Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Quản lý xã hội đối với hoạt động văn hóa ở huyện kon rẫy, tỉnh kon tum hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (974.55 KB, 105 trang )

O Ụ V

OT O

Ọ V ỆN

O

Ọ V ỆN

V TU

TRẦN ÌN

QUẢN LÝ XÃ


VỚ

U ỆN KON RẪ , TỈN

LUẬN VĂN T



N

TRỊ QU
MN

N TRU ỀN



TRUN

O T

N

KON TUM

N

ẮK LẮK - 2016

TRỊ

VĂN
ỆN N



Ó


O Ụ V

OT O

Ọ V ỆN

O


Ọ V ỆN

V TU

TRẦN ÌN

QUẢN LÝ XÃ


VỚ

U ỆN KON RẪ , TỈN

N

TRỊ QU
MN

N TRU ỀN

TRUN

O T

N

VĂN

KON TUM


Ó

ỆN N

huyên ngành: Quản lý xã hội
Mã số: 60 31 02 01

LUẬN VĂN T



N

TRỊ



NGƢỚI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS, TS. Phạm Xuân Mỹ

ẮK LẮK – 2016


Luận văn đã được sửa chữa theo khuyến nghị của Hội đồng chấm luận
văn thạc sĩ.

Hà Nội, ngày…… tháng…..năm 2016
Ủ TỊ
N
(Ký và ghi rõ họ tên)



LỜ

M O N

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tơi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chƣa từng đƣợc ai công bố
trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Tác giả luận văn

Trần ình Trung


LỜ

ẢM ƠN

Để hoàn thành đƣợc luận văn này, em xin chân thành bày tỏ lòng biết
ơn sâu sắc đến PGS, TS. Phạm Xuân Mỹ đã tận tình hƣớng dẫn em trong q
trình thực hiện đề tài.
Cảm ơn q thầy cơ trong trƣờng, khoa đã nhiệt tình truyền dạy trong
cả khố học để bản thân em có cơ hội đƣợc tiếp thu, lĩnh hội vốn kiến thức
hữu ích và cần thiết làm nền tảng cơ bản cho quá trình em thực hiện nghiên
cứu đề tài và trong công tác, công việc tại địa phƣơng, đơn vị.
Cảm ơn các xã, thị trấn, các cơ quan, đơn vị trên địa bàn Huyện Kon
Rẫy - Tỉnh Kon Tum đã quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ em khi đến thu thập,
nghiên cứu tài liệu, thực tập phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài.
Cuối cùng em xin chúc quý thầy cô, quý anh chị luôn dồi dào sức khỏe

hạnh phúc và thành công.
Học viên

Trần ình Trung


N

MỤ

Ữ V ẾT TẮT

BVHTTDL

: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

CP

: Chính phủ

CNH-HĐH

: Cơng nghiệp hóa – Hiện đại hóa

GS.TS

: Giáo sƣ tiến sĩ

HĐND


: Hội đồng Nhân dân



: Nghị định

NQ

: Nghị quyết

NXB

: Nhà Xuất bản

PGS.TS

: Phó giáo sƣ, tiến sĩ



: Quyết định

QPAN

: Quốc phòng an ninh

KH

: Kế hoạch


TDĐKXDĐSVH : Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa
TTg

: Quyết định của Thủ tƣớng chính phủ

TW

: Trung ƣơng

VH&TT

: Văn hố và Thơng tin

UBND

: Ủy ban Nhân dân


MỤ LỤ
MỞ ẦU .......................................................................................................... 1
hƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ XÃ HỘI ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA ................................................................................ 8
1.1. Một số khái niệm ............................................................................. 8
1.2. Cơ sở lý luận của quản lý xã hội đối với hoạt động văn hóa......... 21
1.3. Nội dung cơng tác quản lý xã hội đối với hoạt động văn hóa ....... 30
hƣơng 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ XÃ HỘI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
VĂN HÓA Ở HUYỆN KON RẪY, TỈNH KON TUM .................................... 35
2.1. Khái quát chung về huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum và tình hình
quản lý xã hội về văn hóa ở địa phƣơng ............................................... 35
2.2. Thành tựu, hạn chế và một số kinh nghiệm quản lý văn hóa của

huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum............................................................. 48
hƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ XÃ HỘI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA Ở HUYỆN KON
RẪY, TỈNH KON TUM HIỆN NAY ............................................................... 65
3.1. Yêu cầu mới đặt ra với công tác quản lý xã hội đối với hoạt động
văn hóa ở huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum hiện nay ............................. 65
3.2. Phƣơng hƣớng chung ..................................................................... 75
3.3. Khuyến nghị một số giải pháp ....................................................... 77
KẾT LUẬN .................................................................................................... 84
T

L ỆU T

P Ụ LỤ

M K ẢO ............................................................................ 87


1
MỞ ẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hóa có vai trò quan trọng, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy
sự phát triển kinh tế- xã hội. Cơng tác quản lý văn hóa là một trong những
nhiệm vụ quan trọng của hoạt động quản lý hành chính nhà nƣớc. Công tác
này đƣợc Đảng và Nhà Nƣớc ta đặc biệt quan tâm nhằm bảo tồn và phát huy
tinh hoa văn hóa dân tộc.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, sự bùng nổ công nghệ thông tin và
truyền thông và tác động của nền kinh tế thị trƣờng hiện nay, đặt ra nhiều vấn
đề thƣờng xuyên, liên tục tác động đến bộ máy, cơ chế chính sách với những
dạng thức phong phú với những nhân tố tích cực và tiêu cực đến hoạt động

