Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

TRONG DI CHÚC HỒ CHÍ MINH VIẾT: “ĐẢNG TA LÀ MỘT ĐẢNG CẦM QUYỀN. MỖI ĐẢNG VIÊN VÀ CÁN BỘ PHẢI THẤM NHUẦN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG, THẬT SỰ CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH, CHÍ CÔNG VÔ TƯ. PHẢI GIỮ GÌN ĐẢNG TA THẬT TRONG SẠCH, PHẢI XỨNG ĐÁNG LÀ NGƯỜI LÃNH ĐẠO, NGƯỜI ĐẦY TỚ TH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.48 KB, 50 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP
MƠN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài:
TRONG DI CHÚC HỒ CHÍ MINH VIẾT: “ĐẢNG TA LÀ MỘT ĐẢNG CẦM
QUYỀN. MỖI ĐẢNG VIÊN VÀ CÁN BỘ PHẢI THẤM NHUẦN ĐẠO ĐỨC CÁCH
MẠNG, THẬT SỰ CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH, CHÍ CƠNG VƠ TƯ. PHẢI GIỮ GÌN
ĐẢNG TA THẬT TRONG SẠCH, PHẢI XỨNG ĐÁNG LÀ NGƯỜI LÃNH ĐẠO,
NGƯỜI ĐẦY TỚ THẬT TRUNG THÀNH CỦA NHÂN DÂN”

Nhóm

:3

Lớp học phần

: Tư tưởng Hồ Chí Minh(121)_14

Giáo viên hướng dẫn

: Ths.Nguyễn Thùy Linh

Hà Nội – 2021


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................4
I. CƠ SỞ LUẬN ĐIỂM...........................................................................................5


1. Cơ sở lý luận.....................................................................................................5
1.1. Chủ nghĩa Mác Lênin là cơ sở cho sự ra đời của Đảng Cộng sản.........5
1.2. Hồ Chí Minh vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin trong xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam............................................................................................7
2. Cơ sở thực tiễn..................................................................................................8
2.1. Bối cảnh trong nước...................................................................................8
2.2. Bối cảnh quốc tế.......................................................................................10
II. NỘI DUNG LUẬN ĐIỂM...............................................................................12
1. Đảng ta là một đảng cầm quyền....................................................................12
1.1 Khái niệm Đảng cầm quyền.....................................................................12
1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về “ Đảng ta là một Đảng cầm quyền”...........14
2. Đảng phải trong sạch, vững mạnh................................................................17
2.1. Đảng là đạo đức, là văn minh..................................................................17
2.2. Đảng là người lãnh đạo, là đầy tớ của nhân dân...................................23
2.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên.......................................................26
III. GIÁ TRỊ, Ý NGHĨA CỦA LUẬN ĐIỂM.....................................................32
1. Giá trị của luận điểm...................................................................................32
1. Ý nghĩa của luận điểm.................................................................................33
IV. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM.............................................................34
1. Thành tựu.....................................................................................................36
1.1. Kinh tế.....................................................................................................36
1.2. Văn hóa - Xã hội....................................................................................38
2. Hạn chế..........................................................................................................39
2.1. Kinh tế.......................................................................................................39
2.2. Văn hóa - Xã hội.......................................................................................41


2.3. An sinh xã hội:..........................................................................................41
3.Mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ..............................................................42
3.1.Mục tiêu phát triển....................................................................................42

3.2.Phương hướng, nhiệm vụ.........................................................................43
4.     Thực tiễn.....................................................................................................46
4.1. Vai trị của Đảng thể hiện qua thành cơng của Đại hội XIII:..............46
4.2. Vai trò của Đảng thể hiện qua thành cơng của cuộc bầu cử Đại biểu
quốc hội khóa XV và Đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kì 20212026...................................................................................................................47
4.3.Vai trị của Đảng thể hiện qua nỗ lực chống dịch và tiêm phòng vacxin
cho nhân dân....................................................................................................48
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................49


LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử dân tộc Việt Nam, kể từ khi có Đảng là những trang sử sơi động
nhất, hào hùng nhất, oanh liệt nhất. Kể từ khi có Đảng, dân tộc ta tiếp tục giành
được những thắng lợi mang ý nghĩa lịch sử dân tộc và thời đại sâu sắc, thể hiện
những bước nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc. Nhân vân Việt Nam đặc
biệt là thế hệ trẻ đã và đang được trực tiếp hưởng thụ những thành quả của cách
mạng, từ sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, việc giáo dục cho các thế hệ
được thấy được vai trò và sự cống hiến của Đảng và đặc biệt là thấy được ý nghĩa
to lớn từ sự xuất hiện, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đã hơn 90 năm
hình thành và phát triển, Đảng cộng sản Việt Nam ln có trách nhiệm quan trọng
và vai trò to lớn đối với Tổ quốc , với dân tộc. Sứ mệnh lịch sử vẻ vang đó địi hỏi
Đảng ta phải tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đẩy mạnh cuộc vận động học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, bảo đảm cho Đảng ta thực sự
vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Là người sáng lập, lãnh đạo và rèn
luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên một cách tồn diện những vấn đề
về Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam đã trở thành nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng ta qua lời di chúc:
“Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi Đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ
gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xây dựng Đảng ta xứng đáng là một người lãnh

đạo, là một người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Đây cũng là luận điểm mà em
lựa chọn để phân tích nhằm cung cấp cho mọi người cái nhìn sâu hơn về tư tưởng
này của Bác, đồng thời cũng giúp các thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất
nước, những người cán bộ Đảng viên trong tương lai sẽ nhận thức đúng đắn hơn về
vai trị và trách nhiệm của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
4


