Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Phòng, chống tham nhũng trong quản lý hành chính nhà nước ở tỉnh đắk lắk hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 125 trang )

O

V

OT O

V ỆN

N

TRỊ QU
MN

V ỆN

O

V TU

N TRU ỀN

N U ỄN VĂN LON

PHỊNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG
QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Ở TỈNH ĐẮK LẮK HIỆN NAY

LUẬN VĂN T




N

ẮK LẮK – 2016

TRỊ


O

V

OT O

V ỆN

N

TRỊ QU
MN

V ỆN

O

V TU

N TRU ỀN

N U ỄN VĂN LON


PHỊNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG
QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Ở TỈNH ĐẮK LẮK HIỆN NAY
huyên ngành: Quản lý xã hội
Mã số: 60 31 02 01

LUẬN VĂN T



N

TRỊ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ỗ Văn ƣơng

ẮK LẮK – 2016


Luận văn đã được sửa chữa theo khuyến nghị của Hội đồng chấm luận
văn thạc sĩ.

Hà Nội, ngày…… tháng…..năm 2016
Ủ TỊ

N

(Ký và ghi rõ họ tên)



LỜ

M O N

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận
của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ cơng trình khoa học nào.
Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Long


LỜ

ẢM ƠN

Trước tiên, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến tất cả quý thầy giáo, cô
giáo đã giảng dạy trong chương trình Cao học chuyên ngành Quản lý xã hội
lớp K20.1 Tây Nguyên thuộc Học viện Báo chí và Tuyên truyền, những
người đã truyền đạt cho tôi những kiến thức hữu ích về nội dung quản lý xã
hội, làm cơ sở cho tôi thực hiện tốt luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Đỗ Văn Dương đã tận tình hướng dẫn,
chỉ bảo cho tơi nhữn kiến thức q báu trong thời gian hồn thành luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn tập thể lớp Cao học Quản lý xã hội K20.1
đã đồn kết, gắn bó và giúp đỡ tơi trong q trình học tập và nghiên cứu.
Do thời gian có hạn và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học chưa nhiều
nên luận văn cịn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến góp ý của Thầy,
Cơ và các anh chị học viên.
Ngày 15 tháng 6 Năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Long


N

M

TỪ V ẾT TẮT

HCNN

: Hành chính nhà nước

PCTN

: Phịng, chống tham nhũng

TTHC

: Thủ tục hành chính

UBND

: Ủy ban nhân dân

UBMTTQ

: Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc

VKSND


: Viện Kiểm sát nhân dân


N

M

CÁC ẢN

ảng 2.1. Báo cáo PCI tỉnh Đắk Lắk 2011 -2015 .......................................... 61
ảng 2.2. Sự hài lịng về tồn bộ q trình giải quyết thủ tục hành chính tỉnh
Đắk Lắk năm 2015 ........................................................................ 62
ảng 2.3. Kết quả đánh giá về chất lượng tiếp cận dịch vụ và sự hài lòng về
tiếp cận dịch vụ tỉnh Đắk Lắk năm 2015 ...................................... 63
ảng 2.4. Đánh giá về chất lượng thủ tục hành chính và sự hài lịng về thủ tục
hành chính tỉnh Đắk Lắk năm 2015 .............................................. 64
ảng 2.5. Đánh giá về chất lượng phục vụ của công chức và sự hài lịng về sự
phục vụ của cơng chức tỉnh Đắk Lắk năm 2015 ........................... 65
ảng 2.6. Đánh giá về chất lượng kết quả giải quyết thủ tục hành chính và sự
hài lòng về kết quả giải quyết TTHC tỉnh Đắk Lắk năm 2015 .... 66


M

L

MỞ ẦU ........................................................................................................... 1
hƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHỊNG, CHỐNG THAM
NHŨNG TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở CẤP TỈNH ... 8

1.1. Về phòng, chống tham nhũng ......................................................... 8
1.2. Về quản lý hành chính nhà nước cấp tỉnh………………………..19
1.3. Chủ thể, nguyên tắc, nội dung, và phương thức phịng, chống tham
nhũng trong quản lý hành chính nhà nước cấp tỉnh…………………..23
hƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG
QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở TỈNH ĐẮK LẮK ....................... 45
2.1. Những yếu tố tác động đến phòng, chống tham nhũng trong quản lý
hành chính nhà nước ở tỉnh Đắk Lắk...................................................... 45
2.2. Kết quả đạt được và nguyên nhân...………………………….......53
2.3. Những hạn chế và nguyên nhân .................................................... 78
hƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG, CHỐNG
THAM NHŨNG TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở TỈNH
ĐẮK LẮK HIỆN NAY .................................................................................... 84
3.1. Quan điểm về phòng, chống tham nhũng trong quản lý hành chính
nhà nước ................................................................................................ 84
3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm tăng cường phòng, chống tham
nhũng trong quản lý hành chính nhà nước ở tỉnh Đắk Lắk .................. 92
KẾT LUẬN .................................................................................................. 111
T

