Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

TIỂU LUẬN: DI CHÚC HỒ CHÍ MINH VÀ CON ĐƯỜNG ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HÔM NAY potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 106 trang )









TIỂU LUẬN:
DI CHÚC H
Ồ CHÍ MINH VÀ CON
ĐƯỜNG ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
HÔM NAY












Bản Di chúc lịch sử mà cách đây 40 năm, trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta không chỉ kết tinh trong đó tinh
hoa tư tưởng, đạo đức và tâm hồn cao đẹp của một vĩ nhân, mà còn thể hiện
đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam. Do vậy, 40 năm qua,
nhất là trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, Di chúc Hồ Chí Minh vẫn soi
sáng con đường cách mạng Việt Nam. Trong bài viết này, sau khi nêu bật những


giá trị trường tồn, mang ý nghĩa lịch sử và thời đại của Di chúc Hồ Chí Minh, tác
giả đã chỉ ra và luận giải vai trò định hướng của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng Đảng, về đoàn kết dân tộc, về rèn luyện đạo đức cách mạng, đào tạo thế hệ
trẻ, phát triển kinh tế - xã hội,… đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.

40 năm trước, sau khi đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc
và nhân loại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi vào cõi vĩnh hằng với tư cách người anh
hùng giải phóng dân tộc, nhà tư tưởng, nhà văn hoá lớn của thời đại chúng ta.
Trước lúc đi xa, Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta bản Di
chúc lịch sử, kết tinh trong đó cả tinh hoa tư tưởng, đạo đức và tâm hồn cao đẹp
của một vĩ nhân.



Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ phản ánh khí phách hào hùng của
dân tộc, không chỉ là tình cảm và niềm tin của Người dành cho Đảng, cho dân, mà
còn thể hiện đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam 40 năm
qua. Di chúc của Người đã trở thành lời hiệu triệu thiêng liêng của Tổ quốc thúc
giục bao thế hệ người Việt Nam lên đường đánh giặc, cứu nước và xây dựng Tổ
quốc Việt Nam giàu, mạnh.
(*)
Có thể nói, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết
tinh những giá trị cao đẹp nhất của văn hoá phương Tây, văn hóa phương Đông,
giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam và chủ nghĩa Mác - Lênin được toả sáng
trong thực tiễn cách mạng nước ta. Chiều sâu và tầm cao trí tuệ nhân văn đó của
Người không phải tự nhiên mà có. Trước hết, nó được hình thành từ truyền thống
quê hương, đất nước và phát triển suốt quá trình khổ công học tập, rèn luyện, tích
luỹ trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Để nghiên cứu, học tập Di
chúc của Người, chúng ta cần phải hiểu bối cảnh mà bản Di chúc ra đời, đồng thời
phải hiểu con người Hồ Chí Minh với chữ Người viết hoa, với những nét đặc sắc

của một nhà hiền triết phương Đông, kết hợp với tính cách anh hùng giải phóng
dân tộc và danh nhân văn hoá thế giới.
Từ khi còn nhỏ, trong tâm hồn Hồ Chí Minh đã sớm hình thành lý tưởng, tình yêu
đất nước, bản chất trung kiên và nghiêm khắc trong sinh hoạt, cứng cỏi và linh
hoạt trong giao tiếp. Người lớn lên trong một gia đình nhà Nho thanh bạch và hơn
nữa, lại được nuôi dưỡng bởi một dân tộc có truyền thống mấy ngàn năm dựng
nước và giữ nước, có nền văn hiến lâu đời và khát vọng vươn tới cuộc sống tốt
đẹp, song lại phải sống trong cảnh lầm than. Chính trong hoàn cảnh đó, Người đã
sớm nhận ra nỗi nhục của kiếp đời nô lệ, nỗi đau của người dân mất nước và
Người đã ra đi tìm đường cứu nước với một ý chí “đuổi thực dân, giải phóng đồng
bào”. Bôn ba khắp năm châu bốn biển, làm đủ mọi nghề, học được nhiều điều,…
và vào năm 1920, bằng tấm lòng yêu nước nhiệt thành, tình thương dân sâu sắc,
chí căm thù giặc, cùng với trí tuệ anh minh của mình, Người đã tìm thấy ở chủ
nghĩa Mác - Lênin một con đường mới cho cách mạng Việt Nam. Người khẳng