I. CƠ SỞ LUẬN ĐIỂM
1. Cơ sở lý luận
1.1. Chủ nghĩa Mác Lênin là cơ sở cho sự ra đời của Đảng Cộng sản. 
Theo quan điểm của Mác - Lênin, “trong xã hội xây dựng trên cơ sở phân
chia giai cấp, cuộc đấu tranh giữa các giai cấp thù địch, đến một chừng mực nào
đó, sẽ trở thành đấu tranh chính trị. Đấu tranh của Đảng là phản ánh đấu tranh
chính trị của giai cấp có giá trị đầy đủ và có thể thức dứt khốt nhất”. Giai cấp vơ
sản muốn hồn thành sứ mệnh của mình là giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi
áp bức bóc lột và lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản thì cần phải có sự thống
nhất về mục đích và tổ chức. Và chỉ có đảng chính trị mới có thể đem lại sự thống
nhất ấy. Theo Lênin, phong trào cơng nhân khơng thể thắng lợi nếu như khơng có
lý luận cách mạng khoa học: “Lý luận này không thể do tưởng tượng mà bịa đặt
ra. Lý luận này được hình thành trên cơ sở tổng hợp kinh nghiệm cách mạng và tư
tưởng cách mạng của tất cả các nước trên trái đất. Lý luận đó ra đời từ nửa thế kỷ
19. Lý luận đó là chủ nghĩa Mác”. Học thuyết Mác xuất hiện bên ngoài phong trào
tự phát của cơng nhân, mặt khác nó đã ra đời như là kết quả phát triển khách quan
và tất yếu của tư tưởng cách mạng. Nó đã xuất hiện từ cơ sở tư tưởng và khoa học,
được vun đắp bởi các nhà đại diện của giới trí thức cách mạng. Theo V. Lênin với
Tuyên ngôn của đảng cộng sản, chủ nghĩa Mác đã trở thành thế giới quan hoàn
chỉnh của giai cấp công nhân. V.Lênin cũng đã nhấn mạnh: Nhiệm vụ quan trọng
của đảng cộng sản là “phải tích cực giáo dục chính trị cho giai cấp cơng nhân, là
phải tăng cường giác ngộ chính trị cho giai cấp cơng nhân”. Đảng cộng sản, bộ

phận tiên phong của giai cấp, nhờ được vũ trang bởi học thuyết mác-xít mới có thể
đem ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa đến cho phong trào công nhân, mới là đại
diện cho những quyền lợi cơ bản của giai cấp công nhân. Kết luận này đã được
5


V.Lênin chỉ rõ trong hai luận điểm mật thiết liên hệ với nhau: “Khơng có lý luận
cách mạng, khơng thể có phong trào cách mạng” và từ đó “chỉ có đảng được vũ
trang bằng lý luận tiên phong mới đóng được vai trò là người chiến sĩ tiên
phong”. 
Thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng cầm quyền mà khơng có lý luận
dẫn đường thì cách mạng sẽ khơng có “phong trào vận động” và đảng sẽ không thể
làm nổi “trách nhiệm cách mạng tiền phong”. Từ rất sớm, Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nhận thức rất rõ điều đó. Trong tồn bộ hoạt động của Đảng, Đảng ta
ln ln đề cao vai trị của lý luận, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. 
Cùng với việc làm sáng tỏ vị trí, vai trị cầm quyền của Đảng, trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn luôn xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn để
“xây dựng chủ nghĩa cho vững”. Chủ nghĩa ấy phải đảm bảo thể hiện rõ bản chất
giai cấp công nhân, tính cách mạng sáng tạo và khoa học của Đảng. Trước hết, trên
hết phải vì lợi ích của giai cấp, của toàn thể nhân dân và dân tộc Việt Nam; phản
ánh đúng tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, dẫn đường chỉ lối cho nhân dân hành
động phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử và thời đại.
Trên nền tảng Cương lĩnh chính trị đầu tiên (năm 1930) của Đảng, trải qua
nhiều thời kỳ cách mạng khác nhau cam go, gian khó, trong đó có cả sự bất hòa
trong hệ thống XHCN, nhưng Đảng ta vẫn tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa ấy, tư tưởng ấy vào
hoàn cảnh cụ thể của từng giai đoạn cách mạng nước ta, đồng thời làm phong phú
thêm nó. Đường lối cách mạng Việt Nam mỗi thời kỳ lại được bổ sung, phát triển,
nhưng trước sau như một, Cương lĩnh của Đảng vẫn xác định: “Đảng Cộng sản

Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của
6


nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai
cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động,…”
1.2. Hồ Chí Minh vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin trong xây dựng Đảng Cộng
sản Việt Nam
Với Hồ Chí Minh, một Đảng với tư cách Đảng cầm quyền thì trước hết,
Đảng phải có “lý luận cách mệnh tiền phong”, có “chủ nghĩa làm cốt”. Ngay từ
năm 1927, trong tác phẩm Đường cách mệnh, Bác đã nhấn mạnh: Cách mạng
muốn thành cơng thì phải có tổ chức vững bền, sức cách mạng phải tập trung,
muốn tập trung thì trước hết phải có Đảng, cũng giống như đũa thì phải bó lại
thành bó chứ khơng phải mỗi chiếc một nơi. Cách mạng muốn thành cơng thì trước
hết phải có Đảng cách mệnh. Có Đảng để trong thì vận động cơng nơng và tổ chức
dân chúng, ngồi thì liên lạc với tất cả các nước và giai cấp vơ sản trên tồn thế
giới. Bác khẳng định, Đảng có vững cách mạng mới thành cơng, cũng như “người
cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”. 
Tuy nhiên, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh: “Đảng muốn vững thì
phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ
nghĩa ấy. Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu
khơng có bàn chỉ nam”. Bác cũng chỉ ra: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ
nghĩa Lê-nin”. Bác xem chủ nghĩa Mác Lênin như “cái cẩm nang thần kỳ”, “là
mặt trời chân lý”, “là cái kim chỉ nam cho mọi hành động” mà Đảng ta với tư
cách là một Đảng cầm quyền cần phải có, cần phải làm theo và lấy đó làm vũ khí
tinh thần để làm trịn vai trị tiền phong, vai trị lãnh đạo cách mạng của mình. 