L ỆU T

M K ẢO ........................................................................... 113


1
MỞ ẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tham nhũng là vấn nạn mang tính tồn cầu và lan tràn trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Trong nhiều quốc gia, hiện tượng này đã gây ra

những tổn thất to lớn về kinh tế, làm giảm lòng tin của dân chúng đối với chế
độ, đe dọa sự ổn định chính trị. Tuy nhiên, tính chất, mức độ, loại hình tham
nhũng ở mỗi quốc gia, mỗi khu vực là rất khác nhau và phụ thuộc vào những
điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội và chế độ chính trị. Cuộc đấu tranh chống
tham nhũng đang diễn ra quyết liệt ở khắp mọi nơi, khơng chỉ ở các chính phủ
mà nhiều tổ chức phi chính phủ cũng tham gia tích cực với việc tài trợ kinh
phí, nghiên cứu, đề xuất giải pháp để phòng, chống tham nhũng.
Ở nước ta, Đảng và Nhà nước đã nhận thức rõ nguy cơ, mức độ
nghiêm trọng, hậu quả nguy hại của tham nhũng với ý nghĩa là một căn
bệnh quyền lực, là nguyên nhân của nguy cơ gây mất ổn định xã hội và đe
dọa sự tồn vong của chế độ, làm mất niềm tin của nhân dân, nên có hành
động đối phó từ rất sớm. Văn kiện Đại hội lần thứ IX (năm 2001), Đảng ta
nêu rõ: “Nạn tham nhũng diễn ra nghiêm trọng, kéo dài, gây bất bình trong
nhân dân và là một nguy cơ đe dọa sự sống còn của chế độ ta...” [10,
tr.286]. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định: “Đấu tranh phịng,
chống tham nhũng, lãng phí là một nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc xây
dựng Đảng, nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và
toàn xã hội…” [12, tr.45]. Đại hội XI, Đảng ta đánh giá tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, tội phạm, tệ nạn xã hội, suy thoái đạo đức, lối sống... chưa
được ngăn chặn, đẩy lùi, thẳng thắn chỉ rõ: “Tình trạng suy thối về chính
trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng” [13,
tr.172]. Nghị quyết Đại hội XII Đảng ta xác định: “Xây dựng tổ chức bộ


2
máy của tồn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả;
đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu” là một
trong 6 nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới [17, tr.146].
Để thể chế hóa chủ trương của Đảng về phịng, chống tham nhũng,

tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XI đã thơng qua Luật Phịng, chống tham
nhũng gồm 8 Chương với 92 Điều, quy định khá tồn diện về phịng, chống
tham nhũng ở nước ta. Luật Phòng, chống tham nhũng ra đời đã thể hiện rõ
những tư tưởng cơ bản và quyết tâm phòng, chống tham nhũng của Đảng,
Nhà nước ta. Cơng tác phịng, chống tham nhũng đã được Đảng, Nhà nước
chỉ đạo sát sao và tổ chức thực hiện nghiêm túc, cùng với sự quan tâm của
toàn xã hội. Tuy nhiên, cơng tác phịng, chống tham nhũng vẫn chưa đạt
được kết quả như mong muốn. Trong thời gian gần đây, với nhiều lý do
khác nhau, cùng với những thành tựu to lớn của cơng cuộc đổi mới tồn
diện đất nước, tham nhũng đang trở thành nỗi bức xúc của toàn xã hội.
Đắk Lắk là một tỉnh miền núi ở trung tâm vùng Tây Ngun, có vị trí
chiến lược quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh quan trọng
đối với vùng Tây Nguyên nói riêng và cả nước nói chung. Tuy nhiên, Đắk
Lắk vẫn là một tỉnh nghèo, kinh tế phát triển chậm, đời sống của đồng bào
các dân tộc cịn gặp nhiều khó khăn. Nguồn vốn đầu tư của tỉnh chưa thể
đáp ứng nhu cầu phát triển và còn phụ thuộc lớn vào nguồn đầu tư từ ngân
sách Trung ương. Do vậy, vấn đề tham nhũng và cơng tác phịng chống
tham nhũng trong cơ quan HCNN ở tỉnh Đắk Lắk càng cần phải được quan
tâm và có những biện pháp đấu tranh mạnh mẽ hơn, nhằm sớm ngăn chặn
và từng bước đẩy lùi “tệ nạn” này.
Trong những năm gần đây, cũng như cả nước, tham nhũng ở Đắk Lắk
có những biểu hiện phức tạp, đặc biệt là tham nhũng chủ yếu xảy ra trong
lĩnh vực quản lý HCNN. Vì vậy, nghiên cứu đề tài: “Phịng, chống tham


