Tải bản đầy đủ (.pdf) (150 trang)

Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 150 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




DƯƠNG NGỌC KIÊN




QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY




LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Khoa học quản lý







Hà Nội, tháng 10/ 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






DƯƠNG NGỌC KIÊN



QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY



Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Khoa học quản lý
Đào tạo thí điểm


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thanh Xuân




Hà Nội, tháng 10/ 2014

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn: “Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay” là công trình nghiên cứu của
riêng cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS.Nguyễn Thanh Xuân.
Các tài liệu, số liệu sử dụng trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính
khách quan khoa học và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.


Hà Nội, ngày 25 tháng 10 năm 2014
Tác giả



Dương Ngọc Kiên
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 2
3. Mục tiêu nghiên cứu 5
4. Phạm vi nghiên cứu 6
5. Địa bàn nghiên cứu 6
6. Câu hỏi nghiên cứu 6
7. Giả thuyết nghiên cứu 6
8. Phương pháp nghiên cứu 7
9. Kết cấu của Luận văn 8
PHẦN NỘI DUNG 9
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO VÀ KHÁI QUÁT VỀ CÁC TÔN GIÁO
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 9
1.1. Cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về tôn giáo 9
1.1.1. Những khái niệm 9
1.1.2. Cơ sở pháp luật, mục đích, nội dung, phương pháp quản lý nhà
nước đối với các hoạt động tôn giáo 177
1.2. Khái lược về các tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội 244
1.2.1. Khái quát tình hình tôn giáo Thành phố Hà Nội 244
1.2.2. Đường hướng hoạt động của các tôn giáo 277

* Tiểu kết chương 1 344
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HÀ NỘI 355
2.1. Thực trạng hoạt động của các tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội
355
2.1.1. Cơ cấu tổ chức của các tôn giáo trên địa bàn Thành phố 355
2.1.2. Thực trạng tín đồ các tôn giáo trên địa bàn Thành phố 399
2.1.3. Tình hình hoạt động của hàng ngũ chức sắc, chức việc tôn giáo 455
2.1.4. Thực trạng cơ sở thờ tự của các tôn giáo 566
2.2. Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn
thành phố Hà Nội 599
2.2.1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng về tôn giáo 599
2.2.2. Công tác phối hợp vận động quần chúng tôn giáo của hệ thống
dân vận, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị cơ sở 699
2.2.3. Công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo 777
2.2.4. Công tác đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo 91
2.2.5. Thành tựu, hạn chế trong công tác quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo trên địa bàn Hà Nội và nguyên nhân 933
* Tiểu kết chương 2 988
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP VỀ QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HÀ NỘI 999
3.1. Quan điểm về công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn
giáo trên địa bàn Hà Nội trong thời gian tới 999
3.1.1. Dự báo tình hình tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội trong
thời gian tới 999
3.1.2. Quan điểm về công tác tôn giáo 101
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước
đối với các hoạt động tôn giáo trên địa bàn Hà Nội trong thời gian tới1055

3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tôn giáo nhằm đáp ứng nhu
cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của chức sắc, tín đồ 1055
3.2.2. Nâng cao nhận thức của các ngành, các cấp và đội ngũ cán bộ
làm công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo 11111
3.2.3. Nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng tại các vùng
đồng bào có đạo trọng điểm 1177
3.2.4. Kiện toàn bộ máy làm công tác tôn giáo các cấp từ cấp Thành
phố đến cấp xã 1233
3.2.5. Phát triển kinh tế, nâng cao trình độ dân trí trong đồng bào có đạo1288
* Tiểu kết chương 3 13131
KẾT LUẬN 13232
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1366

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu, tôi đã nhận được rất nhiều sự
động viên và giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cá nhân và tổ chức. Tôi vô cùng biết ơn
tất cả!
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới
PGS.TS. Nguyễn
Thanh Xuân,
người hướng dẫn khoa học tận tình và chu đáo trong suốt quá trình
nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Trường Đại học KHXH&NV, Phòng Sau Đại học
đã giúp đỡ cho tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu để hoàn thành chương
trình Thạc sỹ này.
Xin gửi lời cảm ơn trân trọng đến các thầy, cô trong Khoa Khoa học
quản lý, Trường Đại học KHXH&NV đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong
quá trình học tập.


Hà Nội, ngày 25 tháng 10 năm 2014
Tác giả




Dương Ngọc Kiên

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


UBND : Ủy ban nhân dân
CSVN : Cộng sản Việt Nam
BHG : Ban hành giáo
HĐMV : Hội đồng mục vụ
HĐGX : Hội đồng giáo xứ
NXB : Nhà xuất bản
QLNN : Quản lý nhà nước

