Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

SKKN hướng dẫn về bố cục cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.16 KB, 22 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
 

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“HƯỚNG DẪN VỀ BỐ CỤC CHO HỌC SINH LỚP 2”
 

PHẦN I. MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
          Mục tiêu giáo dục tiểu học là giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu
cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các
kỹ năng cơ bản để tiếp tục học trung học cơ sở, bởi nghệ thuật ln mở ra con
đuờng mới và lý thú cho nền văn minh nhân loại. Cũng như bao loại hình nghệ
thuật khác, nền nghệ thuật tạo hình khơng ngừng ban tặng cho các thế hệ thưởng
ngoạn, Mĩ thuật nhiều mỹ cảm mạnh mẽ, với học sinh tiểu học khi được học Mĩ
thuật sẽ có những cảm nhận riêng của mình. Với sự phát triến ngày càng đi lên của
thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, việc đưa mơn Mĩ thuật trở thành một
trong chín mơn học bắt buộc trong nhà trường tiểu học là quan trọng và cần thiết.
Giáo dục thẩm mĩ cho học sinh, nhất là những năm đầu đi học, từng bước giúp các
em hồ nhập thế giới xung quanh; các em biết suy xét và mong muốn làm theo cái
đẹp, chính là giúp các em tự hồn thiện mình, trở thành người cơng dân có ích cho
xã hội.
Chương trình giáo dục Mĩ thuật ở bậc tiểu học mục đích khơng phải là đào
tạo học sinh trở thành hoạ sĩ, mà với tiêu chí giúp các em làm quen với mơn Mĩ
thuật cụ thể là với ngơn ngữ của Mĩ thuật (đường nét, hình mảng, bố cục, màu sắc).
Do đó giáo viên dạy Mĩ thuật tiểu học, nhất là giáo viên dạy học sinh lớp 2 càng
phải quan tâm đến việc giáo dục thẩm mĩ ở các em hơn, hướng cho các em vẽ đẹp
song phải thật tự nhiên; tạo cho các em kĩ năng vẽ hình phù hợp khổ giấy, nét vẽ
khống đạt, thể hiện đuợc nội dung đề tài định vẽ.
Là người giáo viên dạy Mĩ thuật, tơi ln mong muốn với kiến thức của mình


có thể giúp các em nhìn nhận và thể hiện cái đẹp thơng qua các bài vẽ tranh đề tài
một cách tự tin. Đó chính là lí do tơi chọn đề tài: “ Hướng dẫn về bố cục cho học
sinh lớp 2”.
Những cơ sở lí luận
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đổi mới, thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước rồi tiến đến cơng nghệ 4.0 phù hợp với truyền thống Việt Nam. yếu
tố cơ bản và nền tảng để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững

1.


đó là phát triển nguồn nhân lực con người. Hay nói cách khác là phát triển và đổi
mới giáo dục trong đó có mơn Mĩ thuật - một mơn học chính thức của cấp tiểu học.
Xuất phát từ nhận thức trước đây thường xem mơn Mĩ thuật là mơn phụ cho nên
các ngành, các cấp chưa quan tâm nhiều về trí tuệ, thời gian cũng như trang thiết
bị, đồ dùng học tập đặc biệt là phương pháp dạy học chủ yếu cịn mang nặng
phương pháp dạy học cổ truyền, máy móc, rập khn, chưa chú trọng đến giáo dục
thẩm mĩ. Vì vậy hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được mục tiêu mơn học. Mà
chúng ta đã biết giáo dục thẩm mĩ cho học sinh là nhiệm vụ chính của mơn Mĩ
thuật. Bởi con người ta ln có khát vọng vươn tới cái đẹp, mà muốn cho mỗi
người trong đó có các em tiếp cận và cảm thụ một cách đầy đủ về cái đẹp từ thiên
nhiên, từ cuộc sống để đưa vào được bức tranh, thể hiện được một cách hồn nhiên,
sinh động theo cảm nhận riêng của các em học sinh nói chung và học sinh lớp 2 là
một việc làm hết sức cần thiết. Có năng khiếu và u thích mơn vẽ nhưng phải có
kĩ năng để vẽ đẹp, hợp lí và sáng tạo. Đối với lớp 2, là lứa tuổi nhỏ trong bậc tiểu
học, cần có sự uốn nắn, rèn luyện ngay từ đầu.
Trong   chương   trình   giáo   dục   mới,   môn   Mĩ   thuật   được   xem   như   là
một phương tiện giáo dục quan trọng trong việc giáo dục thẩm mĩ cho học sinh.
Ngồi việc cung cấp cho học sinh một số kiến thức Mĩ thuật phổ thơng cịn giúp
các em hiểu biết về cái đẹp, hồn thành các bài tập của chương trình, đồng thời tạo