định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”(1).
Khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã thấu hiểu tư tưởng “Nhân,
Nghĩa, Trí, Dũng” của Nho giáo và quan niệm “từ bi, hỉ xả”, “cứu nhân độ thế”
của Phật giáo… Song, bằng tri thức khoa học và thực tiễn cách mạng mới, Người
đã vượt qua những hạn chế của các quan niệm này, hướng tới giá trị nhân văn phổ
quát - đó là cái tương quan giữa cá nhân - giai cấp - dân tộc - nhân loại trong toàn
bộ sự nghiệp cách mạng giải phóng con người. Người đã biết đến ước mơ có một
xã hội tốt đẹp và chủ trương cứu vớt chúng sinh của Chúa Giêsu, đến những giá trị
đích thực của văn hoá phương Tây với những tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái,
v.v Chính vì vậy, trong Tuyên ngôn độc lập của nước ta, Người đã đưa vào đó
phần tinh tuý nhất trongTuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên
ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 để khẳng định

quyền được sống trong bình đẳng, độc lập, tự do của nhân dân ta: “Tất cả mọi
người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có
thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc” và “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi;
và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”(2).
Thấy rõ những giá trị trong tư tưởng nhân văn phương Tây, Hồ Chí Minh cũng
sớm nhận rõ những hạn chế của quyền con người trong chủ nghĩa tư bản và chỉ ra
rằng: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không
phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên
quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hoà bình, hạnh
phúc…”(3).
Từ những giá trị nhân văn trong các nền văn hoá Đông - Tây và đạo lý truyền
thống Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin không phải theo
lối “tầm chương trích cú”, mà ở Người là sự lắng đọng những cái tinh hoa nhất
trong thế giới quan duy vật, phương pháp luận khoa học biện chứng, nhân sinh



quan cộng sản chủ nghĩa và vận dụng chúng một cách sáng tạo vào thực tiễn Việt
Nam.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930 là bước ngoặt vĩ đại trong
lịch sử cách mạng nước ta. Nó chấm dứt thời kỳ cách mạng Việt Nam trong tình
trạng “đen tối như không có đường ra”, đồng thời mở ra trang sử mới cho dân tộc
– trang sử độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân ta làm cuộc Cách mạng tháng Tám thành công,
khai sinh ra nước Việt Nam mới; và sau đó, đánh thắng thực dân Pháp, đế quốc
Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước
đi lên chủ nghĩa xã hội. Tất cả những điều đó chứng tỏ một sự thật là: Đảng Cộng
sản Việt Nam là người khởi xướng, tổ chức và lãnh đạo nhân dân, đưa cách mạng
nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nói cách khác, sự lãnh đạo của

Đảng luôn là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta. Chính vì
vậy, Hồ Chí Minh đã dành phần mở đầu của Di chúc để nói về Đảng: “Nhờ đoàn
kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ
quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo
nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí
từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ
gìn con ngươi của mắt mình.
Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê
bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống
nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí, thương yêu lẫn nhau.
Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ
gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân”(4).
Để xây dựng một Đảng cách mạng chân chính, đủ sức lãnh đạo cách mạng cần rất



nhiều yếu tố: đoàn kết, tư tưởng, chính trị, tổ chức, đạo đức, văn hóa, v.v Ở đây,
Hồ Chí Minh đặt yếu tố đoàn kết lên hàng đầu; bởi lẽ, chỉ có đoàn kết mới tập hợp
được lực lượng, hình thành được tổ chức cách mạng, mới tạo được sức mạnh để
biến lý luận khoa học, đường lối, chính sách thành hiện thực. Đoàn kết không phải
là sự nhất trí chung chung; nó hoàn toàn xa lạ với cách sống “dĩ hòa vi quý”. Đoàn
kết chỉ thực sự tạo ra sức mạnh cách mạng trên cơ sở “thực hành dân chủ rộng rãi,
thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình”. Đó chính là nguyên tắc,
phương pháp luận mácxít để tránh chủ quan duy ý chí, thói quan liêu và tệ tham
nhũng. Tự do, dân chủ là điều kiện cần thiết để hội họp, trao đổi, tranh luận những
vấn đề quan trọng của Đảng và Nhà nước. Không có tự do trao đổi, tranh luận thì
không thể có sự thống nhất thực sự trong hành động. Nhưng, để đường lối, chính