1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hà Nội với vị trí là Thủ đô, đồng thời là trung tâm chính trị - hành chính
quốc gia, trung tâm về văn hóa, khoa học giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế.
Hà Nội là nơi có trụ sở của các cơ quan Trung ương của Đảng và Nhà nước, các
tổ chức chính trị, xã hội, các cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế và là
nơi diễn ra các hoạt động đối nội, đối ngoại quan trọng của đất nước. Đồng thời,
là nơi có trụ sở của Trung ương Giáo hội một số tôn giáo như: Phật giáo, Công
giáo, Hội Thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc). Do vậy, những diễn biến và
hoạt động tôn giáo trong cả nước đều tác động trực tiếp đến tôn giáo ở Hà Nội,

từ đó, ảnh hưởng đến tình hình chính trị - xã hội Thủ đô. Mặt khác, những động
thái tôn giáo ở Hà Nội có quan hệ trực tiếp đến động thái tôn giáo cả nước.
Sau hơn 4 năm thực hiện Nghị quyết 15 của Quốc hội, thành phố Hà Nội
được mở rộng về diện tích bao gồm: thành phố Hà Nội (cũ), toàn bộ diện tích
của tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh tỉnh Vĩnh Phúc và 04 xã thuộc huyện Lương
Sơn, tỉnh Hòa Bình. Thành phố Hà Nội được mở rộng có diện tích 3.324,92 km²
(nằm trong 17 thủ đô lớn nhất thế giới), dân số 6.232.940 người, tại 29 quận,
huyện, thị xã; 580 xã, phường, thị trấn (gồm: 154 phường, 404 xã và 22 thị trấn).
Theo đó, các tổ chức tôn giáo và số lượng chức sắc, tín đồ, cơ sở thờ tự của các
tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội cũng tăng lên cả về số lượng cũng như
mức độ phức tạp trong công tác quản lý.
Hiện nay, Hà Nội có 7 tổ chức tôn giáo được nhà nước công nhận tư
cách pháp nhân là: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài, Hồi giáo, Baha’i,
Minh sư đạo; đồng thời, còn tồn tại một số hiện tượng tôn giáo khác (đạo lạ)
như: Long hoa Di lặc, Ngọc Phật Hồ Chí Minh, Bạch Chân Không, Thanh Hải
Vô thượng sư, Pháp luân công, Pháp môn Diệu âm… Các Tín ngưỡng dân gian

2
có: 5211 di tích đình, đền, nhà thờ họ, lăng, miếu, …. Trong đó, di tích được xếp
hạng: cấp Quốc gia khoảng 1.200 di tích; cấp Thành phố khoảng 900 di tích.
Trong những năm gần đây, công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt
động tôn giáo đã đáp ứng về cơ bản nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của
chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo trên địa bàn thành phố.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, hoạt động của một số tổ chức tôn giáo, chức sắc
tôn giáo có nhiều diễn biến phức tạp, không tuân thủ các quy định của pháp luật.
Mặt khác, công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo vẫn còn
có một số hạn chế. Nhận thức của một bộ phận cán bộ, Đảng viên về chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo còn có sự bất cập, thiếu
nhất quán tạo mâu thuẫn trong công tác quản lý, gây bức xúc trong nhân dân
và đồng bào có đạo.

Vì vậy, công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo cần
nhanh chóng được tổng kết, đánh giá chính xác thực trạng, rút ra những bài
học kinh nghiệm; từ đó, đề ra các chủ trương, giải pháp quản lý phù hợp, định
hướng hoạt động của các tôn giáo trên địa bàn Thành phố Hà Nội theo hướng
tuân thủ pháp luật, gắn bó, đồng hành cùng đất nước và dân tộc, góp phần ổn
định tình hình chính trị - tôn giáo tại Thủ đô. Đây là một đòi hỏi cấp bách cả
về lý luận và thực tiễn. Vì thế, tôi chọn đề tài: “Quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo trên địa bàn Thành phố Hà Nội hiện nay” làm luận văn
tốt nghiệp của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Từ trước đến nay, hoạt động của các tôn giáo và công tác quản lý hành
chính nhà nước đối với hoạt động trên tại địa bàn thành phố Hà Nội đã được
tiếp cận ở một số góc độ khác nhau trong một số xuất bản phẩm như:
- Lý luận về tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, PGS.TS
Nguyễn Đức Lữ (chủ biên), Nxb Tôn giáo (2007). Công trình đề cập đến chủ

3
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, tín ngưỡng; tôn giáo
trên thế giới, các tôn giáo lớn ở Việt Nam, chính sách và việc thực hiện chính
sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng
dân gian ở Việt Nam, PGS.TS Nguyễn Đức Lữ (chủ biên), Nxb Tôn giáo
(2005). Công trình đề cập đến những bài viết về vai trò tín ngưỡng dân gian
trong đời sống tinh thần người dân Việt Nam; một số lễ hội điển hình trong
tín ngưỡng dân gian Việt nam; thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ anh hùng dân
tộc ở nước ta
- Những thay đổi của đời sống tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới, Viện nghiên cứu tôn giáo và tín ngưỡng, Kỷ yếu hội thảo
khoa học (2006). Công trình đề cập gồm những bài viết của nhiều tác giả
nghiên cứu về sự phát triển quan điểm về tôn giáo trong quá trình đổi mới đất
nước; đời sống tín ngưỡng Việt Nam trước tác động của sự biến đổi xã hội thế

