Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Chất lượng đội ngũ nữ cán bộ chủ chốt ở quận hoàng mai, thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (977.62 KB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN THỊ THANH THỦY

CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ NỮ CÁN BỘ CHỦ CHỐT Ở QUẬN
HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN THỊ THANH THỦY

CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ NỮ CÁN BỘ CHỦ CHỐT Ở QUẬN
HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chính trị học phát triển
Mã số: 8 31 02 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Nguyễn Xuân Phong

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi.
Các số liệu, tư liệu của luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Tơi xin
chịu hồn tồn trách nhiệm về cơng trình nghiên cứu của mình.

Hà Nơi, ngày 15 tháng 6 năm 2019
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thanh Thủy

1


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

5

Chương 1

MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG
ĐỘI NGŨ NỮ CÁN BỘ CHỦ CHỐT Ở QUẬN


14

1.1

Quan niệm về đội ngũ nữ cán bộ chủ chốt ở quận,

14

phường
1.2

Chất lượng đội ngũ nữ cán bộ chủ chốt

23

1.3

Tính tất yếu của việc nâng cao chất lượng đội ngũ nữ
cán bộ chủ chốt ở quận của Thủ đô

32

Tiểu kết chương 1

35

Chương 2

CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ NỮ CÁN BỘ CHỦ

CHỐT Ở QUẬN HOÀNG MAI THÀNH PHỐ
HÀ NỘI- THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

36

2.1

Đặc điểm đội ngũ nữ cán bộ chủ chốt ở quận Hoàng
Mai

36

2.2

Thực trạng chất lượng của đội ngũ nữ cán bộ chủ
chốt ở quận Hoàng Mai

45

2.3

Những vấn đề đặt ra trong việc nâng cao chất lượng
đội ngũ nữ cán bộ chủ chốt ở quận Hoàng Mai hiện
nay

63

Tiểu kết chương 2

69


Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP
CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI
NGŨ NỮ CÁN BỘ CHỦ CHỐT Ở QUẬN HOÀNG
MAI THỜI GIAN TỚI

70

3.1

Phương hướng nâng cao chất lượng đội ngũ nữ cán
bộ chủ chốt ở quận Hoàng Mai

70

2


3.2

Mục tiêu nâng cao chất lượng đội ngũ nữ cán bộ chủ
chốt ở quận Hoàng Mai thời gian tới

73

3.3

Những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đội

ngũ nữ cán bộ chủ chốt ở quận Hoàng Mai thời gian
tới

78

Tiểu kết chương 3

100

KẾT LUẬN

101

TÓM TẮT LUẬN VĂN

106

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

107

3


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BTV

Ban Thường vụ


CBCC

Cán bộ chủ chốt

CNH, HĐH

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

HĐND

Hội đồng nhân dân

HTCT

Hệ thống chính trị

LLCT

Lý luận chính trị

MTTQ

Mặt trận Tổ quốc

QLNN


Quản lý Nhà nước

TCCSĐ

Tổ chức cơ sở Đảng

UBND

Ủy ban nhân dân

UV

Ủy viên

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, phụ nữ Việt Nam
ln giữ vai trị quan trọng và có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển
của đất nước. Từ cuộc đấu tranh bất khuất, kiên cường của Hai Bà Trưng, Bà
Triệu đến hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, lịch sử lại tiếp tục
ghi nhận hàng vạn tấm gương phụ nữ không ngại gian khổ, không tiếc máu
xương, sẵn sàng cống hiến khơng những cuộc đời mình mà còn hy sinh cả con
em họ cho nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Không chỉ chiến đấu anh hùng,
phụ nữ đã và đang lao động cần cù, vượt mọi gian khó, vươn lên thốt cảnh
đói nghèo, lạc hậu, góp phần xây dựng đất nước ngày càng to đẹp, vững
mạnh. Ngày nay, tiếp nối truyền thống anh hùng của phụ nữ Việt Nam, các
tầng lớp phụ nữ ngày càng thể hiện vai trị quan trọng của mình trong công

cuộc phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đất nước, thể hiện ở số phụ nữ tham
gia trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ngày càng tăng, nhất là trong lĩnh
vực chính trị.
Sự tham gia của phụ nữ trong bộ máy lãnh đạo, quản lý được coi là
thước đo cơ bản về vai trò của phụ nữ trong nền chính trị hiện đại. Mặc dù có
nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này, nhưng các quan điểm đều nhất quán ở
chỗ cho rằng, vai trò của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị tỷ lệ thuận với tỉ lệ
phụ nữ tham gia công tác lãnh đạo, quản lý.
Tại Hội nghị cán bộ thảo luận Luật Hơn nhân và gia đình, Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: “Nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội. Nếu khơng giải
phóng phụ nữ thì khơng giải phóng một nửa lồi người. Nếu khơng giải
phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa” [32, tr.523]. Giải
phóng phụ nữ là giải phóng khỏi những ràng buộc, quan niệm lạc hậu, đồng
5