điều kiện để học tốt các mơn học khác. Và điều quan trọng hơn vận dụng những
hiểu biết kiến thức Mĩ thuật vào học tập cũng như sinh hoạt hàng ngày.
Mơn Mĩ thuật rèn luyện cho học sinh cách quan sát, khả năng tìm tịi, tư duy,
sáng tạo để góp phần hình thành phẩm chất của người lao động mới. Giúp học sinh
nhận thức được vẻ đẹp của Mĩ thuật dân tộc và có ý thức giữ gìn và bảo tồn nền Mĩ
thuật đậm đà bản sắc dân tộc của chúng ta. Vì vậy, muốn giáo dục cái đẹp để các
em tiếp nhận và cảm thụ được một cách đầy đủ, biến nó thành những giá trị thẩm
mĩ thực sự cho bán thân thì việc giáo dục thẩm mỹ nói chung và hướng dẫn về bố
cục cho học sinh lớp 2 nói riêng đặt ra phải được giải quyết tốt ở những năm học
đầu cấp tiểu học.
Để giúp các em biết bộc lộ tình cảm của bản thân mình với mọi người, với tự
nhiên, xã hội, thì những người thầy giáo, cơ giáo đóng một vai trị hết sức quan
trọng để đạt được mục tiêu mơn học đề ra. Gắn giáo dục thẩm mĩ với các mơn học
khác   với đặc thù của địa phương phải được tiến hành một cách thường xun,
nghiêm túc để các em có những tư duy tốt về thẩm mĩ, để các em mang lại nhiều
cái hay, cái đẹp cho cuộc sống, cho xã hội.
Nghiên cứu đề tài này tơi ln chú trọng đến đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi
tiểu học mà các nhà tâm lí học đã đúc kết với mong muốn phần nào giúp các em


lớp 2 điều chỉnh cách vẽ hình cho thật đẹp, phù hợp mục tiêu giáo dục của mơn Mĩ
thuật.
Để đạt được mục tiêu trong giảng dạy mơn Mĩ thuật, tơi thấy mình có nhiệm
vụ phải truyền thụ lại phần nào cho học sinh, nhất là học sinh lớp 2 cách vẽ hình,
làm bố cục tranh một cách Mĩ thuật:
+ Nét vẽ khống đạt, tự tin, rất các thơ.
+ Hình vẽ được sắp xếp phù hợp tờ giấy.
Mục đích làm các em u thích mơn Mĩ thuật, hào hứng khi được học mơn
Mĩ thuật.
2. Cơ sở thực tiễn

Thực tế cho thấy mơn Mĩ thuật đối với học sinh lớp 2 là các em rất thích,
dạy cũng vẽ, khơng dạy cũng vẽ, vẽ theo ngẫu hứng, theo ý thích như: vẽ bơng
hoa, chiếc lá, con vật...
Hiện nay học sinh ở Mẫu giáo , lớp 1 đã được làm quen với mơn Mĩ thuật
song do cách tư duy tưởng tượng của các em vẫn cịn tản mạn, ít có tổ chức, hình
ảnh của tưởng tượng cịn đơn giản hay thay đổi, chưa bền vững, chỉ một số ít học
sinh vào lớp 2 cịn có ý thức sắp xếp bố cục trong tờ giấy, cịn đa số học sinh lớp 2
vẫn cịn bỡ ngỡ.
Quan niệm từ trước, cứ vẽ hình là cơ giáo tiểu học cho dùng bút chì; nhiều
em vẽ rất đẹp ở lớp 1 khi lên lớp 2 lại lúng túng khơng tìm được cách thể hiện bài
vẽ thoải mái, dẫn đến nhiều bài vẽ hình vẽ đẹp xong lại q bé khơng phù hợp tờ
giấy hoặc tâm lí sợ vẽ khơng đúng với thực tế.
Ví dụ: Các khi vẽ con chó, chúng muốn là phải thật giống, nếu vẽ sai sợ cơ
giáo chê, hoặc khi vẽ người các em vẽ người có chân tay dài hơn thật, khi bị bạn
chê vội tẩy xố ngay.  
Vậy để giúp học sinh, nhất là học sinh lớp 2 ngay từ những lớp đầu cấp học
đã có thiện cảm với mơn Mĩ thuật, ln muốn được vẽ - được hoạt động phù hợp
sinh lí các em - tơi muốn đưa ra một cách làm mà theo tơi là đạt hiệu quả, giúp các
em vẽ hình tự tin, thoải mái, sắp xếp hình hợp khn khổ giấy vẽ.
II. MỤC ĐÍCH, PHẠM VI ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Mục đích nghiên cứu
- Nhằm phát huy cách vẽ hồn nhiên, ngây thơ của các em.


- Giúp các em bộc lộ sự phát triển trí tuệ, cảm quan đối với thế giới xung
quanh một cách tự nhiên, “rất các thơ” qua các bài vẽ tranh đề tài.
- Giúp học sinh lớp 2 ngày càng u thích mơn Mĩ thuật làm nền tảng cho
việc giáo dục thẩm mĩ cho học sinh khi học ở các lớp trên trong bậc tiểu học.
- Cụ thể hơn là giúp học sinh lớp 2 điều chỉnh nét vẽ thật tự nhiên, cách sắp

xếp hình vẽ (bố cục) trong khn khổ giấy vẽ cho phù hợp.
- Tơi đã chọn đề tài này với mong muốn giúp học sinh lớp 2 càng ngày vẽ
càng tự tin hơn, đạt hiệu quả, phù hợp mục tiêu giáo dục của mơn Mĩ thuật: Giúp
các em có sân chơi lí thú, bổ ích, phần nào có cái nhìn tổng thể đối với sự vật, hình
ảnh quen thuộc xung quanh. Đây cũng là một yếu tố giúp các em học các mơn
khác tốt hơn.
2. Phạm vi đối tượng nghiên cứu
- Chương trình Mĩ thuật lớp 2.
- Học sinh khối 2, trường tiểu học Nguyễn Tất Thành.
3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra quan sát.
- Phương pháp đàm thoại vấn đáp.
- Phương pháp trắc nghiệm.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp rèn luyện kĩ năng vẽ hình.
- Phương pháp nghiên cứu xem xét sản phẩm của học sinh.
 