7



Khẳng định vai trò “làm cốt” của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với vị trí cầm
quyền và vai trị lãnh đạo của Đảng ta, Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh: Chủ
nghĩa Mác-Lênin không chỉ là “lực lượng tư tưởng hùng mạnh” chỉ đạo mọi hoạt
động của Đảng ta, mà còn là lý luận nền tảng, mang bản chất cách mạng và khoa
học, làm cho Đảng ta “trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao
động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm” của dân tộc Việt Nam chúng ta.
Mặc dù Đảng lấy chủ nghĩa Mác Lênin làm kim chỉ nam cho mọi hành động nhưng
theo Bác, điều đó khơng có nghĩa là Đảng giáo điều theo từng câu, từng chữ của
C.Mác, của V.I.Lênin, mà là nắm vững tinh thần, lập trường, quan điểm và phương
pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin; đồng thời tiếp thu những tinh hoa của văn hoá
dân tộc và nhân loại, tham khảo kinh nghiệm của các Đảng Cộng sản và công nhân
quốc tế, vận dụng đúng đắn và sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam
để đề ra đường lối, chủ trương, phương thức lãnh đạo đúng đắn, phù hợp cho Cách
mạng Việt Nam. 
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Bối cảnh trong nước
Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, năm 1858, thực dân Pháp bắt
đầu xâm lược Việt Nam, từng bước thiết lập chế độ thống trị tàn bạo, phản động
của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược,
nhân dân ta liên tiếp đứng lên chống lại chúng. Từ năm 1858 đến trước năm 1930,
hàng trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào chống Pháp đã nổ ra theo nhiều khuynh
hướng khác nhau, như phong trào Cần Vương, phong trào Đông Du... Các cuộc
khởi nghĩa, phong trào đấu tranh đó vơ cùng anh dũng, nhưng đã bị thực dân Pháp
đàn áp tàn bạo và đều thất bại.
Nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của các phong trào đấu tranh là do
những người đứng đầu các cuộc khởi nghĩa, các phong trào chưa tìm được con
8



đường cứu nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam. Đứng
trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước, việc tìm một con đường cứu
nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc và thời đại là
nhu cầu bức thiết nhất của dân tộc ta lúc bấy giờ.
Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang lâm vào cuộc khủng hoảng về đường lối
cứu nước, ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra nước
ngoài, bắt đầu đi tìm con đường cứu nước. Người đã qua nhiều nơi trên thế giới,
vừa lao động, vừa học tập, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng
tư sản điển hình (Pháp, Mỹ), tích cực tham gia hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp.
Sau một thời gian ngắn tham gia học tập ở Liên Xô và hoạt động trong Quốc tế
Cộng sản, tháng 11-1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) trực tiếp
chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các tổ chức cộng sản
lần lượt được thành lập:
 Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ.
 Mùa Thu năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ.
 Ngày 1-1-1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung
Kỳ.
Chỉ trong một thời gian ngắn, ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản tuyên bố
thành lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng ở
Việt Nam. Tuy nhiên, 3 tổ chức cộng sản lại hoạt động riêng rẽ, tranh giành ảnh
hưởng lẫn nhau, khơng có lợi cho cách mạng.
Trong Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản về phong trào cách mạng ở An Nam,
ngày 5/3/1930, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Khoảng tháng 5/1929, Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên họp hội nghị toàn quốc. Đại biểu Bắc Kỳ đề nghị tổ chức
9


ngay một Đảng Cộng sản. Các đại biểu khác đề nghị sau này hãy tổ chức. Nhóm
Bắc Kỳ bỏ hội nghị ra về và tổ chức một đảng (Đông Dương). Một số khác, sau đó

đã tổ chức một đảng khác (An Nam). Đó là mối bất hồ đầu tiên. Nhóm Bắc Kỳ
tìm hết cách để phá hoại Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên vì họ cho rằng: hội
đó q đơng và cơ hội chủ nghĩa nên nó có thể làm lu mờ ảnh hưởng và công tác
của Đảng Cộng sản trong quần chúng. Nhóm An Nam ra sức giữ cho Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên tiếp tục hoạt động vì họ cho rằng: Hội có thể lợi dụng
để tập họp tầng lớp trí thức và giai cấp tiểu tư sản. Đó là mối bất hồ thứ hai. Cả
hai đều cố thống nhất nhau lại, nhưng càng cố gắng bao nhiêu thì càng hiểu lầm
nhau bấy nhiêu và hố sâu ngăn cách ngày cũng rộng ra bấy nhiêu”. Sự chia rẽ, mất
đoàn kết đã làm phân tán sức mạnh chung của phong trào, khơng có lợi cho cách
mạng. Điều này thể hiện sự cấp thiết của cách mạng Việt Nam là lúc này phải
thành lập ngay một Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam để tiếp tục đưa cách
mạng tiến lên. Từ ngày 6-1 đến ngày 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng
sản họp tại bán đảo Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) hội nghị nhất trí thành
lập một đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí
Minh sáng lập.
 Nguyễn Ái Quốc là người đầu tiên sớm ý thức và hiện thực hóa ý thức đó
về một tổ chức Đảng lãnh đạo - nhân tố then chốt quyết định sự thắng lợi
của cách mạng. Từ đây, phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam tiến hành
theo con đường cách mạng vô sản.
 Lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành cơng, ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đọc Tun ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt
Nam trở thành đảng cầm quyền thực hiện sự lãnh đạo đối với Nhà nước và
xã hội Việt Nam.
10


2.2. Bối cảnh quốc tế
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 là một trong những sự
kiện vĩ đại nhất của thế kỷ 20, đánh dấu mốc mới trong lịch sử phát triển của nhân

loại, đã tạo ra nhà nước của người lao động, thể hiện giấc mơ của toàn nhân loại.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga đã tiếp sức cho phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế. Từ đó, một làn sóng cách mạng vô sản ở châu Âu đã bùng lên
mạnh mẽ, tạo ra một cao trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, làm rung chuyển nền thống trị của giai cấp tư sản độc quyền ở nhiều nước.
Một hệ thống xã hội chủ nghĩa đã ra đời, đóng vai trị to lớn trong tiến trình phát
triển của thế giới hiện đại. Cách mạng tháng Mười Nga còn tác động mạnh mẽ đến
đời sống chính trị-xã hội của nhiều quốc gia, dân tộc; đã thức tỉnh, cổ vũ các dân
tộc thuộc địa bị áp bức và các nước phụ thuộc vùng dậy đấu tranh vì độc lập tự do,
đem lại niềm tin và niềm hy vọng về khả năng tự giải phóng.
Với những ý nghĩa to lớn và sâu sắc như vậy, thắng lợi của Cách mạng
tháng Mười Nga thực sự đã sáng tạo ra một kỷ nguyên mới của nước Nga, đồng
thời đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử nhân loại. Sau Cách mạng Tháng 10
Nga và việc thành lập Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết (Liên Xô) đã
chỉ hướng cho nhân dân các quốc gia bị áp bức và các nước thuộc địa về con
đường đấu tranh giải phóng dân tộc. Quốc tế Cộng sản được thành lập với nhiệm
vụ giải phóng dân tộc các quốc gia bị áp bức bóc lột trên tồn thế giới với giai cấp
vơ sản là nòng cốt. 
Ngày 27 tháng 10 năm 1929 Quốc tế Cộng sản gửi cho người Cộng sản tại
Đông Dương về việc thành lập một Đảng Cộng sản tại Đông Dương: “Việc thiếu
một Đảng Cộng sản duy nhất trong lúc phong trào công nhân và nông dân ngày
11