sách, nghị quyết đã được thông qua trở thành hiện thực, thì cần có kỷ luật và tổ
chức trên tất cả các trình độ và trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Như vậy,
có thể nói, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống đoàn kết trên cơ sở “thực
hành dân chủ rộng rãi” và thực hiện “thường xuyên”, “nghiêm chỉnh” nguyên tắc
“tự phê bình và phê bình”, rèn luyện đạo đức “cần kiệm liêm chính, chí công vô
tư” - đó là những nhân tố quan trọng góp phần làm cho Đảng ta thực sự “xứng
đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Là một nhà chiến lược thiên tài, Hồ Chí Minh luôn có tầm nhìn xuyên thấu lịch sử,
từ quá khứ đến hiện tại và từ hiện tại đến tương lai. Cách mạng là phải có sự kế
thừa, đổi mới. Vì vậy, việc “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc
rất quan trọng và rất cần thiết”(5). Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, đối
với Người, trước hết là bồi dưỡng thế hệ trẻ, bởi chỉ có họ mới đủ sức làm nên sự
nghiệp lớn là giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người đặt niềm tin
lớn vào thế hệ trẻ và luôn nghĩ rằng, “nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một
phần lớn là do các thanh niên” – “thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà”
– những người “thừa kế” và “tiếp sức cách mạng” cho thế hệ đi trước một cách
xứng đáng. Những thế hệ “thừa kế cách mạng” này không thể hình thành tự phát



một sớm, một chiều, mà phải được chủ động giáo dục, đào tạo một cách có kế
hoạch, “vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Vì vậy,
“Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành
những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên”(6). Để
đào tạo được những người “thừa kế cách mạng” như vậy, cần quán triệt phương
châm “học đi đôi với hành”, “lý luận gắn liền với thực tiễn”; đồng thời phải sử
dụng những phương pháp giáo dục khoa học, mà trước hết và rất quan trọng là
phương pháp “nêu gương”. “Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục
lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ
chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”(7). “Dạy các cháu thì

nói với các cháu chỉ là một phần, cái chính là phải cho các cháu nhìn thấy, cho nên
những tấm gương thực tế là rất quan trọng”(8). Cả cuộc đời Người là tấm gương
mẫu mực của đạo đức cách mạng “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”, phong
cách sống giản dị, trong sáng. Giờ đây, Đảng ta tiến hành Cuộc vận động “Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” chính là để thực hiện lời căn dặn
này của Người nhằm đào tạo những con người Việt Nam mới, đủ sức, đủ tài đưa
sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đến thắng lợi trọn
vẹn.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng – luận điểm đó của chủ nghĩa Mác –
Lênin không bao giờ cũ cả, nhất là đối với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa
xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân. Ở Hồ
Chí Minh, thương dân hết mực và tin dân bắt nguồn từ giá trị truyền thống nhân ái
Việt Nam mà trực tiếp nhất, gần nhất là từ tư tưởng “ái quốc là ái dân” của cụ thân
sinh ra Người. Tình thương và lòng tin mãnh liệt ấy đã trở thành ý chí, quyết tâm
cách mạng để giành độc lập, thống nhất cho dân tộc, xây dựng xã hội mới, đem lại
cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Với Người, “nếu nước độc lập mà dân
không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(9). Chính vì
vậy, trong Di chúc, Người căn dặn: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát



triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân
dân”(10). Vì thế, Người yêu cầu, sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước, cần thiết và trước hết “miễn thuế nông nghiệp 1 năm cho các hợp tác xã
nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy
mạnh sản xuất”(11). Đó chính là tấm gương “thấu hiểu lòng dân” và “khoan thư
sức dân” của người xưa.
Nói về cách mạng Việt Nam, mở đầu Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định sự tất thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Đó
là niềm tin của một nhà hiền triết phương Đông, của một lãnh tụ vào quy luật

