Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Tác động của báo chí đối với việc xây dựng lối sống tích cực của thanh niên sinh viên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (530.45 KB, 71 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHÂN VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

TÁC ĐỘNG CỦA BÁO CHÍ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG LỐI SỐNG
TÍCH CỰC CỦA THANH NIÊN SINH VIÊN HIỆN NAY

BÁO CÁO TỔNG LUẬN ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ
(1997-1998)
Cơ quan chủ trì:

PHÂN VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

Chủ nhiệm đề tài: PGS.PTS TẠ NGỌC TẤN
Thư ký đề tài:

PTS. NGUYỄN THỊ THOA

Các thành viên:

PTS. TRẦN QUỐC BẢNG
PGS. PTS ĐẶNG CẢNH KHANH
PTS. PHẠM CHIẾN KHU
CN. LÊ THỊ QUẾ
PTS. LÊ NGỌC TỊNG
PGS.PTS. MẠC VĂN TRANG
PTS. VĂN ĐÌNH ƯNG

HÀ NỘI, 12.1998

1



Xin chân thành cảm ơn Vụ Quản lý khoa học - Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, lãnh đạo và phòng Quản lý khoa học của Phân viện Báo chí
và Tuyên truyền, Vụ Báo chí - Xuất bản và Viện Nghiên cứu dư luận xã hội của
Ban Tư tưởng Văn hố Trung ương, Vụ Báo chí Bộ Văn hố - Thơng tin, Viện
Nghiên cứu thanh niên thuộc Trung ương Đồn TNCS Hồ Chí Minh, Vụ Cơng
tác Chính trị Bộ Giáo dục Đào tạo cùng các cơ quan chức năng cũng như
nhiều nhà quản lý, nhà khoa học khác đã giúp đỡ ủng hộ, cung cấp thông tin
tư liệu, tạo điều kiện cho chúng tơi hồn thành việc nghiên cứu đề tài khoa học
này!

Hà Nội, 12.1998
Tập thể tác giả

2


MỤC LỤC
Tr
MỞ ĐẦU

5

Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn để nhận thức và xây dựng lối

11

sống cho thanh niên sinh viên trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước
1. Quan niệm về lối sống và lối sống của thanh niên sinh viên


11

2. Thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và yêu cầu xây

15

dựng lối sống tích cực cho thanh niên sinh viên
3. Một số u cầu có tính phương pháp luận trong việc giáo dục lối

20

sống cho thanh niên sinh viên
Chương II: Thực trạng và nguyên nhân của những thay đổi về lối

22

sống của thanh niên sinh viên trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay
1. Những biểu hiện tích cực trong lối sống của thanh niên sinh viên

22

2. Những biểu hiện tiêu cực trong lối sống thanh niên sinh viên

26

3. Những yếu tố ảnh hưởng đến lối sống của thanh niên sinh viên

32


Chương III: Vai trị, tác động của báo chí đối với lối sống của

41

thanh niên sinh viên
1. Tác động của các loại hình báo chí chủ yếu tới sinh viên hiện nay

41

2. Nhu cầu của sinh viên tiếp nhận thơng tin báo chí phục vụ học tập

45

và thoả mãn nhu cầu văn hoá
3. Thực trạng đáp ứng nhu cầu thơng tin báo chí của sinh viên

49

4. Ảnh hưởng của báo chí với lối sống của thanh niên

52

Chương IV: Phát triển và sử dụng báo chí có hiệu quả nhằm xây

55

dựng lối sống tích cực cho thanh niên sinh viên
1. Hình thành mơi trường chung cho sự phát triển lối sống tích cực

55


của thanh niên sinh viên
2. Phát triển đi đơi với quản lý hệ thống báo chí

59

3. Đa dạng hố nội dung thơng tin báo chí

60

4. Các điều kiện để phát huy vai trị tích cực của báo chí trong giáo

68

dục lối sống thanh niên sinh viên
KẾT LUẬN

71

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

74

3


MỞ ĐẦU
Thanh niên, đặc biệt là thanh niên sinh viên là tầng lớp người sẽ là chủ
nhân tương lai của đất nước nên việc quan tâm giáo dục để hình thành ở họ
một lối sống tích cực là một việc làm có ý nghĩa vơ cùng hệ trọng. Bất cứ một

dân tộc, một quốc gia nào cũng đều phải quan tâm đến vấn đề này. Trên thực tế
thì giáo dục lối sống tốt cho thanh niên là việc làm đầu tư cơ bản, chuẩn bị cho
sự ổn định và phát triển trong tương lai của dân tộc, đất nước.
Trong hơn 10 năm thực hiện chính sách đổi mới dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã đạt được những thành tựu vô cùng to
lớn về mọi mặt, tạo thành những cơ sở tiền đề rất quan trọng cho sự phát triển
tiếp theo. Tuy nhiên, trong q trình đó cũng xuất hiện những vấn đề phức tạp,
những khó khăn, hạn chế mới nảy sinh mà một trong số vấn đề đó là những
biểu hiện tiêu cực, vận động đáng lo ngại trong lối sống thanh niên sinh viên.
Việc nghiên cứu tình hình thực tế, tìm ra giải pháp khắc phục tình trạng trên để
đưa lối sống thanh niên sinh viên đi vào quỹ đạo tích cực đang là một yêu cầu
khách quan và cấp bách.
Đề tài: “Tác động của báo chí đối với việc xây dựng lối sống tích cực
của thanh niên sinh viên hiện nay” là một cố gắng nhằm tham gia giải quyết
yêu cầu trên.
Mục đích đặt ra cho việc nghiên cứu đề tài này là:
- Làm rõ những biểu hiện, chiều hướng vận động của lối sống thanh niên
sinh viên hiện nay, xác định được vai trò ảnh hưởng của các yếu tố khác nhau
trong đời sống xã hội, đặc biệt là ảnh hưởng của báo chí đối với những diễn
biến phức tạp trong lối sống của thanh niên sinh viên.
- Xác định những cơ sở khoa học, thực tiễn và dựa vào đó để hình thành
những giải pháp đồng bộ nhằm huy động, kiểm sốt và sử dụng hiệu quả tồn
bộ hệ thống báo chí vào việc giáo dục, hình thành lối sống tích cực cho thanh
niên sinh viên hiện nay.
Để giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu đáp ứng mục đích trên, tập thể
những người tham gia nghiên cứu đề tài đã tổ chức thực hiện các nội dung
công việc chủ yếu sau:
4



- Trước hết là tiến hành nghiên cứu sơ bộ ban đầu để lập đề cương và kế
hoạch nghiên cứu cho tồn bộ đề tài. Trong q trình hình thành đề cương và
kế hoạch nghiên cứu, chúng tôi đã thảo luận kỹ trong nội bộ các thành viên,
trao đổi trực tiếp hoặc xin ý kiến bằng văn bản đối với một số nhà khoa học,
một số cán bộ có trách nhiệm về quản lý báo chí và giáo dục đào tạo thanh
niên sinh viên ở Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, Bộ Văn hố Thơng tin,
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Báo Nhân dân, Đài Truyền hình Việt Nam, Trung
ương Đồn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Ban cán sự đại học của Thành
uỷ Hà Nội v.v...
Những ý kiến đóng góp của các chun gia khơng chỉ khẳng định yêu
cầu cấp bách của việc đề ra và thực hiện đề tài, ý nghĩa khoa học và thực tiễn
của nó mà cịn gợi ý cho chúng tơi nhiều vấn đề hợp lý, những phương pháp
con đường thích hợp, những nguồn tư liệu phong phú để hoàn chỉnh đề cương
và tổ chức thực hiện đề tài.
- Nghiên cứu các tài liệu sẵn có như kinh điển, các tập sách chuyên luận
- nghiên cứu khoa học, các bài báo khoa học, nghiên cứu kế thừa các kết quả
nghiên cứu của các đồng nghiệp. Mặc dù, chưa có đề tài, cơng trình khoa học
nào trực tiếp nghiên cứu về ảnh hưởng qua lại giữa báo chí với lối sống thanh
niên sinh viên, song một số đề tài nghiên cứu về thanh niên và thanh niên sinh
viên của Bộ Giáo dục và Đào tạo (như đề tài B 94-38-32), của Viện nghiên cứu
Thanh niên thuộc Trung ương Đồn TNCS Hồ Chí Minh (như đề tài: Huy
động lực tượng thanh niên các cơng trình xây dựng hạ tầng cơ sở, thơng qua đó
để bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực trẻ...) đã giúp chúng tôi những gợi ý
hay, cung cấp cho chúng tôi những số liệu rất đáng tin cậy. Tập thể tham gia
thực hiện đề tài đã tập hợp và nghiên cứu hàng chục cuốn sách và hơn 3.000
trang tài liệu khoa học các loại.
- Cuộc “thăm dò dư luận xã hội Báo chí và quan điểm đạo đức, lối sống
của thanh niên sinh viên” là một cơng việc chính yếu, trọng tâm, tập trung
nhiều chú ý cũng như nguồn lực của đề tài. Bảng hỏi - cơng cụ nghiên cứu có
vai trò quyết định đối với hiệu quả cuộc thăm dò dư luận xã hội, được chuẩn bị