văn hóa. Nguy cơ xâm nhập của văn hóa lai căng, những ấn phẩm văn hóa
phản giáo dục tràn vào theo nhiều đƣờng, thậm chí có cái đã vƣợt quá tầm
kiểm soát của các cơ quan chức năng, gây hậu quả nghiêm trọng trong xã hội,
ảnh hƣởng lớn đến đạo đức và lối sống, đặc biệt là lớp trẻ. Do vậy, việc huy
động các cấp, ngành, các lực lƣợng tham gia quản lý các hoạt động văn hóa,
nhất là tăng cƣờng vai trị của quản lý nhà nƣớc đối với lĩnh vực này đang là
một yêu cầu bức thiết. Làm tốt cơng tác này góp phần ổn định đời sống văn
hóa, làm lành mạnh, trong sạch đời sống tinh thần của nhân dân, góp phần
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Nhận thức đƣợc tầm quan trọng đó, Đảng và Nhà nƣớc ta đã có rất
nhiều các chỉ thị, nghị quyết về vấn đề quản lý nhà nƣớc đối với lĩnh vực văn
hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa cơng cộng. Cụ thể, Chính phủ đã có Nghị
định 87/CP ngày 12/12/1995 “Về tăng cƣờng công tác quản lý nhà nƣớc đối
với hoạt động văn hóa và kinh doanh, dịch vụ văn hóa”; Nghị định 88/CP
ngày 14/12/1995 của Chính phủ “Về quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong các hoạt động văn hóa, dịch vụ văn hóa, phịng chống một số tệ nạn xã


2
hội”. Nghị định 11/2006/NĐ - CP ngày 18/01/2006 của Chính phủ về việc
ban hành quy chế hoạt động văn hoá và kinh doanh dịch vụ văn hố cơng
cộng… Đặc biệt, Nghị định 103/2009/ NĐ-CP ngày 6/11/2009 ban hành quy
chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng.
Hội nghị lần thứ 9, Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa XI (6 -2014),
đã thơng qua Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Nghị quyết chỉ
rõ “Tập trung đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa
trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và sự bùng nổ của
công nghệ thông tin và truyền thông. Đẩy nhanh việc thể chế hóa, cụ thể hóa các
quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa. Hồn thiện hệ thống văn bản quy

phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa, về quyền tác giả và các quyền
liên quan, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam”.
Đây là vấn đề hệ trọng, cần đƣợc sự quan tâm của tồn ngành Văn hóa,
Thể thao và Du lịch, các ngành liên quan, chính quyền các cấp và của tồn xã
hội trong việc nhận thức, quán triệt, triển khai. Việc thể chế hóa, cụ thể hóa
các quan điểm, đƣờng lối của Đảng về văn hóa trong tình hình hiện nay và
sắp tới là yêu cầu quan trọng đã, đang tiếp tục đặt ra trong tƣ duy mới. Đây là
hoạt động địi hỏi các cơ quan chức năng, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
phải tiếp cận, xử lý nhiều loại, bình diện thơng tin (trong nƣớc, quốc tế, kinh
tế, văn hóa, luật pháp…) với quan điểm lập trƣờng đúng đắn, kiên định vì lợi
ích quốc gia, dân tộc.
Đối với địa phƣơng, về mặt quản lý nhà nƣớc, trong thời gian qua
UBND tỉnh Kon Tum đã có những văn bản pháp quy quy định đầy đủ, chi tiết
về quyền và nghĩa vụ của các cơ quan nhà nƣớc trong việc quản lý văn hóa.
Huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum hiện nay là địa phƣơng có bề dày về
truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng. Tuy nhiên trong quá trình biến


3
đổi của xã hội, đặc biệt là những năm gần đây cho thấy sự tác động về kinh tế
trong quá trình giao lƣu, hội nhập đã dẫn đến sự biến đổi nhanh chóng về văn
hóa, điều này địi hỏi cơng tác quản lý về văn hóa phải đặt ra những nhiệm vụ,
giải pháp phù hợp để quản lý về văn hóa sao cho lƣu giữ phát huy tốt hơn
những giá trị văn hóa truyền thống của vùng đất này, đồng thời xây dựng mơi
trƣờng văn hóa tiên tiến, phát triển đồng bộ cùng với phát triển kinh tế địa
phƣơng để ngƣời dân ở Kon Rẫy đƣợc hƣởng thụ một đời sống tinh thần lành
mạnh, đầy đủ hơn về vật chất.
Qua quá trình học tập, nghiên cứu, học tập và những kinh nghiệm cơng
tác bản thân ở vị trí hiện tại, tôi chọn đề tài: “Quản lý xã hội đối với hoạt
động văn hóa ở Huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum” làm luận văn tốt nghiệp.

Đây là đề tài mới, phù hợp với mã ngành chính trị học, chuyên ngành Quản lý
xã hội và khơng trùng lặp với các cơng trình đã đƣợc cơng bố.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Công tác quản lý xã hội đối với văn hóa đƣợc Đảng, Nhà Nƣớc và nhân
dân ta đặc biệt chú trọng, với nhận thức “ văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội”, trong nhiều năm qua, việc nghiên cứu công tác quản lý xã hội đối với
các hoạt động văn hóa đã đƣợc nhiều tập thể, cá nhân ở nhiều địa phƣơng
khác nhau trên cả nƣớc đi sâu nghiên cứu, trên cơ sở đánh giá thực trạng về
văn hóa và cơng tác quản lý các hoạt động văn hóa để đƣa ra những mục tiêu,
những biện pháp phù hợp triển khai thực hiện ở mỗi địa phƣơng; về mặt
nghiên cứu, trao đổi, trên các trang thông tin, tạp chí chun ngành cũng đã
có các bài viết của các nhà nghiên cứu nhƣ :
- Tạp chí Văn hóa nghệ thuật (GS.TS Phan Khanh), Tạp chí Xây dựng
Đời sống văn hóa (PGS.TS Lê Nhƣ Hoa)…
Hiện nay, đối với tỉnh Kon Tum nói chung và huyện Kon Rẫy nói
riêng, các đề tài, cơng trình nghiên cứu về văn hóa – xã hội, nhất là quản lý