PHẦN II: NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I. KHẢO SÁT TÌNH HÌNH

          Trong điều kiện thực tế hiện nay, việc dạy học lấy học sinh làm trung tâm là
kim chỉ nam của các phương pháp dạy học ở tiểu học. Song để thực hiện được điều
đó địi hỏi người giáo viên phải chuẩn bị bài dạy một cách cơng phu trong đó đồ
dùng dạy học chiếm  vai trị quan trọng. Là một trường trung tâm học sinh Trường
TH Nguyễn Tất Thành do điều kiện gia đình trên địa bàn hầu hết có điều kiện
nhưng một số phụ huynh chỉ quan tâm đến những mơn học như: Tốn, Tiếng việt...
ít quan tâm đến các mơn năng khiếu, đặc biệt mơn Mĩ thuật thì u cầu phải đầy đủ
dụng   cụ   học   tập   như   màu   vẽ,   bút   chì,   tẩy,   vở   học   Mĩ   thuật,   học   vẽ   mà   các
em thì phần đơng là khơng đầy đủ nên phần nào đã ảnh hưởng đến tiết học là



khơng nhỏ, các em khơng thể chủ động trong việc học của mình, giáo viên cũng
khó nhận xét, đánh giá bài vẽ khi học sinh chưa hồn thành.
Đa số học sinh lớp 2 vẫn bỡ ngỡ chưa làm quen được với cách học của bậc
tiểu học, các em vẽ hình bằng chì, hình vẽ nhỏ, hay tẩy xố, khơng tự tin khi vẽ
hình, tạo bố cục trống trải khơng đẹp mắt dẫn đến khó tơ màu, khó biểu đạt nội
dung đề tài.
Điều khó khăn hơn đối với lứa tuổi này, đó là tâm lí sợ vẽ khơng đúng với
thực tế, sợ sai, sợ vẽ xấu vì sự cảm nhận mọi vật xung quanh cuộc sống các em đã
theo cơng thức, rập khn, máy móc ở bậc học mầm non như: Lá cây nhất thiết chỉ
có một màu xanh, thân cây thì màu nâu, hoa thì phải đỏ hoặc vàng... mà chính
điều đó đã dẫn đến bài vẽ của các em khơng được tự tin, tự nhiên và hồn nhiên,
ngây thơ theo cảm nhận của lứa tuổi, về hình thì bẩn do tẩy nhiều cịn về màu sáp
thì khơng hài hịa, khơ cứng, khơng tình cảm.
Chính vì những điều đó mà tơi ln trăn trở, băn khoăn và tự nhủ mình tìm
cách “Hướng dẫn về bố cục cho học sinh lớp 2” một cách hiệu quả. Do vậy, việc
cho các em làm quen với bút có nét to như bút sáp nàu đen, bút dạ... thay cho bút
chì dần sẽ giúp các em có cái nét vẽ tự tin và từ đó tạo được bố cục thuận mắt, phát
huy óc tưởng tượng, sáng tạo khi thực hiện những bài vẽ tranh đề tài.
Trên đây là những điều kiện khó khăn trong việc dạy học Mĩ thuật cho học
sinh. Bên cạnh đó, vẫn cịn có những thuận lợi cho dạy học Mĩ thuật đó là: Nhà
trường đã có sự quan tâm về bộ mơn Mĩ thuật, đặc biệt là các em học sinh rất thích
học mơn Mĩ thuật nên nó đã giúp tơi có thời gian và động lực lớn đế cố gắng
nghiên cứu, học hỏi và dạy tốt hơn.
II. NỘI DUNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1. Tâm lí các em 7 tuổi
          * Theo các nhà tâm lí học, ở lứa tuổi tiểu học, sự tri giác của các em có các
đặc điểm sau:
Tri giác: Tri giác của các em mang tính đại thể, ít đi sâu vào chi tiết, tri giác

những gì gây ấn tượng mạnh đổi với các em hoặc các em tri giác những gì mình
thích.
Tình cảm có ảnh hưởng đến độ nhanh, độ bền trong trí nhớ của các em. Các
em có thể nhớ rất nhanh và làm những gì mình thích.
Do đó, khi dạy vẽ học sinh lớp 2, ta lợi dụng đặc điểm tâm lí trên để hướng
các em vẽ tranh đề tài với cách nhìn của mình. Trong mỗi tiết học vẽ, ta tạo ra sự
hứng thú cho các em đối với những đề tài định vẽ, khơng khí lớp học thoải mái,