công phu, qua 5 lần thảo luận tập thể và có sự góp ý của nhiều chuyên gia tại
Phân viện Báo chí & Tuyên truyền và chuyên gia của Trung tâm Nghiên cứu

5


dư luận xã hội thuộc Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương. Bảng hỏi cuối cùng
gồm 12 câu hỏi gần 200 biến số khác nhau.
Do những điều kiện khách quan quy định, việc chọn mẫu chỉ chủ yếu
nhằm vào thanh niên sinh viên ở 3 thành phố lớn - đại diện cho 3 khu vực của
đất nước là Hà Nội, Huế, Thành phố Hồ Chí Minh. Để bảo đảm tính đại diện,
chúng tôi chọn mỗi thành phố hai trường đại học và mỗi trường chọn ra 4 lớp
để phát phiếu. Nói chung, tỷ lệ phân bố đối tượng được điều tra là cân đối, hợp
lý so với những đặc điểm xã hội của thanh niên sinh viên. Các số liệu điều tra
sau khi xử lý đã trở thành các cứ liệu cho các thành viên tham gia đề tài nghiên
cứu, sử dụng trong phần bài viết của mình.
- Hội thảo được thực hiện trong phạm vi hẹp gồm các thành viên tham
gia trực tiếp với đề tài và một số chuyên gia, cán bộ quản lý có trách nhiệm đối
với việc giáo dục lối sống thanh niên sinh viên. Trong hội thảo, các nhà khoa
học, các chuyên gia đã trình bày ý tưởng cơ bản phần nội dung nghiên cứu của
mình, sau đó là trao đổi góp ý đối với từng bản báo cáo đó. Sau hội thảo, các
tác giả bổ xung, hồn chỉnh lại nội dung nghiên cứu, hình thành nên bản kỷ
yếu và dựa vào kỷ yếu để xây dựng báo cáo tổng luận.
Qua yêu cầu xã hội đặt ra trong các văn kiện chính thức của Đảng, Nhà
nước và qua thực tế nghiên cứu đề tài, có thể khẳng định rằng nếu được thực
hiện thành công, đề tài sẽ có ý nghĩa khơng nhỏ cả về lý luận và thực tiễn.
- Về lý luận, đề tài góp phần hệ thống hoá những nhận thức về lối sống
của thanh niên sinh viên; phát hiện và đánh giá các nhân tố khác nhau trong
điều kiện hiện nay đang tác động, ảnh hưởng đến lối sống thanh niên sinh viên;
tạo dựng một mơ hình tích cực về lối sống của thanh niên sinh viên phù hợp

với yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố cũng như phù hợp với
mục tiêu xây dựng nền văn hoá và phát triển nguồn lực con người Việt Nam.
Những vấn đề lý luận trên mà đề tài đặt ra và giải quyết không chỉ làm tư liệu
trong nghiên cứu, giảng dạy tại nhà trường mà chúng có ý nghĩa quan trọng
hơn ở chỗ trở thành phương pháp luận cho việc nhận thức, đánh giá và hoạch
định các giải pháp để giải quyết các vấn đề về lối sống của thanh niên sinh
viên.

6


- Đối với thực tiễn xã hội, đề tài góp phần dóng lên tiếng chng cảnh
tỉnh đối với các cơ quan tổ chức, các giới chức có trách nhiệm về thực trạng
với những mảng mầu tối sáng không đều, vận động theo những khả năng,
khuynh hướng khơng tích cực của lối sống thanh niên sinh viên. Thực ra thì lối
sống là bề nổi và sự thể hiện cơ bản của nền tảng văn hoá của con người. Sự
xuống cấp về lối sống - hay ít ra là sự thiếu tích cực trong lối sống của thanh
niên sinh viên cũng là phản ánh nền tảng văn hố của họ có vấn đề. Như vậy,
vấn đề ở đây là cần phải có những giải pháp tích cực được bắt đầu ngay từ
khâu chính sách văn hố - xã hội và giáo dục đào tạo.
Ý nghĩa thực tiễn quan trọng của đề tài chính là tác động vào những
người có trách nhiệm, những bộ phận hoạch định các chính sách liên quan đến
việc giáo dục rèn luyện thanh niên sinh viên thành những con người mới của
đất nước.
- Đối với các cơ quan báo chí, các nhà báo cũng như các trường đại học
và cao đẳng, đề tài có thể cung cấp các cơ sở khoa học, các đánh giá, nhận
định thực tế và những gợi ý có tính phương pháp luận trong hình thành thái độ,
quan điểm đúng đắn, hợp ý về giáo dục lối sống cho sinh viên. Từ nhận thức
ấy sẽ dẫn tới sự quan tâm đầy đủ đến công tác này, tập trung các nguồn lực có
thể, phối hợp và kết hợp các phương tiện, giải pháp nhằm thực hiện có hiệu

quả cơng tác này.
Thuận lợi chủ yếu khi thực hiện đề tài nghiên cứu này có thể thấy ở một
số điểm sau đây:
- Đề tài được thực hiện trong khi Trung ương Đảng và Chính phủ đã tiến
hành tổng kết cơng tác báo chí - xuất bản trong 5 năm (1992-1997), Bộ Chính
trị đã ra Chỉ thị 22 với những chủ trương, phương hướng chỉ đạo công tác báo
chí xuất bản trong giai đoạn hiện nay.
- Các nhà khoa học tham gia đề tài đều nhiệt tình và phần lớn có nhiều
kinh nghiệm trong nghiên cứu khoa học về thơng tin báo chí và giáo dục thanh
thiếu niên.
- Các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm đều sẵn sàng giúp đỡ, tạo điều
kiện thuận lợi có thể, giúp các thành viên tham gia đề tài thực hiện các hoạt
động nghiên cứu.
7


Tuy nhiên, một số khó khăn vẫn khơng tránh khỏi và ở những mức độ
nhất định đã hạn chế kết quả và hiệu quả nghiên cứu. Đó là những khó khăn
sau đây:
- Địa bàn, khơng gian địa lý trong đó triển khai hoạt động nghiên cứu
quá rộng.
- Chưa có tiền lệ hoặc cơng trình khoa học tương tự hay gần gũi với đề tài.
- Các nguồn lực phục vụ cho nghiên cứu hạn hẹp: Kinh phí hạn chế, các
thành viên tham gia nghiên cứu đề tài bị chi phối thời gian nhiều cho các trách
nhiệm công tác chuyên môn.
Trong điều kiện đó chúng tơi đã cố gắng hồn thành tốt những nhiệm vụ
đặt ra cho đề tài nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu đề tài bao gồm các bài báo
công bố trên tạp chí Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Tạp chí Báo chí và
Tuyên truyền, Kỷ yếu và bản Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài.
Kỷ yếu của đề tài có dung lượng 180 trang in được hình thành từ hai

phần. Phần thứ nhất tập hợp 8 bài viết của các thành viên tham gia nghiên cứu
đề tài. Các bài viết này phù hợp với nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra trong đề cương
ban đầu và căn cứ vào các thông số thu được trong cuộc thăm dò dư luận xã
hội. Phần thứ hai của Kỷ yếu là kết quả cuộc thăm dò dư luận xã hội trong
thanh niên sinh viên bao gồm Báo cáo kết quả cuộc thăm dò dư luận xã hội và
Bảng số liệu kết quả thăm dò dư luận xã hội.
Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài khoa học “Tác động của
báo chí đối với việc xây dựng lối sống tích cực của thanh niên sinh viên
hiện nay” gồm có: phần mở đầu, 4 chương nội dung, phần kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo.

