BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
VŨ THỊ THU HỒNG
TUYÊN TRUYỀN VỀ PHÒNG, CHỐNG “TỰ DIỄN BIẾN”,
“TỰ CHUYỂN HOÁ” CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN
Ở ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ THANH HĨA,
TỈNH THANH HĨA HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
HÀ NỘI - 2019
Bộ GIÁO DụC VÀ ĐÀO TạO
HọC VIệN CHÍNH TRị QUốC GIA
Hồ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
VŨ THỊ THU HỒNG
TUYÊN TRUYỀN VỀ PHÒNG, CHỐNG “TỰ DIỄN BIẾN”,
“TỰ CHUYỂN HOÁ” CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN
Ở ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ THANH HĨA,
TỈNH THANH HĨA HIỆN NAY
Ngành
: Chính trị học
Chun ngành
: Quản lý hoạt động tư tưởng - văn hoá
Mã số
: 8 31 02 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. Hoàng Quốc Bảo
HÀ NỘI - 2019
Luận văn đã được sửa chữa, hoàn thiện theo khuyến nghị của Hội
đồng khoa học chấm luận văn Thạc sĩ.
Hà Nội, ngày tháng
năm 2019
CHủ TịCH HộI ĐồNG
LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan luận văn này do chính tác giả nghiên cứu và thực hiện.
Kết quả nghiên cứu chưa được cơng bố ở bất kỳ cơng trình nghiên cứu nào.
Các số liệu, các trích dẫn trong luận văn được chú thích và có nguồn gốc rõ
ràng, trung thực. Tơi hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Tác giả luận văn
Vũ Thị Thu Hồng
MụC LụC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1:TUYÊN TRUYỀN VỀ PHÒNG, CHỐNG "TỰ DIỄN
BIẾN","TỰ CHUYỂN HOÁ" CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN- MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ...................................................................................... 7
1.1.“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên - khái
niệm, biểu hiện và tác hại ..................................................................... 7
1.2.Tuyên truyền phòng, chống “tự diễn biến, tự chuyển hóa” cho cán
bộ, đảng viên và các yếu tố cấu thành................................................. 27
1.3. Sự cần thiết phải tuyên truyền phịng, chống ‘tự diễn biến’, “tự
chuyển hóa” cho cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay....................... 33
Chương 2:TUYÊN TRUYỀN VỀ PHỊNG, CHỐNG "TỰ DIỄN
BIẾN","TỰ CHUYỂN HỐ" CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở ĐẢNG
BỘ THÀNH PHỐ THANH HOÁ - THỰC TRẠNG VÀ KINH NGHIỆM
..................................................................................................................... 44
2.1. Những yếu tố tác động đến cơng tác tun truyền về phịng,
chống"tự diễn biến", "tự chuyển hóa" cho cán bộ, đảng viên ở Đảng bộ
Thành phố Thanh Hóa hiện nay.......................................................... 44
2.2. Thực trạng tuyên truyền về phịng, chống "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa" cho cán bộ, đảng viên ở đảng bộ thành phố Thanh Hóa . 54
Chương 3:PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG
CƯỜNGTUYÊN TRUYỀN VỀ PHỊNG, CHỐNG "TỰ DIỄN
BIẾN","TỰ CHUYỂN HỐ" CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊNỞ
ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ THANH HOÁ HIỆN NAY ............................. 77
3.1. Phương hướng ............................................................................. 77
3.2. Giải pháp ..................................................................................... 83
KẾT LUẬN ................................................................................................. 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 100
PHỤ LỤC.................................................................................................. 105
TÓM TẮT LUẬN VĂN ........................................................................... 112
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi công tác xây
dựng đảng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên là vấn đề then chốt, sống cịn,
có ý nghĩa quyết định sự tồn tại, phát triển của Đảng. Những năm qua, sự suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên là điều kiện, cơ hội cho các thế lực thù địch thực hiện âm mưu
“diễn biến hịa bình”, thúc đẩy q trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong
nội bộ đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên là một trong những nhiệm vụ
chính trị quan trọng bảo đảm cho Đảng ln trong sạch, vững mạnh, đáp ứng
yêu cầu lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, công cuộc đổi mới. Gần đây nhất,
năm 2016, Đại hội XII của Đảng yêu cầu “Tăng cường đấu tranh làm thất bại
mọi hoạt động “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch, chủ động ngăn
chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch”. Cuối
năm 2016, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy
lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ, trong đó xác định sự suy thối về chính trị
tư tưởng, đạo đức, lối sống là bước chuyển trực tiếp đến “diễn biến hịa bình”,
và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng.
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) cũng chỉ rõ: “Tình trạng suy thối về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận cịn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn…
Trong khi đó, sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm
khơn lường”. Vì vậy, việc tuyên truyền về phòng, chống "tự diễn biến", "tự
2
chuyển hoá" cho cán bộ, đảng viên là vấn đề thực tiễn cấp thiết hiện nay.