giới và trong nước; đổi mới quản lý nhà nước đối với tôn giáo trong thời kỳ
đổi mới
- Mai Thanh Hải (1998), Các tôn giáo trên thế giới và Việt Nam,
Nxb.CAND và TS.Nguyễn Thanh Xuân (2005), Một số tôn giáo ở Việt Nam,
Nxb.Tôn giáo, tuy là hai cuốn sách của hai tác giả khác nhau, nhưng về cơ bản
đã cung cấp cho người đọc những kiến thức cơ bản về lịch sử, giáo lý, cơ cấu
tổ chức của các tôn giáo trên thế giới và Việt Nam.
- GS.Đặng Nghiêm Vạn (2012), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn
giáo ở Việt Nam, Nxb.Chính trị, là cuốn sách cung cấp những kiến thức căn
bản và quan trọng về lý luận tôn giáo học mác-xít đồng thời người đọc có thể
nhìn nhận được khái quát thực trạng một số tôn giáo ở Việt Nam.
- GS.TS Đỗ Quang Hưng (2003) với hai cuốn sách: Nhà nước và giáo
hội và Bước đầu tìm hiểu mối quan hệ nhà nước và giáo hội, Nxb.Tôn giáo,

4
tác giả đã lý giải sâu sắc về vai trò, chức năng và mối quan hệ của nhà nước
thế tục đương đại đối với tổ chức giáo hội các tôn giáo và Vấn đề tôn giáo
trong cách mạng Việt Nam- lý luận và thực tiễn,Nxb Lý luận chính trị;
Lê Hữu Nghĩa và Nguyễn Đức Lữ (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn
giáo và công tác tôn giáo, Nxb Tôn giáo; PGS. TS Ngô Hữu Thảo- chủ
nhiệm đề tài(1998), Mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo trong thời kỳ
mở rộng giao lưu quốc tế và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, đề tài khoa học cấp bộ; PGS. TS
Hoàng Minh Đô- Chủ nhiệm đề tài (2002), Đạo Tin lành ở Việt Nam-
Thực trạng, xu hướng phát triển và những vấn đề đặt ra hiện nay trong
công tác lãnh đạo, quản lý, thuộc đề tài độc lập cấp nhà nước,…
- PGS.TS Hoàng Minh Đô (2007), Dòng tu Công giáo ở nước ta hiện
nay và những vấn đề đặt ra cho công tác quản lý nhà nước. Đề tài cấp Bộ,
Viện Nghiên cứu tôn giáo và tín ngưỡng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh. Đề tài đã trình bày rõ thực trạng, phân tích những vấn đề đặt ra và đề

xuất giải pháp giải quyết vấn đề dòng tu ở Việt Nam.
Về vấn đề liên quan trực tiếp đến công tác quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo có các đề tài sau:
Ban Tôn giáo Chính phủ (2005), Tập bài giảng tôn giáo và công tác
quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam; Nxb Tôn giáo;
- Bùi Đức Luận (chủ biên), Tôn giáo và công tác quản lý nhà nước đối
với các hoạt động tôn giáo, Nxb Tôn giáo, 2005;
Một số tôn giáo ở Việt Nam (Nhà xuất bản Tôn giáo – Ban Tôn giáo
Chính phủ), đây là tác phẩm có nội dung khái quát đầy đủ nhất về các tôn giáo
ở Việt Nam, giới thiệu về hầu hết các tôn giáo lớn tại Việt Nam, từ quá trình
hình thành, quá trình du nhập vào Việt Nam, đặc điểm, ảnh hưởng…

5
Bước đầu tìm hiểu về mối quan hệ giữa Nhà nước và Giáo hội (Ban Tôn
giáo Chính phủ), Lý luận về tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam (Phó
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đức Lữ), phân tích khá kỹ lưỡng về chính sách tôn
giáo ở Việt Nam trong lịch sử cận, hiện đại.
Ngoài những tác phẩm giới thiệu về các tôn giáo chung, các tác phẩm
bàn về chính sách tôn giáo qua các thời kỳ, còn có một số tác phẩm bàn về các
tôn giáo trong quá trình truyền đạo, phát triển trên địa bàn thành phố Hà Nội
như Lịch sử truyền giáo (Mục sư Hoàng Lê Phu), Tin lành và Công giáo (Mục
sư Bùi Hoành Thử), Kitô giáo ở Hà Nội (Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hồng
Dương), Giáo hội Phật giáo Việt Nam từ Đại hội đến Đại hội (1981-2012)
(Văn phòng Hội đồng Trị sự - Giáo hội Phật giáo Việt Nam),
Về các đề tài khoa học, tiêu biểu có các công trình như Đổi mới nội
dung, phương pháp công tác vận động quần chúng tôn giáo, xây dụng cơ sở
chính trị Công giáo Hà Nội góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới
thủ đô của Ban Dân vận Thành ủy Hà Nội (1998); Đề tài khoa học: Hoạt động
của đạo Tin lành ở Hà Nội: Thực trạng và giải pháp của Ban Tôn giáo Thành
phố Hà Nội (2003), Đồng thời, còn một số công trình nghiên cứu (trong đó

có một phần đề cập đến hoạt động của các tôn giáo và công tác quản lý nhà
nước đối với các hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội) hiện lưu
trữ tại Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Trung tâm Khoa học về Tín ngưỡng và Tôn
giáo – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm Thông tin – Ban
Tôn giáo Chính phủ Đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ, toàn
diện về hoạt động của các tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội trên phương
diện quản lý nhà nước. Tuy nhiên, các công trình trên sẽ được sử dụng như tài
liệu tham khảo trực tiếp, kế thừa bổ ích cho quá trình thực hiện Luận văn.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của các
tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội thời gian qua. Từ đó, đề xuất giải pháp