8


Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỂ NHẬN THỨC VÀ
XÂY DỰNG LỐI SỐNG CHO THANH NIÊN SINH VIÊN TRONG
THỜI KỲ CƠNG NGHIỆP HỐ, HIỆN ĐẠI HĨA ĐẤT NƢỚC
1. Quan niệm về lối sống và lối sống của thanh niên sinh viên
Lối sống cùng với tư tưởng, đạo đức hợp thành lĩnh vực then chốt của
văn hoá, nền tảng tinh thần của xã hội, mục tiêu động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội. Trong những năm gần đây, cùng với quá trình đổi mới, tư
tưởng, đạo đức, lối sống xã hội nói chung và lối sống của thanh niên sinh viên
nói riêng đã có những biến chuyển quan trọng. Nghị quyết Trung ương 5 khóa
VIII của Đảng đã khẳng định: “Tư tưởng, đạo đức và lối sống là những lĩnh
vực then chốt của văn hoá, đã có những chuyển biến quan trọng... khơng khí
dân chủ trong xã hội tăng lên. Thế hệ trẻ tiếp thu nhanh những kiến thức mới
và có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(1).
Bên cạnh những chuyển biến tinh thần đó, trong lĩnh vực đạo đức, lối
sống cũng còn những tồn tại như tệ sùng bái nước ngồi, coi thường những giá

trị văn hố dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ... đang gây hại
đến thuần phong mỹ tục của dân tộc, khơng ít trường hợp vì đồng tiền, vì danh
vị mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thày, trị đồng chí, đồng
nghiệp...(2)
Để xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc góp phần quyết định thắng lợi cho sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại
hố, đã đến lúc địi hỏi chúng ta trước hết phải có nhận thức đúng về văn hoá,
đặc biệt là lĩnh vực cốt lõi của nó là tư tưởng, đạo đức, lối sống.
Cho đến nay, khi nghiên cứu về lối sống, các nhà khoa học đã có những
cách tiếp cận khác nhau và đưa ra hàng trăm định nghĩa. Công bằng mà đánh
giá, tất cả các định nghĩa đều có những hạt nhân hợp lý. Song, để có một quan
niệm tồn diện, khoa học về vấn đề này, trước hết phải xuất phát từ quan điểm
của Mác - Ăngghen về lối sống và quan hệ giữa phương thức sản xuất và lối
sống. “Không nên nghiên cứu phương thức sản xuất ấy đơn thuần theo khía
cạnh nó là sự tái sản xuất ra sự tồn tại thể xác của các cá nhân, mà hơn thế, nó
đã là một hình thức hoạt động nhất định của việc biểu hiện đời sống của họ,
9


một phương thức sinh sống của họ”(3). Phương thức sinh sống thường được
hiểu là lối sống (mode de vie). Vậy là phương thức sản xuất là phương thức
sinh sống nhất định của con người, là mặt cơ bản nhất của lối sống, bởi lẽ,
trong xã hội có giai cấp khơng thể có một lối sống chung cho tất cả mọi người.
Hơn nữa, phạm vi của lối sống rộng hơn phạm vi của phương thức sản xuất.
Ngoài hoạt động sản xuất, con người còn nhiều hoạt động phong phú khác:
hoạt động xã hội, hoạt động chính trị, hoạt động tư tưởng văn hố... do đó,
phạm vi của lối sống có thể được hiểu như phạm vi của hình thái kinh tế - xã
hội. Tất nhiên, hai khái niệm này không đồng nhất với nhau.
Từ quan niệm trên, có thể đi đến một định nghĩa về lối sống như sau: Lối
sống là phạm trù dùng để chỉ toàn bộ hoạt động sống của con người (các dân

tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân) trong những điều kiện của
một hình thái kinh tế xã hội nhất định và được thể hiện trên các lĩnh vực của
đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hố tinh thần.... Lối sống phản
ánh trình độ văn hố của con người, trình độ phát triển của xã hội.
Như vậy, về mặt phương pháp luận, để tìm hiểu lối sống của cá nhân
trong xã hội, cần thiết phải tìm hiểu qua nghề nghiệp, trình độ năng lực chun
mơn, mơi trường lao động, học tập, thái độ hứng thú, thu nhập, tổ chức đời
sống vật chất của bản thân với tư cách là người lao động; tìm hiểu quan hệ cá
nhân trong xã hội: quan hệ đồng chí, đồng nghiệp trong cơng tác hàng ngày,
thái độ của họ đối với gia đình, với các thành viên trong gia đình, tinh thần,
trách nhiệm của họ đối với cộng đồng, Tổ quốc đối với nhân dân, nhân loại.
Ngồi ra, cần tìm hiểu sự rèn luyện, tu dưỡng của cá nhân nhằm rèn luyện thân
thể, trau dồi trí tuệ và tài năng, phát triển bản thân về mọi mặt. Còn khi nghiên
cứu lối sống cộng đồng, cần thiết phải tìm hiểu về trình độ tiến bộ của cộng
đồng đã đạt được trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là đời sống
văn hoá tinh thần.
Đối với mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng người tương ứng với những điều
kiện sinh hoạt vật chất nhất định có một lối sống nhất định, phương thức sản
xuất như thế nào thì phương thức sống như thế. Tuy nhiên, vai trò chủ quan
trong định hướng giá trị cũng có vai trị to lớn, thậm chí quyết định đến việc
hình thành lối sống. Định hướng giá trị là cơ sở bên trong của hành vi quyết

10


định lối sống của chủ thể hành vi. Có thể nêu lên những yếu tố qui định đến lối
sống như sau:
Thứ nhất: Con người với tư cách cá nhân và cộng đồng, chủ thể các
hoạt động sống, là nhân tố chủ quan định hướng giá trị qui định sự hình thành
và phát triển của lối sống. Sự qui định lối sống của con người, trước hết xác