3
nhũng trong quản lý hành chính nhà nước ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay” là
một yêu cầu mang tính cấp bách, nhằm góp phần tìm ra các giải pháp nâng
cao hiệu quả cơng tác phịng, chống tham nhũng, để từng bước ngăn chặn và
đẩy lùi tham nhũng ở tỉnh Đắk Lắk nói riêng và cả nước nói chung trong điều

kiện hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trên thế giới, ngồi các cơng trình nghiên cứu chun sâu của tổ chức
minh bạch quốc tế (Transparency International) và Ngân hàng thế giới (World
Bank), cịn có rất nhiều các cơng trình nghiên cứu của các học giả. Ở Việt
Nam nhiều học giả, nhà chính trị quan tâm đến vấn đề nhạy cảm này. Trong
các cơ sở đào tạo, cơ quan quản lý nhà nước, một số nghiên cứu về đề tài,
phịng, tham nhũng và lãng phí, như:
- Luận văn: "Một số giải pháp chống thất thốt, lãng phí trong đầu tư
xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk", của Phạm Xuân Lĩnh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2006;
- Đề tài khoa học cấp Bộ: "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả cơng
tác phịng, chống tham nhũng của các cơ quan thanh tra nhà nước theo Luật
Phòng, chống tham nhũng" do Tiến sĩ Trần Ngọc Liêm, Phó vụ trưởng Vụ IV,
Thanh tra Chính phủ làm Chủ nhiệm đề tài, nghiệm thu tháng 7/2007.
- Luận văn: "Giải pháp phịng, chống thất thốt, lãng phí trong đầu tư
xây dựng từ nguồn vốn ngân sách nhà nước ở Thanh Hóa", của Lê Văn Tuấn,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2008;
- Luận án tiến sĩ: “Vai trò của các cơ quan thanh tra nhà nước trong
phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam” của Nguyễn Thị Bích Hường, Đại học
quốc gia Hà Nội, 2008;
Bên cạnh đó, cũng có nhiều cơng trình khoa học được đăng trên các tạp
chí như:


4
- ThS Đinh Văn Minh (2006), Một số vấn đề về tệ nạn tham nhũng và
những nội dung cơ bản của luật phịng, chống tham nhũng năm 2005, NXB
Chính trị quốc gia.
- Nguyễn Đình Đặng Lục (2006), “Những việc cần làm đồng bộ trong

đấu tranh phòng chống tham nhũng”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 15.
- "Kinh nghiệm phịng chống tham nhũng của Singapore", của Trần Anh
Tuấn, Ban Nội chính Trung ương, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 2007.
- " Truy tố 665 đảng viên vi phạm pháp luật", Thông tấn xã Việt Nam
8/2007.
- "Nguyên tắc xử lý tham nhũng", Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam, ngày 21/8/2007.
- "Công chức và tham nhũng - kinh nghiệm của một số nước trên thế
giới", Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 21/8/2007.
- Nguyễn Xuân Yêm, Nguyễn Hịa Bình, Bùi Minh Thanh (2007),
Phịng chống tham nhũng ở Việt Nam và thế giới, NXB Công an nhân dân.
- Nguyễn Vũ Tiến (2008), Khoa học Quản lý, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền
- UBND tỉnh Đắk Lắk (2015), Báo cáo kết quả thực hiện pháp luật về
thanh tra, tiếp cơng dân, khiếu nại, tố cáo về phịng, chống tham nhũng, Đắk
Lắk.
- UBND tỉnh Đắk Lắk (2016), Báo cáo thực hiện các giải pháp phòng,
chống tham nhũng (từ ngày 01/01/2012 đến ngày 31/12/2015).
- UBND tỉnh Đắk Lắk (2016), Báo cáo tổng kết 10 năm luật phịng,
chống tham nhũng, Đắk Lắk.
Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu khoa học nói trên đề cập đến
một khía cạnh của vấn đề phịng, chống tham nhũng, phản ánh dưới góc độ lý
luận phù hợp với với các văn bản pháp luật phòng, chống tham nhũng của


5
thời điểm đó; các luận văn trên chỉ nêu vấn đề tham nhũng ở một lĩnh vực cụ
thể như đầu tư xây dựng cơ bản, chưa nêu được khái quát vấn đề tham nhũng
trong quản lý hành chính nhà nước nói chung; về chủ thể phịng chống tham
nhũng luận văn tiến sĩ cũng chỉ đề cập đến chủ thể thanh tra nhà nước hoặc

chưa đi sâu vào nghiên cứu, phân tích và luận giải sâu sắc về những giải pháp
hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phòng, chống tham nhũng. Vì
thế, việc nghiên cứu đề tài được tiến hành trên cơ sở kết quả của các nghiên
cứu trước đây và các quy định pháp luật hiện hành, làm sáng tỏ cơng tác
phịng, chống tham nhũng trong quản lý hành chính nhà nước. Đặc biệt đề tài
nghiên cứu về phịng, chống tham nhũng trong quản lý hành chính nhà nước
tại tỉnh Đắk Lắk, từ đó đưa ra các quan điểm các giải pháp phù hợp, kịp thời
và hiệu quả để nâng cao chất lượng quản lý hành chính nhà nước trong vấn đề
phòng, chống tham nhũng trên địa bàn tỉnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận, khảo sát thực trạng phòng,
chống tham nhũng trong quản lý HCNN ở tỉnh Đắk Lắk, tác giả đề tài đề xuất
các giải pháp nhằm đẩy mạnh cuộc đấu tranh phịng, chống tham nhũng nói
chung và trong quản lý HCNN trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát một số vấn đề mang tính lý luận về tham nhũng, cơng tác
phịng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng trong quản lý HCNN.
- Phân tích, đánh giá thực trạng về cơng tác phịng, chống tham nhũng
trong quản lý HCNN ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay.
- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả về cơng
tác phịng, chống tham nhũng trong quản lý HCNN tại Đắk Lắk trong thời
gian tới.