càng phát triển, đã trở thành một điều nguy hiểm vô cùng cho tương lai trước mắt
cuộc cách mạng ở Đông Dương”. Quốc tế Cộng sản nhấn mạnh: “Nhiệm vụ quan
trọng nhất của tất cả những người Cộng sản Đông Dương là thành lập một Đảng
cách mạng có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là một Đảng Cộng sản
có tính chất quần chúng Đơng Dương. Đảng đó phải chỉ có một và là tổ chức cộng
sản duy nhất ở Đông Dương ”           

II. NỘI DUNG LUẬN ĐIỂM
1. Đảng ta là một đảng cầm quyền
1.1 Khái niệm Đảng cầm quyền 
C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đầu tiên xây dựng học thuyết về
Đảng Cộng sản trong những năm nửa đầu thế kỷ XIX. Tuy nhiên, trong thời kỳ của
C.Mác và Ph.Ăngghen chưa có một đảng nào lãnh đạo nhân dân giành được chính
quyền. Do đó, vấn đề đảng trong điều kiện lãnh đạo chính quyền xây dựng xã hội
mới- xã hội chủ nghĩa chưa được các ông nghiên cứu nhiều. Sự ra đời của Đảng
Bơnsêvích Nga (đảng kiểu mới của giai cấp công nhân) và việc thành lập Quốc tế
III là sự thể hiện tư tưởng của Lênin về học thuyết Đảng Cộng sản.
Khái niệm "đảng cầm quyền" được dùng ở các nước tư bản chủ nghĩa và các
nước xã hội chủ nghĩa. Các nước tư bản chủ nghĩa, khái niệm này dùng để chỉ một
đảng hay một liên minh chính trị gồm nhiều đảng đã nắm được chính quyền, điều
hành đất nước trong nhiệm kỳ hiện tại của quốc hội, nhiệm kỳ của tổng thống. Với
các nước xã hội chủ nghĩa, khái niệm này được dùng trong thời kỳ từ khi Đảng
Cộng sản đã giành được chính quyền, nắm chính quyền, lãnh đạo nhân dân thực
hiện nhiệm vụ, mục tiêu chính trị. Như vậy, đảng cầm quyền là đảng giành chiến
thắng trong các cuộc bầu cử dân chủ và cạnh tranh. Từ đó, đảng thành lập chính
phủ đưa ra các quyết định chính sách đại diện cho nhân dân.

12


Ngay từ trước Cách mạng tháng Mười Nga (năm 1917), Lênin nói rằng
Đảng Bơnsêvích Nga bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng đứng ra nắm chính quyền. Sau
Cách mạng Tháng Mười Nga, Đảng Bơnsêvích, sau đó là Đảng Cộng sản Liên Xơ
trở thành đảng cầm quyền đã có những đóng góp hết sức to lớn cho sự nghiệp cách
mạng của nhân dân Liên Xô và nhân dân thế giới. Lênin lần đầu tiên đã đưa ra khái
niệm "Đảng Cộng sản cầm quyền" vào ngày 27/3/1922 trong Báo cáo chính trị của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Nga và nhận định ở nước Nga chỉ có

"đảng cầm quyền duy nhất"
Ở Việt Nam, sau cách mạng tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng
thuật ngữ này để nói về vai trò cầm quyền của Đảng như ''Đảng giành được chính
quyền'', ''Đảng nắm chính quyền'', ''Đảng cầm quyền''. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã viết “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”. Những khái niệm này cũng
đã được ghi trong các văn kiện của Đảng ta khi đề cập đến vai trò của Đảng đối với
xã hội từ sau khi có chính quyền cách mạng. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam
được Đại hội toàn quốc lần thứ X, XI thơng qua có ghi "Đảng Cộng sản Việt Nam
là đảng cầm quyền".
Với các Đảng Cộng sản cầm quyền, thuật ngữ Đảng Cộng sản dùng để chỉ
các đảng Cộng sản ở những nước có duy nhất một đảng cầm quyền, nắm chính
quyền lãnh đạo mọi mặt trong đời sống xã hội. Đảng cầm quyền có nghĩa là đảng
phải chịu trách nhiệm trước nhân dân, trước dân tộc. Điều mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã từng nói, Đảng chẳng những phải lo những việc to lớn như việc biến đổi
kinh tế và văn hóa mà cịn cịn phải lo đến những việc nhỏ nhặt "tương cà, mắm
muối" là những thứ cần thiết cho đời sống thường nhật của nhân dân. Đảng đại
diện lợi ích của giai cấp cơng nhân, cho toàn thể nhân dân lao động, trở thành đội
tiên phong chính trị của cả dân tộc. Đảng ln giữ được bản chất cách mạng và
khoa học, có phương thức lãnh đạo đúng đắn.
13