muôn đời của cuộc chiến tranh “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay
cường bạo”. Đó cũng chính là niềm tin của người anh hùng giải phóng dân tộc,
danh nhân văn hoá thế giới vào con người, vào Đảng, vào quần chúng nhân dân,
vào thế hệ trẻ,… Do vậy, kết thúc Di chúc, Người đã chỉ rõ con đường và mục tiêu
của cách mạng nước ta là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng
một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(12). Và, để thực hiện mục tiêu
đó, theo Người, “cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa
vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”(13).
40 năm đã trôi qua, kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa, Đảng và nhân dân ta
đã từng bước thực hiện thắng lợi những điều Người căn dặn. Chúng ta đã hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam,
thống nhất Tổ quốc và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Chiến tranh đã đi qua,
nhưng nhiều năm sau, khói lửa chiến tranh mới thực sự chấm dứt. Chúng ta xây
dựng chủ nghĩa xã hội trong lúc đất nước còn nghèo, lại mang trên mình đầy
thương tích chiến tranh. Không chỉ thế, trong những năm đầu thập kỷ 80, chúng ta
còn phải đối mặt với những yếu kém, bất cập của cơ chế hành chính quan liêu bao
cấp, nền kinh tế đất nước rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Chính trong hoàn cảnh
ngặt nghèo đó, Đảng ta đã chứng tỏ bản lĩnh khoa học và cách mạng của mình



bằng việc khởi xướng, tổ chức và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước. Thực
hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tại Đại hội VI, Đảng ta đã “nhìn thẳng
vào sự thật”, thực hiện tự phê bình và phê bình, nghiêm túc rút ra những bài học
lịch sử của cách mạng Việt Nam: “lấy dân làm gốc”, “tôn trọng và hành động theo
quy luật khách quan”, “đoàn kết toàn dân”, phát huy sức mạnh tổng hợp để bảo vệ
Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Công cuộc đổi mới đang trên đà khởi sắc
thì “sự sụp đổ ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã gây xáo động
lớn về tư tưởng, tình cảm trong cán bộ, đảng viên và nhân dân”, đồng thời “các thế

lực thù địch ráo riết chống phá ta trên mặt trận tư tưởng, văn hoá nhằm thực hiện
“diễn biến hoà bình”(14). Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, Đảng ta đã tỏ rõ bản lĩnh của một Đảng cầm quyền, huy động sức
mạnh tổng hợp, thúc đẩy công cuộc đổi mới đi lên và đạt được những thành tựu
khả quan. Đại hội VIII của Đảng đã tổng kết kinh nghiệm và những thành tựu của
10 năm đổi mới, quyết định đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Kiểm điểm
5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và đánh giá tổng quát 20 năm đổi mới,
Đảng ta đã khẳng định: “Hai mươi năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành
tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội,
có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt”(15)
Chúng ta tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị
trường, đất nước “mở cửa”, “hội nhập” với những thời cơ và thách thức to lớn.
Những thách thức đó là: “tụt hậu xa hơn về kinh tế”, “diễn biến hoà bình”, “chệch
hướng xã hội chủ nghĩa”, “quan liêu và tham nhũng”. Đặc biệt là, “tệ quan liêu,
tham nhũng và suy thoái về phẩm chất, đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên
làm cho bộ máy Đảng và Nhà nước suy yếu, lòng tin của nhân dân đối với Đảng,



đối với chế độ bị xói mòn, các chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước bị
thi hành sai lệch dẫn tới chệch hướng; đó là mảnh đất thuận lợi cho diễn biến hoà
bình”(16). Sau hơn 20 năm đổi mới, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí
trong một bộ phận cán bộ, công chức vẫn còn diễn ra một cách nghiêm trọng(17).
Có thể nói, sau hơn 20 năm đổi mới, với Việt Nam chúng ta, thuận lợi và khó
khăn, thời cơ và nguy cơ vẫn luôn đan xen lẫn nhau. Trong điều kiện đó, chúng ta

không những cần phải chủ động nắm bắt thời cơ để thúc đẩy sự phát triển nhanh
và vững chắc nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà còn phải tích
cực xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đồng thời, triển khai
một cách có hiệu quả cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đưa Cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đi vào chiều sâu để
nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên theo tinh thần Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: đoàn kết, thực hành dân chủ rộng rãi, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình,
rèn luyện đạo đức cách mạng “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”, nâng cao đời
sống của nhân dân, xây dựng nguồn nhân lực, đào tạo nhân tài để tăng nội lực thúc
đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
(15)