6
4. ối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Phòng, chống tham nhũng trong quản lý HCNN tại tỉnh Đắk Lắk.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Trong đề tài này tác giải tập trung nghiên cứu cơng tác phịng, chống
tham nhũng trong quản lý HCNN tại tỉnh Đắk Lắk.
- Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2010 đến năm 2015.
5. ơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
về xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân,
trọng tâm là quan điểm chỉ đạo của Đảng và chủ trương của Nhà nước ta về
cơng tác phịng, chống tham nhũng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử. Các phương pháp khác: lo gic – lịch sử, phân tíchtổng hợp, so sánh, hệ thống hố lý thuyết; thống kê…
6. óng góp mới của luận văn
Luận văn là cơng trình khoa học đầu tiên nghiên cứu về phịng, chống
tham nhũng trong quản lý HCNN ở tỉnh Đắk Lắk. Vì vậy, có thể đóng góp
khoa học ở những góc độ sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý thuyết về tham nhũng và cơng tác phịng,
chống tham nhũng trong quản lý HCNN;
- Khái quát được thực trạng và chỉ ra ưu điểm, nhược điểm cơng tác
đấu tranh phịng, chống tham nhũng trong quản lý HCNN tại tỉnh Đắk Lắk;


7
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác phịng và
chống tham nhũng trong cơ quan quản lý hành chính nhà nước tại tỉnh Đắk
Lắk trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận
- Luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về áp dụng pháp luật

trong lĩnh vực phòng, chống tham nhũng.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp phần cung cấp cứ liệu
khoa học cho các cấp lãnh đạo, quản lý tỉnh Đắk Lắk tham khảo, vận dụng
trong việc đề ra các chính sách riêng, phù hợp và đạt hiệu quả cao hơn trong
cơng tác phịng, chống tham nhũng trong thời gian tới.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động
nghiên cứu hay phục vụ cho công tác giảng dạy ở các trường, như: Trường
chính trị tỉnh; Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện; các lớp quản lý nhà
nước cấp tỉnh tổ chức. Đây cũng là tài liệu có giá trị nâng cao lý luận và
nghiệp vụ đối với cán bộ làm công tác quản lý nhà nước trong thực tiễn.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 03 chương và 8 tiết.


8
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC ẤP TỈN
1.1. Về phòng, chống tham nhũng
1.1.1. Khái niệm tham nhũng; phòng, chống tham nhũng
Trong thực tế, đấu tranh chống tham nhũng rất khó khăn và phức tạp.
Để cuộc đấu tranh chống tham nhũng đạt hiệu quả, đòi hỏi trước hết phải
nhận diện được hành vi tham nhũng và nhận thức đúng hành vi tham nhũng.
Tham nhũng là hiện tượng xã hội thuộc phạm trù lịch sử, gắn liền với
sự ra đời, phát triển của nhà nước và quyền lực nhà nước. Nó tồn tại ở mọi
chế độ, với những mức độ khác nhau trong mỗi thời kỳ lịch sử, không phụ
thuộc vào thể chế chính trị. Tham nhũng là một biểu hiện của sự lợi dụng hay
lạm dụng quyền lực nhà nước, vì vậy, nó gắn liền với quyền lực nhà nước và

được thực hiện bởi chủ thể được nhà nước trao quyền. Giữa các quốc gia khác
nhau, biểu hiện của hành vi tham nhũng và quan niệm về tham nhũng cũng
khác nhau. Trong một quốc gia thì ở các giai đoạn lịch sử khác nhau, điều
kiện xã hội và các chủ thể mang quyền lực khác nhau thì hành vi tham nhũng
cũng có những biểu hiện khác nhau. Vì vậy, việc đưa ra được một khái niệm
hay định nghĩa hoàn chỉnh phản ánh đúng bản chất của hành vi tham nhũng
và được chấp nhận rộng rãi là điều không đơn giản.
Hiện nay trên thế giới, do những điều kiện, đặc thù riêng, mỗi quốc gia
có quan niệm khác nhau về tham nhũng. Chẳng hạn, từ điển Bách khoa của
Brue Khaus - Đức nêu khái niệm: “Tham nhũng là hiện tượng mất phẩm
chất, hối lộ, đút lót, thường xảy ra đối với cơng chức có quyền hành”. Ở Áo
thì “Tham nhũng là hiện tượng lừa đảo, hối lộ, bóc lột”; Từ điển Bách khoa
của Thụy Sĩ cho rằng: “Tham nhũng là hậu quả nghiêm trọng của sự vô tổ
chức của tầng lớp cho trách nhiệm trong bộ máy nhà nước, đó là hành vi vi