Đảng Cộng sản Việt Nam đã giữ vững được nguyên tắc xây dựng đảng của
các nhà nhà sáng lập chủ nghĩa cộng sản, vận dụng sáng tạo, kế thừa có chọn lọc
học thuyết của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Đảng là một tổ chức của những người tự nguyện cùng chung một chí hướng
đấu tranh cho lợi ích của một giai cấp hoặc một tầng lớp nhất định. Ở các nước
phương Tây, thuật ngữ "đảng cầm quyền", "đảng chấp chính", "đảng nắm chính
quyền" đã được dùng từ lâu, dùng để chỉ rõ vai trị, vị thế của một đảng khi đã có
chính quyền. Đảng cầm quyền có nghĩa là đảng lãnh đạo chính quyền, chi phối

chính quyền, làm cho mọi hoạt động của chính quyền thể hiện tư tưởng, đường lối
của đảng đó, phù hợp với lập trường và phục vụ cho lợi ích của giai cấp, tầng lớp
mà đảng đó đại diện.
Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, con đường trở thành Đảng Cộng sản cầm
quyền lại có đặc điểm và sắc thái riêng. Để trở thành đảng cầm quyền, Đảng Cộng
sản phải lãnh đạo nhân dân đứng lên đấu tranh, chống “thù trong, giặc ngồi”, tiến
hành cuộc cách mạng vơ sản hoặc cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để lật
đổ chính quyền của giai cấp bóc lột, thiết lập chính quyền mới của giai cấp cơng
nhân. Sau khi hồn thành cuộc cách mạng, giành chính quyền về tay mình, Đảng
Cộng sản lãnh đạo nhà nước và bộ máy của nó, tiến hành cải tạo xã hội cũ, xây
dựng chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Khi Đảng Cộng sản nắm được
quyền thống trị, thì điều đó có nghĩa là “nắm quyền đó với ý thức là chỉ một mình
mình nắm”1. Theo V.I.Lênin, trong thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa, duy nhất chỉ
có Đảng Cộng sản nắm quyền lãnh đạo nhà nước và xã hội, khơng có sự cạnh
tranh, chia sẻ quyền lực cho các đảng chính trị khác; thực hiện thể chế nhất
ngun, khơng có đảng đối lập tranh giành quyền lực nhà nước.
 

14


1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về “ Đảng ta là một Đảng cầm quyền”
Tại sao Bác khơng nói là “Đảng ta là đảng cầm quyền” mà phải nói là
“một đảng cầm quyền”? “Một” thể hiện tính duy nhất, hàm ý cả tính tuyệt đối.
Đảng khơng được chia sẻ quyền lực với đảng khác trong vai trị cầm quyền của
mình (nên hiểu là “không chia sẻ quyền lực” chứ không độc nhất tồn tại, vì thời
của Bác cịn có Đảng Dân chủ Việt Nam (1944 đến năm 1988) và Đảng Xã hội
Việt Nam (1946 – 1988), nhưng không giữ vai trị lãnh đạo. Tức là khơng liên
minh, liên kết với bất kỳ đảng khác để thực hiện vai trò lãnh đạo của mình. Đây
khơng phải là sự độc chiếm quyền lực mà đó là kết quả tất yếu của lịch sử.

 
Tuy nhiên, cũng cần hiểu đầy đủ lời của Người: “Đảng ta là một đảng cầm
quyền”. Ở đây, Hồ Chí Minh đã hàm ý cảnh báo. Vì là “một đảng cầm quyền” nên
có thể phát sinh những vấn đề do chỉ có một đảng nắm quyền, nhất là khi nắm
quyền liên tục trong một thời gian dài. Thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin, chắc
chắn Hồ Chí Minh hiểu rằng mọi sự vật, hiện tượng đều luôn vận động và biến đổi.
Là đảng duy nhất cầm quyền, ở đỉnh cao quyền lực, rất có thể nội bộ đảng nảy sinh
những trì trệ, thậm chí sai lầm, nếu Đảng giáo điều, không phát huy và mở rộng
dân chủ, không lắng nghe phản ánh từ nhân dân, không tiếp thu các ý kiến phản
biện… Rất có thể, khi cầm quyền trong thời gian dài, đảng tự xây cho mình một
“tháp ngà” và tự cách biệt mình với quần chúng nhân dân. Nghiêm trọng hơn,
chính điều đó nảy sinh quan liêu, xa dân, tham nhũng, thậm chí độc đốn, dần đánh
mất lịng tin của nhân dân. Điều này đã từng xảy ra với một số đảng, dẫn đến kết
cục đảng không cầm quyền được nữa, gây những hệ lụy nguy hiểm cho quốc gia,
cho dân tộc. Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, một triều đại lúc mới khai sáng
thì ln có vua sáng tơi hiền, có nhiều đóng góp quan trọng cho đất nước thì về sau
lại trở nên trì trệ, khủng hoảng, suy tàn. Đây là một hiện tượng bình thường trong
lịch sử, trong xã hội, được khái quát trong tư tưởng của người phương Đông,
15


“trăng có khi trịn khi khuyết”. Nhận thức được vấn đề này Đảng ln ln tự đổi
mới, tự hồn thiện mình, tự khắc phục các hạn chế, khuyết điểm điểm để phù hợp
với hoàn cảnh cụ thể, với yêu cầu lãnh đạo cụ thể.
Ở Việt Nam,Đảng Cộng Sản nắm quyền lãnh đạo nhưng quyền lãnh đạo đó
là thuộc về nhân dân và Đảng nhận sự ủy thác giao phó quyền lực từ dân.Hồ Chí
minh nói : “cách mạng rồi thì chuyển giao cho dân chúng số nhiều,chớ để trong tay
một bọn ít người”.Người đề cập xây dựng một Nhà nước “của dân,do dân và vì
dân”. Một khi Đảng trở thành Đảng lãnh đạo chính quyền thì Đảng cầm quyền, dân
là chủ, như Hồ Chí Minh đã chỉ rõ. Đảng cầm quyền là Đảng tiếp tục lãnh đạo

cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Song,
Đảng cầm quyền, dân là chủ: “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Đây là vấn
đề nguyên tắc, là bản chất của chế độ mới. Đảng lãnh đạo chính quyền là nhằm
thiết lập quyền làm chủ của nhân dân, mọi quyền lực phải thuộc về nhân dân, làm
trái ngun tắc đó Đảng sẽ thối hóa, biến chất. Bởi vậy, phải xây dựng cơ chế
Đảng cầm quyền mà cái cốt lõi của cơ chế này là mối quan hệ giữa Đảng, nhân
dân.
 