định ở sự định hướng của hệ tư tưởng, thể hiện ở chính bản thân của hệ tư
tưởng và ở mức độ xâm nhập của hệ tư tưởng vào các giai tầng xã hội.
Thứ hai: Chế độ kinh tế, chế độ chính trị của xã hội mà trước hết ở trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, ở tính chất của quan hệ sản xuất tạo nên
cơ sở cho việc hình thành lối sống. Cơ sở kinh tế, chính trị như thế nào thì lối
sống như thế ấy. Như C.Mác đã khẳng định, con người chỉ sáng tạo ra đời sống
của mình trong quan hệ qui định bởi những điều kiện kinh tế - xã hội.
Thứ ba: Hoàn cảnh địa lý tự nhiên: môi trường, tài nguyên, vị thế địa lý
- yếu tố này thường ảnh hưởng đến chất lượng của lối sống.
Thứ tư: Khả năng kế thừa những giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp
thu có chọn lọc những tinh hoa văn hoá nhân loại vừa tạo nên sự đậm đà bản
sắc dân tộc, vừa thể hiện sự tiên tiến trong lối sống.
Ở nước ta, cùng với quá trình đổi mới mà trọng tâm là đẩy mạnh công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, với sự biến đổi sâu sắc của xã
hội Việt Nam, tất yếu sẽ dẫn theo sự biến đổi sâu sắc về lối sống. Tất cả những
biến đổi tích cực của q trình đổi mới, cũng như những diễn biến phức tạp
của quá trình hình thành lối sống mới do thay đổi cơ chế quản lý và do chính
sự phát triển biện chứng của đời sống xã hội cũng dội vào và in đậm dấu ấn lên
quá trình hình thành lối sống mới trong sinh viên - một tầng lớp xã hội đặc
biệt. Có thể khái quát những nét đặc thù của sinh viên hiện nay như sau:
Một là: sinh viên là tầng lớp người đang ở tuổi thanh niên, đang trưởng
thành, đang trong quá trình chuẩn bị những hành trang nghề nghiệp cần thiết
và đang ở giai đoạn dần dần ổn định về nhân cách để chuẩn bị tiến hành lao
động ở một lĩnh vực xã hội nhất định. Đối với sinh viên, tương lai cơ bản cịn ở
phía trước.

11


Hai là: sinh viên là tầng lớp có chung một hoạt động cơ bản đặc thù là

học tập có tính nghiên cứu, có tính nghề nghiệp để dần trở thành một tầng lớp
xã hội mới - tầng lớp trí thức tương lai.
Ba là: sinh viên vừa là bộ phận của thanh niên, vừa là bộ phận mà tương
lai trở thành trí thức nên có những đặc điểm vừa của thanh niên, vừa của trí
thức và có vị trí kép trong cơ cấu xã hội: trị trí, vai trị của thanh niên và trí
thức.
Bốn là: hệ thống nhu cầu, lợi ích của sinh viên đa dạng với những nét
đặc thù sau:
- Kém ổn định, luôn vận động, di chuyển năng động lớn so với hệ thống
nhu cầu, lợi ích của tầng lớp người lớn tuổi. Đặc biệt nhu cầu lợi ích tinh thần,
nhu cầu ham hiểu biết, tiếp thu những kiến thức mới và ý chí vươn lên lập
thân, lập nghiệp, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Nhu cầu về tình bạn, tình u, hơn
nhân và gia đình ở sinh viên thường chiếm ưu thế và cấp bách hơn ở những
người lớn tuổi.
- Lợi ích kinh tế của sinh viên biểu hiện trước hết là nghề nghiệp, việc
làm, chỗ làm việc. Ngồi ra, cũng có một bộ phận sinh viên có nhu cầu vừa
học vừa làm để có kinh phí học tập.
- Nhu cầu về tri thức, học vấn, nghề nghiệp ... ở sinh viên thường cao
hơn thanh niên cùng lứa tuổi, nhưng khác về mức độ, chẳng hạn như nhu cầu
sáng tạo khoa học, thường là thấp hơn so với tầng lớp trí thức.
- Từ ngày nước ta thực hiện sự nghiệp đổi mới, với việc thừa nhận cơ
chế thị trường mở cửa, nhu cầu về cơ cấu ngành nghề trong sinh viên có hướng
dịch chuyển sang những ngành có thu nhập và khả năng giải quyết việc làm
cao: các ngành kinh tế - pháp lý - công an - quân đội. Gần đây, do việc thực
hiện Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII về Giáo dục và đào tạo, số sinh viên
vào ngành sư phạm tăng lên rõ rệt.
Năm là: Các thế hệ sinh viên ngày nay có điều kiện phát triển hơn về
mặt trí tuệ nên hiểu biết nhiều hơn, năng động và nhạy cảm hơn thế hệ sinh
viên thời chống Mỹ. Đa số giữ vững và phát huy được truyền thống hiếu học,
truyền thống cách mạng của các thế hệ sinh viên trước đây, song cũng còn một

bộ phận yếu kém trong học tập và rèn luyện, chạy theo lối sống thực dụng,
12


thối hố về đạo đức, thậm chí cịn có sinh viên sa đà vào nghiện hút, vi phạm
pháp luật...
Từ đấy có thể khái quát quan niệm về lối sống sinh viên như sau: Lối
sống sinh viên là lối sống của tầng lớp xã hội đặc biệt mà phần đông trong số
họ là thanh niên đang độ trưởng thành có vị trí vai trị kép vừa của thanh niên,
vừa của trí thức. Đó là lối sống được thực hiện và thể hiện trong học tập, trong
rèn luyện, trong ứng xử thông qua các quan hệ chủ đạo: bạn bè, tình yêu, tình
thày trị..., trong hoạt động xã hội và trong sinh hoạt cá nhân của sinh viên.
2. Thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc và yêu cầu xây
dựng lối sống tích cực cho thanh niên sinh viên
Nhận thức và đánh giá đúng thực trạng kinh tế - xã hội, phát hiện kịp
thời những mâu thuẫn, xu hướng và quy luật khách quan của sự phát triển,
Đảng ta đã đề ra và thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Những
thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới từ năm 1986, đã đưa nước ta chuyển
sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Do điểm xuất phát thấp, từ một nước nông nghiệp lạc hậu, nghèo nàn
với nền kinh tế phát triển chậm(4), lại chịu hậu quả nặng nề của hai cuộc chiến
tranh kéo dài, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
bởi vậy Đảng ta đã sớm nhận thức đúng vị trí, vai trị qui định của cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước. Cơng nghiệp hố, hiện đại hố là q trình mang
tính quy luật từ xã hội nơng nghiệp lạc hậu sang xã hội công nghiệp, hiện đại,
văn minh. Đó là q trình cải tiến tồn diện cả về phương thức sản xuất (bao
gồm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất) cả cơ sở hạ tầng lẫn kiến trúc
thượng tầng, cả cơ cấu kinh tế lẫn cơ cấu xã hội và quan hệ xã hội ... Q trình
này diễn ra trong mơi trường văn hố và thơng qua q trình xã hội hố dưới
hình thức thị trường và tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước. Đối với chúng ta

chỉ có đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố mới có khả năng thốt khỏi nguy cơ
tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới, mới bảo đảm an ninh, ổn định
chính trị xã hội, giữ vững được độc lập và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đối với Đảng ta, tư tưởng về cơng nghiệp hố, hiện đại hố đã được
hình thành từ Đại hội III (1960) khi Đảng ta cho rằng cơng nghiệp hố là
nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ. Đại hội IV, V, VI của Đảng ta đã
13


tiếp tục khẳng định, cụ thể hoá và hiện thực hoá từng bước. Tuy nhiên, từ Đại
hội VI (1986) của Đảng đến nay việc nhận thức làm cơng nghiệp hố, hiện đại
hố ở nước ta mới có sự phù hợp với tình hình của đất nước và có hiệu quả
hơn. Ở Hội nghị Trung ương lần thứ 7 khoá VII (7.1994), Đảng ta đã quyết
định đẩy tới một bước sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Tại Đại hội
VIII, xuất phát từ tiền đề được tạo ra sau 10 năm đổi mới, từ sự phân tích tình
hình và cục diện khu vực và thế giới, căn cứ vào xu thế và nhu cầu của đất
nước, Đảng ta quyết định đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố nhằm nhanh
chóng biến nước ta thành một nước công nghiệp (khoảng năm 2020). Nội dung
cơ bản của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở nước ta là q trình
chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và
quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ cơng là chính sang sử dụng một
cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp
tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đây thực chất là quá trình
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội nhằm cải biến nước ta thành một
nước cơng nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp
lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất,
mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố hoá đất nước, tất yếu sẽ mở
đường cho những tư tưởng sáng tạo, thúc đẩy những hành động tích cực, tạo

môi trường thuận lợi cho phát triển, đồng thời tạo ra những tiền đề, điều kiện
vật chất - kỹ thuật cần thiết cho sự giải phóng và nhân lên sức mạnh các nguồn
lực, trong đó nguồn lực quyết định là con người, để phát triển kinh tế, dân chủ
hoá xã hội, thực hiện gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ công bằng xã hội. Các
Mác, trước đây khi phân tích ý nghĩa của nhiệm vụ giải phóng các nhân tố xã
hội của cách mạng xã hội chủ nghĩa đã khẳng định: “Không phải thực hiện một
lý tưởng nào mà chỉ cần giải phóng những nhân tố của xã hội đã phát triển
trong lịng xã hội tư sản”(5). Giải phóng sức sản xuất và dân chủ hoá xã hội là
phương thức cơ bản để phát triển lực lượng sản xuất, tạo năng suất lao động
cao, điều kiện suy đến cùng để bảo đảm cho sự định hướng xã hội chủ nghĩa.