9
phạm để phục vụ lợi ích cá nhân” [18, tr.12]; Trung Quốc coi tham nhũng là
hiện tượng hủ bại và chống tham nhũng là chống hủ bại. Theo Ngân hàng Thế
Giới (World Bank), tham nhũng là sự "lạm dụng quyền lực cơng cộng nhằm
lợi ích cá nhân"; Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International TI) cho rằng, tham nhũng là hành vi "của người lạm dụng chức vụ, quyền
hạn, hoặc cố ý làm trái pháp luật để phục vụ cho lợi ích cá nhân" [5]…
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, “tham nhũng” được hiểu là
(hành vi) lợi dụng chức vụ, quyền hạn hưởng lợi ích vật chất trái pháp luật,
gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể, cá nhân, xâm phạm hoạt động
đúng đắn của các cơ quan, tổ chức” [9]. Theo tài liệu hướng dẫn của Liên hợp
quốc về cuộc đấu tranh quốc tế chống tham nhũng (năm 1969) định nghĩa
tham nhũng trong một phạm vi hẹp, đó là: Sự lợi dụng quyền lực nhà nước để
trục lợi riêng... [29]. Còn theo Từ điển Tiếng Việt, tham nhũng là “lợi dụng
quyền hành để nhũng nhiễu nhân dân lấy của” [42, tr.910]. Theo cách hiểu

trong dân gian, thì tham nhũng là hành vi của bọn “tham quan, ô lại” biển thủ
tài sản công, chiếm đoạt tài sản của người dân, hối lộ, ăn hối lộ và đi kèm với
từ “tham nhũng” ln hình thành cụm từ “quan lại tham nhũng", khơng có
cụm từ “dân tham nhũng", bởi vì có chức vụ, quyền hành mới có khả năng
tham nhũng.
Ở nước ta theo quy định tại Điều 1 Luật Phòng, chống tham nhũng đã
được Quốc hội thông qua năm 2005: “Tham nhũng là hành vi của người có
chức vụ, quyền hạn, đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham ô, hối lộ hoặc cố
ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước,
tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức”.
Tham nhũng là vật cản lớn nhất của tiến trình phát triển xã hội, là nguy cơ
trực tiếp liên quan đến sự sống còn của Nhà nước. Luật Phòng, chống tham
nhũng ở Việt Nam năm 2005. Sửa đổi bổ sung năm 2007 nêu rõ: “Tham


10
nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ,
quyền hạn đó để vụ lợi”. Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về tham
nhũng nhưng có thể hiểu là tham nhũng chủ yếu vẫn thông qua các hành vi
tham ô, hối lộ, lộng quyền, lộng hành, sách nhiễu gây khó khăn cho người
khác, dùng quyền lực để mưu lợi cá nhân, bao che cho hành vi vi phạm pháp
luật, dùng tiền thao túng quyền lực, chiếm đoạt quyền lực…
Tham nhũng là hành vi gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển
bền vững của đất nước, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển làm cho
kinh tế chậm phát triển, thất thốt, lãng phí tài sản của nhân dân, thiệt hại
ngân sách, gây rối loạn nền kinh tế, gia tăng khoảng cách giàu nghèo, tình
trạng nghèo đói ngày càng trầm trọng. Hơn nữa, nó làm xói mịn lịng tin của
nhân dân vào Đảng, vào Nhà nước, làm cho chế độ chính trị dần suy yếu từ
bên trong, tạo điều kiện cho các thế lực thù địch tấn công ta, dẫn đến sụp đổ
chế độ nếu không kịp thời chấn chỉnh.

Để nâng cao hiệu quả của việc phòng ngừa và đấu tranh chống tham
nhũng, tăng cường kỷ cương pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể,
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, trong Luật số 55/2005/QH11 của
Quốc hội: Luật PCTN, tại Điều 3 đã quy định 12 hành vi tham nhũng: Tham ô
tài sản; Nhận hối lộ; Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; Lợi
dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, cơng vụ vì vụ lợi; Lạm
quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, cơng vụ vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ,
quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi; Giả mạo trong cơng
tác vì vụ lợi; Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ,
quyền hạn để giải quyết cơng việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì
vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì
vụ lợi; Nhũng nhiễu vì vụ lợi; Khơng thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ vì vụ lợi;
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp


11
luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào kiểm tra, thanh tra, kiểm
toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
Bộ luật Hình sự 2015, tại chương XXIII Các tội phạm về chức vụ, ở
mục 1 - Các tội phạm về tham nhũng đã quy định 07 tội danh được coi là tội
phạm về tham nhũng từ Điều 353 đến 359 như: Tội tham ô tài sản; Tội nhận
hội lộ; Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; Tội lợi dụng
chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; Tội lạm quyền trong khi thi
hành công vụ; Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người
khác để trục lợi; Tội giả mạo trong công tác.
Với những nghiên cứu và cách tiếp cận, xem xét như trên, rõ ràng tham
nhũng đã vượt ra ngoài giới hạn tham ơ, hối lộ. Có thể khẳng định tham nhũng là
tập hợp những hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã sử dụng chức vụ,
quyền hạn đó là phương tiện để mưu cầu lợi ích. Điều 1 Luật chống tham nhũng
xác định: “Người có hành vi tham nhũng phải bị xử lý nghiêm minh theo quy

định của pháp luật”. Như vậy, người có hành vi tham nhũng, nếu đủ điều kiện
trở thành chủ thể của trách nhiệm pháp lý thì trong mọi trường hợp, về nguyên
tắc đều bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Hình thức xử lý có
thể là kỷ luật, xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, việc xử lý
hình sự khi hành vi vi phạm thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm được
quy định tại một trong các Điều 278 đến 284 Bộ luật hình sự; Những trường hợp
vi phạm khác thì bị xử lý kỷ luật hoặc xử lý hành chính.
Ngày 29/11/2005, Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XI đã thơng qua Luật
phòng, chống tham nhũng. Theo điểm 2, Điều 1 Luật phịng, chống tham
nhũng 2005 thì: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã
lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”.
- Có thể nói khái niệm tham nhũng theo Điều 1 Luật phịng, chống
tham nhũng năm 2005 là khái niệm đầy đủ và khoa học nhất ở Việt Nam từ


12
trước đến nay. Khái niệm này đã chỉ rõ bản chất của tham nhũng đồng thời
khái quát hóa được các dạng hành vi cụ thể, chủ thể của tham nhũng.
1.1.2 Những biểu hiện tham nhũng và sự cần thiết phòng, chống
tham nhũng
1.1.2.1. Các dấu hiệu (biểu hiện) đặc trưng cơ bản tham nhũng
Thứ nhất, tham nhũng phải được thực hiện bởi người có chức vụ,
quyền hạn trong bộ máy nhà nước hoặc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị
xã hội nói chung, tức là những người được sử dụng quyền lực công; hành vi
tham nhũng là lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong việc làm hay khơng làm vì
mục đích vụ lợi, nhằm nhận được các lợi ích vật chất và các lợi ích tinh thần
khơng bằng cơng sức của mình. Nhìn chung, nhóm đối tượng tham nhũng có
những đặc thù, như: Được đào tạo bài bản và có hệ thống; có nhiều kinh
nghiệm; là chuyên gia trên nhiều lĩnh vực; quan hệ rộng và có uy tín nhất
định xã hội; thậm chí có tiềm lực về kinh tế, hoặc là người tham gia công tác

chống tham nhũng. Đây cũng chính là những yếu tố gây khó khăn cho việc
phát hiện, điều tra, xét xử so với các nhóm đối tượng phạm tội khác.
Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (Khoản 3, Điều 1) quy định
04 nhóm người có chức vụ, quyền hạn. Theo Bộ Luật Hình sự năm 2015,
chủ thể của các hành vi tham ô tài sản, nhận hối lộ cịn có thể là người có
chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước.
Thứ hai, người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng, lạm dụng chức vụ,
quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ được giao. Sự lợi dụng chức
vụ, quyền hạn thể hiện ở chỗ họ sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình làm
sai lệch hoạt động của cơ quan, tổ chức, gây nên những thiệt hại cho lợi ích
của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Bên cạnh đó,
tham nhũng cịn được hiểu ở khía cạnh khác là người có chức vụ, quyền hạn
khơng lợi dụng chính chức vụ, quyền hạn đó trong khi thi hành nhiệm vụ,


13
cơng vụ nhưng do có chức vụ, quyền hạn được giao mà họ có những mối
quan hệ nhất định với những người có chức vụ, quyền hạn khác, họ đã lợi
dụng mối quan hệ này để tác động với những người có chức vụ, quyền hạn
khác để những người này làm trái với quy định pháp luật sao cho có lợi cho
cá nhân người tác động.
Thứ ba, người thực hiện hành vi tham nhũng phải có mục đích, động
cơ vụ lợi . Đây là dấu hiệu bắt buộc phải có để phân biệt hành vi tham nhũng
với những hành vi vi phạm pháp luật khác do người có chức vụ, quyền hạn
thực hiện. Động cơ vụ lợi được hiểu không chỉ người có chức vụ, quyền hạn
chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, của xã hội, của công dân về cho mình, mà
có thể chuyển cho người khác, một nhóm người khác hoặc cho tập thể, gây
thiệt hại cho quyền lợi hợp pháp khác.
1.1.2.2. Sự cần thiết phải phòng, chống tham nhũng
Tham nhũng ở nước ta ngày càng tinh vi, khó phát hiện do các đối