Trong những năm qua, ở Đảng bộ Thành phố Thanh Hóa, cơng tác
tun truyền về phịng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hố" cho cán bộ,
đảng viên đã từng bước đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, bên
cạnh đó, việc triển khai nhiệm vụ này vẫn đứng trước khơng ít khó khăn;
đồng thời, kết quả còn hạn chế cả về mặt tổ chức và hoạt động thực tiễn. Điều
này thể hiện ở việc một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn mơ hồ, chưa nhận
thức đúng về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ và mức độ nguy hiểm
của nó đối với sự tồn vong của Đảng, chế độ; các tổ chức đảng cũng chưa phát
huy tốt vai trò, trách nhiệm trong bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên về nhận
thức chính trị, đạo đức, lối sống, tư tưởng, niềm tin và ý chí, quyết tâm hành
động với các biểu hiện cụ thể, chẳng hạn: Suy giảm về nhận thức, về tư tưởng
chính trị, có biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, xa rời Chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xa rời đường lối, nguyên tắc tập trung dân
chủ trong sinh hoạt Đảng; suy giảm niềm tin vào thắng lợi của chủ nghĩa xã
hội, thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước; thiếu tin tưởng vào sự lãnh đạo
của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước cũng như phẩm chất và năng
lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt; thiếu cảnh giác đối
với các thông tin, quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù
địch, phần tử cơ hội chính trị; suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống, xa rời
những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức, lối sống xã hội chủ nghĩa,...
Bởi vậy, việc nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác tun truyền về
phịng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có ý nghĩa quan trọng, thiết
thực cả về lý luận và thực tiễn, đồng thời cũng là một trong những nhiệm vụ
cấp thiết đối với công tác xây dựng đảng hiện nay.
Vì lý do trên, tơi chọn đề tài: "Tuyên truyền về phòng, chống "tự
diễn biến", "tự chuyển hóa"cho cán bộ, đảng viên ở Đảng bộ Thành phố
Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa hiện nay" làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành
3
quản lý hoạt động tư tưởng – văn hóa.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm vừa qua, chưa có cơng trình nghiên cứu nào đi sâu
vào vấn đề tuyên truyền về phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" cho
cán bộ, đảng viên. Thường là các cơng trình nghiên cứu về đấu tranh phịng,
chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" chung chung, dưới dạng bài đăng các
báo, tạp chí… Sau đây là một số cơng trình tiêu biểu:
- Những cơng trình nghiên cứu về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”:
Vũ Đức Trình: Nhận diện tự diễn biến, tự chuyển hóa ở việt nam hiện
nay. Luận văn thạc sỹ chính trị học;
Khái
niệm
“tự
diễn
biến”,
“tự
chuyển
hóa”.
Website
ngày 18/05/2017;
Tự diễn biến, tự chuyển hoá - Khái niệm, biểu hiện và nguyên nhân.
Website ngày 14/10/2014
- Những cơng trình nghiên cứu tun truyền và tuyên truyền về phòng
chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên
ThS. Nguyễn Huy Ngọc: Mấy suy nghĩ về công tác tuyên truyền trong
giai đoạn hiện nay. Website: ngày 13/3/2012.
Nguyễn Thanh Bình: Đấu tranh phịng, chống "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa" của cán bộ, đảng viên huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay. Luận văn thạc sỹ chính trị học.
Nguyễn Quốc Ninh:Một số vấn đề trong cơng tác phịng, chống "tự
diễn biến", "tự chuyển hóa" trong đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức hiện
nay. Website: ngày 02/8/2017.
GS,TS Nguyễn Xuân Thắng: Đổi mới, tăng cường công tác dạy và học
lý luận chính trị, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên,
phịng chống suy thối về tư tưởng chính trị hiện nay 05/05/2017. Website:
ngày 05/5/2017
4
Nguyễn Đức Vượng: Cơng tác tun giáo góp phần phịng, chống "tự
diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ ở tỉnh Điện Biên. Website:
ngày 01/8/2017
TS. Lâm Quốc Tuấn (2016): Một số giải pháp phòng, chống “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên hiện nay. Tạp chí Cộng sản
ngày 28/9/2016.