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh không những thể hiện tình cảm, niềm tin của
Người dành cho Đảng, cho dân, mà còn là bó đuốc soi sáng con đường cách mạng
Việt Nam đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Nghiên cứu và suy ngẫm về những tư tưởng cơ bản của Di chúc, nhất là
những tư tưởng về xây dựng Đảng, về đoàn kết trên cơ sở tự phê bình và phê bình,
về rèn luyện đạo đức cách mạng, về đào tạo thế hệ trẻ, về phát triển kinh tế… để
nâng cao đời sống của nhân dân và việc vận dụng những tư tưởng trên trong công
cuộc đổi mới đất nước hiện nay, có thể nói, là việc làm có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc.q





(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Phó tổng biên tập Tạp chí Phát triển nhân lực.
(1) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.9. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.314.
(2) Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.1.
(3) Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr.461.

(4) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr. 497 - 498.
(5) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.498.
(6) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.498.
(7) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.558.
(8) Hồ Chí Minh. Sđd., t.9, tr.331.
(9) Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.56.
(10) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.498.
(11) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.504.
(12) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.500.
(13) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.505.
(14) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khóa VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.51.
(15) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.67.
(16) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII.
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.79.
(17) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khóa X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.65.



CÁCH M
ẠNG THÁNG


ỜI NGA
-

BÀI H
ỌC LỊCH SỬ, KINH NGHIỆM

THỰC TIỄN TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY VÀ CHO CÔNG CUỘC Đ
ỔI
MỚI CỦA CHÚNG TA HÔM NAY





ĐẶNG HỮU TOÀN
(*)


Với tính chất vạch thời đại, Cách mạng tháng Mười Nga đã đi vào lịch sử nhân
loại với tư cách cuộc cách mạng mở đầu thời đại mới - thời đại quá độ lên chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Với tư cách đó, cuộc Cách mạng tháng
Mười Nga vẫn mãi là cuộc cách mạng có giá trị lịch sử, mang ý nghĩa toàn cầu, ý
nghĩa thời đại và là bài học lịch sử, kinh nghiệm thực tiễn vô giá cho tất cả các
quốc gia, dân tộc quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi vĩ đại của nó vẫn là
nguồn cổ vũ lớn lao, là sức mạnh không gì ngăn cản được của nhân loại tiến bộ
trên con đường tự giải phóng. Ánh sáng của Cách mạng tháng Mười không bao
giờ tắt. Dưới ánh sáng của nó, giải phóng và sáng tạo - đó vẫn là triết lý phát triển
của thời đại ngày nay.

Nhìn lại tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại hơn hai mươi thế kỷ qua, chúng ta
có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng, thế kỷ XX - thế kỷ của một phong trào
cách mạng sâu rộng - đã đi vào lịch sử nhân loại với những dấu ấn cực kỳ sâu sắc.
Một trong những dấu ấn sâu sắc nhất, mãi trường tồn và không thể phai mờ là Cách
mạng tháng Mười Nga - “cuộc cách mạng vĩ đại mở ra thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội”(1) trên phạm vi toàn thế giới.
92 năm đã qua, kể từ ngày cả thế giới phải rung chuyển (ngày 7 tháng 11 năm

1917), Cách mạng tháng Mười Nga vẫn được cả cộng đồng nhân loại tiến bộ thừa
nhận là một trong những sự kiện vĩ đại nhất của lịch sử nhân loại - sự kiện không
chỉ làm rung chuyển, mà còn làm đảo lộn trật tự thế giới. 92 năm, cả cộng đồng
nhân loại vẫn thấy rõ ánh sáng từ con đường do cuộc cách mạng vĩ đại ấy khai
phá với tư cách con đường của thời đại, của cả cộng đồng nhân loại - con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
(*
Lịch sử nhân loại 92 năm qua đã diễn ra với biết bao