14


Trong những năm còn lại của thế kỷ này và những năm đầu của thế kỷ
tới, đối với nước ta, vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân vẫn là nền tảng
của xã hội ta, vẫn là trọng tâm hướng tới của chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội. Bởi vậy cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, trước hết và thực chất
vẫn là cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn, mà nội dung cơ
bản của nó là thực hiện sự chuyển đổi căn bản cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội
nông thôn, nâng trình độ kỹ thuật và cơng nghệ nơng thơn, từng bước hình
thành nơng thơn mới văn minh, hiện đại. Cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng
nghiệp, nơng thơn cũng chính là q trình đơ thị hố nơng thơn, từng bước
thực hiện việc thu hẹp dần khoảng cách giữa nông thôn và thành thị cả về cơ
cấu kinh tế, cơ sở hạ tầng và đời sống văn hoá, tinh thần... Quá trình này đặt ra
yêu cầu mới về nguồn lực con người và đồng thời trong quá trình cách mạng
này, con người Việt Nam mới với những đặc tính mới từng bước hình thành.
Nghị quyết Trung ương 5 khố VIII của Đảng đã dự báo về mơ hình con người
Việt Nam mới với 5 đức tính sau:
- Có tinh thần u nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc

và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thốt khỏi nghèo nàn lạc
hậu, đồn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hồ bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Có ý thức tập thể đồn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân
nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, qui ước cộng đồng; có ý thức bảo vệ và
cải thiện mơi trường sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo,
năng suất cao, vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chun mơn, trình
độ thẩm mỹ và thể lực.
Việc xây dựng con người Việt Nam với những đức tính trên là một trong
những nhiệm vụ quan trọng nhất của sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây cũng chính là phương
hướng tổng quát cho việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên trong giai đoạn
cách mạng mới - giai đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước.
15


Từ phương hướng tổng quát trên, có thể thấy yêu cầu đặt ra cho việc giáo
dục lối sống tích cực cho thanh niên sinh viên tập trung vào một số vấn đề sau:
Thứ nhất: Xây dựng lối sống có lý tưởng, có ước mơ, hồi bão, có mục
đích cao đẹp, có ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ của đất
nước; có tinh thần yêu nước, ý thức độc lập tự chủ, tự cường, có ý thức và
năng lực làm chủ, trước hết làm chủ trong học tập, rèn luyện; có ý thức tập thể,
tơn trọng qui ước nhà trường, kỷ cương phép nước; có ý thức bảo vệ và cải
thiện môi trường sinh thái.
Thứ hai: Xây dựng lối sống học tập sáng tạo, học để lập thân, lập
nghiệp, học vì dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, văn minh. Khắc phục
tình trạng học thụ động, ỷ lại, “được chăng hay chớ”.

Thứ ba: Xây dựng nếp sống văn minh trong giao tiếp, ứng xử, quan hệ
bạn bè, tình u, quan hệ thày trị. Đây là lĩnh vực tế nhị và nhạy cảm nhất đối
với sinh viên, đặc biệt trong điều kiện bùng nổ thông tin, khi mà sinh viên cịn
chưa hội đủ trong mình những điều kiện để hoàn toàn làm chủ trong các quan
hệ trên.
Thứ tư: Xây dựng lối sống trong hoạt động xã hội, hoạt động kinh tế cho
sinh viên. Hoạt động xã hội trong các trường đại học bao gồm các hoạt động
văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao, hoạt động lao động cơng ích, cải tạo mơi
trường, hoạt động đền ơn đáp nghĩa, tương thân, tương ái. Đây là những hoạt
động để góp phần xã hội hố cá nhân, hình thành nhân cách cho sinh viên.
Hoạt động xã hội tích cực, hữu ích và có hiệu quả sẽ góp phần khắc phục
những tệ nạn xã hội trong học đường: cờ bạc nghiện hút, mê tín dị đoan, sống
bng thả, sống gấp, khơng chịu học hành, lười lao động, thích hưởng thụ, coi
thường pháp luật, đạo đức truyền thống...
Ngoài những hoạt động xã hội trên, trong sinh viên cịn có nhu cầu hoạt
động kiếm việc làm ngồi giờ để có thêm thu nhập. Trong tình hình hiện nay,
sinh viên phần lớn sống phụ thuộc vào gia đình. Đối với các gia đình cơng
nhân, nơng dân, gia đình các dân tộc ít người vùng cao có nhiều khó khăn
trong việc chu cấp tiền cho con em đi học, trong khi, trừ một số ít sinh viên
học giỏi hoặc diện chính sách được cấp học bổng, phần lớn sinh viên phải
đóng học phí, phải th nơi ở, chưa nói tới các nhu cầu chi tiêu trong học tập,
16


sinh hoạt văn hoá, tinh thần. Nhu cầu kiếm việc làm ngồi giờ để tự bảo đảm
việc học (nếu khơng thì sẽ khơng có cơ hội học tập) là chính đáng. Nếu việc tổ
chức tạo việc làm cho sinh viên được thực hiện tốt, cũng là con đường mở ra
hướng cho sinh viên ham học có cơ hội đến trường để rồi tự lập thân, lập
nghiệp, đồng thời ngăn chặn những tệ nạn xã hội học đường.
3. Một số yêu cầu có tính phƣơng pháp luận trong việc giáo dục lối

sống cho thanh niên sinh viên
Lối sống sinh viên được nhận thức như toàn bộ hoạt động của sinh viên
trong phạm vi nhà trường và ngoài nhà trường hướng tới việc học chữ, học
nghề, học làm người, với trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, tình cảm và nhân cách phủ
hợp và đáp ứng với sự phát triển, trước hết là phát triển kinh tế.
Xây dựng lối sống sinh viên, là công việc không thể tách rời phát triển
kinh tế - xã hội và trình độ dân chủ hố của đất nước. Bởi vậy, xây dựng lối
sống sinh viên là một q trình lâu dài gắn liền với cơng cuộc cải tạo xây dựng,
phát triển của đất nước mà trực tiếp tuỳ thuộc ở trình độ phát triển của sự
nghiệp giáo dục đào tạo. Để quá trình xây dựng lối sống văn hoá cho sinh viên
diễn ra đạt kết quả như mong muốn, tránh được những chủ quan nóng vội duy
ý chí, theo chúng tơi cần thiết phải định hướng cho sự nghiệp khó khăn, phức
tạp này. Xin nêu một số định hướng cơ bản sau:
Thứ nhất: Xây dựng lối sống sinh viên gắn liền với sự nghiệp trồng
người cả về tư tưởng, đạo đức, lý tưởng, trí tuệ, tâm hồn, tình cảm, nhân cách
và nghề nghiệp. Nghĩa là, xây dựng lối sống cho sinh viên phải được xem là
một nhiệm vụ trọng tâm trong mục tiêu giáo dục và đào tạo toàn diện cho sinh
viên, được hiểu từ trong đường lối, chính sách giáo dục, đào tạo của Đảng và
Nhà nước, trong các chương trình, kế hoạch đào tạo ở môi trường đại học,
trong phương hướng phấn đấu của mỗi sinh viên và trở thành sự quan tâm của
mỗi gia đình, mỗi nhà trường và tồn xã hội. Việc giáo dục mơn văn hố học,
trong đó có nội dung giáo dục lối sống phải mang tính pháp lý trong tồn bộ
các chương trình đào tạo ở bậc đại học và cao đẳng.
Thứ hai: Trong khi đặt trọng tâm của quá trình xây dựng lối sống sinh
viên vào nhiệm vụ học tập, rèn luyện, cần quan tâm thoả đáng tới việc xây
dựng lối sống cho sinh viên trong hoạt động xã hội, nhất là hoạt động có tính
17