4
văn hóa cịn chung chung, chủ yếu phản ảnh những nét văn hóa truyền thống
của cộng đồng dân cƣ bản địa vùng Tây Nguyên, chƣa thực sự đi sâu nghiên
cứu đánh giá về văn hóa về cơng tác quản lý văn hóa của từng địa phƣơng cụ
thể, chẳng hạn nhƣ:
- Nếp sống phong tục Tây Nguyên, Nhiều tác giả (1999), Nxb. Văn hóa
Thơng tin, Hà Nội;
- Một số vấn đề phát triển kinh tế - xã hội buôn làng các dân tộc Tây
Nguyên, Nhiều tác giả (2002), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội;
- Văn hóa các dân tộc Tây Nguyên - Thực trạng và những vấn đề đặt
ra, Trần Văn Bính (Chủ biên) (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội…
Đối với đề tài Quản lý xã hội đối với hoạt động văn hóa ở huyện Kon

Rẫy, tỉnh Kon Tum, đến thời điểm tơi thực hiện, vẫn chƣa có tác giả nào
nghiên cứu trƣớc đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những nhân tố tác động, chỉ rõ thực trạng (thành tựu,
hạn chế, kinh nghiệm) cơng tác quản lý văn hóa của huyện Kon Rẫy, tỉnh
Kon Tum trong thời gian qua; đề xuất phƣơng hƣớng và một số giải pháp
góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc về văn hóa ở địa phƣơng
hiện nay..
Quản lý về văn hóa góp phần định hƣớng, điều chỉnh sự phát triển văn
hóa của huyện, giúp thực hiện hóa các chủ trƣơng, đƣờng lối văn hóa, văn
nghệ của Đảng. Trên phƣơng diện vi mô, hoạt động quản lý văn hóa trong các
lĩnh vực, địa bàn, nhóm dân cƣ cụ thể sẽ giúp hạn chế những sai lệch trong
khi thực thi các cơ chế, chính sách của Nhà nƣớc trên lĩnh vực văn hóa. Qua
đó có những giải pháp, nhóm giải pháp phù hợp góp phần tạo điều kiện cho
cơng tác quản lý văn hóa ở địa phƣơng gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã


5
hội; làm cho công tác quản lý nhà nƣớc trên lĩnh vực văn hóa ngày càng đƣợc
củng cố và hồn thiện. Các thiết chế văn hóa trên địa bàn huyện đƣợc hoàn
chỉnh và nâng cao chất lƣợng hoạt động. Việc kiểm tra giám sát các hoạt động
văn hóa đƣợc thƣờng xuyên, liên tục. Những hoạt động trên đã góp phần đảm
bảo định hƣớng lớn của Đảng trong việc “xây dựng và phát triển nền văn hóa
ViệtNam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Hơn thế nữa, hoạt động quản lý
về văn hóa trên địa bàn huyện sẽ đóng góp một phần khơng nhỏ trong việc
giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, nhiều giá trị văn hóa mới
đƣơc tiếp thu có chọn lọc, khuyến khích sức sáng tạo văn hóa, nghệ thuật của
các chủ thể văn hóa.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu những nhân tố tác động cơng tác quản lý văn hóa của
huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum (chính sách chung, tình hình chính trị, kinh tế,
văn hóa và lịch sử ...).
- Đánh giá thực trạng cơng tác quản lý văn hóa của huyện Kon Rẫy
hiện nay để qua đó tìm ra ƣu, khuyết điểm, kinh nghiệm quản lý các hoạt
động văn hóa của huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum trong thời gian qua.
- Đề xuất phƣơng hƣớng và một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu
quả quản lý nhà nƣớc về văn hóa ở địa phƣơng trong thời gian tới.
4. ối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quản lý xã hội đối với các hoạt động văn hóa trên địa bàn huyện Kon
Rẫy, tỉnh Kon Tum thực hiện ở nhiều lĩnh vực văn hóa và hoạt động văn hóa
khác nhau. nhƣ:
- Quản lý hoạt động thông tin tuyên truyền cổ động
- Quản lý hoạt động văn nghệ, các hoạt động thể dục thể thao
- Quản lý hoạt động thƣ viên


6
- Quản lý các thiết chế văn hóa
- Quả lý công tác bảo tồn phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của
các dân tộc bản địa
- Quản lý các hoạt động xây dựng đời sống văn hóa cơ sở
- Quản lý các dịch vụ văn hóa
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Quản lý về văn hóa là một trong những vấn đề đang rất nóng hiện nay
và có phạm vi rộng cả về không gian và thời gian. Trong phạm vi nghiên cứu
của đề tài, tôi chỉ giới hạn trong địa bàn huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum và
trong mốc thời gian từ năm 2005 cho đến thời điểm hiện tại.
5. ơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở lý luận Mác- Lênin tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh về văn hóa, quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Mơ hình văn hóa với hai đặc trƣng cơ
bản: tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc đã hàm chứa đƣợc tất cả những gì tốt
nhất, hiện đại nhất, đẹp nhất, nhân đạo nhất của văn hóa Việt Nam, phù hợp
với sự tiến bộ văn hóa của nhân loại.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp nghiên cứu: đề tài đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở phƣơng
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đồng thời sử dụng các phƣơng
pháp nghiên cứu khác nhƣ: phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp phân tích
thứ cấp, phƣơng pháp tổng hợp.
6. óng góp mới về mặt khoa học của luận văn
- Chỉ ra những nhân tố tác động đến công tác quản lý văn hóa của
huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum.