Đảng lãnh đạo cách mạng là để thiết lập và củng cố quyền làm chủ của nhân
dân.Theo Người, quyền lực thuộc về nhân dân là bản chất,là nguyên tắc của chế độ
mới, một khi xa rời nguyên tắc này ,Đảng sẽ trở thành đối lập với nhân dân.Dân
làm chủ,Đảng lãnh đạo,Đảng phải “lấy dân làm gốc”. Dân muốn làm chủ thật sự
thì phải theo Đảng.Mỗi người dân phải biết lợi ích và bổn phận của mình tham gia
vào xây dựng chính quyền .Theo Hồ Chí minh,nguyên tắc dân làm chủ,dân làm
gốc có thành hiện thực khi cán bộ,Đảng viên còn là đầy tớ trung thành của nhân
dân
 
16


Vì vậy, là thành viên của “một đảng cầm quyền”, Hồ Chí Minh đã căn dặn:
“Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần
kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Những chữ
“thực sự”, “thật sự”, “thật” là sự nhấn mạnh của Bác đối với các yêu cầu của Đảng,
của mỗi đảng viên trong lời khẳng định “Đảng ta là một đảng cầm quyền”. Tức là,
một đảng cầm quyền thì đảng viên phải thực sự như thế, khơng thể khác được.
2. Đảng phải trong sạch, vững mạnh
Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật
sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải

xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Ở đây
Bác đang muốn đề cập đến vấn đề đạo đức của Đảng và muốn nhấn mạnh rằng
Đảng cần phải có sự trong sạch và vững mạnh.
2.1. Đảng là đạo đức, là văn minh
Trong bài nói tại Lễ Kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng (năm 1960), Hồ
chí Minh cho rằng: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Hồ Chí Minh quan niệm
đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng, từ rất sớm và xuyên suốt cuộc đời
cách mạng của mình. Cuốn sách  Đường cách mệnh  năm 1927 khơng phải là một
chuyên luận về vấn đề đạo đức cách mạng, nhưng ở trang đầu cuốn sách Người đã
nêu lên hai mươi ba điều về tư cách một người cách mạng, giải quyết ba mối quan
hệ: Với mình, với người, với việc. Những thập kỷ bốn mươi, năm mươi, sáu mươi,
Người đều có những bài viết ngắn gọn, súc tích về đạo đức cách mạng. Người coi
đạo đức như gốc của cây, như nguồn của sơng, cũng như sơng thì có nguồn mới có
nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho
17


lồi người là một cơng việc to tát mà tự mình khơng có đạo đức, khơng có căn bản,
tự mình đã hủ hố, xấu xa thì cịn làm nổi việc gì?”. Vai trị nền tảng của đạo đức
cách mạng được Hồ Chí Minh khẳng định: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ
thành xã hội mới, là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất
nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh
được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có  đạo đức cách mạng  làm nền
tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Đạo đức trở thành nhân
tố quyết định sự thành bại của mọi công việc, phẩm chất mỗi con người: “Mọi việc
thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng, hay là
không”, “Tuy năng lực và công việc mỗi người có khác nhau, người làm việc to,
người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao

thượng”. Người từng khẳng định: “Chúng ta đem tinh thần mà chiến thắng vật
chất” . Chỉ nhìn về vật chất, chỉ nhìn ở hiện tượng, chỉ lấy con mắt hẹp hịi mà
xem, thì khơng giải thích được thắng lợi của ta đối với kẻ thù lớn mạnh. Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Đảng ta theo chủ nghĩa Mác-Lênin, chúng ta khơng những nhìn vào
hiện tại mà lại nhìn vào tương lai, chúng ta tin chắc vào tinh thần và lực lượng của
quần chúng, của dân tộc. Cho nên chúng ta quả quyết trả lời những người lừng
chừng và bi quan kia rằng:
“Nay tuy châu chấu đấu voi,
Nhưng mai voi sẽ bị lịi ruột ra”.
Đạo đức cịn “có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp đổi xã hội cũ thành một xã
hội mới và xây dựng mỹ tục thuần phong”. “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó
khăn gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước…, khi gặp thuận lợi và
thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ”…, không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần,

18


khơng quan liêu, khơng kiêu ngạo khơng hủ hóa”. Đạo đức của Đảng thể hiện qua
những điểm:
 Mục đích hoạt động của Đảng là lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Đó là sự nghiệp
cách mạng theo chủ nghĩa Mác-Lênin, làm cho dân tộc được độc lập, nhân
dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc thực sự, đoàn kết hữu nghị với
các dân tộc trên thế giới. Đạo đức của Đảng là thật sự vì nước, vì dân, nêu
cao lợi ích của đất nước, dân tộc, Tổ quốc trên hết, độc lập trên hết. Toàn
Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức và hành động vì lợi ích của dân
tộc. Ngồi lợi ích của giai cấp, dân tộc và nhân dân, Đảng khơng có lợi ích
nào khác. Toàn Đảng chung sức lãnh đạo đấu tranh làm sao cho đất nước
được hoàn toàn độc lập, thống nhất, dân tộc, đồng bào được tự do, hạnh

phúc, bảo đảm quyền sống và thoát khỏi sự áp bức, bất công, đau khổ dưới
sự thống trị của chế độ thực dân, phong kiến và các thế lực phản động.
 Cương lĩnh, đường lối, chủ trương và mọi hoạt động thực tiễn của Đảng đều
nhằm mục đích đó. Đảng phải ln ln trung thành với lợi ích tồn dân tộc
vì Đảng khơng có mục đích riêng, sự ra đời và phát triển của Đảng đều là vì
mục đích làm cho đất nước hùng cường đi lên chủ nghĩa xã hội, đưa lại
quyền lợi cho dân.
 Đội ngũ đảng viên phải luôn thấm nhuần đạo đức cách mạng, ra sức tu
dưỡng, rèn luyện, suốt đời phấn đấu cho lợi ích của dân, của nước. Do vậy,
một trong những biểu hiện rõ nhất của Hồ Chí Minh về rèn luyện Đảng
Cộng sản Việt Nam để cho Đảng trở thành Đảng của đạo đức của văn minh
là Người “rèn” đạo đức cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh nhấn mạnh , đảng
viên càng phải là những người có lịng nhân ái, “phải có tình đồng chí
thương yêu lẫn nhau”, trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân, có bốn
đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính và ln chí cơng vơ tư, có tinh thần quốc tế
19