Các cơng trình nghiên cứu trên tiếp cận từ nhiều góc độ, đưa ra các
giải pháp khác nhau, chủ yếu trên bình diện cả nước. Tuy nhiên, chưa có cơng
trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống, đánh giá, nêu được các hệ thống
giải pháp một cách sâu sắc, tồn diện, có tính khả thi về tun truyền về
phịng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" cho cán bộ, đảng viên ở Đảng
bộ Thành phố Thanh Hóa.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề về tuyên truyền về phòng, chống "tự
diễn biến", "tự chuyển hóa" cho cán bộ, đảng viên, nói chung, Đảng bộ Thanh
hóa nói riêng, trên cơ sở đó đánh giá đúng thực trạng và đề xuất phương
hướng, giải pháp nhằm tăng cường tuyên truyền về phòng, chống "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa" cho cán bộ, đảng viên ở Đảng bộ Thành phố Thanh
Hóa, tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ cơ sở lý luận về tuyên truyền về phịng, chống "tự diễn biến",
"tự chuyển hóa" cho cán bộ, đảng viên.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng (ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân)
tuyên truyền về phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" cho cán bộ,
đảng viên ở Đảng bộ Thành phố Thanh Hóa.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác
tun truyền phịng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" đối với cán bộ,
5
đảng viên ở Đảng bộ Thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác tuyên truyền về phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"
cho cán bộ, đảng viên ở Đảng bộ Thành phố Thanh Hóa.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của là Thành ủy Thanh Hóa, cán bộ, đảng viên,
các tổ chức đảng Đảng bộ Thành phố Thanh Hóa.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu vấn đề tuyên truyền về phịng, chống "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa" cho cán bộ, đảng viên ở Đảng bộ Thành phố Thanh
Hóa từ năm 2015 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được xây dựng dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về tuyên truyền, về phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" cho
cán bộ, đảng viên.
5.2. Cơ sở thực tiễn
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở thực trạng tuyên truyền về phịng,
chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" cho cán bộ, đảng viên ở Đảng bộ thành
phố Thanh Hóa.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương
pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp điều tra, thống kê, so sánh.
6. Những đóng góp khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ khái niệm, biểu hiện, nguyên nhân, nét
đặc thù của "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" của một bộ phận cán bộ, đảng
6
viên nói chung và trong Đảng bộ Thành phố Thanh Hóa nói riêng.
Đề xuất những giải pháp có tính khả thi để tăng cường cơng tác tun
truyền về phịng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" cho cán bộ, đảng viên
ở Đảng bộ Thành phố Thanh Hóa.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ
công tác tuyên giáo, công tác giảng dạy và nghiên cứu về cơng tác tun
truyền về phịng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" của cán bộ, đảng viên
trong Đảng bộ Thành phố Thanh Hoá.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, Luận văn
được kết cấu theo 3 chương, 7 tiết.
7
Chương 1
TUYÊN TRUYỀN VỀ PHÒNG, CHỐNG "TỰ DIỄN BIẾN",
"TỰ CHUYỂN HOÁ" CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN
- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên khái niệm, biểu hiện và tác hại
1.1.1. Khái niệm “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên
Xét về mặt lịch sử, thuật ngữ "tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” xuất hiện
trong phần đánh giá về tình hình chính trị, tư tưởng của Đảng ta từ khi thực
hiện công cuộc đổi mới.
Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 01 năm
1994), Đảng ta đã xác định 4 nguy cơ đối với chế độ ta là: “Nguy cơ tụt
hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do
điểm xuất phát thấp, nhịp độ tăng trưởng chưa cao và chưa vững chắc, lại
phải đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt, nguy cơ chệch hướng xã
hội chủ nghĩa nếu không khắc phục được những lệch lạc trong chủ trương,
chính sách và chỉ đạo thực hiện; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan
liêu, nguy cơ “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch”. Đánh giá về
“nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa” và “nguy cơ về nạn tham nhũng
và tệ quan liêu” , về thực chất, đã chỉ ra nguyên nhân có thể dẫn đến “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, Nhà nước và cả hệ thống
chính trị. Có thể nói, đây vừa là nhận định rất quan trọng, vừa là quan điểm
chính thức của Đảng đối với những vấn đề đặt ra của xã hội ta từ khi thực
hiện công cuộc đổi mới đất nước.
Nhận định của Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII về
những nguy cơ đối với chế độ ta tiếp tục được các đại hội của Đảng, từ Đại
8
hội lần thứ VIII, lần thứ IX, lần thứ X, lần thứ XI và đến Đại hội lần thứ XII
khẳng định lại, nhấn mạnh: những nguy cơ này chẳng những vẫn đang tồn tại
mà có phần cịn nghiêm trọng hơn.
- Thực tế cho thấy, "tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là quá trình diễn ra
sự thay đổi từng bước, từ lượng đến chất trong tư tưởng và hành động của cá
nhân cán bộ, đảng viên hoặc của tổ chức đảng, Cơ quan nhà nước, tổ chức,
đoàn thể trong hệ thống chính trị.
"Tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” có quan hệ với nhau, nhưng không
phải là một. Hiểu một cách khái quát, “tự diễn biến” chủ yếu nhấn mạnh đến
quá trình tự vận động nói chung của mọi sự vật, hiện tượng trong khi “tự
chuyển hóa chủ yếu nói lên xu hướng thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng.