7
- Đánh giá thực trạng công tác quản lý văn hóa của huyện Kon Rẫy
hiện nay để qua đó tìm ra ƣu, khuyết điểm, kinh nghiệm quản lý các hoạt
động văn hóa của huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum trong thời gian qua.
- Đề xuất phƣơng hƣớng và một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu
quả quản lý nhà nƣớc về văn hóa ở địa phƣơng hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo và các
phụ lục, luận văn gồm 3 chƣơng, 8 tiết.


8
hƣơng 1

M TS

VẤN Ề
VỚ

UN
O T

VỀ QUẢN LÝ XÃ
N

VĂN

Ó

1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Văn hóa
Trong lịch sử, khái niệm văn hóa xuất hiện rất sớm ở phƣơng Đông
cũng nhƣ ở phƣơng Tây. Trong thời kỳ Cổ đại ở Trung Quốc, văn hóa đƣợc
hiểu là cách thức điều hành xã hội của tầng lớp thống trị dùng văn hóa và giáo
hóa, dùng cái hay, cái đẹp để giáo dục và cảm hóa con ngƣời. Văn đối lập với
vũ, vũ công, vũ uy dùng sức mạnh để cai trị.
Ở phƣơng Tây, từ văn hóa bắt nguồn từ tiếng La - tinh, có nghĩa là vun
trồng, tạo ra những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu của con ngƣời. Khái niệm
văn hóa về sau phát triển ngày càng phong phú. Tùy cách tiếp cận khác nhau,
cách hiểu khác nhau, đã có mấy trăm định nghĩa khác nhau về văn hóa.
Văn hố là thƣớc đo nhân bản trong con ngƣời, là trình độ ngƣời của
các quan hệ xã hội. Văn hố cũng chính là yếu tố làm nên bản sắc của mỗi
dân tộc, là nền tảng tinh thần của xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như

mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ,
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật; những
công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hố [36, tr.431].
Theo đó, văn hố theo nghĩa rộng là tồn bộ những sáng tạo vật chất
và tinh thần của con ngƣời, nhằm phục vụ con ngƣời. Văn hoá hiểu theo
nghĩa hẹp là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, là hệ các giá trị truyền
thống, tƣ tƣởng, đạo đức lối sống, năng lực sáng tạo, là bản sắc của một
dân tộc.


9
Hồ Chí Minh khẳng định văn hố là vốn q của dân tộc. Văn hoá là
một mặt trận, "Văn hoá, nghệ thuật cũng nhƣ mọi hoạt động khác, không thể
đứng ngồi, mà phải ở trong kinh tế và chính trị" [36, tr 368 - 369]. Dốt là thứ
giặc nguy hiểm. Văn hoá phải mở đƣờng cho quốc dân đi. Nền văn hoá mới
vừa kế thừa truyền thống văn hoá dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
loại. Nhân dân là chủ thể sáng tạo văn hoá và phải đƣợc hƣởng thụ, tiếp nhận,
lƣu giữ và truyền bá văn hố. Văn hố phải có nội dung xã hội chủ nghĩa về
và tính dân tộc. Phải xây dựng một nền văn hoá dân tộc, khoa học, đại chúng.
Văn hoá Việt Nam đƣợc hình thành và phát triển là thành quả hàng
nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cƣờng dựng nƣớc và giữ nƣớc
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lƣu và tiếp thu tinh hoa
văn hoá thế giới. Văn hoá Việt Nam là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử
của dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc ta vƣợt
qua sóng gió, thác ghềnh để không ngừng phát triển, viết nên những trang sử
hào hùng trong giữ nƣớc và dựng nƣớc.
Nguyễn Trãi viết: “ Nước Đại Việt ta từ trước; Vốn xưng nền văn hiến
đã lâu”. Văn hoá Việt Nam đã hun đúc lên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt
Nam, trở thành nguồn sức mạnh chiến thắng mọi kẻ thù, làm rạng rỡ lịch sử

dân tộc.
Tuy nhiên, thực dân Pháp xâm lƣợc xâm lƣợc nƣớc ta, chúng thi hành
chính sách văn hố “ngu dân”. Chúng xây nhà tù nhiều hơn trƣờng học, chúng
đàn áp, kiểm duyệt ngặt văn hoá cách mạng; tuyên truyền văn hoá thực dân.
Hậu quả là hơn 90% nhân dân ta mù chữ, , trình độ dân trí của nhân dân cịn
thấp. Chúng ta cịn chịu hậu quả của văn hố thực dân mới ở miền Nam,
nhiều cơng trình văn hố bị phá huỷ trong chiến tranh.
Từ lý luận và thực tiễn trên địi hỏi Đảng ta phát huy trí tuệ, xây dựng
đƣờng lối văn hoá phục vụ sự nghiệp cách mạng phát triển.


10
Nhƣ vậy với định nghĩa giá trị về văn hóa trên, chúng ta có thể sử dụng
để nghiên cứu lối sống, lối suy nghĩ, lối ứng xử của một dân tộc, một cồng
đồng ngƣời. ví dụ nhƣ nghiên cứu văn hóa Việt Nam là chúng ta nghiên cứu
lối sống của các dân tộc Việt Nam. Ngoài ra với định nghĩa trên cũng giúp
phân biệt đƣợc đâu là một giá trị văn hóa, đâu khơng phải là giá trị văn hóa.
- Đề cƣơng văn hoá năm 1943 của Đảng: “Văn hoá bao gồm cả tƣ
tƣởng, học thuật, nghệ thuật”.
- Hội nghị BCHTW5, Khoá VIII của Đảng (7-1998) đề cập văn hoá
gồm 8 lĩnh vực lớn là tƣ tƣởng, đạo đức và lối sống; giáo dục và đào tạo; khoa
học và đào tạo, văn học, nghệ thuật; thông tin đại chúng; giao lƣu văn hố với
nƣớc ngồi; thể chế văn hố. Trong 8 lĩnh vực đó thì tƣ tƣởng, đạo đức, lối
sống và các lĩnh vƣc của đời sống văn hoá đƣợc coi là những lĩnh vực quan
trọng nhất.
Tóm lại: văn hố là toàn bộ những giá trị sáng tạo về vật chất và tinh
thần do con ngƣời tạo ra và đƣợc sử dụng phục vụ cho con ngƣời.
- Mọi định nghĩa đều thống nhất văn hố có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, văn hoá là sáng tạo của con người, thuộc về con ngƣời,
những gì khơng do con ngƣời làm nên khơng thuộc về khái niệm văn hố. Từ