trong sáng.Việc thực hiện phẩm chất này, đặt ra đối với tất cả mọi người, đòi
hỏi mỗi người phải lấy bản thân mình làm đối tượng điều chỉnh. Nó diễn ra
hàng ngày, hàng giờ, trong công tác, sinh hoạt. Cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng vơ tư là những khái niệm đạo đức phương Đông, đạo đức truyền thống
Việt Nam, được Hồ Chí Minh tiếp thu chọn lọc, đưa vào những yêu cầu và
nội dung mới. Người khẳng định: “Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần,
kiệm, liêm, chính, nhưng khơng bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải tuân
theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm,
chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước,
cho dân”. Tháng 6-1949, với bút danh Lê Quyết Thắng, Hồ Chí Minh viết
tác phẩm  Cần, kiệm, liêm, chính.  Sau đó, Người thường xuyên đề cập tới
các phạm trù đạo đức này.

Hồ Chí Minh khơng chỉ giải thích nghĩa của cần, kiệm, liêm, chính mà
Người cịn nêu lên mối quan hệ giữa bốn phẩm chất đó: “Cần, Kiệm, Liêm,
là gốc rễ của Chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có ngành, lá, hoa,
quả mới là hồn tồn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng cịn phải
Chính mới là người hoàn toàn” . So sánh với bốn mùa của trời, bốn phương
của đất, Người cho rằng: “Thiếu một mùa thì khơng thành trời. Thiếu một
phương thì khơng thành đất, thiếu một đức, thì khơng thành người”.
Cần, kiệm, liêm, chính đối với cán bộ đảng viên lại càng cần thiết, bởi vì:
“Cán bộ các cơ quan, các đồn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền
nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp
ăn của đút” . Theo Hồ Chí Minh, càng có chức, có quyền càng cần phải cần
kiệm, liêm, chính. Người viết: “Những người trong các cơng sở đều có nhiều
hoặc ít quyền hành. Nếu khơng giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở
nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”.

20


Theo Hồ Chí Minh, cần, kiệm, liêm, chính là thước đo văn minh, tiến bộ của
một dân tộc. Người viết: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân
tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”.
Cần, kiệm, liêm, chính, vì vậy là “nền tảng của đời sống mới, của thi đua ái
quốc”; là cái cần để “làm việc, làm người, làm cán bộ, phụng sự đoàn thể,
giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”. Đồng chí Phạm Văn Đồng cho
rằng “cần, kiệm, liêm, chính là đặc điểm của xã hội hưng thịnh. Những điều
trái lại là đặc điểm của xã hội suy vong”.
Chí cơng, vơ tư là khơng nghĩ đến mình trước, hưởng thụ đi sau, là lịng
mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào. Điều mà Phạm Trọng Yêm
đời Tống đã nói: “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”
đã được Hồ Chí Minh đưa thành nội dung phục vụ cách mạng, phục vụ nhân

dân. Hồ Chí Minh địi hỏi, thực hành chí cơng vơ tư là phải “kiên quyết quét
sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng”. Bởi vì, chủ nghĩa cá
nhân là trái với chủ nghĩa tập thể, trái với đạo đức cách mạng.
Hồ Chí Minh chỉ ra “chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt,
nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Nó là một thứ vi trùng rất độc, đẻ ra
hàng trăm thứ bệnh: tham ơ, hủ hố, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi,
thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần
chúng, độc đoán, chuyên quyền, quan liêu mệnh lệnh, v.v...”. Tóm lại, chủ
nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản cịn ẩn nấp trong mình mỗi người chúng
ta. Nó chờ dịp - hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi - để ngóc đầu đậy. Nó
là một kẻ địch, bạn đồng minh của các kẻ địch khác.
 
Xây dựng Đảng Cộng sản Việt nam thành một Đảng có đạo đức cách mạng,
về ý nghĩa cơ bản mà xét, cũng tức là xây dựng Đảng để Đảng trở thành một Đảng

21


văn minh hoặc Hồ Chí Minh hay gọi đó là “một Đảng cách mạng chân chính”.
Điều này được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
 Đảng văn minh là một Đảng tiêu biểu cho lương tâm, trí tuệ và danh dự của
dân tộc.
 Đảng ra đời là một tất yếu, phù hợp với quy luật phát triển văn minh tiến bộ
của dân tộc và của nhân loại. Mọi hoạt động của Đảng đều xuất phát từ yêu
cầu phát triển của dân tộc, lấy lợi ích tối cao của dân tộc làm trọng, mọi lợi
ích giai cấp đều phải đặt dưới sự phát triển của dân tộc, mọi hoạt động của
Đảng đều phải phù hợp với quy luật vận động của xã hội Việt Nam.
 Đảng phải luôn trong sạch , vững mạnh, làm tròn sứ mệnh lịch sử do nhân
dân, dân tộc giao phó là lãnh đạo giành độc lập cho Tổ quốc và đưa lại tự
do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Trong giai đoạn Đảng cầm quyền, Hồ

Chí Minh càng chú trọng hơn việc phịng và chống các tiêu cực trong Đảng.
 Xây dựng Đảng văn minh còn thể hiện trong giai đoạn cầm quyền, Đảng
hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và luật pháp, Đảng không phải là tổ
chức đứng trên dân tộc.
 Đảng văn minh còn ở chỗ đội ngũ đảng viên, từ những đảng viên giữ chức
vụ lãnh đạo, quản lý trong bộ máy Đảng, Nhà nước, các đoàn thể quần
chúng, nhất là những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý chủ chốt, cho đến
đảng viên không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý phải là những chiến sĩ tiên
phong, gương mẫu trong công tác và cuộc sống hằng ngày.
 Đảng văn minh phải là Đảng có quan hệ quốc tế trong sáng, hoạt động
khơng những vì lợi ích dân tộc Việt Nam mà cịn vì độc lập, chủ quyền, tồn
vẹn lãnh thổ của các quốc gia khác, vì hịa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát
triển của các dân tộc trên thế giới.