Đứng trên phương diện tư tưởng chính trị, “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa”
là xu hướng chuyển từ nhận thức đến hành vi của cán bộ, công chức đi theo
con đường xã hội chủ nghĩa sang con đường tư bản chủ nghĩa”
“Tự diễn biến” được hiểu là “quá trình đấu tranh giữa các mặt tích cực
và tiêu cực, giữa tư tưởng xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa trong nội tâm
người cán bộ, đảng viên trước những tác động phức tạp của tình hình trong
nước và quốc tế. Trong đó, yếu tố tiêu cực và tư tưởng tư bản chủ nghĩa dần
dần tăng lên; yếu tố tích cực, cách mạng, tư tưởng xã hội chủ nghĩa phai nhạt
dần. Đây là quá trình biến đổi từ bên trong chủ thể, đến một thời điểm nhất
định, sự biến đổi này sẽ chuyển sang hành động của chủ thể. “Tự chuyển hố”
là sự nối tiếp của q trình “tự diễn biến”, đó là sự thay đổi về chất. Khi quan
điểm, tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên đã thay đổi
về chất, sẽ dẫn hành động chống lại chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước
Như vậy, có thể nói, hậu quả của “tự diễn biến” tất yếu dẫn đến sự suy
thối về tư tưởng chính trị trong nội bộ Đảng và hệ thống chính trị. Từ đó “tự
chuyển hóa” diễn ra trên cả bình diện chế độ, thể chế chính trị.
9
Tuy nhiên, khơng phải tất cả q trình “tự diễn biến” nào cũng dẫn đến
“tự chuyển hóa”, mà “tự diễn biến” phải đến một giới hạn (một ngưỡng) nhất
định mới tạo ra sự chuyển hóa chế độ theo quy luật sự thay đổi về lượng đến
một giới hạn nhất định sẽ tạo ra sự thay đổi về chất. Vì vậy, có thể khẳng
định, “tự chuyển hóa” là hậu quả tất yếu của q trình suy thối về tư tưởng
chính trị trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Trên bình diện mức độ và tính chất của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
cho thấy, “tự diễn biến” thấp hơn so với “tự chuyển hóa”, nhưng diễn ra trên
phạm vi rộng và mang tính phổ biến hơn.
Tự diễn biến” là một quá trình, nên có nhiều mức độ biểu hiện khác
nhau. Từ nhận thức không đầy đủ một sự kiện, hoặc tiếp nhận những thơng
tin sai lệch nào đó, có thể dẫn đến nghi ngờ đường lối, quan điểm của Đảng.
Từ một lợi ích cá nhân chính đáng vì một lý do nào đó khơng được đáp ứng
như mong muốn, có thể dẫn đến tâm trạng buồn chán, bất mãn, điều này có
thể là bước khởi đầu của sự mất niềm tin. Do vậy, nếu xét về mức độ nguy
hại, “tự diễn biến” chưa đáng lo ngại so với “tự chuyển hóa”. Nhưng xét về
nguyên nhân trực tiếp, “tự diễn biến” rất dễ xảy ra, nhất là ở mức độ thấp và
trên phạm vi rộng. Từ những mức độ ban đầu, nếu “tự diễn biến” không được
xử lý với ý nghĩa là hạn chế hoặc loại bỏ các nguyên nhân sinh ra nó, “tự diễn
biến” dần dần sẽ trở thành “tự chuyển hóa”. Đồng thời, giữa “tự diễn biến” và
“tự chuyển hóa” có mối quan hệ chuyển tiếp một cách tự nhiên: “tự chuyển
hóa” là hệ quả và là bước phát triển cao hơn tiếp theo của “tự diễn biến”. Hai
bước này không đơn giản là bước nối tiếp bước kia mà có sự đan xen, tác
động qua lại. “Tự diễn biến” càng nhanh thì “tự chuyển hóa” càng đến sớm và
ngược lại.
Kế thừa một cách có chọn lọc những quan điểm, tư tưởng của các cơng
trình nghiên cứu và từ thực tiễn xã hội, chúng ta có thể hiểu về bản chất của
“tự diễn biến”, tự chuyển hóa” như sau:
10
-
Một là, sự vận động bên trong, chịu sự tác động của các yếu tố chủ
quan, khách quan, các yếu tố bên trong và bên ngồi. Trong đó các yếu tố chủ
quan, bên trong được coi là yếu tố cơ bản chi phối sự “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”.
-
Hai là, là quá trình tự tan rã, tự suy sụp, chuyển từ cái tích cực sang
cái tiêu cực.
-
Ba là, sự thay đổi về nhận thức và thái độ và hành động theo hướng
phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng, quan điểm, lối của đường lối của
Đảng để chuyển sang hệ tư tưởng, quan điểm chính trị đối lập.
Từ sự phân tích nêu trên, có thể bước đầu nêu ra khái niệm về “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” là:
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là q trình thay đổi từ bên trong (từ
nội tâm) của cá nhân hay tổ chức cả về nhận thức, thái độ và hành động theo
hướng từ tích cực chuyển thành tiêu cực; từ quan điểm, tư tưởng đúng chuyển
sang quan điểm, tư tưởng sai trái, từ tin tưởng dẫn đến hoài nghi, gây ra ảnh
hưởng xấu và tác động tiêu cực đối với xã hội.