đó, văn hố là đặc trƣng căn bản phân biệt con ngƣời với động vật, đồng thời
cũng là tiêu chí căn bản phân biệt sản phẩm nhân tạo với sản phẩm tự nhiên.
Văn hố xuất hiện do sự thích nghi một cách chủ động và có ý thức của con
ngƣời với tự nhiên, nên văn hố cũng là kết quả của sự thích nghi ấy.
Thứ hai, sự thích nghi này là sự thích nghi có ý thức và chủ động nên
nó khơng phải là sự thích nghi máy móc mà thƣờng là sự thích nghi ó sáng
tạo, phù hợp với giá trị chân - thiện - mỹ.
Thứ ba, văn hoá bao gồm cả những sản phẩm vật chất và tinh thần, chứ
không chỉ riêng tinh thần mà thôi.


11
Thứ tư, văn hố khơng chỉ có nghĩa chỉ là văn học, nghệ thuật nhƣ
thơng thƣờng ta hay nói. Văn học nghệ thuật chỉ là bộ phận cao nhất trong
lĩnh vực văn hoá.
1.1.2. Quản lý xã hội đối với các hoạt động văn hóa
Đó là một nhiệm vụ thể hiện mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nƣớc,
MTTQ, các đoàn thể, các tổ chức dân sự, chính trị, pháp luật, kinh tế, thơng
tin - truyền thơng, gia đình, các cá nhân…thông qua việc ban hành, tổ chức
thực hiện, kiểm tra và giám sát việc thực hiện các chủ trƣơng, đƣờng lối của
Đảng, các văn bản quy phạm pháp luật, các hƣơng ƣớc quy ƣớc của cộng
đồng dân cƣ trong lĩnh vực văn hóa nhằm góp phần phát triển kinh tế, xã hội
của từng địa phƣơng nói riêng và cả nƣớc nói chung.
Hiện nay, chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nƣớc tạo điều kiện cho
những giao lƣu, sinh hoạt văn hóa ở trong nƣớc và cả nƣớc ngồi trở nên đa
dạng hơn. Ngƣời dân có những sinh hoạt và nhu cầu văn hóa đa dạng. Những
nhu cầu ngày càng tăng do đời sống kinh tế của mỗi gia đình Việt Nam ngày
càng đƣợc cải thiện, trình độ dân trí ngày càng đƣợc nâng cao. Bên cạnh đó,
cũng có một số yếu tố tiêu cực trong thực trạng sinh hoạt văn hóa của ngƣời
dân, nổi bật là tính thụ động trong việc tiếp nhận văn hóa, nhất là ở khu vực

nơng thơn, miền núi. Chính vì vậy việc đƣa ra các chủ trƣơng hay hoạch định
chính sách để huy động các cấp, ngành, các thành phần trong xã hội tham giá
quản lý các hoạt động văn hóa ở nƣớc ta là điều cần thiết.
1.1.3. Chủ thể và khách thể của quản lý xã hội đối với các hoạt
động văn hóa.
Đối với quản lý kinh tế, Lênin đã nhận xét: “Để quản lý phải có sự hiểu
biết hồn tồn và chính xác điều kiện của nền sản xuất, cần phải biết kỹ thuật
của nền sản xuất này ở trình độ hiện đại của nó ... Cũng khơng kém phần quan
trọng nhƣ vậy trong quá trình lãnh đạo và quản lý văn hố với những đặc thù
của nó, đặc biệt đối với nghệ thuật, chỉ trong trƣờng hợp khi mà quan điểm


12
chính trị hồ nhập với sự hiểu biết đặc thù của các hiện tƣợng văn hố tinh
thần lúc đó mới có thể khắc phục đƣợc sự xã hội học dung tục trong hoạt
động lãnh đạo, quản lý văn hoá ”.
Ngày nay, để đảm bảo cho sự phát triển đƣợc bền lâu, hầu nhƣ các Nhà nƣớc
khi hoạch định các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đều phải tính dến văn
hố- nhƣ một nhân tố nội tại, nhƣ một chỉ báo về chất lƣợng sống trong các
lĩnh vực. Cũng vậy, việc thế giới chỉ sử dụng chỉ số phát triển con ngƣời để
đánh giá phát triển là cả một cuộc cách mạng trong tƣ tƣởng. Bởi một thời
gian dài trong điều hành đất nƣớc do nhấn mạnh tính quyết định của kinh tế,
đồng nhất phát triển với tăng trƣởng kinh tế, quen đánh giá phát triển chỉ bằng
tiêu chí mang nặng tính sản xuất nhƣ tốc độ tăng trƣởng kinh tế.
Ở Việt Nam, để tiếp tục sự nghiệp đổi mới, Nghị quyết đại hội Đảng
IX đặt vấn đề: “Nâng cao tính văn hố trong mọi hoạt động kinh tế, chính
trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân”. Đòi hỏi này là phù hợp với luận
điểm Macxit về xây dựng nền văn hoá mới trong xã hội xã hội chủ nghĩa,
có vị trí đặc biệt quan trọng trong tiến bộ văn hoá. V.I.Lênin xem việc giải
quyết những nhiệm vụ xây dựng nền văn hoá mới là điều kiện cần thiết để