chất kinh tế. Trong điều kiện hiện nay, khi mà xã hội còn phải chia sẻ ngân

sách đào tạo cùng với nhân dân, trong khi số sinh viên nghèo còn chiếm tỉ
trọng lớn thì yêu cầu kiếm thêm việc làm để có thêm thu nhập trang trải cho
việc học hành là khơng tránh khỏi. Để q trình hoạt động kinh tế của sinh
viên vừa diễn ra đúng hướng gắn học đi đơi với hành, tạo điều kiện cho sinh
viên có cơ hội học tập, thiết nghĩ đã đến lúc ngành giáo dục đào tạo, mỗi nhà
trường cần có sự tổ chức, quản lý trong lĩnh vực hoạt động này của sinh viên,
để những hoạt động kiếm thêm thu nhập của sinh viên diễn ra đúng với tính
chất lao động của họ và không vi phạm kỷ cương, phép nước.
Thứ ba: Cùng với phương châm biến quá trình đào tạo thành q trình
tự đào tạo, trong cơng tác xây dựng lối sống sinh viên, cần tạo ra những điều
kiện cần thiết để sinh viên chủ động, tự giác trong phấn đấu, rèn luyện, tự xây
dựng lối sống mới theo định hướng của nhà trường và xã hội.
Ngày nay, trong cơ chế thị trường mở cửa hội nhập, ý chí vươn lên tự
lập thân, lập nghiệp của sinh viên rất cao, xã hội nên tạo cơ hội, điều kiện cho
họ được thực hiện ước mơ, hồi bão của mình. Tất nhiên, q trình này địi hỏi
có định hướng, kiểm tra, động viên kịp thời. Quan trọng hơn là Đảng, Nhà
nước cần có chiến lược đào tạo, sử dụng cho đồng bộ để sau khi ra trường sinh
viên có việc làm vừa phù hợp với nguyện vọng, vừa đáp ứng được yêu cầu
phát triển đất nước.
Tóm lại: Xây dựng lối sống tích cực cho sinh viên là cơng việc của tồn
xã hội, trước hết là nhiệm vụ của toàn ngành giáo dục, đào tạo, trực tiếp là của
các trường đại học. Một khi lối sống mới cùng với tư tưởng, đạo đức mới của
sinh viên được thiết lập, thì mục tiêu học tập, rèn luyện mới có động lực thực
hiện, thế hệ sinh viên mới ham hiểu biết, có lịng tự trọng, có tinh thần dân tộc,
có ý thức phấn đấu lập thân, lập nghiệp, có bản lĩnh chính trị vững vàng sẽ là
thế hệ gánh vác và hồn thành sự nghiệp cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.

18



Chương II
THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG THAY ĐỔI VỀ LỐI
SỐNG CỦA THANH NIÊN SINH VIÊN TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ
XÃ HỘI HIỆN NAY

1. Những biểu hiện tích cực trong lối sống của thanh niên sinh viên
Lối sống của thanh niên sinh viên là một phạm trù rộng, thể hiện sự hình
thành và vận động nhân cách của sinh viên, liên quan đến tồn bộ mơi trường
sống, đến những mối quan hệ xã hội phong phú. Khi đánh giá tính tích cực
trong lối sống của thanh niên sinh viên cần xem những phương tiện cụ thể như:
định hướng giá trị học tập, sinh hoạt văn hố, hoạt động chính trị - xã hội, giao
tiếp ứng xử xã hội và sinh hoạt cá nhân.
- Trước hết lối sống tích cực của sinh viên biểu hiện trong định hướng
giá trị.
Định hướng giá trị là sự hướng vào và lựa chọn chủ quan của cá nhân
đối với các giá trị khả năng của xã hội. Nó thể hiện xu hướng của lối sống:
người ta mong muốn hướng tới cái gì, sống và hoạt động vì những giá trị gì?
Từ sau 1986, sinh viên đã thích nghi nhanh với chuyển đổi kinh tế, xã
hội. Họ nhạy cảm nắm bắt kịp thời cái mới và hướng hoạt động sống của mình
về tương lai một cách hăm hở tích cực. Họ đánh giá cao những giá trị: hồ
bình, tự do, học vấn, nghề nghiệp, việc làm ... (74 - 82% lựa chọn), quan tâm
đặc biệt đến việc tiếp nhận những tinh hoa của nhân loại (91%). Họ hướng vào
những phẩm chất nhân cách: học vấn rộng, có tư duy kinh tế, năng động nhanh
thích nghi, giỏi nghề, thạo ngoại ngữ, (60 - 80%). Họ chọn những nghề có thu
nhập cao, có điều kiện phát triển, dễ kiếm việc làm, ... (70 - 80%), mong muốn
làm giàu theo pháp luật (73%)...
Đồng thời với việc tiếp thu cái mới, năng động, nhạy cảm hơn, quan tâm
nhiều hơn đến việc lựa chọn các khả năng có thể tạo lập cuộc sống vật chất
thực tế, thanh niên sinh viên về cơ bản vẫn coi trọng thang giá trị truyền thống.

Một bộ phận lớn sinh viên lựa chọn sự lễ phép, kính trọng thày giáo và cấp

19


trên (84%, coi trọng giá trị đạo đức và truyền thống dân tộc (82%)), vị tha
thương yêu giúp đỡ người khác (79%) coi trọng tình yêu chung thủy (79%)...
- Lối sống tích cực thể hiện ở thái độ đối với việc học tập, mục đích,
động cơ học tập, phong cách học tập của sinh viên.
Nhiều sinh viên đã thể hiện rõ tính mục đích, tính tích cực chủ động
hăng say cơ học tập. Số sinh viên giỏi và khá tăng lên (trên 30%). Đặc biệt
xuất hiện một số sinh viên xuất sắc: cùng trong khoảng thời gian 4-5 năm ở đại
học đã đạt được 2-3 bằng cử nhân, hoặc nhiều sinh viên học thêm ngoại ngữ,
tin học đạt trình độ giỏi. Mấy năm gần đây sinh viên có phong trào tự kiếm
tiền, tự lo học thêm, đã trở thành một nét mới trong lối sống của sinh viên ta
(hơn 70% sinh viên học thêm ngoại ngữ, hơn 30% sinh viên học thêm tin
học,...).
Một số sinh viên vừa học vừa tham gia nghiên cứu, sáng tạo đã đạt
những giải thưởng có giá trị về đồ án tốt nghiệp. Nhiều sinh viên nghèo, hồn
cảnh khó khăn đã vượt qua trở ngại, nêu những tấm gương mới về ý chí quyết
tấm và lịng hiếu học. Hằng năm, có hàng trăm gương mặt sinh viên học tập
xuất sắc được báo chí ca ngợi, xã hội quan tâm.
Sinh viên đã ý thức rõ việc học tập vươn lên để tự khẳng định mình, đề cạnh
tranh được trong “thị trường chất xám” là quan trọng nhất đối với họ. Đó là con
đường sống và phát triển bản thân và cũng là đóng góp cho gia đình, xã hội.
Mặt tích cực trong thái độ học tập của sinh viên còn thể hiện ở sự đòi hỏi
cao đối với nội dung, chương trình, điều kiện học tập, nghiên cứu, cách thức
giảng dạy của giáo viên, cơ chế quản lý cơng bằng, nghiêm minh của nhà trường.
Mặt tích cực trong sinh hoạt văn hoá của sinh viên thể hiện rõ ở nhu cầu
phát triển nhanh, phong phú, đa dạng, đòi hỏi cao trong thưởng thức và sáng