thăng trầm, với không ít khúc quanh lịch sử, mà biến cố lịch sử lớn nhất là sự sụp
đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu diễn ra vào những năm đầu
thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, nhưng Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917
vẫn mãi trường tồn trong lịch sử nhân loại với tư cách cuộc cách mạng “mở ra con
đường giải phóng cho các dân tộc và cả loài người, mở đầu một thời đại mới trong
lịch sử, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế
giới"(2). Không chỉ thế, trong thời đại ngày nay và trong công cuộc đổi mới của
chúng ta hôm nay, Cách mạng tháng Mười Nga vẫn trường tồn mãi với tư cách bài
học lịch sử, kinh nghiệm thực tiễn vô giá.
Bài học lịch sử, kinh nghiệm thực tiễn vô giá của Cách mạng tháng Mười Nga
trước hết là ở chỗ, với nước Nga, thắng lợi của cuộc cách mạng này đã triệt để giải
phóng những người vô sản và nông dân Nga nghèo khổ khỏi sự áp bức, bóc lột của
chủ nghĩa tư bản, của chế độ Nga Sa hoàng, đã làm thay đổi hoàn toàn địa vị xã
hội của họ, nâng họ lên hàng những người chủ thật sự của chế độ xã hội mới. Với
thắng lợi của cuộc cách mạng ấy, ở nước Nga, các xôviết của những người lao
động được thiết lập; một xã hội hoàn toàn mới - xã hội xã hội chủ nghĩa - ra đời;
khát vọng giải phóng con người khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, bất công của biết bao
thế hệ, của biết bao nhà tư tưởng vĩ đại trong lịch sử nhân loại mà C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin là những người vĩ đại nhất trong các nhà tư tưởng vĩ đại

ấy được thực hiện; sự công bằng và bình đẳng giữa người với người được tạo ra;
con người được sống trong tự do với đúng nghĩa của nó và họ được tự do mưu cầu
hạnh phúc; các dân tộc được sống trong hoà bình, trong tình hữu nghị anh em. Và,
nước Nga - một nước vốn kém phát triển nhất trong số các nước tư bản châu Âu
khi đó, chỉ trong vòng vài thập kỷ, đã trở thành một cường quốc không chỉ trong
phạm vi châu Âu, mà trên quy mô toàn thế giới. Sau Cách mạng tháng Mười, nước
Nga xã hội chủ nghĩa ra đời đã trở thành thành trì vững chắc cho phong trào giải
phóng các dân tộc bị áp bức, trở thành lực lượng chủ yếu nhất cứu nhân loại thoát
khỏi thảm hoạ của chủ nghĩa phátxít, tạo điều kiện và giúp đỡ cho một loạt nước ở



Đông Âu, châu Á và sau đó là ở các nước Tây bán cầu tiến hành thắng lợi cách
mạng giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội.
(2)

Bài học lịch sử, kinh nghiệm thực tiễn vô giá của Cách mạng tháng Mười Nga còn
là ở chỗ, thắng lợi của nó không chỉ đơn thuần trở thành tấm gương cổ vũ cho các
dân tộc khác, mà thực sự đã tạo ra con đường cách mạng hoàn toàn mới cho phong
trào giải phóng dân tộc trên phạm vi toàn thế giới. Theo con đường Cách mạng
tháng Mười, toàn thể nhân loại bị áp bức, bóc lột đã đứng lên chống lại sự áp bức
của giai cấp tư sản. Những tư tưởng của Cách mạng tháng Mười được phổ biến
trên phạm vi toàn thế giới đã khích lệ các dân tộc đứng lên đấu tranh chống lại
những kẻ áp bức dân tộc, giành tự do và độc lập dân tộc. Nó đem lại một xung lực
cách mạng mạnh mẽ cho phong trào công nhân quốc tế, tạo ra một cao trào đấu
tranh cách mạng rộng khắp của giai cấp công nhân, đưa giai cấp công nhân trở
thành giai cấp trung tâm của thời đại hiện đại. Cùng với thắng lợi của Cách mạng
tháng Mười, thời kỳ bão táp cách mạng của quần chúng lao động ở châu Á, châu
Phi và Mỹ Latinh đã bắt đầu. Không chỉ thế, Cách mạng tháng Mười còn mở đầu
cho việc thống nhất các cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nông