thời tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ bình đẳng và phát triển, thực hiện chống
phân biệt đối xử với phụ nữ là cái gốc, là cơ sở để tạo cơ hội cho phụ nữ tiến
bộ. Bình đẳng giới trở thành mục tiêu, đồng thời cũng trở thành vấn đề trung
tâm của phát triển, là yếu tố để nâng cao khả năng tăng trưởng kinh tế của
quốc gia, xóa đói giảm nghèo và quản lý nhà nước có hiệu quả.
Điều này giải thích tại sao Chiến lược và Kế hoạch hành động vì sự
tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đặt ra mục tiêu tăng tỷ lệ cán bộ nữ lãnh đạo,
quản lý các cấp, các ngành. Giải phóng phụ nữ, đưa yếu tố giới và phụ nữ vào
các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường sự tham gia của phụ
nữ vào đời sống chính trị đã và đang trở thành vấn đề toàn cầu chứ không chỉ
của riêng quốc gia, dân tộc nào.
Mặc dù tỷ lệ phụ nữ trong hệ thống chính trị hiện nay cịn hạn chế,
song nhìn chung, sự gia tăng số lượng cán bộ nữ tham gia quản lý nhà nước
và các hoạt động chính trị trong những năm qua chứng tỏ năng lực của cán bộ

nữ ngày càng được nâng cao. Nhìn lại chặng đường đã qua, phụ nữ Việt Nam
đã không ngừng nỗ lực phấn đấu vươn lên; mặt khác, sự quan tâm, tạo điều
kiện của Đảng và Nhà nước đã tạo môi trường thuận lợi để chị em có cơ hội
phát triển tồn diện và tham gia trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Những đóng góp tích cực và cụ thể của phụ nữ vào thành quả của công cuộc
đổi mới đã dần làm thay đổi những định kiến về vai trò của phụ nữ trong xã
hội, khiến xã hội phải thừa nhận phụ nữ có khả năng tham gia lĩnh vực chính
trị khơng thua kém nam giới và nhìn nhận, đánh giá đúng hơn về vai trị, vị trí
của phụ nữ trong các hoạt động kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước.
Quán triệt quan điểm của Đảng, lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng bộ quận Hoàng Mai đã đặc biệt quan tâm và
thực hiện công tác quy hoạch cán bộ, góp phần quan trọng vào việc nâng cao
6


chất lượng đội ngũ cán bộ, trong đó có đội ngũ cán bộ nữ. Tuy nhiên, đội ngũ
cán bộ, công chức nói chung, đội ngũ cán bộ chủ chốt, cán bộ nữ nói riêng
của quận chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ. Đến nay, công tác nữ cán
bộ chủ chốt quận Hồng Mai cịn nhiều bất cập, lực lượng thay thế trước mắt
và lâu dài chưa thật sự đảm bảo cho sự phát triển bền vững của thành phố.
Hoàng Mai là một quận mới của Thủ đô được thành lập từ cuối năm
2003 hiện đang trên đà phát triển với nhiều thành tựu về kinh tế - xã hội.
Cùng với tiến trình đơ thị hóa, đời sống vật chất và tinh thần của người dân
không ngừng được cải thiện. Cơng cuộc phát triển kinh tế - xã hội quận
Hồng Mai đã và đang đặt ra những vấn đề cấp thiết, đặc biệt là xây dựng đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng và chính quyền, đủ sức hồn thành
nhiệm vụ chính trị của địa phương và thúc đẩy tồn vùng phát triển. Muốn có
được đội ngũ cán bộ chủ chốt tốt, có năng lực và trình độ, phải quy hoạch và
kiện toàn đội ngũ cán bộ chủ chốt nói chung và cán bộ nữ chủ chốt đủ về số
lượng, có chất lượng cao mới đủ khả năng lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức toàn dân

thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của quận đã đề ra.
Từ nhận thức và thực tiễn nêu trên, vấn đề nâng cao năng lực chất
lượng đội ngũ nữ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị quận Hồng Mai
đang là vấn đề cấp thiết. Do đó, học viên chọn đề tài “Chất lượng đội ngũ nữ
cán bộ chủ chốt ở quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội hiện nay” để làm
luận văn Thạc sĩ Chính trị học chuyên ngành Chính trị phát triển.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý luôn là đề tài thu hút sự
quan tâm của các nhà khoa học, các nhà quản lý và của nhiều ngành khoa học
từ nhiều lĩnh vực khác nhau: chính trị học, xây dựng Đảng, quản lý nhà
nước... Trong những năm trở lại đây có nhiều chỉ thị, nghị quyết, chủ trương,
7


báo cáo tổng kết, đánh giá của Đảng về công tác cán bộ và nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ ở các cấp, các ngành khác nhau. Đặc biệt, gần đây có
rất nhiều cơng trình, bài viết của các học viên, các nhà khoa học nghiên cứu
một số vấn đề liên quan đến đề tài có giá trị thực tiễn cao như:
2.1. Những cơng trình dưới dạng luận văn, luận án, đề tài nghiên
cứu khoa học
- Lê Phương Thảo (2001), “Nâng cao năng lực tổ chức hoạt động thực
tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện biên giới phía Bắc nước ta trong
tình hình hiện nay”, đề tài cấp bộ. Tác giả đã đề cập rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện biên giới phía Bắc, đồng thời đề
xuất các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực tổ chức hoạt động thực
tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện biên giới phía Bắc trong thời gian
trước mắt cũng như lâu dài.
- Đỗ Quốc Bình (2013), “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã trên địa bàn huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 20152020”, Luận văn thạc sĩ kinh tế. Nội dung làm rõ những vấn đề lý luận về
chất lượng cán bộ chủ chốt, sự cần thiết phải nâng cao chất lượng cán bộ chủ

chốt cấp xã trên địa bàn huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 20152020.
- Trần Thị Thanh Nhàn (2014), “Quy hoạch cán bộ diện Ban Thường
vụ tỉnh, thành ủy quản lý ở đồng bằng Bắc bộ giai đoạn hiện nay”, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; Luận án Tiến sĩ khoa học chính trị.
Luận án đã đánh giá đúng thực trạng đội ngũ cán bộ quy hoạch các chức danh
diện BTV tỉnh, thành ủy quản lý ở đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời đề xuất mục
tiêu, phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh quy hoạch
cán bộ diện BTV tỉnh, thành ủy quản lý ở đồng bằng Bắc Bộ đến năm 2020.
8


- Nguyễn Thị Huệ (2017), “Chất lượng công chức cấp huyện ở huyện
Lục Nam, tỉnh Bắc Giang hiện nay”, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Luận
văn Thạc sĩ Chính trị học. Luận văn đã đánh giá đúng thực trạng chất lượng
công chức cấp huyện ở Lục Nam, tỉnh Bắc Giang hiện nay; để từ đó nêu ra
những quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công chức cấp huyện
ở huyện Lục Nam trong thời gian tới.
2.2. Những công trình dưới dạng sách xuất bản, các bài đăng tạp
chí
- PGS.TS Nguyễn Phú Trọng, PGS.TS Trần Xuân Sầm (2001),
“Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Nxb Chính trị Quốc gia.
Các tác giả đã làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng và nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước;
chỉ ra những nội dung cơ bản về tiêu chuẩn chung đối với cán bộ và tiêu
chuẩn đối với từng loại cán bộ cụ thể. Đề tài cũng làm rõ nội dung các khâu,
các bước, quy trình của cơng tác cán bộ như: phát hiện, lựa chọn, đánh giá, sử
dụng và cất nhắc cán bộ; huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Đồng thời,
xác định yêu cầu chung về chất lượng của đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước. Trên cơ sở đó, đưa ra những kiến nghị về phương

hướng, giải pháp cơ bản nhằm củng cố, phát triển đội ngũ này cả về chất
lượng, số lượng và cơ cấu cho phù hợp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời
kỳ mới.
- Nguyễn Duy Hùng (2003), “Mối quan hệ giữa đánh giá, quy hoạch,
đào tạo và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý” đăng trên Tạp chí Xây dựng
Đảng, số 5. Nội dung chỉ rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa các khâu khác nhau và
cần phải được tiến hành đồng bộ của công tác cán bộ.
9


- Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương, Nguyễn Thu Huyền (2004),
“Hệ thống công vụ và xu hướng cải cách của một số nước trên thế giới”, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đây là một cuốn sách tham khảo giới thiệu về tổ
chức nhà nước, bộ máy hành chính, lịch sự nền công vụ, chế độ quản lý công
chức ở tám nước trên thế giới: Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản, Liên bang
Nga, Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức, Vương quốc Anh, Mỹ
- Vũ Văn Hiền (2007), “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
nhằm đáp ứng u cầu của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã tập trung luận giải vai trò của việc
xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị; phân tích,
đánh giá thực trạng đội ngũ này. Từ đó, tác giả đã nhấn mạnh đến những yêu
cầu về tiêu chuẩn phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và năng lực cán bộ
trong mối quan hệ với yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Trên cơ sở đó, tác
giả đưa ra các giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Bùi Ngọc Thanh (2008), “Một số vấn đề về xây dựng đảng về cơng
tác cán bộ”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đánh giá khái quát
việc thực hiện tiêu chuẩn cán bộ đã được Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII
của Đảng xác định cũng như những việc làm được, những việc phải tiếp tục
thực hiện trong việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý theo Nghị quyết số

11-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX.
- Trần Lưu Hải – UVTW Đảng, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Tổ
chức TW (2015), “Một số vấn đề về công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ thành tựu, hạn chế và phương hướng, giải pháp khắc phục” đăng trên Tạp chí
Cộng sản. Tác giả đã chỉ ra những kết quả đạt được về công tác quy hoạch và

10


luân chuyển cán bộ, đồng thời đề ra những phương hướng, giải pháp trong
thời gian tới.
Có thể thấy, những cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến những
khía cạnh khác nhau, những đối tượng cán bộ lãnh đạo, quản lý khác nhau ở
nước ta hiện nay. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có cơng trình nghiên cứu
riêng nào về chất lượng nữ cán bộ chủ chốt quận Hoàng Mai, thành phố Hà
Nội. Chính vì vậy, trên cơ sở kế thừa những thành quả, thành cơng của các
cơng trình nghiên cứu đó, luận văn xin đóng góp làm rõ thêm chất lượng đội
ngũ nữ cán bộ chủ chốt quận Hồng Mai, thành phố Hà Nội hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những cơ sở lý luận về chất lượng đội ngũ nữ cán bộ
chủ chốt ở quận, luận văn khảo sát thực trạng chất lượng đội ngũ nữ cán bộ
chủ chốt ở quận Hồng Mai; từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp
chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ nữ cán bộ chủ chốt ở đây trong
thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những cơ sở lý luận liên quan đến chất lượng đội ngũ nữ cán
bộ chủ chốt ở quận.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ nữ cán bộ chủ chốt
ở quận Hồng Mai, từ đó chỉ ra những vấn đề đặt ra.
- Đề xuất mục tiêu, phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm

nâng cao chất lượng đội ngũ nữ cán bộ chủ chốt ở quận Hoàng Mai, thành
phố Hà Nội thời gian tới.

11


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về chất lượng đội ngũ nữ cán bộ chủ
chốt ở quận Hồng Mai.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt khơng gian, luận văn tập trung nghiên cứu trên địa bàn quận
Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.
- Về mặt thời gian luận văn tập trung nghiên cứu từ năm 2010 đến nay
- Về phạm vi nội dung: Là cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị,
được bầu cử và bổ nhiệm có thời hạn. Bao gồm các chức danh nữ là: Bí thư,
Phó Bí Thư; Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND; Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND;
Trưởng, phó các ban Đảng, ngành đoàn thể thuộc Quận và 14 phường.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở những quan điểm cơ bản của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách và pháp luật của Nhà nước về cán bộ
lãnh đạo, quản lý ở nước ta. Đồng thời luận văn có kế thừa những thành tựu
đạt được của một số cơng trình khoa học có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử; các phương pháp

12



phân tích tổng hợp, logic, lịch sử, quy nạp, diễn dịch; đồng thời có sử dụng
phương pháp thống kê xã hội học…
6. Đóng góp khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ chất lượng đội ngũ nữ cán bộ chủ chốt của
hệ thống chính trị quận Hồng Mai, thành phố Hà Nội hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đội ngũ nữ cán
bộ chủ chốt quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận văn
- Những vấn đề mà luận văn đề cập và giải quyết góp phần thiết thực
vào việc luận giải một số giải pháp nâng cao chất đội ngũ nữ cán bộ chủ chốt
của hệ thống chính trị quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội hiện nay.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những người nghiên cứu,
giảng dạy và những nhà lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở và cả những ai quan tâm
về chất lượng đội ngũ nữ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị quận Hồng
Mai, thành phố Hà Nội hiện nay.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm có 3 chương, 9 tiết.