tượng tham nhũng thường có chức vụ, quyền hạn, có trình độ hiểu biết pháp
luật, quan hệ rộng, liên kết với nhau thành các nhóm lợi ích. Tham nhũng
làm thay đổi mọi lĩnh vực trong trong xã hội như kinh tế, luật pháp quốc gia,
dân chủ, luân lý, giáo dục... Những tổn thất do tham nhũng gây nên thật khó
đo lường cho hết. Có thể khái quát những tác hại chủ yếu của tham nhũng ở
nước ta với những điểm chính sau:
* Về chính trị, tham nhũng là trở lực lớn đối với quá trình đổi mới đất
nước và làm xói mịn lịng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; làm
giảm sức chiến đấu của Đảng và đe dọa sự tồn vong của chế độ ta.
* Về kinh tế, tham nhũng gây thiệt hại về tài sản của Nhà nước, của tập
thể và của công dân. Trong điều kiện là một nước đang phát triển, mọi nguồn
lực đang huy động tối đa cho cơng nghiệp hố, hiện đại hố và thực hiện xố


14
đói, giảm nghèo.., thì tham nhũng là tội ác và chúng ta phải quyết liệt đấu
tranh, xử lý.
* Về xã hội, tham nhũng làm tha hoá đội ngũ cán bộ, công chức nhà
nước, xâm phạm những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, thậm chí
làm thay đổi, đảo lộn những chuẩn mực đạo đức xã hội, khi người thực hiện
hành vi tham nhũng là giáo viên, bác sĩ, những người xây dựng nền tảng tinh
thần cho xã hội.
Từ những biểu hiện và tác hại của tham nhũng cho thấy, tham nhũng
luôn luôn gắn với quyền lực và lợi ích cá nhân, trong đó lợi ích là yếu tố chủ
quan dẫn đến tham nhũng. Khi còn điều kiện để lợi ích kết hợp với sự lạm
quyền của những người có chức vụ, quyền hạn thì vẫn cịn có khả năng xảy ra
tham nhũng. Hiện nay, tình hình tham nhũng ở Việt Nam đã ở mức nghiêm
trọng, đáng báo động. Tham nhũng không chỉ xảy ra ở cấp Trung ương, ở
những chương trình, dự án lớn mà cịn xuất hiện nhiều trong các cấp chính
quyền cơ sở - là cơ quan tiếp xúc với nhân dân hằng ngày, giải quyết những

cơng việc liên quan trực tiếp đến lợi ích của nhân dân. Chúng ta cũng không
thể phủ nhận thực trạng hiện nay là, tham nhũng đã và đang diễn biến theo
chiều hướng: Tinh vi về thủ đoạn, phức tạp về quy mô bởi các mối quan hệ
đan xen và gây hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, nhất là trên các lĩnh vực
“nhạy cảm” vốn tiềm ẩn những giá trị lợi ích vật chất, như: Quản lý sử dụng
tài nguyên đất đai; quản lý, sử dụng ngân sách, vốn và tài sản nhà nước; đầu
tư xây dựng cơ bản; quá trình cổ phần hố doanh nghiệp Nhà nước;... Thực
trạng tham nhũng trên diễn ra trong phạm vi cả nước, hậu quả khơng chỉ gây
thất thốt nghiêm trọng về kinh tế mà hơn cả chính là gây xói mịn lịng tin
của mọi tầng lớp nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý cơ
quan HCNN; đồng thời, cũng tiềm ẩn những nguy cơ khôn lường về sự phản
kháng của dư luận xã hội, đặc biệt là làm suy yếu sức chiến đấu của Đảng,


15
đánh đổi những thành quả cách mạng và sự tồn vong của chế độ. Chính vì vậy
việc PCTN là vấn đề cấp thiết của Đảng và Nhà nước hiện nay.
Quan điểm, chủ trương của Đảng; chính sách và pháp luật của Nhà
nước về phòng, chống tham nhũng
Tham nhũng và những tác động của nó được ví như dịch bệnh nguy
hiểm có thể phá vỡ bất kỳ thể chế chính trị nào. Theo Lênin, những người
quan liêu là thành những nhân vật có đặc quyền, thốt ly quần chúng và đứng
trên quần chúng và đã chỉ rõ: “Chúng ta có những phần tử quan liêu không
những trong các cơ quan xô - viết của chúng ta mà cả trong những cơ quan
đảng nữa" [21, tr.452]. Lênin đã cảnh báo, quan liêu tất yếu sẽ dẫn tới tham
nhũng, cùng với quan liêu thì hủ hóa, tham nhũng càng lan tràn và nghiêm
trọng “Hiện tượng thật sự điển hình của nước Nga là nạn hối lộ” [20, tr.214].
Lê nin từng chỉ rõ: “Nếu có cái gì đó sẽ làm tiêu vong chúng ta thì chính là
quan liêu, tham nhũng; nếu khơng thành cơng trong đấu tranh chống quan
liêu, tham nhũng thì sớm hay muộn, đến lượt nó, tệ quan liêu tham nhũng sẽ