hình thành lối sống XHCN, phát triển sức sáng tạo lịch sử của ngƣời lao
động trong việc tạo ra nền kinh tế mới và những quan hệ xã hội mới, làm
cho mọi tầng lớp nhân dân tiếp xúc với sự quản lý mọi công việc xã hội.
Ngƣời cũng cho rằng: “Đảng khơng thể bó tay để cho q trình văn hố
phát triển đến đâu thì đến. Đảng phải có kế hoạch chỉ đạo q trình ấy và tổ
chức kỷ luật cho nó” .
Điều hành q trình văn hố có hiệu quả, sự tác động của Nhà nƣớcchủ thể QLNN trƣớc hết đòi hỏi phải phù hợp với đặc điểm nội tại của khách
thể văn hoá nhƣ là một căn cứ khoa học. Sự phát triển xã hội bao giờ cũng là
sự thống nhất giữa khách quan và chủ quan.


13
Làm chủ văn hố một cách chân chính là phải biết vận dụng hiểu biết
của mình vào hoạt động thực tiễn xã hội. Chính từ đặc điểm này của văn hố
cho thấy nếu Nhà nƣớc muốn có nhân tài, muốn có những đỉnh cao văn hố
tiêu biểu cho dân tộc thì phải vun trồng bằng chính sách văn hố. Chính sách
văn hoá là sự vun trồng, sự cởi mở, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển văn
hoá của Nhà nƣớc. Trong các hoạt động can thiệp mang tính vĩ mơ của Nhà
nƣớc đối với văn hố, thì chính sách văn hố đóng một vai trị cực kỳ quan
trọng. Chính sách văn hoá là tổng thể các nguyên tắc hoạt động, các cách làm
mang tính thực hành đƣợc Nhà nƣớc sử dụng để hỗ trợ cho các hoạt động văn
hoá.
Các thành tố cấu thành văn hoá cho thấy văn hoá thẩm thấu trong mọi
mặt của đời sống xã hội. Do đó, việc xây dựng nền văn hố của một đất nƣớc
rõ ràng không thể là nhiệm vụ chỉ của một Bộ, Ngành mang tên văn hố.
Cũng vậy, nói đầu tƣ cho văn hoá là đầu tƣ để xây dựng con ngƣời nhƣng
không thể quy lại đầu tƣ cho hoạt động của Bộ, Ngành mang tên văn hoá tức
là đầu tƣ cho xây dựng con ngƣời. Đặc điểm này của văn hố dịi hỏi cùng với
việc ban hành những chính sách dành riêng cho văn hố cần có sự lồng ghép
quan điểm văn hố trong các chính sách, nói chung cũng nhƣ trong các

chƣơng trình, dự án phát triển kinh tế- xã hội của Nhà nƣớc. Sự quán triệt
quan điểm văn hoá của Nhà nƣớc thể hiện trong việc giải quyết tốt vấn đề xây
dựng cơ sở hạ tầng của đời sống xã hội: Giáo dục, thơng tin, chăm sóc sức
khoẻ, phúc lợi công cộng, phát huy các giá trị truyên thống... Mặc dù, việc
thuyết phục các nhà quản lý kinh tế lồng ghép mục tiêu văn hoá trong các
hoạt động kinh tế là việc làm không dễ. Song khi thắng lợi trong cạnh tranh
ngày nay là phải bằng trí tuệ tài năng thì việc tạo dựng một khung cảnh văn
hố- xã hội thuận lợi cho phát triển của mỗi quốc gia thực sự là trách nhiệm to
lớn của các Nhà nƣớc trên thế giới hiện nay. Ở nƣớc ta, công cuộc đổi mới


14
dƣới sự lãnh đạo của Đảng đang đòi hỏi đƣa văn hoá vào mọi lĩnh vực để huy
động cao nhất nhân tố con ngƣời- tiềm năng của đất nƣớc và điều kiện của
thời đại- nhằm tạo chuyển biến vững chắc cho phát triển. Đạo đức, lối sống,
nghệ thuật, sinh thái, sự an toàn và phát triển đầy đủ năng lực... là những nhu
cầu không thể hiện bằng tiền nhƣng trong bối cảnh mở cửa ra thế giới, đòi hỏi
Nhà nƣớc ta phải tạo dựng và khuyến khích các nhu cầu này nhƣ một nền
tảng tinh thần cho phát triển bền vững của quốc gia.
Văn hoá gắn với cá nhân. Văn hố xã hội có phong phú, lấp lánh đƣợc
hay khơng là nhờ vào văn hoá cá nhân. Văn hoá cũng gắn với sắc cộng đồng
của mỗi địa phƣơng. Nó là câu trả lời, cách thức giải quyết các thách đố gắn
với điều kiện sống của từng địa phƣơng. Đặc điểm này quy định việc khơng
thể Nhà nƣớc hố văn hố, cũng nhƣ khơng thể tập trung hố văn hố. Nhà
nƣớc khơng thể đƣa ra các khn mẫu văn hố buộc ngƣời dân phải tuân
theo. Chẳng hạn quy định không đƣợc để tóc dài, mặc quần loe. Ai khơng
tn theo sẽ dùng biện pháp hành chính cƣỡng chế: rạch quần, cắt tóc nhƣ
thời bao cấp trƣớc đây. Cũng vâỵ, khơng thể cho một vùng văn hố nào đó
thành kiểu mẫu để các vùng văn hoá khác phải tuân theo. Để sự tác động của
Nhà nƣớc xuất phát từ lợi ích dân tộc, khơng chỉ thuần t phục vụ nhiệm vụ

chính trị, chính sách văn hố phải dựa trên mẫu số chung là sự tự quản, sự xã
hội hoá các hoạt động văn hố. Nói cách khác, Nhà nƣớc chỉ làm những gì
dân khơng làm đƣợc. Hơn nữa, ngày nay trong bối cảnh chịu tác động mạnh
mẽ của q trình tồn cầu, của những thành tựu về cơng nghệ thơng tin thì
những ảnh hƣởng trƣớc đây vốn từ bên trong, theo quan hệ chiều dọc từ trên
xuống là chính, vốn rất “thuận lợi” cho sự quản lý thì nay sẽ chịu những tác
động to lớn từ bên ngoài vào, theo các quan hệ chiều ngang, trực tiếp ảnh
hƣởng tới từng cá nhân. Bối cảnh này lại càng đòi hỏi phải chú trọng tới mẫu
số chung của chính sách văn hố. Nghĩa là chính sách văn hố cần tới sự tăng