13


Chương 1
MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ NỮ CÁN BỘ
CHỦ CHỐT Ở QUẬN
1.1. Quan niệm về đội ngũ nữ cán bộ chủ chốt ở quận, phường
1.1.1 Quan niệm về cán bộ, công chức
- Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngơn ngữ học, có hai cách định

nghĩa về cán bộ: "Người làm cơng tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ
quan nhà nước”; hoặc “Người làm cơng tác có chức vụ trong một cơ quan,
một tổ chức, phân biệt với người thường, khơng có chức vụ" [56, tr.109].
- Trong Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch Nước Việt nam
Dân chủ Cộng hòa quy định quy chế công chức Việt Nam. Điều 1 của Sắc lệnh
ghi: "Những cơng dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ một
chức vụ thường xuyên trong cơ quan Chính phủ, ở trong nước hay ở nước
ngồi đều là công chức theo quy chế này, trừ trường hợp riêng biệt do Chính
phủ quy định" [52, tr1]. Đây là văn bản đầu tiên đưa ra khái niệm liên quan đến
cán bộ. Cuối những năm 80 của thế kỷ XX, khái niệm cán bộ được hiểu là cán
bộ, công nhân viên chức nhà nước. Khái niệm này được gọi chung cho tất cả
những người làm việc cho Nhà nước, khơng có sự phân biệt rõ ràng. Có thể coi
tất cả những người được tuyển dụng làm việc trong biên chế ở các cơ quan nhà
nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các công trường, nông, lâm trường, xí
nghiệp… đều được gọi chung là cán bộ cơng nhân viên chức nhà nước.
- Năm 2003, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số
11/2003/PL-UBTVQH11 ngày 29/4/2003 sửa đổi, bổ sung một số điều của
pháp lệnh cán bộ, công chức, gọi là Pháp lệnh Cán bộ, công chức.

14


Pháp lệnh Cán bộ, công chức 2003 là một bước tiến của q trình thể
chế hóa đường lối, chính sách cán bộ của Đảng, là cơ sở pháp lý để xây dựng
một đội ngũ cán bộ, cơng chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu
phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
- Khoản 1, Điều 4, Luật Cán bộ, cơng chức được Quốc hội nước Cộng
hịa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thơng qua ngày
13/11/2008 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010 quy định:
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ

chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách Nhà nước [46, tr.1].
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, qn nhân
chun nghiệp, cơng nhân quốc phịng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự
nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối
với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp cơng lập
thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy
định của pháp luật. [46, tr.1].

15


Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân
Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng
đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được
tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân
dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. [46, tr.1].
Từ những khái niệm về cán bộ nêu trên cho thấy, người cán bộ có 4 đặc
trưng cơ bản:
- Cán bộ được sự ủy nhiệm của Đảng, Nhà nước và các tổ chức khác

trong HTCT… lấy danh nghĩa của các tổ chức đó để hoạt động.
- Cán bộ giữ một chức vụ, một trọng trách nào đó trong một tổ chức
của HTCT.
- Cán bộ được hình thành thơng qua bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ.
- Cán bộ được hưởng lương từ ngân sách nhà nước và chính sách đãi
ngộ căn cứ vào nội dung, chất lượng hoạt động và thời gian công tác của họ.
Từ đó có thể thấy: Cán bộ được hình thành thông qua bầu cử, phê
chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong các cơ quan của
Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội. Họ làm việc trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
1.1.2 Quan niệm cán bộ chủ chốt
* Khái niệm “chủ chốt”
Theo Từ điển tiếng Việt (2000) của Nxb Đà Nẵng, từ “chủ chốt” là
“quan trọng nhất, có tác dụng làm nòng cốt. Cán bộ chủ chốt của phong trào”
16


[57, tr.174]. Như vậy, nói đến chủ chốt là nói đến mối quan hệ trong một tập
hợp nhất định có nhiều phần tử, nhiều đối tượng và vị trí, tính chất của những
phần tử, đối tượng tập hợp ấy.
* Cán bộ chủ chốt
Hiện có rất nhiều quan điểm khác nhau về cán bộ chủ chốt. Tuy nhiên,
nội hàm khái niệm này có thể thống nhất ở mấy điểm sau:
- Là người có chức năng lãnh đạo, được giao đảm đương các nhiệm vụ
quan trong nhất để lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, chịu
trách nhiệm trước tập thể và cấp trên về nhiệm vụ được phân công.
- Là người có vai trị quan trọng nhất trong việc cụ thể hóa, hiện thực
hóa đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước vào điều kiện ở cơ sở.
- Là người có trách nhiệm tiếp cận các chủ trương, chính sách về một