nhẹ nhàng, đưa ra đồ dùng trực quan hợp lí, ấn tượng, bám sát chủ đề tranh định
vẽ, các mẫu tranh vẽ là tranh của thiếu nhi, nhất là của chính học sinh lớp 2, làm
học sinh dễ hiểu dễ tri giác hơn.
Ví dụ: Trong bài “Vẽ con vật mà em thích” các em rất thích vẽ con trâu;
giáo viên mơ tả lại con trâu một cách say sưa, lơi cuốn, cho các em xem tranh các
bạn vẽ con trâu đang hoạt động (ăn cỏ, nằm nghỉ, đang cày ruộng) và nêu bằng lời
cách vẽ trâu: Đầu hình quả đu đủ, mình trâu hình quả trứng to hơn nhiều so với
đầu, 2 sừng cong nhọn, 4 chân trâu đi guốc ...
Việc tìm hiểu những đặc điểm tâm lí nói trên rất có lợi cho việc dạy các em
lớp 2 vẽ những sự vật hiện tượng quanh ta một cách tổng qt,   hồn nhiên theo
cảm quan của các em.
- Tư duy: Ở học sinh lớp 2, tính trực quan cụ thể vẫn cịn chiếm ưu thế (sẽ
chuyển dần sang tính trừu tượng, khái qt ở lớp cuối cấp).
- Cho nên đồ dùng trực quan đưa ra phải đẹp, cơ đọng, phong phú về thể loại
(tranh vẽ, băng hình video, máy chiếu hắt, máy soi ảnh) hoặc vật thật. Mục đích
cho học sinh lớp 2 tiếp xúc nhiều với những sự vật hiện tượng sắp được vẽ. Tranh
vẽ đẹp của các bạn năm trước được giới thiệu với học sinh sẽ làm cho các em có
chuẩn của cái đẹp mà vẽ bài hứng thú hơn.
- Giáo viên dạy Mĩ thuật vẽ thị phạm lên bảng, lên giấy sẽ giúp học sinh
nhận biết cách vẽ nhanh hơn, dễ hơn nhiều so với chỉ dạy trên tranh mẫu.
- Đến 7 tuổi, các em đang học trong trường tiểu học, lúc này hoạt động chủ

động của các em là hoạt động học tập, mơi trường của các em có sự thay đổi.
- Vào thời gian đầu của lớp 2 giáo viên dạy Mĩ thuật phải biết điều chỉnh tạo
khơng khí hào hứng trong lớp học xong vẫn giữ được tính kỉ luật, trật tự: Cho phép
các em trao đổi ý kiến, xem, nhận xét bài bạn. Nhưng giáo viên phải nhắc nhở
những học sinh mải chơi, nói chuyện riêng ngồi việc học vẽ.
- Tưởng tượng: Lứa tuổi này là lứa tuổi giàu tưởng tượng, tuy nhiên tưởng
tượng của các em cịn tản mạn, ít có tổ chức. Hình ảnh của tưởng tượng cịn đơn
giản, hay thay đổi, chưa bền vững nhất là các lớp đầu cấp phải dựa vào đối tượng
cụ thể. Cho nên tranh vẽ theo đề tài của các em cịn đơn giản về các hoạt động (của
nhận vật), ít chi tiết, bố cục chưa đẹp.
Do đó người giáo viên dạy Mĩ thuật chú ý tập cho các em kĩ năng vẽ hình
đơn giản xong cơ đọng, dạy cách sắp xếp hình ảnh hợp với khn khổ giấy vẽ qua
nhiều tiết học.


- Người giáo viên dạy Mĩ thuật phải biết cách khai thác óc tưởng tượng
phong phú của các em phục vụ cho việc biểu hiện hình vẽ trong bài vẽ tranh đề tài;
Có thể dùng phương pháp hỏi đáp, kể chuyện, so sánh để bật ra đặc điểm của bức
tranh định vẽ.
Ví dụ: Vẽ bài “Cây và nhà”: Cơ giáo hỏi học sinh: Em biết các loại cây gì?
Em thử mơ tả lại đặc điểm của cây đó ... đi ngồi phố, em nhìn thấy những ngơi
nhà giống hay khác nhau - mơ tả cụ thể... Cơ kể lại ngơi nhà của mình có đặc điểm
nào đó. Cơ hỏi một vài học sinh về ngơi nhà của mình. Hoặc so sánh nhà ở nơng
thơn và thành phố bằng cách hỏi học sinh.
- Tư duy lứa tuổi học sinh tiểu học có những nét đặc thù so với những lứa
tuổi khác. Mà bậc tiểu học là bậc học nền tảng cho những bậc học sau này. Vì vậy,
giáo viên dạy Mĩ thuật phải lựa chọn phương pháp dạy học tối ưu, phù hợp với nội
dung từng bài vẽ tranh đề tài. Hướng dẫn các em tích cực suy nghĩ để hình thành
kiến thức về Mĩ thuật, khuyến khích học sinh chủ động, tự tin khi vẽ bài; Người
giáo viên có vai trị hướng dẫn, giúp đỡ chứ khơng áp đặt, làm thay các em.

Nắm vững đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học, cụ thể là học sinh lớp
2 giúp cho giáo viên dạy vẽ như bản thân tơi rất tự tin trong việc nghiên cứu hướng
dẫn cho các em cách vẽ hình tự tin, tạo bố cục thuận mắt trong bài vẽ tranh đề tài.
2. Khái niệm “Tranh vẽ theo chủ đề”
          2.1. Vẽ tranh theo chủ đề
          Vẽ tranh theo chủ đề là vẽ tranh về một đề tài cho trước (khơng phụ thuộc
vào người vẽ) người vẽ khơng được chọn mà phải vẽ theo là bức vẽ có tính tổng
hợp nhiều yếu tố như: Hình hoạ, kí hoạ, màu sắc, phương pháp sắp xếp (bố cục,
hình mảng, đậm nhạt, xa gần...) nhằm ghi lại tạo nên một cảnh sinh hoạt hoặc nêu
lên một vấn đề trong cuộc sống.
           - Đây là một phần của mơn Mĩ thuật trong chưong trình dạy học ở bậc
tiểu học.
          - Học sinh được vẽ những đề tài về cuộc sống xung quanh: Thiên nhiên, sinh
hoạt của con người, thế giới động vật...
          - Qua cách học vẽ tranh đề tài, giúp các em khám phá thêm về thế giới xung
quanh, thêm u cuộc sống, u gia đình, bạn bè, thầy cơ...
          - Giúp các em phần nào biểu đạt được tình cảm, cảm xúc của mình với cuộc
sống qua các bài vẽ của chính bản thân.
- Rèn luyện óc quan sát, tưởng tưởng, kĩ năng cầm bút, giúp các em học tốt
các mơn học khác.


