng dần ấn tượng của tin. Mức độ hấp
dẫn của tin được xử lý khéo nằm ở phần mào đầu, phần kết luận theo hướng
phần kết luận phải được ưu tiên nhiều hơn.
Thơng thường, có thể mào đầu với những cách thức sau: (1) Mào đầu
tiếp cận thực tế. Một mào đầu mà trong đó, thực tế cuộc sống được đưa ra
chân thực như thể tác giả đã đứng một góc cuộc sống để đặt vào, đến nỗi
khiến người đọc có cảm giác nhân vật ấy, vấn đề ấy tồn tại đâu đây bên cạnh
mình, đó là một mào đầu tiếp cận thực tế. Thay vì đi thẳng vào sự thật, tác giả
kể một câu chuyện gần gũi, đời thường có nhân vật cụ thể với tên, tuổi, cuộc
sống, khơng gian, sở thích. Điều này kích thích trí tị mị của độc giả vì họ
cảm thấy nhân vật ít nhiều có những điều gần giống với cuộc sống của chính
mình; (2) Mào đầu dẫn dắt. Một mào đầu có tính chất giai thoại, với lối dẫn
dắt có đơi chút hư cấu. Loại này phù hợp với những chủ đề vốn khơ khan
hoặc các vấn đề khoa học có tính lý thuyết cao; (3) Mào đầu bằng một nhân


18
vật. Chuẩn bị viết một bài báo mà trong tay khơng có số liệu hoặc chưa đủ các
tư liệu cần thiết, có thể mào đầu bằng một nhân vật có liên quan đến chủ đề;
(4) Mào đầu dựng cảnh. Có thể đưa nguyên khung cảnh của sự việc, sự kiện
vào mào đầu để chính nó tự nói lên tất cả; (5) Mào đầu gây sốc. Mào đầu gây
sốc rất hấp dẫn độc giả. Có thể bắt đầu bài báo bằng một lời phát biểu, một
hình ảnh sốc. Mào đầu này đặc biệt hiệu quả với những bài viết mang tính
cảnh báo; (6) Đưa ra câu hỏi. Bằng việc đưa ra một câu hỏi, bạn sẽ dẫn độc
giả vào sự suy nghĩ và tham gia tìm câu trả lời. Câu hỏi có thể đến ngay trong
câu đầu tiên của bài báo hoặc đi sau một vài câu bình luận; (7) Dùng câu trích
dẫn. Một cách viết mào đầu khá quen thuộc là sử dụng câu trích dẫn của một
nhân vật có thế lực kèm theo giới thiệu tên, xuất xứ, chuyên mơn của người
đó hoặc bối cảnh phát ngơn; (8) Dùng đoạn hội thoại. Hội thoại là một trong
những nguyên liệu quan trọng mà phóng viên có thể sử dụng để viết mào đầu.

Đối với một bài báo mà chủ đề có vẻ mang chút kịch tính thì một mào đầu hội
thoại rất hiệu quả và (9) Mào đầu thể hiện quan điểm. Mào đầu này đọc có vẻ
hơi "thật thà" nhưng bù lại dễ tạo niềm tin với độc giả. Chú ý dùng những câu
giản dị, rõ ràng và thẳng thắn.
1.1.3.3 Ngôn ngữ âm thanh của tin
Đối với báo phát thanh, truyền hình và một phần của báo mạng điện tử,
ngôn ngữ của tin là ngôn ngữ âm thanh. Tin âm thanh bao gồm bài đọc (tiếng
nói), tiếng động, âm nhạc… Tin âm thanh chủ yếu có trong phát thanh và
truyền hình, trên báo mạng điện tử âm thanh cịn khá ít. Đó là ngơn ngữ nói.
Ngơn ngữ nói rất đa dạng về ngữ điệu: Giọng nói có thể cao hay thấp,
nhanh hay chậm, mạnh hay yếu, liên tục hay ngắt qng. Trong ngơn ngữ nói,
ngữ điệu là yếu tố quan trọng góp phần bộc lộ và bổ sung thơng tin Trong
ngơn ngữ nói, ngồi sự kết hợp giữa âm thanh và giọng điệu cịn có các
phương tiện bổ trợ ngôn ngữ khác như: nét mặt, ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ…
của người nói, cho phép chuyển tải trạng thái tâm lý, thái độ, tình cảm…


19
Ngơn ngữ nói của tin hay dùng những câu tỉnh lược (có khi lược chỉ cịn có
một từ) nhưng cũng có khi câu nói có nhiều yếu tố dư, hoặc lặp đi lặp lại để
nhấn mạnh hoặc để người nghe có điều kiện tiếp nhận, lĩnh hội thấu đáo nội
dung thơng tin.
Tin radio cũng có những ưu thế riêng, khi nội dung thông tin được chuyển
tải qua âm thanh. Âm thanh trong phát thanh bao gồm lời nói, âm nhạc, các loại
tiếng động làm nền hoặc minh họa cho lời nói như tiếng mưa, gió, nước chảy,
sóng vỗ, chim hót [41, tr.104-108]... tái hiện cuộc sống hiện thực.
Các bản tin âm thanh có sức thuyết phục, tính chính xác cao, nhất là
trong các trường hợp ghi âm lời nhân chứng. Đơi khi một đoạn audio dài vài
phút cũng có tác dụng và hiệu quả thông tin hơn hẳn những bài viết văn bản
quá dài mà câu chữ chưa diễn đạt hết những điều nhà báo muốn truyền tải tới

công chúng. Hơn nữa, tin phát thanh cịn có khả năng to lớn trong việc cung
cấp cho công chúng những thông tin nhanh nhất, cho phép người nhận tin
cùng lúc có thể làm việc khác (lái xe hoặc nằm nghỉ chẳng hạn) hay trợ giúp
người khiếm thị hoặc có thị lực kém thu nhận thông tin một cách tốt nhất.
1.1.3.4 Ngôn ngữ tin phi văn tự
Thuật ngữ thông tin phi văn tự lần đầu tiên được đề cập chính thức
trong giáo trình báo chí là vào năm 1998, “để gọi chung những thơng tin trên
báo chí khơng đăng tải dưới dạng văn tự mà là dạng đồ hình, như: ảnh, tranh
minh họa, biểu bảng, đồ thị, sơ đồ, bản đồ...”[

, tr.238].

Ảnh là một trong những hình thức thơng tin phi văn tự. Ngơn ngữ
thơng tin là ngơn ngữ hình ảnh. Thơng tin chủ yếu được tiếp nhận qua phần
hình ảnh. Hình ảnh do vậy cần phản ánh đúng các thực trạng của hiện thực,
các mối liên hệ của đối tượng, sự kiện... thông qua những lát cắt tiêu biểu,
chân thực, sinh động, diễn ra trong khoảng thời gian, không gian xác định.
Nhờ vào những hình ảnh đó mà người xem dù khơng trực tiếp chứng kiến sự


×