lĩnh vực nào đó từ cấp trên.
- Có thầm quyền giải quyết các mối quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội… trong phạm vi phụ trách bằng những hình thức khác nhau.
Do dó, chúng ta có thể hiểu Cán bộ chủ chốt là người giũ chức vụ, nắm
giữ các vị trí quan trọng, làm nịng cốt trong các tổ chức thuộc hệ thống bộ
máy nhất định; người được giao đảm đương các nhiệm vụ quan trọng để lãnh
đạo, quản lý, điều hành bộ máy thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao;
chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp mình về lĩnh vực cơng tác được giao.
Cán bộ chủ chốt là người có vị trí quan trọng, giữ vai trò quyết định
trong việc xác định phương hướng, mục tiêu, phương pháp công tác; đề ra các
quyết định và tổ chức thực hiện tốt các quyết định của cấp mình hoặc cấp trên
giao. Kiểm tra, giám sát, kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn những biểu hiện lệch
lạc; bổ sung, điều chỉnh và đưa ra những giải pháp mới khi cần thiết; đúc rút
17


kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận. Đồng thời, họ
còn là người giữ vai trị đồn kết, tập họp, phát huy sức mạnh của quần chúng
thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị và xây dựng nội bộ tổ chức vững
mạnh. Cán bộ chủ chốt là những người đại diện một tổ chức, một tập thể...
chủ yếu do bổ nhiệm hoặc bầu cử, giữ một chức vụ trọng yếu trong cơ quan
Đảng, Chính quyền (cấp trưởng, cấp phó); trưởng, phó các đồn thể và là
những người chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp mình về mọi hoạt động
của địa phương, đơn vị hoặc lĩnh vực cơng tác được đảm nhận
Do vậy, có thể định nghĩa: Cán bộ chủ chốt là cán bộ, là những người
đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu các cơ quan trong bộ máy tổ chức
của hệ thống chính trị, được bầu cử và bổ nhiệm có thời hạn như các cơ
quan: Đảng, chính quyền, MTTQ và các đồn thể chính trị- xã hội, các cấp
ủy đảng; giữ vị trí trọng yếu trong hệ thống chính trị, có ảnh hưởng mang
tính quyết định đến việc chấp hành chủ trương, chính sách, nghị quyết của

Đảng, pháp luật của Nhà nước thông qua việc trực tiếp lãnh đạo và tổ chức
thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trên địa
bàn.
Cán bộ Chủ chốt ở cấp huyện và xã bao gồm các chức danh như: Bí
thư, Phó Bí Thư; Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND; Chủ tịch, Phó Chủ tịch
UBND; Trưởng, phó các ban Đảng, ngành đoàn thể thuộc huyện và các xã
thuộc huyện.
* Đội ngũ cán bộ chủ chốt
Theo Từ điển Tiếng Việt: "Đội ngũ là khối đông người được tập hợp
và tổ chức thành một lực lượng có quy củ" [58, tr.535]. Khi nói đến một đội
ngũ là nói đến một số lượng đơng người có cơ cấu giới tính, dân tộc, tôn giáo,

18


ngành nghề, tuổi đời, trình độ… khác nhau hợp thành tổ chức có chức năng,
nhiệm vụ chính và đặc điểm hoạt động tương đối giống nhau.
Đội ngũ cán bộ không phải là tổng số giản đơn các cán bộ mà cịn là sự
bố trí, phân cơng và phối hợp hoạt động giữa các cán bộ làm nên sức mạnh để
đội ngũ cán bộ hồn thành vai trị, nhiệm vụ của mình.
Vì vậy, khi xem xét đội ngũ cán bộ của một tổ chức, địa phương, cơ
quan, đơn vị nào đó phải xem xét ba yếu tố chủ yếu là: số lượng cán bộ, cơ
cấu đội ngũ cán bộ; phẩm chất của từng cán bộ và trình độ, năng lực của từng
cán bộ.
Từ những quan niệm trên, tác giả luận văn cho rằng: Đội ngũ cán bộ
chủ chốt của Hệ thống chính trị ở huyện là những người có vị trí cao nhất của
HTCT ở huyện, được bầu cử hoặc bổ nhiệm có thời hạn; giữ vai trị quyết
định trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị địa phương thơng qua việc trực
tiếp lãnh đạo các nhiệm vụ phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trên
địa bàn mà mình phụ trách.

Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả luận văn nghiên cứu
đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị ở huyện bao gồm: Bí thư, Phó
Bí Thư; Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND; Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND;
Trưởng, phó các ban Đảng, ngành đoàn thể thuộc huyện và các xã thuộc
huyện.
* Đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị ở huyện
Ở nước ta hiện nay có một số cách phân loại đội ngũ cán bộ. Tương
ứng với mỗi cách phân loại sẽ có cách gọi cán bộ khác nhau. Nếu phân loại
đội ngũ cán bộ theo các tổ chức trong HTCT sẽ có: cán bộ đảng, chính quyền,
cán bộ đồn thể. Nếu phân loại theo tính chất cơng việc sẽ có các loại cán bộ:
cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, cán bộ khoa học, kỹ thuật, chuyên môn…

19


Từ đó có thể hiểu: Đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị ở
huyện là những người được các tổ chức trong HTCT bầu, phê chuẩn hoặc
được cấp có thẩm quyền bổ nhiệm có thời hạn giữ các chức danh: Bí thư, Phó
Bí thư Đảng ủy; Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND huyện, xã; Chủ tịch, Phó Chủ
tịch, các ủy viên UBND huyện, xã; trưởng, phó các ban Đảng, ngành của
quận; Chủ tịch MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội của huyện, xã.
* Cấp huyện, cấp xã
Cấp huyện Việt Nam hiện nay được quy định trong Luật Tổ chức chính
quyền địa phương 2015 bao gồm: Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh,
thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương. Cấp xã bao gồm các xã,
phường trực thuộc các huyện. Theo Điều 3 của Luật Tổ chức chính quyền địa
phương 2015, cấp huyện chia thành 03 loại (I, II, III). Tuy nhiên, ngoài chia
thành 3 loại trên, cịn có thể chia thành:
+ Huyện gắn với khu vực nông thôn;
+ Quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực

thuộc Trung ương gắn với khu vực đô thị.
Mỗi đơn vị hành chính cấp huyện đều được tổ chức chính quyền tương
ứng. Chính quyền cấp huyện gồm có HĐND và UBND. Cấp huyện là đơn vị
hành chính lãnh thổ trung gian nằm giữa tỉnh và xã, chính quyền địa phương
cấp huyện chịu sự quản lý nhà nước trực tiếp của chính quyền địa phương cấp
tỉnh và trực tiếp quản lý nhà nước đối với chính quyền địa phương cấp xã.
Cấp xã là cấp chính quyền địa phương cấp cơ sở, gần dân nhất ở Việt Nam.
Cấp huyện, cấp xã là cấp thứ ba và thứ tư trong hệ thống hành chính
bốn cấp (Trung ương, tỉnh, huyện và cơ sở) của nền hành chính quốc gia
thống nhất mà cấp cơ sở là địa bàn sinh sống của đại bộ phận dân cư; nơi diễn

20


ra mọi hoạt động kinh tế - xã hội của nhân dân; nơi trực tiếp và chủ yếu thể
hiện sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đều phải hướng về cơ
sở. Nếu cấp tỉnh được coi là một địa bàn vĩ mô trong sự phát triển kinh tế - xã
hội của quốc gia, còn cấp cơ sở là từng đơn vị vi mô nền tảng của vĩ mơ thì
cấp huyện là cầu nối khơng thể thiếu giữa cấp vĩ mô và vi mô.
Tuy nhiên, không nên quan niệm cấp huyện chỉ là cấp trung gian
chuyển tiếp giữa tỉnh và cơ sở; tức là xem cấp huyện chỉ làm nhiệm vụ truyền
đạt mệnh lệnh từ tỉnh, thành phố xuống cơ sở, đôn đốc việc thực hiện và phản
hồi thông tin về những kết quả cho tỉnh, thành phố. Thực tế cho thấy, cấp
huyện có vai trị độc lập của mình trong tổ chức, điều hành và quản lý toàn bộ
sự vận động của nền kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện. Cho nên, cấp huyện
là một cấp lên kế hoạch, cấp ngân sách, chiến lược kinh tế - xã hội của quốc
gia được thể hiện qua cấp tỉnh, thành phố; kế hoạch cấp tỉnh được thể hiện
qua cấp huyện; kế hoạch cấp huyện được thể hiện qua cấp cơ sở. Cấp huyện
không chỉ là cấp trên trực tiếp của cơ sở để chuyển tải những tư tưởng chỉ đạo
của tỉnh, thành phố xuống cơ sở mà cấp huyện cịn là một cấp có vai trị đặc