Học sinh lớp 2 u thích vẽ tranh đề tài cũng như vẽ theo mẫu, vẽ trang trí ...
là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của các giáo viên dạy Mỹ thụật như tơi.
          2.2. Một số kiến thức cần thiết cho vẽ tranh theo chủ đề
          a. Các thể loại tranh đề tài
Tranh phong cảnh: Là tranh miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên và các hiện tượng
của nó. Là tranh vẽ về cảnh vật, cảnh vật là đối tượng chủ yếu gồm biển, trời, mây,
nước, núi non, nhà cửa, thơn xóm, đền đài, lăng tẩm chùa miếu...
- Tranh sinh hoạt

- Tranh lịch sử
- Tranh tỉnh vật
- Tranh chân dung
- Tranh minh hoạ
          b. Khai thác đề tài chọn hình tượng
Khai thác đề tài:
- Chọn hình tượng
 
 

2.3. Vẽ hình, tạo bố cục trong bài vẽ tranh đề tài
a. Vẽ hình
- Tạo nét vẽ trên giấy vẽ để thể hiện một đề tài nào đó: những hoạt động,
hình dáng của các nhân vật, sự vật xung quanh theo chủ quan của người vẽ, cụ thể
ở đây của học sinh lớp 2 dưới sự hướng dẫn của giáo viên dạy Mĩ thuật.
- Các chất liệu đế tạo nét trên bức tranh: chì, chì màu, sáp màu, dạ màu, bột
màu, sơn dầu, màu nước, sơn mài... nói chung là màu vẽ.
b. Tạo bố cục
- Tập hợp các nét, hình vẽ thể hiện rõ nội dung đề tài.
- Cùng với mảng, màu sắc, khối và đặc trưng của chất liệu làm thành bức
tranh đẹp, mơ tả sự nhìn nhận của người vẽ với thế giới xung quanh.
3. Nội dung nghiên cứu


- Nghiên cứu cách dạy vẽ hình, bố cục trong khn khổ giấy được các em
thể hiện qua các bài vẽ theo đề tài dưới sự hướng dẫn của giáo viên dạy Mĩ thuật
làm sao đạt được hiệu quả cao nhất: đó là sự say mê vẽ của học trị.
3.1. Để có mặt bằng kiến thức về nét vẽ tương đối đồng đều ở học sinh lớp
2, tơi hướng dẫn cụ thể cách vẽ cho đối tượng đó bằng cách cho các em xem những
bức tranh có nét vẽ rõ ràng, mạch lạc khơng nhất thiết người phải vẽ cho đúng và

giống thật đẹp đối lập với những bức tranh có nét vẽ loằng ngoằng, khó nhìn là
hình gì.
Ví dụ: Tranh Đua thuyền. Tranh sáp màu của Đồn Trung Thắng, 10 tuổi.
Trang 5 và tranh Bể bơi ngày hè. Tranh sáp màu và bút dạ của Thiên Vân, học sinh
lớp 1, Trường tiểu học Tây Sơn, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.

- Đồng thời hướng dẫn những học sinh vẽ nét tạo hình tốt hơn dạy cho bạn.
Do đó các em vẽ được nên tự tin hơn trong các bài vẽ tiếp theo.
3.2. Khi cách nhận thức về vẽ hình của học sinh lớp 2 đã tương đối đồng đều
thì phải giúp các em đi sâu tìm hiểu về cách vẽ tranh đề tài, cụ thể là sắp xếp bố
cục hợp lí để nêu bật được chủ đề bức tranh.
3.3. Cách vẽ hình của HS trong bài vẽ tranh: Tương đối mạnh dạn ở số
đơng; giáo viên phải biết cách phát huy ln khen ngợi những các có nét vẽ ngộ
nghĩnh đồng thời tỏ ra chưa vừa lịng khi có học sinh chê bạn vẽ xấu, khơng giống
thật.
Ví dụ: Một học sinh vẽ chân dung bạn mình, bạn ngồi bên cạnh thấy khơng
giống nên chê bai làm em đó sợ hỏng bài vội xố hình đi. Lúc này tơi phải tìm ra
một đặc điểm nào đó đặc trưng nhất của nhân vật trong tranh và kịp thời khen ngợi
như vậy đã giúp học sinh đó cảm thấy tự tin hơn, và học sinh chê bạn sẽ suy nghĩ
xem việc mình làm là tốt hay khơng tốt.
3.4. Vẽ hình bằng bút chì: đây là cách vẽ hình truyền thống của các em lẫn
người lớn khi tạo nét cho tranh vẽ.