Như vậy, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong đội ngũ cán bộ, đảng
viên là sự suy thoái từ bên trong, là q trình tự biến đổi về tư tưởng, chính
trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên theo chiều hướng tiêu cực. Chủ
thể của "tự diễn biến" là cán bộ, đảng viên, bất kể ở vị trí nào. Vị trí của
người cán bộ, đảng viên càng cao thì hậu quả tiêu cực của "tự diễn biến" càng
lớn. Còn chủ thể của "tự chuyển hóa" vừa là cán bộ, đảng viên, vừa là tổ chức
của chính những cán bộ, đảng viên đó. Tuy nhiên, sự xác định như vậy cũng
chỉ mang tính tương đối. "Tự diễn biến" và "tự chuyển hóa" có quan hệ chặt
chẽ với nhau giống như mối quan hệ không thể phân biệt giữa cá nhân trong
tổ chức mà cá nhân đó là thành viên. "Tự diễn biến" là quá trình thẩm thấu
từng ngày, từng hoạt động của các chủ thể, cịn "tự chuyển hóa" là đích đến,
là hệ quả của "tự diễn biến" của các cá nhân, tổ chức.
11
1.1.2. Biểu hiện và nguyên nhân của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
1.1.2.1. Biểu hiện của “Tự diễn biến, tự chuyển hóa”
Bản chất của “tự diễn biến’, “tự chuyển hóa” này là một q trình suy
thối từ bên trong đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Đó là quá trình diễn ra
sự thay đổi dần từ lập trường, quan điểm, tư tưởng và đạo đức cách mạng của
giai cấp vô sản sang lập trường, tư tưởng, đạo đức và lối sống của giai cấp tư
sản. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra, một mặt do tác động khách
quan bởi mặt trái của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và do âm mưu thủ
đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; mặt khác chủ yếu là do bộ
phận cán bộ, đảng viên thiếu rèn luyện tu dưỡng, bỏ rơi vai trò tiên phong,
giảm sút ý chí phấn đấu, sa vào chủ nghĩa cá nhân, quên trách nhiệm, bổn
phận trước Đảng, trước dân. Họ ngại khó, ngại khổ, ngại va chạm, bất chấp
đạo lý, dư luận, kỷ cương khơng nghiêm, khơng gương mẫu, nói khơng đi đơi
với làm, thối hóa, biến chất về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống.
“Tự diễn biến’, “tự chuyển hóa” về chính trị, tư tưởng có căn ngun từ
đạo đức, lối sống. Bởi đạo đức, lối sống là cái gốc, do đó tất yếu, sự suy thối
nghiêm trọng về đạo đức, lối sống sẽ dẫn tới tha hóa về chính trị- tư tưởng.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về chính trị - tư tưởng có thể xảy ra trong
đảng viên, cán bộ, công chức, quần chúng nhân dân; nhưng đặc biệt nguy
hiểm khi một bộ phận đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ có chức, có
quyền suy thối về đạo đức, lối sống. Đó là những người bị chủ nghĩa cá nhân
điều khiển, coi thường lợi ích tập thể, lợi ích quốc gia, lợi dụng địa vị được
phân cơng để thu lợi cá nhân, gia đình và người thân. Nội dung này cũng đã
được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc tới trong bài viết: “ Nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, Bác đã nghiêm khắc phê phán biểu hiện
chủ nghĩa cá nhân ở một số cán bộ, đảng viên : “Họ mang nặng chủ nghĩa cá
nhân, việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ khơng lo
“mình vì mọi người” mà chỉ muốn “ mọi người vì mình”, “do chủ nghĩa cá
12
nhân mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ơ, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ
tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao tự đại, coi thường tập
thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng,
xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Họ khơng có tinh thần cố gắng
vượt lên, không chịu học tập để tiến bộ. Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất
đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, khơng
chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm hại đến lợi
ích của cách mạng, của nhân dân.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng chính trị là sự phủ nhận
chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; thiếu niềm tin, hồi nghi, thậm
chí phủ nhận vai trị lãnh đạo của Đảng. Qua tổng kết lịch sử, trong những
nguyên nhân dẫn tới sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên bang Xơ Viết và các
nước Đơng Âu, có ngun nhân “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ
phận đảng viên và tổ chức đảng. Những sai lầm trong đường lối chính trị của
Đảng cộng sản các nước đó đã làm chủ nghĩa xã hội lâm vào trì trệ, khủng
hoảng, cộng với đó là sự tấn cơng của các thế lực thù địch làm cho tổ chức
đảng và một bộ phận cán bộ, đảng viên non kém đã “ tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”.
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tư (khóa XI) thẳng
thắn chỉ ra những biểu hiện của “tự diễn biến”, “ tự chuyển hóa” trong nội bộ
Đảng ta hiện nay là: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có
những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả cán bộ cao cấp, suy thối
về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống... phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa
cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, kèn cựa địa vị, cục bộ,
tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vơ ngun tắc”. Những biểu hiện cụ thể của
một bộ phận cán bộ, đảng viên bị thoái hóa, cũng là những biểu hiện cụ thể
của nguy cơ “ tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong nội bộ Đảng.
Nghị quyết Trung ương 4, khoá XII đã chỉ rõ 9 biểu hiện của “tự diễn
13
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng như sau:
-
Phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi
thực hiện "đa nguyên, đa đảng".