6
nhằm góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với các hoạt
động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội thời gian tới.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu trên phương diện quản lý nhà nước của
chính quyền và hệ thống chính trị của thành phố Hà Nội đối với hoạt động của
các tôn giáo: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao Đài, Baha’i, Hồi giáo, Minh sư
đạo trên địa bàn thành phố Hà Nội trong giai đoạn từ năm 2004 đến nay.
5. Địa bàn nghiên cứu
Luận văn tập trung vào một số địa bàn trọng điểm về hoạt động của các
tôn giáo và công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo như
quận Hoàn Kiếm, quận Đống Đa, thị xã Sơn Tây, huyện Sóc Sơn, huyện Từ Liêm.
6. Câu hỏi nghiên cứu
- Nhận diện khái quát hoạt động của một số tôn giáo trên địa bàn thành
phố Hà Nội. Thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn
giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm gần đây như thế nào?
Những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân.
- Làm thế nào để nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước

đối với các hoạt động tôn giáo ở Hà Nội trong tình hình mới.
7. Giả thuyết nghiên cứu
Sau khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn và ban hành Pháp lệnh
tín ngưỡng, tôn giáo ngày 18/6/2004, Chính phủ ban hành Nghị định số
22/2005/NĐ-CP ngày 01/3/2005 hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp
lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và sau đó là Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày
08/11/2012 quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn
giáo, công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo tại Thủ đô đã
có những biến chuyển rõ rệt, nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo đúng
pháp luật của chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo trên địa bàn thành phố

7
đã được đáp ứng về cơ bản. Hầu hết các hoạt động tôn giáo diễn ra theo
hướng chấp hành các quy định của Pháp luật.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý nhà
nước đối với các hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội vẫn còn có
những bất cập, hạn chế như: trình độ, năng lực của cán bộ làm công tác quản
lý còn hạn chế, sự thay đổi về tổ chức, đội ngũ làm công tác quản lý; sự phối
hợp, thống nhất trong tham mưu, chỉ đạo, thực hiện công tác quản lý của các
cấp, các ngành chưa thống nhất, đồng bộ, kịp thời Bên cạnh đó, bản thân
nội tại các tổ chức tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội cũng còn có diễn
biến phức tạp như quan điểm sai lệch, vọng ngoại, sự lấn lướt chính quyền,
trong hoạt động của một bộ phận chức sắc, tín đồ các tôn giáo. Những vấn đề
trên đã làm hạn chế rất nhiều những thành tựu trong công tác quản lý nhà
nước đối với các hoạt động tôn giáo trên địa bàn Thủ đô.
Do đó, việc nghiên cứu toàn diện hoạt động của các tôn giáo và công
tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động này trên địa bàn thành phố, đánh
giá kết quả đã thực hiện được, những hạn chế, thành công, nguyên nhân để từ
đó đề ra phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác
quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo trên địa bàn Thành phố Hà

Nội là việc cần thiết về lý luận và có tính ứng dụng thực tiễn cao.
8. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được tiến hành trên cơ sở vận dụng lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước về
tôn giáo và quản lý hành chính nhà nước về tôn giáo.
- Luận văn sử dụng phương pháp phỏng vấn thường đối với một số cán
bộ làm công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo tại các địa
bàn trọng điểm về tôn giáo như: quận Hoàn Kiếm, quận Đống Đa, thị xã Sơn

8
Tây, huyện Sóc Sơn, huyện Từ Liêm. Đồng thời, luận văn còn sử dụng
phương pháp quan sát, thống kê, tổng hợp, phân tích tài liệu, tổng kết thực tiễn.
9. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm có 3 chương, 6 tiết.