Học sinh vẽ hình bằng chì cho kết quả là đa số các bài vẽ có hình vẽ nhỏ; Do
chất liệu bút chì dễ tẩy xố nên nhiều học sinh q lạm dụng tẩy làm cho bài vẽ bị
bẩn, hình vẽ thiếu tự nhiên.
Kết quả được một bức tranh có bố cục trống vắng, rất khó thể hiện màu.
Ví dụ:
 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 


 

Trong nhiều tiết vẽ, những em qn vở tơi đã cho vẽ bằng phấn lên bảng con
thì phát hiện thấy nét của các em khỏe, tự nhiên và bố cục hợp lý.
Và tơi đã động viên kịp thời những em học sinh đó bằng cách cho cả lớp
xem bài, đồng thời cho điểm tốt những bài vẽ đẹp.



Theo tơi, đó chính là do chất liệu: Phấn có nét to cho nên các vẽ hình to, rõ
hơn (do các em sợ vẽ hình nhỏ thì các nét phấn sẽ dính vào nhau nhìn khơng rõ
hình).
Sau đó, tơi thử nghiệm: Cho học sinh dùng ln bút có nét to như dạ màu,
sáp màu để vẽ bài tranh đề tài thì thấy đạt hiệu quả tương đương như các em vẽ
trên bảng con.
Như vậy, hình vẽ của các trên bài vẽ tranh đề tài tỉ lệ thuận với nét vẽ do
chất liệu để vẽ tạo nên.
Tơi đã cho cả lớp xem bài vẽ của học sinh có nét vẽ mạnh dạn, hình vẽ to
phù hợp giấy vẽ và khen ngợi trước lóp học sinh đó.


Học sinh lớp 1 rất hay qn, do đó việc tạo thói quen cho học sinh lớp
2 trong cách vẽ hình ở bài vẽ tranh đề tài bằng bút có nét to, rõ được lặp đi lặp lại
nhiều lần ở các tiết học Mĩ thuật. Tơi ln động viên các em nên dùng bút có nét
to, đậm (màu nâu, đen, xanh, tím...) để vẽ. Tơi đã thí nghiệm việc dùng bút có nét
to, rõ để giúp học sinh vẽ hình trong bài vẽ theo chủ đề ở lớp 2 trong thời gian 2
tháng. Một số em được vẽ bằng bút có nét to, rõ cho chất lượng bài vẽ tốt hơn
nhiều so với một số em vẽ bằng bút chì.


Trong số ba lớp này, 10% số học sinh tạo hình bằng bút chì đạt được bố cục
tốt, nhưng tốc độ vẽ lại chậm do hay tẩy xố vì sợ sai, sợ xấu. Với số học sinh này,
tơi động viên các em vẽ bằng bút to. xong do cá tính, thói quen cẩn thận mà các em
vẫn chỉ dùng bút chì để vẽ, khơng bắt ép các em phải làm theo các bạn khác mà tơi
ln chỉ bảo để các em có tốc độ vẽ hình nhanh hơn trước.

Đặc biệt em Phú – học sinh lớp 2C tuy tay em bị tật, ban đầu em vẽ bằng bút
chì và hay tẩy xóa, hết tiết học kết quả cũng khơng hồn thành, nhưng khi tơi u

cầu em dùng bút sáp màu đen để vẽ thì nét vẽ của em dần tự tin hơn nhiều.


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

Như vậy, tơi đã nhân rộng cách dạy trên của mình ở ba lớp 2, sau hai tháng
đầu của năm học đã đạt được kết quả tốt, 80% số học sinh thích vẽ bằng bút có nét
to, rõ. Việc vẽ hình bằng chất liệu trên đã giúp các thêm tự tin vào chính bản thân
mình, khơng tẩy xố hình vẽ nữa. Điều đó đã giúp bài vẽ của các em ngộ nghĩnh,
đáng u. Cảm xúc của các được bộc lộ trên bức tranh.
Sau khi học sinh lớp 2 đã quen với cách dùng bút có nét to, rõ để vẽ hình thì
việc dạy các cách tạo cho bài vẽ có bố cục chặt chẽ trở nên thuận lợi hơn.
Tơi vẽ thị phạm (xong rồi xố đi ngay) trên bảng to, coi bảng là một tờ giấy
vẽ, vẽ hình rõ, hợp lí trên bảng đế học sịnh quan sát.
Ví dụ: Bài   vẽ   “   Chim   trong   vườn   hoa”,   “Chúng   em   trong   vườn   hoa”,
“Phong cảnh thiên nhiên”.
Như đã biết, các em 7 tuổi hay bắt chước các hành động, việc làm của người
lớn hơn, tơi đã vận dụng đặc điểm này của các để hướng cho các em sắp xếp bố
cục theo chuẩn mực của cái đẹp: vẽ hình phù hợp khn khổ bản vẽ, cách làm như

vậy góp phần khơng nhỏ để tạo cho học sinh lớp 2 có kĩ năng vẽ hình to, rõ ràng;