-
Phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa; đòi thực hiện thể chế "tam quyền phân lập", phát
triển "xã hội dân sự". Phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.
-
Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách
mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa
đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
-
Kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong
nội bộ. Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã
hội để nói xấu, bơi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trị lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ
nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
-
Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng
đối với lực lượng vũ trang; địi "phi chính trị hố" qn đội và cơng an; xun
tạc đường lối quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân; chia rẽ quân đội với
công an; chia rẽ nhân dân với qn đội và cơng an.
-
Móc nối, cấu kết với các thế lực thù địch, phản động và các phần tử
cơ hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập; vận động,
tổ chức, tập hợp lực lượng để chống phá Đảng và Nhà nước.
-
Đưa thơng tin sai lệch, xun tạc đường lối, chính sách đối ngoại
của Đảng và Nhà nước; thông tin phiến diện, một chiều về tình hình quốc tế,
gây bất lợi trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước.
-
Phủ nhận vai trị lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, văn học-nghệ
thuật. Tác động, lôi kéo, lái dư luận xã hội không theo đường lối của Đảng; cổ
14
suý cho quan điểm, tư tưởng dân chủ cực đoan; thổi phồng mặt trái của xã
hội. Sáng tác, quảng bá những tác phẩm văn hố, nghệ thuật lệch lạc, bóp
méo lịch sử, hạ thấp uy tín của Đảng.
-
Có tư tưởng dân tộc hẹp hịi, tơn giáo cực đoan. Lợi dụng vấn đề
"dân chủ", "nhân quyền", dân tộc, tôn giáo để gây chia rẽ nội bộ, gây chia rẽ
giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa dân tộc và tôn giáo, giữa các dân tộc,
tôn giáo với Đảng và Nhà nước.
Có thể nói, nhận biết “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở một con người
hay trong một tổ chức khơng đơn giản chỉ dựa trên một vài biểu hiện bề
ngoài. Vì thực tế hiện tượng bề ngồi khơng phải lúc nào cũng phản ánh bản
chất bên trọng. Vì thế việc kết luận một trường hợp nào đó có vấn đề “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” cần phải thận trọng, khách quan trên cơ sở phân tích,
tổng hợp các dấu hiệu diễn ra có tính hệ thống trong một q trình nhất định.
Những biểu hiện “ tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết là nguy hiểm nhất về chính trị, tư
tưởng. Đại hội lần thứ XII của Đảng tiếp tục yêu cầu “Tăng cường đấu tranh
làm thất bại mọi hoạt động “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch, chủ
động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù
địch”. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “ tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa trong nội bộ ta, khắc phục sự suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức lối sống trong bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên”.
1.1.2.2.Nguyên nhân của “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán
bộ, đảng viên
* Nguyên nhân khách quan:
- Tác động của tồn cầu hóa và kinh tế thị trường
Tồn cầu hóa hiện nay đã và đang tác động mạnh mẽ đến đời sống mọi
mặt của các quốc gia, dân tộc, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội, trình
độ phát triển và bản sắc văn hóa. Tuy nhiên, khơng như thời đại trước đây,
15
nhân tố tác động mạnh mẽ đến quá trình này khơng chỉ có kinh tế thị trường,
mà ngày nay cùng với kinh tế thị trường là cuộc cách mạng kỹ thuật số,
Internet.
Đối với Việt Nam, những yếu tố của toàn cầu hóa và yếu tố địa - chính
trị đã và đang tác động đến nhiều mặt của xã hội ta, từ chế độ chính trị, thể
chế quốc gia, đến hệ thống pháp luật và đời sống tinh thần của cả dân tộc.
Những tác động này vừa có ý nghĩa tích cực, vừa có ý nghĩa tiêu cực. Những
tác động tiêu cực có thể thấy rõ, đó là việc truyền bá những giá trị dân chủ,
nhân quyền, đạo đức, lối sống không phù hợp với các điều kiện lịch sử cụ thể
hiện nay của Việt Nam. Q trình tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế, sự“bùng
nổ” thông tin qua Internet đã tác động trực tiếp đến nhận thức của mỗi người.
Quá trình này tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, đảng viên và nhân dân tiếp
cận trực tiếp hơn, nhanh hơn và nhiều hơn với thực tế của các chế độ xã hội
khác nhau. Tuy nhiên, nếu chỉ qua thông tin trên Internet, nhiều người thường
chỉ thấy những thành quả về phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, quản lý xã
hội và các chính sách an sinh xã hội của những nước này mà không thấy
những mặt trái của các xã hội đó. Từ đây, làm nảy sinh so sánh về sự lựa chọn
con đường phát triển của đất nước, dẫn đến hoài nghi về sự quá độ bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa để đi lên chủ nghĩa xã hội trong một bộ phận
cán bộ, đảng viên và nhân dân. Những hoài nghi, dao động đó khơng được
định hướng kịp thời, lại cộng hưởng bởi sự xuyên tạc của các thế lực thù địch
thông qua chiến lược “diễn biến hịa bình” cũng thúc đẩy những cán bộ, đảng
viên có lập trường khơng vững vàng, tự nguyện rời bỏ lý tưởng của Đảng,
cơng khai chỉ trích chủ nghĩa xã hội.