làm tiêu vong sự nghiệp của những người cộng sản” [32, tr.10].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất sớm nhận ra nạn tham nhũng là một trong
những căn bệnh gắn liền với quyền lực nhà nước và các hình thức quyền lực
chính trị khác; tham nhũng là một trong những nguy cơ đối với đảng cầm
quyền không chỉ là bệnh quan liêu, xa quần chúng mà cịn là các thói hư tật
xấu do chủ nghĩa cá nhân sinh ra như tham ô lãng phí. Người đã khẳng
định: Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội
và của Chính phủ. Người cho rằng: Tham ô là trộm cướp…. Mà có nạn tham
ô và lãng phí là vì bệnh quan liêu… và chống tham ơ, lãng phí và bệnh quan
liêu cũng quan trọng và cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận [28, tr.489].
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Trong q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng và Nhà nước


16
ta luôn quan tâm đến công tác PCTN. Điều này được thể hiện rõ, trong văn
kiện của các kỳ đại hội Đảng đều đề cập đến vấn đề PCTN và được thể chế
hóa bằng các chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trong từng giai đoạn lịch
sử, tùy vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, quan điểm của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước về đấu tranh PCTN cũng có sự điều chỉnh phù hợp.
Trong giai đoạn đầu xây dựng chế độ mới, Đảng ta đã ban hành một số nghị
quyết quan trọng, như: Nghị quyết số: 51-NQ/TW ngày 26/4/1962 của Bộ
Chính trị khóa III về cuộc vận động "Nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng
cường quản lý kinh tế tài chính, chống tham ơ, lãng phí, quan liêu”; Nghị
quyết số: 85-NQ/TW ngày 24/7/1963 của Bộ Chính trị khóa III về cuộc vận
động "Nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế tài chính, cải
tiến kỹ thuật, chống tham ơ, lãng phí, quan liêu”.
Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, tình hình tham nhũng ngày
càng nghiêm trọng cả bề rộng lẫn chiều sâu ở nhiều cấp, nhiều ngành. Văn
kiện Đại hội Đảng lần thứ VI Đảng ta xác định tham nhũng là một trong bốn

nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Nhằm phát huy vai trò
lãnh đạo của Đảng, chỉnh đốn tổ chức Đảng và nâng cao chất lượng của đội
ngũ đảng viên, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa VIII đã thơng qua
Nghị quyết về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng
Đảng hiện nay. Trong đó, việc “Tập trung chỉ đạo cuộc đấu tranh chống tham
nhũng, lãng phí, quan liêu có hiệu quả” được Hội nghị xác định là một trong
một số vấn đề cấp bách và thống nhất chủ trương thành lập Ban Chỉ đạo
Trung ương 6 (lần 2) về xây dựng và chỉnh đốn Đảng [1].
Văn kiện Đại hội IX của Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh: Tình trạng tham
nhũng và sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng đang cản trở việc thực
hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, gây bất bình và làm giảm


17
lòng tin trong nhân dân; Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống
chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn
của chế độ ta... [10, tr.286]. Trước tình hình đó, Luật PCTN được Quốc hội
khố XI thơng qua ngày 29/11/2005 đã quy định cụ thể các biện pháp phòng
ngừa tham nhũng, các biện pháp phát hiện tham nhũng và việc xử lý tham
nhũng [27, tr.8]. Ngày 06/02/2006, Chính phủ đã ban hành Chương trình hành
động của Chính phủ thực hiện Luật PCTN. Trên cơ sở đó, các bộ ngành cũng
đã ban hành Chương trình hành động thực hiện Luật PCTN.
Văn kiện Đại hội X nêu rõ: “Tích cực phịng ngừa và kiên quyết
chống tham nhũng, lãng phí là đòi hỏi bức xúc của xã hội, là quyết tâm
chính trị của Đảng ta nhằm xây dựng một bộ máy lãnh đạo và quản lý
trong sạch, vững mạnh, khắc phục một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự
sống cịn của chế độ ta..” [12, tr.46]. Cụ thể hóa quan điểm, chủ trương và
góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Ban Chấp
hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết Trung ương 3 Khóa X về tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác PCTN, lãng phí. Đây là một
nghị quyết rất quan trọng, thể hiện vai trị và quyết tâm chính trị của Đảng
trong việc lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta quyết tâm ngăn chặn,
từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí trong xã hội. Ngày 28/8/2006, Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về tổ chức, nhiệm vụ,
quyền hạn và quy chế hoạt động của Ban chỉ đạo Trung ương về PCTN.
Trong đó khẳng định sẽ khơng có “vùng cấm” trong cuộc đấu tranh này.
Để cụ thể hoá Nghị quyết số: 04-NQ/TW ngày 21/8/2006 của Hội
nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác PCTN, lãng phí. Ngày 12/5/2009, Chính
phủ ban hành Nghị quyết số: 21/NQ-CP về việc Ban hành Chiến lược quốc
gia PCTN đến năm 2020, Chiến lược xác định các mục tiêu căn bản, lâu dài


×