9
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO VÀ
KHÁI QUÁT VỀ CÁC TÔN GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

1.1. Cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về tôn giáo
1.1.1. Những khái niệm
* Quản lý: Quản lý là một hoạt động thực tiễn đặc biệt của con người,
trong đó chủ thể quản lý tác động lên đối tượng quản lý bằng những phương
pháp và công cụ khác nhau nhằm đạt được mục tiêu quản lý một cách hiệu
quả nhất trong điều kiện biến động của môi trường.
Từ định nghĩa này, có thể thấy rằng:
- Quản lý là biểu hiện mối quan hệ giữa con người với con người, đó là

quan hệ giữa chủ thể quản lý với đối tượng quản lý.
- Quản lý là tác động có ý thức,
- Quản lý là tác động bằng quyền lực,
- Quản lý là tác động theo quy trình,
- Quản lý là phối hợp các nguồn lực,
- Quản lý nhằm thực hiện mục tiêu chung,
- Quản lý tồn tại trong một môi trường luôn biến đổi.
Như vậy, quản lý là một hệ thống bao gồm những nhân tố cơ bản: chủ
thể quản lý, đối tượng quản lý, mục tiêu quản lý, công cụ, phương tiện quản
lý, cách thức quản lý (có ý thức, bằng quyền lực, theo quy trình) và môi
trường quản lý. Những nhân tố đó có quan hệ và tác động lẫn nhau để hình
thành nên quy luật và tính quy luật quản lý.
- Các đặc trưng của quản lý: Bởi vì quản lý vừa là khoa học, vừa là
nghệ thuật, lại là loại hình lao động đặc biệt nên quản lý có những đặc trưng
nổi bật để phân biệt với các khoa học và nghệ thuật khác như:

10
- Quản lý là hoạt động mang tính tất yếu và phổ biến; Hoạt động quản lý
biểu hiện mối quan hệ giữa con người với con người; Quản lý là tác động có ý
thức; Quản lý là tác động bằng quyền lực; Quản lý là tác động theo quy trình;
Quản lý là hoạt động để phối hợp các nguồn lực; Quản lý nhằm hướng tới
thực hiện mục tiêu chung; Quản lý là hoạt động vừa mang tính khoa học, vừa
mang tính nghệ thuật; Mối quan hệ giữa quản lý và tự quản.
- Vai trò của quản lý
Quản lý là một hoạt động hay là một hình thức lao động đặc biệt. Nó
lấy các hoạt động cụ thể làm đối tượng để tác động vào nhằm định hướng,
thiết kế, duy trì, phát triển, điều chỉnh và phối hợp các hoạt động đó thành
một hợp lực để hướng tới hoàn thành mục tiêu của tổ chức. Chính vì vậy, xét
về mặt tổng thể hay xét như một quy trình, quản lý có những vai trò sau: định
hướng, thiết kế, duy trì và thúc đẩy, điều chỉnh, phối hợp.

* Nhà nước: Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị,
một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng
quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội với mục đích bảo về địa vị của giai
cấp thống trị trong xã hội.
- Đặc điểm của nhà nước: Các nhà nước trong lịch sử có sự khác nhau
về bản chất, nhưng đều có đặc điểm chung. Những đặc điểm của nhà nước
cho phép phân biệt nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội do giai cấp
thống trị tổ chức ra.
Nhà nước là một tổ chức quyền lực chính trị công cộng đặc biệt, thiết
lập một quyền lực công cộng đặc biệt tách ra khỏi xã hội (không hòa nhập vào
dân cư như xã hội nguyên thủy), đó là quyền lực nhà nước. Để thực hiện
quyền lực này và quản lý xã hội, nhà nước tạo ra lớp người chuyên làm nhiệm
vụ quản lý, họ được tổ chức thành các cơ quan và hình thành nên bộ máy

11
cưỡng chế để duy trì địa vị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, buộc các giai
cấp và tầng lớp dân cư trong xã hội phải phục tùng ý chí giai cấp thống trị.
Nhà nước quản lý dân cư theo lãnh thổ, phân chia lãnh thổ thành các
đơn vị hành chính. Việc phân chia này không phụ thuộc huyết thống, chính
kiến, nghề nghiệp, giới tính Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa nhà nước với
các tổ chức chính trị xã hội khác. Trong thiết chế chính trị xã hội thì chỉ nhà
nước mới xác lập lãnh thổ của mình và chia lãnh thổ đó thành các bộ phận
cấu thành nhỏ hơn: thành phố, tỉnh, huyện, xã
Nhà nước có chủ quyền quốc gia thể hiện ở quyền tự quyết của Nhà
nước về tất cả các vấn đề của chính sách đối nội và chính sách đối ngoai,
không phụ thuộc quyền lực bên ngoài. Trong thiết chế chính trị - xã hội, nhà
nước là tổ chức duy nhất có chủ quyền quốc gia. Đây là thuộc tính không thể
tách rời của nhà nước.
Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện quản lý bắt buộc với mọi
công dân. Nhà nước là tổ chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật, nhà

nước và pháp luật là hai hiện tượng gắn bó hữu cơ với nhau không thể tách
rời. Nhà nước có bộ máy cưỡng chế để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện
và thực hiện sự quản lý bắt buộc với mọi thành viên trong xã hội.
Nhà nước quy định các loại thuế và thực hiện thu thuế dưới hình thức
bắt buộc. Việc thu thuế nhằm tạo ra nguồn tài chính đảm bảo bộ máy nhà
nước hoạt động, đáp ứng nhu cầu xã hội, đảm bảo việc thực hiện vai trò xã
hội của nhà nước.
* Tôn giáo: Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, đồng thời cũng là
một hiện tượng xã hội được hình thành trong những điều kiện tồn tại vật chất
của xã hội ở những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định. Tôn giáo ra đời cách
đây khoảng 95000 - 35000 năm vào thời đại đá cũ với người Néanderthal,