giúp các em cách nhìn hình, bố cục hợp lí. Học sinh lớp 2 vẽ hình đơn giản, một
bức tranh chỉ cần vẽ ba bốn hình là đủ tạo thành một bố cục tranh. Trong tiết Mĩ
thuật, để giúp học sinh làm quen với cách tạo bố cục bằng nét vẽ to, rõ; tơi ln
khen ngợi trước lớp bài của các em có bố cục đẹp, được vẽ bằng nét to, rõ (dạ màu,
sáp màu...). Và khuyến khích các em vẽ chì cố gắng hơn nữa để có được bài đẹp
như các bạn kia. Kết quả là cuối năm học, số lượng học sinh vẽ bằng bút có nét to,
rõ chiếm 70% trong tồn khối.
Chất lượng các bài vẽ tranh đề tài được nâng cao. Những bức tranh có tạo
hình tự tin, ngộ nghĩnh xuất hiện ngày càng nhiều.
Và điều quan trọng là đã gây được khơng khí hào hứng, say mê vẽ ở các em
lớp 2A, 2B, 2C, khi tơi vào dạy mĩ thuật các em vẽ rất tự giác và số lượng cũng
như chất lượng đều tốt.
Các em “đua” nhau vẽ tranh, tự hào khi mình vẽ tranh được giáo viên  tun
dương trước lớp. Phong trào vẽ tranh đề tài của 3 lớp trên tốt nhất trường.
* Những kiến thức Mĩ thuật liên quan tới việc vẽ hình, tạo bố cục.
Khi học sinh lớp 2 đã vẽ được bố cục tốt qua việc tạo nét bằng bút màu đậm
và những kiến thức khác về sắp xếp hình trong bài vẽ theo đề tài thì việc tơ màu trở
nên dễ dàng: hình có mảng to, dễ nhìn, khơng như vẽ bằng bút chì làm hình vẽ nhỏ
khó nhìn.
Bức tranh có màu sắc đẹp dần dần hiện ra trước mắt các, lơi cuốn các; các tự
hào đã tạo ra được bức tranh của riêng mình, các đã khám phá thế giới của Mĩ
thuật, đây chính là sân chơi bổ ích của các.
Cách vẽ hình to rõ góp phần khơng nhỏ trong việc thể hiện chủ đề.
Ví dụ:
Bài vẽ “Chiều về” tranh bút dạ và sáp
của Hồng Phong, 9 tuổi



Bài vẽ “Những con cá đáng u”
Tranh sáp màu của Bảo Thu, 7 tuổi

Bài vẽ “Bảo vệ mơi trường”
Tranh sáp màu của Nguyễn Thị Hồi, 7
tuổi


Bài vẽ “Chim và hoa” tranh chỉ màu
của Hà Hương Thảo, Trường tiểu học
Lê Ngọc Hân, quận Hai Bà Trưng, Hà
Nội

- Khi các em đã vẽ được bức tranh theo cách vẽ hình để tạo bố cục như trên,
rất thuận lợi cho giáo viên dạy vẽ - vì học sinh đã tự tin hơn khi thấy giáo viên Mĩ
thuật bước vào lớp; các em reo hị, háo hức “địi” được vẽ. Đây chính là món q
q giá đối với một giáo viên dạy Mĩ thuật như tơi.
- Phương pháp cho các em dùng bút có nét to, rõ để vẽ hình, ngồi những ưu
điểm, thành quả trên cịn có một số hạn chế: một số học sinh khơng vẽ theo mà vẫn
dùng bút chì vẽ để tẩy cho dễ, tơi phải mất nhiều thời gian trong một tiết học để
hướng dẫn cụ thế hơn cho các em này.
- Một số học sinh khác (số lượng ít, khoảng 10% tổng số học sinh trong một
lớp) vẽ theo phương pháp tơi hướng dẫn trên có nhận thức chậm hoặc khơng có
năng khiếu, nên vẽ chưa đẹp, vẽ bài có bố cục dàn hàng ngang hoặc hình người
trong tranh giống nhau về động tác; một số em thích gì vẽ nấy dẫn đến bố cục
tranh lộn xộn. Trong q trình giảng dạy tơi cố gắng giúp những em này vẽ được
những hình, bố cục đơn giản nhất bằng bút nét to: động viên kịp thời một tiến bộ
dù nhỏ nhất của các em.  
* Mơn Mĩ thuật là mơn học giúp các thư giãn sau các giờ học khác, được

chơi, được tìm tịi suy nghĩ và bộc lộ bản thân qua từng nét vẽ, mảng màu, đề tài
khác nhau.
Với đề tài này, tơi đã giúp các u thích mơn Mĩ thuật, hạn chế cảm giác lo
sợ vì khơng biết vẽ. Các biết bảo vệ ý thức chủ quan của bản thân khi vẽ tranh,
khơng bị ảnh hưởng bởi lời chê bai của các bạn khác. Phương pháp vẽ hình trên
giúp bồi dưỡng rèn luyện óc quan sát, cách so sánh sự vật hiện tượng ở học sinh,
giúp các em tìm tịi thể hiện để vươn tới cái đẹp. Đó là một cách giáo dục thẩm mĩ
cho học sinh.
 