22


Nếu Đảng khơng có đạo đức, văn minh thì Đảng sẽ bị mất chính quyền lãnh
đạo và khi đó Đảng chứng tỏ là một tổ chức không trong sạch, vững mạnh, đội ngũ
cán bộ, đảng viên thối hóa, biến chất. Đến mức như thế và đến lúc như thế thì mọi
thành quả của Cách mạng Việt Nam sẽ bị tiêu tàn đúng như cái logic tất yếu mà Hồ
Chí Minh đã cảnh báo: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hơm qua là
vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi
người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa , nếu sa vào chủ
nghĩa cá nhân”. Như vậy, xây dựng Đảng để cho Đảng xứng đáng là Đảng đạo
đức, văn minh là một nội dung sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng
sản Việt Nam, là bước phát triển sáng tạo của Người so với lý luận của Lênin về
đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.
2.2. Đảng là người lãnh đạo, là đầy tớ của nhân dân
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung

thành của nhân dân là một luận điểm cách mạng, khoa học, là một đóng góp quan
trọng vào lý luận xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Luận điểm này
đã chỉ rõ vấn đề bản chất nhất trong mối quan hệ giữa một đảng cộng sản cầm
quyền với quần chúng nhân dân.
Đảng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân là tư tưởng nhất
quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, khẳng
định rõ vai trò đội tiên phong, bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Ngay từ khi
thành lập Đảng, Người đã chỉ rõ: Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, phải
thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo
được dân chúng. Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân cày và dựa vững vào
hạng dân cày nghèo. Đảng ra đời là vì lợi ích của nhân dân, sự lãnh đạo của Đảng
là nhằm “lấy tài dân, sức dân để làm những cơng việc có lợi cho dân”, chứ khơng
phải vì lợi ích của người lãnh đạo. Với ý nghĩa như vậy, nên Đảng vừa là người
23


lãnh đạo vừa là người đầy tớ của nhân dân. Đó cũng chính là lý do ra đời và tồn tại
của Đảng.
Là người lãnh đạo, Đảng phải lãnh đạo trực tiếp, toàn diện đối với Nhà nước, các
tổ chức đoàn thể xã hội và toàn thể nhân dân. Do vậy, Đảng phải có trách nhiệm
hoạch định đường lối đúng đắn, hợp quy luật, thuận lòng dân và đưa đường lối đó
vào nhân dân để giác ngộ, tập hợp, tổ chức nhân dân đứng lên đấu tranh giành độc
lập dân tộc và xây dựng xã hội mới-xã hội xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Đảng phải
thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức. Mọi cán bộ, đảng viên của Đảng phải thực sự là công bộc của nhân dân. Sự
nghiệp lãnh đạo của Đảng là vì dân, tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân, việc gì có
lợi cho dân thì phải làm cho kỳ được, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh;
mỗi cán bộ, đảng viên phải là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung,
chứ khơng phải để đè đầu cưỡi cổ dân.
Đảng có trách nhiệm là người “đầy tớ’’ của dân. “Đầy tớ” ở đây khơng có nghĩa là

“tơi tớ, hay theo đi quần chúng” mà là tận tâm tận lực, phụng sự nhân dân nhằm
đem lại các quyền và lợi ích cho nhân dân. Bác nói “ việc gì có lợi cho nhân dân
phải làm cho kì được, việc gì có hại cho nhân dân thì phải hết sức tránh”. Đảng
phải tuyệt đối tin tưởng vào nhân dân (vì tài năng và trí tuệ của nhân dân vơ cùng
to lớn), sức mạnh của nhân dân vô cùng to lớn “ phải lấy dân làm gốc”
 
Hồ Chí Minh đề cập “Đảng phải sâu sát, gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe
ý kiến của nhân dân, khiêm tốn học hỏi nhân dân và phải chịu sự kiểm soát của
nhân dân. Đảng phải thực hành triệt để dân chủ, trước hết là dân chủ trong nội bộ
Đảng, chống bạo biện, làm thay, phải thơng qua chính quyền Nhà nước “của dân
do dân và vì dân”. Đảng phải lãnh đạo xây dựng luật pháp để quản lý ,điều hành xã
hội ,đồng thời thường xuyên coi trọng công tác giáo dục ,đào tạo bồi dưỡng cán bộ
24


viên chức Nhà nước. Phải kiểm tra nhằm phát huy vai trò tiên phong của cán bộ
đội ngũ giảng viên,cán bộ Đảng.Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: "Chế độ ta là chế
độ dân chủ,nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả
các cán bộ, từ trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào
và ngành nào - đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Vào Đảng là
để phục vụ nhân dân, phục vụ giai cấp, phục vụ cách mạng. Vì vậy, Bác nhấn
mạnh: “Mỗi người đảng viên, mỗi người cán bộ từ trên xuống dưới đều phải hiểu
rằng mình vào Đảng để làm đầy tớ cho nhân dân... Làm đầy tớ nhân dân chứ không
phải là “quan” nhân dân".
 
 “ Người đầy tớ trung thành” là sự nhắc nhở và chỉ rõ vai trò, trách nhiệm của mỗi
cán bộ Đảng viên trong mọi hoạt động của mình đều phải quan tâm thực sự đến lợi
ích của nhân dân, tận tụy với cơng việc, phải gương mẫu trước dân. Phải làm cho
dân tin, dân phục để dân hết lòng ủng hộ giúp đỡ.
“ Người đầy tớ trung thành” theo Hồ Chí Minh cịn có nghĩa khác, đó là địi hỏi

mỗi cán bộ Đảng viên phải có tri thức khoa học, trình độ chun mơn giỏi nghiệp
vụ, thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng:  “  cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ
tư”. Khơng chỉ nắm vững và thực hiện tốt quan điểm của Đảng mà cịn biết tun
truyền vận động lơi cuốn quần chúng đi theo Đảng .
 Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ
của nhân dân khơng hề có sự đối lập, mâu thuẫn mà ngược lại đó là sự gắn bó,
thống nhất chặt chẽ, không tách rời của một vấn đề, mặt này làm điều kiện, tiền đề
của mặt kia và phải làm tốt cả hai mặt thì đảng cộng sản mới hồn thành được
trọng trách của mình. Người chỉ rõ, đảng viên, cán bộ muốn xứng đáng là người
lãnh đạo, thì: “Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì
25


×