15
cƣờng hợp tác với các cơ quan công quyền ở mọi cấp, đặc biệt là với các
chính quyền địa phƣơng, các hội đồng văn hoá, các tổ chức xã hội và tƣ nhân
để vạch kế hoạch hoạt động thực hiện các chƣơng trình, văn hố. Bằng cách
này để phát huy sáng kiến, khát vọng, nhu cầu văn hoá của các tầng lớp nhân
dân. Bởi sự thay đổi tâm lý, diện mạo tinh thần của con ngƣời trong xây dựng
văn hoá chỉ có thể đạt đƣợc trong q trình tham gia đầy tính chủ động của
nhân dân. Chính sách, luật pháp của Nhà nƣớc phải tạo điều kiện phát huy
tính tự quản thông qua việc phát triển các tổ chức xã hội và tƣ nhân, tổ chức
nghề nghiệp. Đồng thời để tăng cƣờng sự hợp tác với các cơ quan công quyền
ở mọi cấp, gắn với cải cách hành chính, việc thiết kế tổ chức bộ máy hành
chính Nhà nƣớc nói chung, cũng nhƣ bộmáy quản lý Nhà nƣớc về văn hố nói
riêng, cần chú ý phát triển quan hệ cơng việc theo cả chiều ngang, mà không
chỉ giảm bớt tầng nấc về chiều dọc. Thẩm quyền hành chính trong lĩnh vực
văn hoá đặc biệt cần đƣợc trao nhiều hơn cho chính quyền địa phƣơng. Vì
hơn ai hết, họ là những ngƣời am hiểu những vấn đề văn hoá của địa
phƣơng mình và sẽ sáng tạo những cách thức giải quyết nó phù hợp với
nhu cầu, điều kiện của địa phƣơng. Do đó, có thể nói quản lý văn hố trong
giai đoạn hiện nay cần chú trọng tăng cƣờng phân cấp và phát triển các

hình thức tự quản văn hố. Chính quyền địa phƣơng cần đƣợc trao trách
nhiệm phát triển sự nghiệp văn hố, bảo vệ tính đa dạng và tính thống nhất
của văn hoá Việt Nam.
Tuy nhiên sự can thiệp, tác động vào văn hoá căn cứ vào các đặc điểm
nội tại của bản thân văn hố chƣa đủ. Vì văn hoá mà chúng ta xây dựng trong
vận hành lại chịu tác động của cơ chế thị trƣờng. Do đó, trong mối quan hệ
văn hoá và kinh tế, nếu chỉ xem xét ảnh hƣởng của văn hoá tới phát triển, tới
kinh tế chƣa đủ mà còn phải cân nhắc ảnh hƣởng trở lại của thị trƣờng tới văn
hoá nhƣ là một căn cứ khoa học cho sự định hƣớng can thiệp của Nhà nƣớc.


16
Hoạt động văn hoá vốn rất đa dạng mà sự tác động của cơ chế thị
trƣờng tới các hoạt động này cũng khơng nhƣ nhau. Có hoạt động khơng thích
ứng thị trƣờng nhƣ Thƣ viện, bảo tàng, nghiên cứu khoa học cơ bản... nhƣng
có một số hoạt động lại thích ứng thị trƣờng một phần nhƣ hoạt động của các
câu lạc bộ, nhà văn hố, nhà hát, lại có những hoạt động hồn tồn sống đƣợc
và có thu nhập cao nhờ thị trƣờng nhƣ biểu diễn nhạc nhẹ, sản xuất kinh
doanh băng hình, vũ trƣờng, karaoke... Do đó việc phân loại các nhóm văn
hố để chọn lựa cách thức, biện pháp để Nhà nƣớc can thiệp là rất cần thiết.
Sự phân loại dựa trên một số tiêu chí sau:
- Mức độ ảnh hƣởng của loại hoạt động văn hoá này tới lợi ích và tiến
bộ xã hội nhƣ thế nào?
- Cần thiết phát triển, mở rộng loại hình văn hố này tới đâu trong
tƣơng quan với các hoạt động khác, xét trong cơ cấu văn hố.
- Mức độ thích ứng của nó với thị trƣờng tới đâu.
- Các tiêu chí này phản ánh tính đặc thù và tính phổ biến của hàng hố
văn hố. Tính đặc thù của hàng hố văn hố là lý do giải thích sự cần thiết
phải tài trợ cho văn hố dù dƣơí danh nghĩa Nhà nƣớc hay các tổ chức kinh tế,
xã hội. Buông lỏng quản lý văn hố, để văn hố trơi nổi theo quy luật của

kinh tế thị trƣờng là tiêu diệt mục tiêu của văn hố. Muốn quản lý văn hố có
hiệu quả, khơng thể chỉ định tính sự tác động của thị trƣờng tới văn hố mà
cịn nhất thiết phải định lƣợng tác động nhƣ một trong những căn cứ để xác
lập chính sách văn hố.
Xét các hoạt động văn hố trong quá trình sản xuất, bảo quản, phân
phối và tiêu dùng văn hoá cũng thấy sự can thiệp của thị trƣờng cũng không
nhƣ nhau trong các công đoạn. Trong điều kiện tiến bộ kỹ thuật càng cao thì
nguy cơ bị tƣớc đoạt bản quyền sáng tạo cũng rất lớn bởi thị trƣờng can thiệp
rất mạnh vào công doạn phân phối. Do đó đối vỡi những hoạt động văn hố