tạo văn học nghệ thuật. Số liệu điều tra cho thấy: 89% số sinh viên thường
xuyên đọc báo, 75% nghe đài và 91% sinh viên xem truyền hình hàng ngày
hoặc hàng tuần.
Đa số sinh viên thích những loại hình sinh hoạt văn hố do sinh viên tự
tổ chức, thích xem phim, du lịch, thích chơi thể thao. Các sinh hoạt văn hố
của sinh viên đã thể hiện trình độ, phong cách sinh viên và sự say sưa, tự nhiên
của tuổi trẻ.
20


Những trào lưu sinh hoạt văn hoá khởi xướng từ sinh viên đã lan nhanh
trong các tầng lớp thanh niên và trong xã hội như: khiêu vũ, đêm thơ, đêm lửa
trại, câu lạc bộ sinh viên, thể dục nhịp điệu, thi hoa hậu, thời trang, thanh lịch.
SV 96. v.v... Trong hàng loạt những cuộc thi về các loại hình văn hoá mới này
hầu hết các giải cao đều do sinh viên giành được. Các sân chơi do truyền hình
hay đài phát thanh tổ chức đã có sức hút đặc biệt với sinh viên như SV 96, CLB
bạn yêu nhạc v.v...
- Hoạt động xã hội chính trị là một mặt cơ bản của lối sống sinh viên.
Nó thể hiện ý thức, quan điểm chính trị, thái độ trách nhiệm xã hội, tính tích
cực tham gia vào đời sống chung của tập thể, cộng đồng, xã hội. Thái độ và
tính tích cực hoạt động xã hội chính trị thể hiện rõ sự trưởng thành của nhân
cách và xu hướng của lối sống. Các thế hệ sinh viên trước đây qua các thời kỳ
cách mạng đa số đã thể hiện rõ tính tích cực xã hội chính trị trong các phong
trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày nay,
những biểu hiện của sinh viên về mặt hoạt động này đã có nhiều biến đổi.
Những hoạt động xã hội chính trị của sinh viên ngày càng mang nội
dung thiết thực và với những hình thức hấp dẫn, thể hiện rõ trình độ văn hố và
bản sắc sinh viên. Họ thích những sinh hoạt xã hội chính trị, các hành động cụ
thể mang ý nghĩa thiết thực với những hình thức phong phú sinh động. Họ
hưởng ứng các sự kiện xã hội chính trị theo cách của mình và qua đó ý nghĩa

xã hội chính trị cũng “thấm vào” họ một cách tự nhiên hơn.
Một bộ phận lớn trong học sinh, sinh viên có ý thức cộng đồng, phát huy
được truyền thống nhân ái của dân tộc trong các phong trào vận động từ thiện
như: hiến máu nhân đạo, ủng hộ đồng bào những nơi bị thiên tai...
Những hoạt động của Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội
sinh viên được đổi mới về phương thức, mấy năm gần đây đã thu hút sinh viên
tốt hơn. Số sinh viên gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam đã tăng lên, ý thức về
Đảng về Đoàn của sinh viên đã thể hiện rõ họ thông qua các hoạt động tập thể,
qua nhận thức một cách toàn diện.
- Lối sống tích cực của thanh niên sinh viên cùng thể hiện rõ nét ở sự
giao tiếp, ứng xử trong các quan hệ xã hội.

21


Trong khi xem xét lối sống sinh viên cần chú ý vào ba mối quan hệ chủ
yếu: quan hệ giao tiếp xã hội nói chung, tình bạn, tình u và quan hệ thày - trị.
Trong giao tiếp xã hội nói chung, sinh viên ngày nay đã thể hiện sự
“thơng thống”, đa dạng, phong phú và tính năng động chủ động, tích cực hơn
nhiều so với sinh viên trước 1986. Họ tự tin hơn trong các hoạt động tập thể, tự
tin hơn trong các hoạt động khoa học.
Quan hệ thày trò của sinh viên ngày nay đã mở rộng và có sự chủ động
tích cực, thiết thực. Họ chủ động tìm thầy, chọn nơi học, cốt sao đạt hiệu quả
thiết thực, không e ngại, câu nệ, sợ sệt, thụ động như trước kia.
Quan hệ tình bạn, tình yêu của sinh viên ngày nay rõ ràng là “thơng
thống”, đa dạng, sinh động, phong phú và thực tế hơn các thế hệ sinh viên
xưa kia rất nhiều. Họ được tự do thể hiện lối sống của mình trong những quan
hệ phức tạp đó và tự trải nghiệm để trưởng thành.
- Sinh viên ngày nay khát khao hướng tới một cuộc sống sinh hoạt văn
minh, hiện đại, thoả mãn nhu cầu ngày càng cao, phong phú đa dạng của con

người. Đó là động lực tạo cho họ tính tích cực trong định hướng và hành động
để cố đạt tới những mong ước, khát vọng của mình. Rõ ràng sinh viên ngày
nay sống có động lực, hăm hở hơn trong việc “truy tìm” hạnh phúc.
Sinh hoạt cá nhân trong lối sống được giới hạn trong việc xem xét nhu
cầu và phương thức thoả mãn nhu cầu của bản thân về ăn, uống, ở, may mặc
và nếp sống, nếp làm việc, học tập, rèn luyện ... của mỗi con người. Đó là quan
niệm và hành vi của cá nhân trong việc điều tiết các sinh hoạt hàng ngày của
bản thân.
Trong sinh hoạt cá nhân, có sự khác biệt đặc thù của giới (nữ sinh viên
khác với nam sinh viên) và thể hiện bản sắc riêng, có cá tính trong cách sống,
kiểu sống của sinh viên.
Sinh viên ngày nay không nề hà làm mọi việc để kiếm tiền trang trải cho
học tập, sinh hoạt, ... Có đến quá nửa số sinh viên đi làm thêm đủ các nghề
kiếm sống để học lên.
Nhiều sinh viên kiểu mới xuất hiện: có chí, năng động, tháo vát, vừa
kiếm sống vừa học tập, vượt qua mọi khó khăn trở ngại để học lên, lập thân,
22


lập nghiệp. Một số nam, nữ sinh viên chịu khó rèn luyện, học tập, đạt được
trình độ tri thức, năng lực chun mơn cao ngay từ khi cịn rất trẻ.
Có thể nói, về cơ bản lối sống của thanh niên sinh viên vận động theo
khuynh hướng tích cực. Trong các mối quan hệ đa diện của đời sống hiện đại,
họ mở rộng hơn tầm nhìn, biết cởi mở hướng tới nghiên cứu giá trị mới, bắt
kịp hơi thở của xã hội, chấp nhận những thử thách mà cuộc sống đặt ra.
Đồng thời thang giá trị cơ bản trong truyền thống dân tộc vẫn được
thanh niên sinh viên trân trọng. Bên cạnh những biểu hiện tích cực cơ bản ấy,
trong lối sống của sinh viên đã xuất hiện những hiện tượng, những biểu hiện
tiêu cực, không phù hợp với chuẩn mực và yêu cầu của sự nghiệp xây dựng
phát triển đất nước tồn diện về kinh tế - văn hố.