Có thể nói, sự thay đổi nhanh chóng của thế giới theo các “kênh” của
hội nhập và “bùng nổ” thơng tin trong q trình tồn cầu hóa đã tác động
mạnh đến khuôn mẫu, tư duy của mỗi người. Trong khi đó đó, đội ngũ cán
bộ, đảng viên chưa được chuẩn bị kỹ về nhận thức, tư tưởng, về năng lực hoạt
16
động thực tiễn và phương pháp, tác phong cho sự chuyển đổi to lớn đó, nên
khơng ít cán bộ, đảng viên đã lúng túng trong nhận thức và hành động. Đặc
biệt là một bộ phận cán bộ, đảng viên đã khơng tích cực học tập, rèn luyện để
kịp thời thích ứng với điều kiện mới, với cơ chế mới, nhất là khả năng “tự
miễn dịch”, khả năng “tự đề kháng” trước sự tác động từ mặt tiêu cực của
kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập quốc tế.
- Tác động của sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xơ và các
nước Đơng Âu
Đây có thể xem là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến suy
giảm niềm tin của cán bộ, đảng viên đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Một số người cho rằng, sự sụp đổ
của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu là minh chứng cho sai
lầm của học thuyết Mác - Lênin, của chủ nghĩa xã hội. Và như vậy thì đương
nhiên Việt Nam cũng đã chọn sai đường. Theo họ, thực tế đã chỉ ra muốn
tránh sụp đổ thì Việt Nam phải từ bỏ chủ nghĩa xã hội và chuyển sang con
đường khác, chuyển sang mơ hình xã hội khác. Khơng ít người đã lấy thực tế
này làm chỗ dựa cho lập luận từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa. Trước những
mặt tiêu cực của xã hội ta, một số người cho rằng có tình trạng đó là do lỗi thể
chế chính trị, lỗi của chế độ xã hội. Họ ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản,
xem mơ hình tư bản chủ nghĩa là đúng đắn nhất, phù hợp với quy luật phát
triển và thực tiễn đương đại.
Về mặt lý luận, sự tan rã, sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu đã tạo nên một “khoảng trống” trong tư tưởng của nhiều cán
bộ, đảng viên, mà đến nay vẫn chưa khắc phục được. Khoảng trống đó bao
gồm nhiều vấn đề, như: Con đường xã hội chủ nghĩa có hợp với quy luật phát
triển của nhân loại hay không? Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, xã hội
nào ưu việt hơn? Về mặt lý luận và thực tế sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã
hội với chủ nghĩa tư bản là gì, nhất là trong mơ hình mới về con đường đi lên
17
chủ nghĩa xã hội của chúng ta đã xác định xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa? Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội là gì? Phải chăng đó chỉ là “định
hướng xã hội chủ nghĩa”, hơn nữa trong xã hội ta đã nảy sinh khơng ít bất
cơng, sự phân hóa giàu - nghèo?...
Trong những năm gần đây, các cuộc “cách mạng màu” Grudia,
Ucraina, Cưzogưxtan, bạo loạn, bất ổn chính trị ở Trung Đơng và Bắc Phi,
với sự can dự và hậu thuẫn toàn diện về kinh tế, chính trị, ngoại giao, truyền
thơng và qn sự của Mỹ và các nước phương Tây dẫn đến sự lật đổ, thay đổi
chế độ ở các nước này theo quỹ đạo và phục vụ lợi ích của Mỹ và các nước
phương Tây đã tác động mạnh vào nước ta. Những tác động, phản ứng lan tỏa
của bất ổn, khủng hoảng được tạo ra từ các hoạt động lợi dụng tự do, dân chủ,
bảo vệ nhân quyền, cùng với các chiến dịch tuyên truyền, xuyên tạc của các
thế lực thù địch về tình hình Việt Nam đã góp phần thúc đẩy sự “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”. Một bộ phận cán bộ, đảng viên có sự đánh giá, ủng
hộ, cổ súy "cách mạng màu”, đồng tình với âm mưu muốn thay đổi thể chế
chính trị ở nước ta theo hướng đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, tự do vơ
điều kiện về ngơn luận, báo chí ở Việt Nam.