biệt quan trọng trong việc tổ chức thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH, cũng là
cấp trực tiếp lãnh đạo và tổ chức thực hiện Nghị quyết của Đảng và pháp luật
của Nhà nước, các chương trình kinh tế - xã hội của quốc gia, của tỉnh, thành
phố, huyện và ở từng cơ sở.
* Hệ thống chính trị cấp huyện
Cấu trúc HTCT không chỉ là hệ thống các tổ chức và các quan hệ về tổ
chức mà còn là hệ thống các cấp độ và các quan hệ về cấp độ nhìn theo hai
chiều vận động từ dưới lên và từ trên xuống.
Các bộ phận cấu thành HTCT cấp huyện có vị trí, chức năng, nhiệm vụ
khác nhau trong đó Đảng bộ cấp huyện giữ vị trí trung tâm, có vai trò lãnh
21


đạo các tổ chức trong HTCT cấp huyện, nhưng đều có mối quan hệ, phối hợp
hoạt động để cùng hướng đến mục tiêu chung: đó là phát triển kinh tế xã hội,
bảo đảm quốc phòng - an ninh của địa phương; nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho nhân dân để góp phần củng cố HTCT trong cả nước.
Giữa các tổ chức lại hình thành quan hệ tác động lẫn nhau trong hệ
thống và trong từng cấp độ. Cụ thể, ở cấp Trung ương là quan hệ giữa Ban
Chấp hành Trung ương Đảng với Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban Trung ương
MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội (Ban Chấp hành Trung ương Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân, Ban Chấp
hành Trung ương Hội Cựu Chiến binh, Cơng đồn Việt Nam). Ở cấp tỉnh là
quan hệ giữa Đảng bộ tỉnh với chính quyền (HĐND, UBND) tỉnh, MTTQ với
các tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh. Ở cấp quận, huyện là quan hệ giữa
Đảng bộ quận, huyện với chính quyền (HĐND, UBND), MTTQ với các tổ
chức chính trị - xã hội cấp quận, huyện.
Vì vậy, có thể hiểu: Hệ thống chính trị cấp huyện là tồn bộ các tổ
chức chính trị cấp huyện (tổ chức Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội) và mối quan hệ giữa chúng được tổ chức và hoạt động theo những

nguyên tắc xác định, gắn bó hữu cơ, thống nhất với nhau về mục đích, chức
năng, nhiệm vụ nhằm thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở.
* Hệ thống chính trị cấp xã
Theo Hiến pháp năm 2013, xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) là
đơn vị hành chính thấp nhất trong phân định các đơn vị hành chính ở Việt
Nam. Ở các tổ chức chính trị cấp xã, phường chính quyền địa phương gồm
Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, UB MTTQ và các đoàn thể
22


chính trị xã hội có trách nhiệm thực hiện tốt và đầy đủ chức năng, nhiệm vụ
đã được pháp luật quy định. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “cấp xã
là gần gũi dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi
việc đều xong xi”.
Từ nhận thức đó, đặc biệt theo quan điểm của Nghị quyết số 11 –
NQ/TW ngày 27 tháng 4 năm 2007 về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tiếp tục nhấn mạnh: “Xây dựng, phát
triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là
yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ
của Đảng” và nhiệm vụ “xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học nữ có trình độ
cao, cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp CNH,
HĐH”.
1.2. Chất lượng đội ngũ nữ cán bộ chủ chốt
1.2.1 Chất lượng
Chất lượng theo quan niệm chung nhất “là cái tạo nên phẩm chất, giá
trị của một con người, một sự vật một sự việc”. Nói cách khác chất lượng là
hệ thống những yếu tố cơ bản để hình thành những giá trị, tính chất tốt đẹp
của từng con người, từng sự vật.
Chất lượng đội ngũ cán bộ được tạo nên bởi nhiều yếu tố bao gồm số

lượng cán bộ, cơ cấu cán bộ, cấu trúc bộ máy, cơ chế điều hành, phương thức
quản lý, lãnh đạo…Chất lượng đội ngũ cán bộ được cấu thành từ chất lượng
của từng người cán bộ.
1.2.2. Quan niệm về chất lượng đội ngũ nữ cán bộ chủ chốt
Chất lượng đội ngũ nữ cán bộ chủ chốt chính là tổng hợp trong sự
thống nhất biện chứng giữa chất lượng của từng cán bộ nữ với số lượng và cơ
23


×