2. Những biểu hiện tiêu cực trong lối sống thanh niên sinh viên
Mặc dù chưa trở thành phổ biến, nhưng những biểu hiện tiêu cực trong
lối sống sinh viên đã đến mức báo động, đã đặt ra vấn đề thực sự cấp bách, địi
hỏi xã hội cần quan tâm, có giải pháp kịp thời. Đó là yêu cầu mà cuộc sống
đang đặt ra và việc giải quyết yêu cầu đó là một trong những điều kiện bảo
đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước trong tương lai.
- Có thể nói, những biểu hiện tiêu cực của thanh niên sinh viên thể hiện
trong tất cả các bình diện lối sống mà trước hết là trong định hướng giá trị.
Qua điều tra có thể thấy trong định hướng giá trị của sinh viên thể hiện ở
những xu hướng lệch lạc như sau:
Những giá trị lợi ích cá nhân, gia đình trội vượt xa so với những giá trị
tập thể, cộng đồng, xã hội;
Những giá trị kinh tế trội hơn giá trị tinh thần;
Những giá trị trước mắt trội hơn giá trị tương lai;
Những giá trị hiện đại lấn át giá trị truyền thống...
Xu hướng hướng ngoại và đòi hỏi mức tiêu dùng ngày càng cao theo lối
sống của xã hội phát triển có chiều hướng tăng mạnh, trong khi mức sống của
nhân dân ta cịn thấp, một bộ phận cịn nghèo đói, đang phải cần, kiệm, tập
trung cho học tập, phát triển lành mạnh là chính.
23


Chính từ định hướng giá trị có những lệch lạc đã dẫn đến nhiều loại biểu
hiện tiêu cực trong lối sống của một bộ phận sinh viên ta, nhất là trong việc
thoả mãn những nhu cầu sinh hoạt cá nhân.
Sinh viên quá căng thẳng, có quá nhiều mối bận tâm, lo âu mà quĩ thời
gian thực sự tập trung cho học tập, nghiên cứu bị hạn chế. Nghiên cứu của giáo
sư A.Helmker (Cộng hoà liên bang Đức) hợp tác với Viện nghiên cứu phát
triển giáo dục (1996) cũng cho thấy: mức độ bận tâm của sinh viên Việt Nam
về các vấn đề riêng tư, các quan hệ giao tiếp, điều kiện vật chất, kết quả học

tập đều cao hơn nhiều so với sinh viên Đức, Áo (về quan hệ giao tiếp và kết
quả học tập, mức độ bận tâm, lo lắng cao gần gấp đơi hai nhóm sinh viên kia).
- Trong học tập đang xuất hiện một số sinh viên thiếu động cơ học tập
đúng đắn. Họ muốn vượt qua các kỳ kiểm tra, đánh giá, chứ không phải bằng
sự nỗ lực học tập. Từ đó phát sinh ra hàng loạt hiện tượng tiêu cực trong học
tập, nhất là trong kiểm tra đánh giá. Có thể nói, chưa bao giờ tình trạng quay
cóp bài trong thi cử trở thành phổ biến như hiện nay. Thậm chí số sinh viên giữ
nghiêm kỷ luật thi cử, học tập trở thành thiểu số ở một số trường.
Số đơng sinh viên ít chú ý đến những vấn đề xã hội chính trị; hiểu biết
của họ về xã hội chính trị, về truyền thống v.v... cịn nơng cạn, nghèo nàn.
Năng lực diễn đạt những quan điểm xã hội chính trị của bản thân mình một
cách độc lập tự tin, hoạt bát, sinh động còn nhiều hạn chế.
Xu hướng ngại tham gia cơng tác đồn thể, xã hội, chỉ muốn tham gia
các hoạt động “chuyên môn đơn thuần” vẫn phổ biến trong sinh viên.
Xu hướng niềm tin tơn giáo (thực ra họ cũng ít hiệu rõ bản chất của tơn
giáo mà nặng về mê tín) có chiều hướng phát triển trong sinh viên.
- Mặt tiêu cực trong sinh hoạt văn hoá của sinh viên cũng biểu hiện rõ
những xu hướng sau: Một bộ phận chưa thích tham gia các sinh hoạt văn hoá
và thường dành thời gian rỗi để đánh bài (15,7%)*, để ngồi quán nước
(11,55%)*. (Những số liệu có đánh dấu (*) trong báo cáo này là của đề tài cấp
Bộ, mã số 94-38-32, được điều tra từ năm 1996).
Xu hướng thích văn hố hiện đại, nhập ngoại, xa rời văn hoá truyền
thống cũng khá phổ biến (64,83% thích ca nhạc hiện đại quốc tế, chỉ 20,7%
thích ca nhạc truyền thống dân tộc và 6,94% thích múa truyền thống, ...)*.
24


Xu hướng thích một số yếu tố văn hố khơng lành mạnh cũng gia tăng
trong sinh viên (một số thích phim tình dục, bạo lực, kinh dị, những hiện tượng
mê tín dị đoan, những cách sống đua địi ăn chơi, tiêu xài hoang phí, ...). Đặc

biệt có đến 76% sinh viên quan tâm đến tơn giáo và tín ngưỡng. Trong điều kiện
mở cửa, giao lưu rộng rãi, nếu không giáo dục tốt, sinh viên sẽ có thể khơng tiếp
thu cái hay cái đẹp của văn hoá, lối sống các dân tộc, mà ngược lại có khi du nhập
vào những cái dở và đánh mất bản sắc tinh hoa văn hoá của mình.
- Những mặt tiêu cực trong quan hệ xã hội giao tiếp ứng xử của sinh
viên cũng thể hiện rất rõ. Dư luận xã hội, báo chí đã thường xun nêu lên
nhiều hiện tượng đáng lo ngại:
Khơng ít sinh viên đã tham gia vào các quan hệ xã hội tiêu cực (hoặc
chủ động hoặc bị lôi kéo, dụ dỗ, mua chuộc) làm những việc vi phạm đạo đức,
pháp luật (như: buôn lậu, đem hàng lậu thuế cho chủ hàng, dẫn gái, tham gia
các nhóm trộm cắp, lừa đảo, kiếm tiền bất chính, ...). Xu hướng xử lý các mâu
thuẫn trong quan hệ xã hội bằng bạo lực cũng gia tăng trong sinh viên. Số học
sinh sinh viên phạm pháp từ 1986 đến nay, hằng năm đều tăng lên cả số lượng
và mức độ nguy hiểm.
Trong quan hệ thày trò đã thể hiện sự thực dụng nhiều khi trắng trợn để
“mua điểm”, “mua bằng”, ... cho qua các kỳ thi kiểm tra, đánh giá, thi cử,... Dư
luận xã hội đã phải lên tiếng khá nhiều về vấn đề này.
Trong tình bạn, tình yêu ở một số sinh viên ngày nay biểu hiện những
hiện tượng thiếu trong sáng, đã bị dư luận xã hội lên tiếng phê phán... Trong
quan hệ tình bạn khác giới và tình yêu ở một số sinh viên có xu hướng quá
phóng túng và thiếu hiểu biết, thiếu trách nhiệm với nhau, dẫn đến tình trạng
nữ sinh viên nạo, phá thai tăng lên nhiều. Hiện tượng tự tử vì tình, đánh ghen,
trả thù người yêu cũng tăng lên.
Khơng ít sinh viên theo đuổi mức sống q cao, chạy theo những yêu
cầu tiêu dùng không phù hợp. Trong điều kiện mức sống của gia đình và xã hội
cịn thấp, họ lao vào kiếm tiền bằng bất cứ giá nào, họ phân tán tâm lý, không
tập trung vào học tập, rèn luyện, thậm chí cịn dẫn đến những việc làm phi đạo
đức, vi phạm pháp luật rất đáng tiếc đối với người sinh viên.

25



×