12
hình thành con người hiện đại, khi con người biết tổ chức thành xã hội thị tộc-
bộ lạc; hay có thể nói khi con người xã hội đã hình thành.
Vậy tôn giáo là gì? Có rất nhiều nhà khoa học, nhà tư tưởng tập trung
tâm huyết để nghiên cứu và cố gắng định nghĩa nó. Các nhà triết học duy tâm,
các nhà thần học thừa nhận sự tồn tại của thực thể siêu nhiên, họ cho rằng tôn
giáo là cái có sẵn, đó là một đấng siêu nhiên, thần thánh nào đó điều khiển xã
hội, từ đó nảy sinh niềm tin tôn giáo.
E. Tylor đã viết: “Có lẽ nên đặt niềm tin vào những thực thể tinh thần
(hay siêu nhiên) như một định nghĩa tối thiểu về tôn giáo” [73,2]. Quan điểm
trên của Tylor có thể nói là phát ngôn của các nhà duy tâm khẳng định sự tồn
tại không phụ thuộc vào con người của đáng thần thánh, siêu nhiên và tôn
giáo chính là biểu hiện niềm tin của con người đối với đấng siêu nhiên đó.
Đối lập với các nhà duy tâm, các nhà duy vật biện chứng mà tiêu biểu
là Mác- Ăngghen cho rằng tôn giáo không thể do bất cứ một đấng siêu nhiên
nào tạo nên. Tôn giáo là sản phẩm của lịch sử, của con người, do con người
sáng tạo ra rồi lại bị nó chi phối, “con người sáng tạo ra tôn giáo chứ không
phải tôn giáo sáng tạo ra con người”[73,1]. Phát triển quan điểm của Mác,

Ăngghen đã chỉ rõ tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh thần thánh hóa
những lực lượng trần thế áp bức con người trong sinh hoạt hàng ngày. Trong
tác phẩm “Chống Đuy-rinh”, Ăngghen viết: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua
là sự phản ánh hư ảo vào đầu óc con người những lực lượng ở bên ngoài chi
phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ là sự phản ánh trong đó những lực
lượng trần thế đã mang hình thức siêu trần thế”[73,2].
Sau Mác - Ăngghen, nhiều nhà khoa học khác cũng đã nêu lên những
định nghĩa về tôn giáo xuất phát từ quan điểm của mình. Từ góc độ thế giới
quan, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội; từ góc độ tâm lý học, tôn giáo là
một dạng biểu hiện đặc thù của tình cảm thành tín ngưỡng; từ góc độ xã hội

13
học và chính trị học, tôn giáo là một thể chế trong cơ cấu xã hội; từ góc độ
nhận thức luận, tôn giáo là hệ thống nhận thức dưới hình thức niềm tin không
cần kiểm chứng; từ góc độ thể chế, tôn giáo là những cộng đồng người có
chung một tín ngưỡng nhất định.
Tất cả các định nghĩa đều tiến tới một quan niệm phổ quát nhất về tôn
giáo: Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội thể hiện trong những quan niệm
của con người (hay nhóm người) dưới dạng niềm tin vào một sức mạnh siêu
nhiên tự nhiên hay là những nhân vật được thần thánh hóa, thể hiện bằng
những nghi thức, sinh hoạt nhất định, giống nhau của từng thành viên trong
nhóm đó.
Từ góc độ khoa học quản lý, tôn giáo là một hoạt động được tổ chức
chặt chẽ, nó là tổng hợp những yếu tố liên quan đến con đường thỏa mãn
những nhu cầu tín ngưỡng của con người. Để nhận thức tôn giáo đúng với
những hoạt động, những sức mạnh của niềm tin, của thể chế bên trong các tôn
giáo cụ thể, cần nhìn nhận tôn giáo bao gồm các yếu tố: giáo lý, giáo luật,
giáo lễ và giáo hội.
* “Tổ chức tôn giáo là tập hợp những người cùng tin theo một hệ
thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức theo một cơ cấu nhất định được

Nhà nước công nhận.

Tổ chức tôn giáo cơ sở là đơn vị cơ sở của tổ chức tôn giáo bao gồm
ban hộ tự hoặc ban quản trị chùa của đạo Phật, giáo xứ của đạo Công giáo,
chi hội của đạo Tin lành, họ đạo của đạo Cao Đài, ban trị sự xã, phường, thị
trấn của Phật giáo Hoà hảo và đơn vị cơ sở của tổ chức tôn giáo khác.

- Hoạt động tôn giáo là việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ
nghi, quản lý tổ chức của tôn giáo.


14
- Cơ sở tôn giáo là nơi thờ tự, tu hành, nơi đào tạo người chuyên hoạt
động tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo và những cơ sở khác của tôn giáo
được Nhà nước công nhận.

- Tín đồ là người tin theo một tôn giáo và được tổ chức tôn giáo thừa nhận.

- Nhà tu hành là tín đồ tự nguyện thực hiện thường xuyên nếp sống
riêng theo giáo lý, giáo luật của tôn giáo mà mình tin theo.