- Những khó khăn, thách thức của các nước đi theo con đường xã hội
chủ nghĩa
Đây là nguyên nhân không nhỏ, trực tiếp củng cố thêm sự hoài nghi
của một bộ phận cán bộ, đảng viên: Thời đại ngày nay có phải là thời đại quá
độ đi lên chủ nghĩa xã hội? Những khó khăn, thách thức về kinh tế - xã hội ở
những nước xã hội chủ nghĩa chưa có sự đổi mới như Triều Tiên, Cu Ba; đặc
biệt là tham vọng của Trung Quốc đối với Biển Đông, Biển Hoa Đơng là
những vấn đề dẫn đến sự hồi nghi, sự mất niềm tin của cán bộ, đảng viên vào
tính ưu việt của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong số những nước xã hội chủ nghĩa hiện nay, những nước trước đây
18
thừa nhận chủ nghĩa xã hội cũng có kinh tế thị trường, nay chấp nhận sự tồn
tại và phát triển của kinh tế thị trường như Việt Nam, Trung Quốc đang phải
đối mặt với các mâu thuẫn mà trước đây chúng ta coi là “tử huyệt” của chủ
nghĩa tư bản. Đó là sự phân hóa giàu - nghèo; sự xuất hiện của tầng lớp đại
gia; tình trạng cơng nhân trong các khu Cơng nghiệp bị bóc lột cả về đời sống
vật chất và tinh thần; nạn tham nhũng, lãng phí diễn ra nghiêm trọng; tỷ lệ
người lao động thất nghiệp ngày càng nhiều; sự “bùng nổ” của các tệ nạn xã
hội... Đáng chú ý là ở khơng ít nơi, tình trạng quan liêu, mất dân chủ, bất công
xã hội, lợi ích nhóm... đang gây bức xúc lớn trong nhân dân.
Trong quan hệ quốc tế ngày nay, các nước đều lấy lợi ích quốc gia, lợi
ích dân tộc làm cơ sở cho hoạt động đối ngoại, nên không hiếm trường hợp ở
nơi này nơi khác họ kích động chủ nghĩa dân tộc để bành trướng về chủ
quyền, lãnh thổ. Những tham vọng của Trung Quốc về biển, đảo đang gây ra
những căng thẳng với một số nước ở Biển Hoa Đông và Biển Đơng, trong đó
có Việt Nam. Điều đó đã tác động mạnh đến tư tưởng, tình cảm của cán bộ,
đảng viên và nhân dân ta. Trong khi Đảng và Nhà nước ta kiên quyết bảo vệ
toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc bằng sức mạnh tổng hợp
về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phịng, an ninh, ngoại giao, duy trì mơi
trường hịa bình để xây dựng, phát triển đất nước, thì có khơng ít người băn
khoăn, muốn tìm đồng minh (về quân sự) để làm đối trọng hoặc hạn chế sức
mạnh quân sự của Trung Quốc. Có người muốn kích động, kêu gọi biểu tình
chống Trung Quốc, đồng thời qua đó phê phán đường lối đối ngoại của Đảng
ta. Các thế lực thù địch đã lợi dụng tình hình này, một mặt, xuyên tạc, vu cáo
Đảng và Nhà nước Việt Nam “để bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng, và vì cùng
chung ý thức hệ mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã bán rẻ biển, đảo cho Trung
Quốc”; mặt khác, kích động Việt Nam đối đầu về quân sự với Trung Quốc,
gây chia rẽ, phá hoại quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa Việt
Nam và Trung Quốc.
19
- Tác động của chiến lược “diễn biến hịa bình” của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, đứng đầu là Mỹ đã sử dụng
chiến lược “diễn biến hòa bình” từ lâu và vẫn khơng ngừng thay đổi nội dung
và phương thức để đẩy mạnh thực hiện chiến lược này. Trong thời gian gần
đây, chiến lược “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch đã có những thay đổi cả về nội dung và phương thức hoạt động. Về nội
dung, bên cạnh những thủ đoạn quen thuộc, như: sử dụng chiêu bài đề cao, ca
ngợi các “giá trị” dân chủ, nhân quyền, thể chế “tam quyền phân lập”, “chế độ
chính trị đa nguyên, đa đảng đối lập”... đã xuất hiện những nội dung mới. Một
trong những nội dung mới của chiến lược này đối với Việt Nam là tán dương,
ủng hộ và dựa vào các đối tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng
để thực hiện ý đồ chuyển hóa chế độ xã hội ta. Trong chiến lược“diễn biến
hịa bình” chống Việt Nam, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã xác
định phá hoại tư tưởng là một mũi tấn cơng trọng điểm mang tính đột phá, là
“cây cầu dẫn vào trận địa” để làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận và
tư tưởng, tạo ra khoảng trống để dần dần đưa hệ tư tưởng tư sản vào, cuối
cùng xoá bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện âm mưu thâm độc này, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch triệt để lợi dụng mạng xã hội và các phương tiện truyền thơng mới
trên internet để tun truyền, cơng kích, vu khống, xuyên tạc, khuyến khích
sự “phê phán” từ bên trong đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh với những luận điệu mới: từ chỗ bóp méo, xun tạc, đến cơng kích,
quy kết học thuyết này“sai lầm từ gốc rễ”, gán cho chủ nghĩa xã hội những tội
ác độc tài, diệt chủng như chủ nghĩa phát xít; khoét sâu vào những khoảng
trống về lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội như: vấn đề “đấu tranh giai cấp,
“kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”…, khai thác những hạn
chế, yếu kém trong công tác quản lý kinh tế - xã hội, từ đó vu cáo, quy kết,