PHẦN III : PHẦN KẾT LUẬN
 

1. Kết quả


- Học sinh lớp 2 say sưa, hứng thú vẽ cho nên tiết học vẽ trở nên thoải mái,
nhẹ nhàng.
- Học sinh tự tin hơn khi vẽ hình trong vẽ tranh.
- Học sinh tạo được những bố cục, hình vẽ ngộ nghĩnh mang hiệu quả bất
ngờ, đẹp mắt.
Ví dụ một số bài vẽ như sau:

 
 
 
 


 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

- Ĩc quan sát, so sánh ở HS được bồi dưỡng rèn luyện thường xun.
Hạn chế: Phương pháp này tơi mới thử nghiệm ở lớp hai thấy thành cơng
xong chưa mạnh dạn nhân rộng ra các khối lớp khác vì đặc điểm tâm lí của độ tuổi
từ lớp 3 đến lớp 5 khác lớp 2.
Tơi hi vọng với cách tạo hình, bố cục ở lớp 2 như vậy, khi học lên các lớp
trên học sinh sẽ vẫn giữ được và ngày càng tự tin hơn khi vẽ bài tranh đề tài cũng
như các bài vẽ trang trí, vẽ theo mẫu khác.
2. Kết luận
Tơi thực hiện đề tài “Hướng dẫn bố cục cho học sinh lớp 2” khơng ngồi
việc thực hiện mục tiêu của Giáo dục tiểu học (nhằm giúp học sinh có kiến thức cơ
bản về 9 mơn học; giáo dục óc thẩm mĩ, rèn luyện kỹ năng kỹ xảo học tập ... cho

học sinh).
Qua nhiều tiết Mĩ thuật; các em hoạt bát, tự tin, cởi mở với giáo viên với bạn
bè. Do đó việc giáo dục tốt hơn.


Phương pháp dạy học sinh lớp 2 vẽ hình bằng bút vẽ có nét to, rõ đã bộc lộ
cách vẽ ngộ nghĩnh, hồn nhiên như chính cuộc sống của các em qua các bài vẽ
tranh đề tài.
Dựa trên các đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi tiểu học, cụ thể là lứa tuổi học lớp
2, vận dụng kiến thức Mĩ thuật của bản thân, tơi cố gắng giúp các em có sân chơi
bổ ích và lí thú thơng qua đề tài này. Việc đó đã góp phần làm cho các em khám
phá được ngơn ngữ riêng của Mĩ thuật khác với mơn học khác.
Phương pháp dạy học trên mới áp dụng trong tồn bộ khối 2; tơi sẽ tìm cách
thử nghiệm ra các khối lớp khác vào những năm học tiếp theo.
Tuy nhiên, đây mới là ý tưởng của riêng bản thân, đề nghị các cấp lãnh đạo,
các nhà nghiên cứu về Mĩ thuật góp ý để tơi điều chỉnh cách dạy cho học sinh ngày
một tốt hơn giúp các em hồn thiện nhân cách, trở thành người có ích cho xã hội.
Để tài triển khai nghiên cứu tại khối hai trường tiểu học Nguyễn Tất Thành thành phố Đơng Hà - tỉnh Quảng Trị và được tập thể cán bộ, giáo viên của nhà
trường tán thành. Đề tài có tác dụng trong việc xây dựng phương pháp giúp học
sinh lớp 2 vẽ hình tự tin, tạo bố cục thuận mắt trong bài vẽ tranh đề tài. Những vấn
đề cịn lại là định hướng nghiên cứu tiếp của đề tài ở một giai đoan và mức độ
khác. Đề tài chỉ triển khai nghiên cứu ở khối trường tiểu học Nguyễn Tất Thành thành phố Đơng Hà - tỉnh Quảng Trị. Nhưng chúng tơi hy vọng các biện pháp đề
xuất có thể áp dụng tốt ở các trường tiểu học có điều kiện tương tự như trường tiểu
học Nguyễn Tất Thành – thành phố Đơng Hà - Quảng Trị.
 

PHẦN IV : KIẾN NGHỊ - ĐỀ XUẤT

- Tiếp tục bồi dưỡng, nâng cao kiến thức chun mơn và nghiệp vụ sư phạm
cho đội ngũ giáo viên dạy Mĩ thuật.

- Tăng cường trang thiết bị, đồ dùng dạy học (nhất là các bức tượng - những
bài này vẫn phải giới thiệu với học sinh bằng các bức ảnh chụp các bức tượng,
ngoại trừ tượng của Bác Hồ)
Trên đây là một số kinh nghiệm “ Hướng dẫn về bố cục cho học sinh lớp
2” mà tơi đã nghiên cứu và áp dụng vào trường tơi đang cơng tác. Mặc dù đã có
rất nhiều cố gắng nhưng chắc rằng cịn có những thiếu sót. Kính mong được sự
đóng góp ý kiến của các cấp quản lí, các đồng nghiệp để tơi làm tốt hơn nhiệm vụ
của mình.
                  Tơi xin chân thành cảm ơn!
 


 

Đông Hà, ngày

tháng

năm 2020

Người thực hiện
 
 

Nguyễn Thanh Hùng
 

Ý KIẾN NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG
 


................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
XẾP LOẠI:
Đông Hà, ngày

tháng

năm 2020

CTHĐ
 
 
 

Ý KIẾN NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHỊNG GD&ĐT

................................................................................................................................
................................................................................................................................
XẾP LOẠI:
Đơng Hà, ngày
 
 
 

TÀI LIỆU THAM KHẢO
 

- Chương trình và sách giáo viên khối 2.
- Vở học Mĩ thuật lớp hai.


tháng

năm 2020


- Tài liệu chuẩn KTKN môn Mĩ thuật.
- Tài liệu tập huấn GV dạy học Mĩ thuật theo phương pháp mới.
- Bài giảng Mĩ thuật – Phương pháp giảng dạy Mĩ thuật của Hồ Văn Thùy.
- Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục và một số tài liệu tham khảo
khác.



×