- Chức sắc là tín đồ có chức vụ, phẩm sắc trong tôn giáo.” [70, điều 3]
* Mối liên hệ giữa các khái niệm
- Quản lý nhà nước: Quản lý đóng vai trò hết sức quan trọng trong
việc duy trì và phát triển xã hội loài người. Trên thực tế, hoạt động quản lý đã
tồn tại từ rất lâu và mang nhiều hình thức khác nhau trong mỗi thời kỳ khác
nhau. Một trong các hình thức quản lý xã hội tiên tiến nhất mà xã hội loài
người đang áp dụng chính là quản lý nhà nước. Quản lý nhà nước là một hình
thức quản lý được thực hiện ở cấp vĩ mô, trong phạm vi một quốc gia, một
chế độ xã hội. Đây chính là việc tổ chức và điều chỉnh các quan hệ xã hội một

cách có ý thức dưới một hình thức tổ chức xã hội đạt trình độ cao - Nhà nước.
Quản lý nhà nước đề cập đến sự tác động của nhiều tác nhân đến xã hội thông
qua nhà nước. Các tác nhân này bao gồm nhà nước, các tổ chức xã hội, các
cộng đồng, nhóm người, thậm chí cả cá nhân công dân. Trong đó, nhà nước là
tác nhân chủ yếu giữ vai trò trung tâm. Xuất phát từ những cơ sở đó ta có thể
thấy được quản lý nhà nước là sự tác động, điều chỉnh có tổ chức bằng quyền
lực đối với các quá trình và quan hệ xã hội, các hành vi của các cộng đồng,
các tổ chức và cá nhân trong xã hội nhằm duy trì trật tự, củng cố và bảo vệ
quyền lực của chủ thể cầm quyền, phục vụ sự phát triển xã hội theo mục đích
của chủ thể đó, song có tính đến nhu cầu của các giai cấp và tầng lớp xã hội khác
trong mức độ không làm ảnh hưởng lớn đến mục tiêu của thể chế cầm quyền.

15
Quản lý nhà nước không thể thiếu trong một xã hội tồn tại các giai cấp
và nhà nước bởi vì nhà nước là một thiết chế chính trị - xã hội vừa có nhiệm
vụ trấn áp các giai cấp đối lập với giai cấp cầm quyền (thực hiện chức năng
thống trị chính trị giai cấp), vừa có nhiệm vụ tổ chức quản lý mọi mặt của đời
sống xã hội (thực hiện chức năng xã hội). Tất cả các nhà nước đều thực hiện
chức năng xã hội bởi vì có tổ chức, quản lý tốt xã hội mới duy trì được quyền
lực chính trị và bảo vệ được sự thống trị của giai cấp cầm quyền đối với toàn
thể xã hội.
Quản lý nhà nước được đặc trưng bởi việc sử dụng pháp luật, tính đơn
phương mệnh lệnh, tính khoa học và tính kế hoạch cao, tính liên tục, tính toàn
diện và tổng hợp, tính thống nhất và vĩ mô đối với xã hội. Những đặc trưng
này giúp các nhà nghiên cứu, nhà khoa học tránh được sự lầm lẫn giữa quản
lý nhà nước và quản lý của các tổ chức khác.
Có thể hiểu quản lý nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp
của nhà nước, đó là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà
nước trên cơ sở pháp luật đối với hành vi hoạt động của con người và các quá
trình xã hội, do các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước từ trung

ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện những mục tiêu, chức năng và nhiệm
vụ của nhà nước.
Ở một số nước, chẳng hạn như Cộng hòa Pháp, do tồn tại thể chế đa
nguyên, đa đảng, quản lý được chia làm hai hình thức khác nhau: quản lý
công và quản lý tư, khái niệm quản lý công có nội hàm gần giống với khái
niệm quản lý nhà nước được thừa nhận ở nước ta. Quản lý tư là hình thức
quản lý mà chủ thể quản lý không phải là nhà nước và một trong các lĩnh vực
xã hội không đặt dưới sự quản lý hành chính công chính là tôn giáo. Điều này
khác với Việt Nam. Ở Việt Nam, cơ cấu vận hành xã hội là Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Nước ta chỉ có một Đảng duy nhất

16
lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam. Bộ máy Nhà nước hiện nay được xây
dựng trên cơ sở nguyên tắc đảm bảo “tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”,
Nhà nước là người đại diện cho toàn dân thực hiện công tác quản lý nên quản
lý hành chính nhà nước ở nước ta là công tác quản lý đối với mọi mặt của đời
sống xã hội, trong đó có cả tôn giáo. Tuy nhiên công tác quản lý hành chính
nhà nước không phải được thực hiện với các tôn giáo mà là với các hoạt động
tôn giáo.
- Quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo là dạng quản lý
mang tính Nhà nước nhằm điều chỉnh các quá trình hoạt động tôn giáo của
các pháp nhân và các thể nhân tôn giáo bằng quyền lực Nhà nước. Trong đó,
hoạt động tôn giáo là những hoạt động như hoạt động tín ngưỡng tôn giáo của
tín đồ, hoạt động hành chính tôn giáo của chức sắc, hoạt động của các hội
đoàn, tổ chức tôn giáo Pháp nhân tôn giáo là những tổ chức tôn giáo có có
tư cách pháp nhân, tư cách pháp nhân là cho Nhà nước thừa nhận; thể nhân
tôn giáo là tín đồ, chức sắc, nhà tu hành của các tôn giáo, thể nhân này do các
tổ chức tôn giáo thừa nhận. Quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo
là quản lý bằng pháp luật và theo pháp luật với những phương pháp và
phương tiện đặc trưng. Đối với tôn giáo, nghiên cứu các giải pháp, các