17
gắn với sở hữu, với anh ninh quốc gia và an toàn xã hội... lại rất cần tới sự
bảo hộ bằng pháp luật của Nhà nƣớc.
Để thể hiện lợi ích của các tầng lớp xã hội, giữ gìn tính đa dạng và bản
sắc văn hố dân tộc chơng lại sự xâm nhập mạnh mẽ của những tác động từ
bên ngoài, của lối sống quốc tế, chính sách về đầu tƣ cho văn hoá trong nền
kinh tế hàng hoá, cần huy động sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế.
Việc Nhà nƣớc đầu tƣ bằng ngân sách cho mới chỉ là cách nhìn của Nhà nƣớc
về văn hố, mà dù muốn hay khơng nó vẫn thiên về lợi ích chính trị của Nhà
nƣớc. Để giữ cho ngơi nhà văn hố với tính nhiều chiều cạnh của nó, chính
sách của Nhà nƣớc cần hƣớng vào sự khuyến khích các tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội và tƣ nhân đầu tƣ cho văn hoá nhằm thúc đẩy văn hoá năng động
hơn đáp ứng nhu cầu da dạng của mỗi công chúng đang phân tầng sâu sắc,
trong tiến trình kinh tế- xã hội theo tinh thần Nghị quyết đại hội IX là: “Đẩy
mạnh xã hội hố khuyến khích doanh nghiệp đầu tƣ, bảo trợ cho văn hoá”.
Nhà nƣớc cần sử dụng các biện pháp giảm thuế, miễn thuế cho các tổ chức
này khi họ có đầu tƣ cho văn hố. Tạo khn khổ pháp lý để phát triển nhiều
hơn nữa quỹ đầu tƣ cho văn hoá với các thể chế Nhà nƣớc hoặc nửa Nhà nƣớc
hoặc hoàn toàn phi Nhà nƣớc.

Các cách nhìn nêu trên, tuyệt nhiên khơng đối lập văn hố tinh thần với
sản xuất vật chất. Ngƣợc lại, chính trong sự phát triển kỹ thuật- công nghệ và
quan hệ kinh tế chúng ta nhận thấy điều kiện cần thiết cho sự tiến bộ của đời
sống tinh thần của xã hội. Ngày nay các đơn vị sản xuất kinh doanh phục vụ
các nhu cầu văn hoá muốn tồn tại và phát triển đều phải tuân theo quy luật
của thị trƣờng. Phần lớn các sản phẩm văn hoá và dịch vụ văn hố đều lấy
hình thức hàng hố thơng qua thị trƣờng, theo nguyên tắc trao đổi ngang
giá mà phục vụ ngƣời tiêu dùng văn hố. Trừ một số ít các đơn vị sự
nghiệp văn hố mang tính cơng ích xã hội của Nhà nƣớc, (phát thanh,


18
truyền hình, thƣ viện, bảo tàng...) cịn các đơn vị sản xuất kinh doanh văn
hoá khác khi xác định phƣơng hƣớng đầu tƣ, bố trí sản xuất sản phẩm đều
phải căn cứ vào nhu cầu của thị trƣờng, phải chọn các hạng mục và sản
phẩm có hiệu quả kinh tế tƣơng đối cao và hiệu qủa xã hội để ƣu tiên. Ở
đây có thể thấy, quy luật giá trị đã có tác dụng trong phát triển văn hố và
chi phối hoạt động của các đơn vị sản xuất- kinh doanh văn hố. Vơ hình
chung, quy luật cạnh tranh trong lĩnh vực văn hố cũng phát huy tác dụng.
Có thể thấy ảnh hƣởng của kinh tế hàng hố có kế hoạch đối với phát triển
văn hố ở các khía cạnh:
- Tính chất hàng hoá của các sản phẩm văn hoá.
- Cơ chế thị trƣờng và kế hoạch trong phát triển văn hoá
- Hiệu quả kinh tế và xã hội trong phát triển văn hoá.
Trong xu thế phát triển của thời đại, cần vận dụng phát huy mặt tích
cực nền kinh tế hàng hoá đối với phát triển văn hoá, đồng thời ngăn chặn
những tác động tiêu cực của nó, theo nguyên tắc:
Phát huy tác dụng tích cực của quy luật giá trị trong phát triển văn hố
nhƣng khơng thể lấy hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn để đánh giá sự phát triển
của văn hoá mà phải đặt nguyên tắc hiệu quả xã hội đứng hàng đầu.

Phát huy tác dụng thúc đẩy của cơ chế thị trƣờng và điều tiết thị trƣờng đối
với phát triển văn hố nhƣng khơng thể hồn toàn dựa vào điều tiết tự phát
của thị trƣờng mà phải xác lập nguyên tắc điều tiết tự phát của thị trƣờng dƣới
sự chỉ đạo của kế hoạch.
Thực tiễn đang địi hỏi chúng ta phải khắc phục tình trạng vừa thiên
kiến với thị trƣờng văn hố, vừa bng lỏng quản lý văn hoá. Mặt khác,
chúng ta cũng phải chống khuynh hƣớng “thƣơng mại hoá” văn hoá và cả
khuynh hƣớng “hành chính hố” các đơn vị sự nghiệp văn hố. Vì chúng ta
mới ra khỏi cơ chế bao cấp chƣa lâu. Thể chế để quản lý các tổ chức sự


×