phương pháp, các thủ pháp giải quyết, dàn xếp từng trường hợp cụ thể như là
tính nghệ thuật thì quản lý phải là hướng ưu tiên. Có nghĩa là không giống với
các lĩnh vực quản lý nhà nước khác, quản lý nhà nước đối với các hoạt động
tôn giáo lấy việc tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục là chính chứ
không lấy việc thực hiện quản lý mang tính mệnh lệnh đơn phương một chiều
làm chủ đạo. Người làm công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn
giáo phải đảm bảo được đường lối, chính sách về tôn giáo của Đảng và Nhà
nước, đảm bảo đời sống tín ngưỡng của nhân dân phát triển bình thường và

17
thể hiện được quan điểm ở Việt Nam hiện nay, Sự phát triển của tôn giáo phải
gắn bó đồng thời với sự phát triển của đất nước, của dân tộc.
1

1.1.2. Cơ sở pháp luật, mục đích, nội dung, phương pháp quản lý nhà
nước đối với các hoạt động tôn giáo
- Cơ sở pháp luật của công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo: Trong những năm gần đây, Nhà nước ta tiến hành đổi mới toàn diện
theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, vấn đề quản lý nhà nước đối với các hoạt
động tôn giáo được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là những chính sách
xã hội quan trọng có tính đặc thù. Tuy nhiên các quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam vẫn trước sau như một, chủ trương thi hành nhất quán chính
sách tôn giáo, kế thừa những nhân tố hợp lý trong các chủ trương trước đó
nhưng đồng thời cũng có những sự bổ sung sửa đổi cho phù hợp với tình hình
mới, thời đại mới cũng như những yêu cầu mới của công cuộc xây dựng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Tháng 10 năm 1990, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 24 đề cập công tác
tôn giáo trong tình hình mới. Ngày 2/7/1998, Bộ Chính trị ra tiếp chỉ thị 37-
CT/TW về công tác tôn giáo trong tình hình mới, định hướng các hoạt động
quản lý của Nhà nước và vận động của các tổ chức xã hội trong công tác tôn

giáo. Ngày 19/4/1999, Nghị định của Chính phủ về hoạt động tôn giáo số
26/1999/NĐ-CP đã chỉ đạo các hoạt động quản lý Nhà nước đối với các hoạt
động tôn giáo cũng như quy định quyền hạn và thẩm quyền của các ban
ngành, các cấp có liên quan. Nghị quyết số 25 Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IX năm 2003 về công tác tôn giáo đã được công
bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, khẳng định: “Đảng và

1
Theo Dương Ngọc Kiên (2003), Bước đầu tìm hiểu công tác quản lý nhà nước đối với đạo Công giáo hiện
nay trên địa bàn Thủ đô Hà Nội, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Quản lý xã hội, Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, Hà Nội 2003, tr13-15

18
Nhà nước ta luôn xác định công tác tôn giáo là vấn đề chiến lược có ý nghĩa
rất quan trọng”[2,1]. “Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo phải nhằm
tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc,
phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp
Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”[1,4]. Xuất phát từ quan điểm có tính định hướng như vậy, Đảng ta
luôn xác định rõ: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng Chủ
nghĩa Xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn
kết dân tộc”[1,4]. Từ đó, trong thời gian chỉ 10 năm nhưng hệ thống các văn
bản pháp luật về tôn giáo có tính pháp quy liên tục ra đời và đi vào cuộc sống
như: Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2005 ngày 18/6/2004 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Nghị định số 92/NĐ-CP ngày 11/8/2012 về quy định chi
tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Chỉ thị số 01/CT-
TTg ngày 01/3/2005 của Thủ tướng Chính phủ về công tác đối với đạo Tin
lành; Chỉ thị số 1940/CT-TTg ngày 31/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ về

nhà đất có liên quan đến tôn giáo
Đảng ta khẳng định tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tất yếu khách quan
trong đời sống của một bộ phận quần chúng nhân dân nên Đảng luôn nhất
quán thực hiện chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào. Người theo đạo có quyền sinh hoạt tôn
giáo bình thường theo pháp luật, các tôn giáo được hoạt động trong khuôn
khổ pháp luật và được đối xử bình đẳng.
Đảng và Nhà nước thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc. Đoàn kết
đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và
đồng bào không theo tôn giáo. Mọi người dân Việt Nam dù thuộc dân tộc nào,

×