dân lao động với phong trào giải phóng dân tộc của các dân tộc bị nô dịch và bị lệ
thuộc thành một lực lượng thống nhất. Và, với sứ mệnh đó, nó đã mở ra cho các
dân tộc thuộc địa chiếm hơn một nửa nhân loại một con đường duy nhất đúng đắn
để đấu tranh vì chủ quyền và độc lập dân tộc. Tấm gương Cách mạng tháng Mười
đã trở thành ngôi sao chỉ đường cho các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, đem
lại hy vọng cho các dân tộc bị áp bức về khả năng thắng lợi hoàn toàn, khả năng tự
giải phóng của nó. Theo nghĩa đó, Tôn Trung Sơn đã gọi Cách mạng tháng Mười
là hy vọng vĩ đại của nhân loại, Nêru coi nó là cuộc cách mạng đã đặt nền móng
cho một nền văn minh mới, còn Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại của chúng ta đã
khẳng định đó là “ngọn đèn pha soi sáng cuộc đấu tranh cho tự do và hạnh
phúc”(3) của toàn nhân loại.
Trên thực tế, lịch sử nhân loại thế kỷ XX đã chứng kiến, dưới ảnh hưởng và sự tác



động trực tiếp của Cách mạng tháng Mười Nga, cả một hệ thống rộng lớn của chủ
nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới đã hoàn toàn sụp đổ, hàng loạt nước thuộc địa
ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh, trong đó có Việt Nam chúng ta, đã giành được
độc lập dân tộc, hàng trăm triệu người được giải phóng khỏi xiềng xích nô lệ. Một
hệ thống xã hội chưa từng có trong lịch sử nhân loại - hệ thống các nước xã hội
chủ nghĩa - ra đời đã đóng vai trò lớn lao trong tiến trình phát triển của thế giới
hiện đại - tiến trình phát triển vì mục tiêu hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội. Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không còn sau sự sụp đổ của
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Song, vẫn còn đó Việt Nam,
Trung Quốc, Cuba, mà công cuộc cải cách, đổi mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa thành công đã, đang và sẽ đem lại cho các nước này một thế đứng vững
vàng. Chế độ xã hội chủ nghĩa không còn tồn tại với tư cách một hệ thống thế giới,
song điều đó không có nghĩa là con đường đi tới chủ nghĩa xã hội đã bị chặn lại.
Trên phạm vi toàn thế giới vẫn có nhiều quốc gia, dân tộc phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, theo lý tưởng của Cách mạng tháng Mười Nga.

(3)
Bằng
chứng chứng minh cho điều này là sự phát triển của trào lưu cánh tả trên phạm vi
toàn thế giới, nhất là ở khu vực Mỹ Latinh. Trong những năm gần đây, nhiều nước
ở khu vực này, mà Vênêxuêla là một ví dụ điển hình, chủ nghĩa xã hội đã trở thành
niềm tin công khai của đông đảo quần chúng nhân dân lao động đang cống hiến
sức lực và trí tuệ cho công cuộc xây dựng xã hội mới dưới sự lãnh đạo của các
đảng cách mạng, công nhân, cánh tả. Ngọn cờ Cách mạng tháng Mười Nga vẫn
tung bay trong không khí cách mạng của nhiều nước thuộc khu vực Tây bán cầu
này. Với sự kiện hiện thực này, có thể nói, quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn là quy
luật tiến hoá của xã hội loài người mà Cách mạng tháng Mười Nga là thắng lợi đầu
tiên. "Thắng lợi đầu tiên đó chưa phải là một thắng lợi cuối cùng", song nó đã mở
ra một thời đại mới, một sự nghiệp mới trong lịch sử nhân loại - sự nghiệp giải
phóng những người lao động toàn thế giới. Cách mạng tháng Mười Nga "đã bắt
đầu sự nghiệp ấy", còn "bao giờ và trong thời hạn nào thì những người vô sản



nước nào sẽ hoàn thành được sự nghiệp ấy, điều đó không quan trọng. Điều quan
trọng, chính là băng đã tan, đường đã mở, lối đã vạch ra rồi"(4).
Cách mạng tháng Mười Nga đã đi vào lịch sử nhân loại 92 năm, song thắng lợi của
nó không phải đã thuộc về quá khứ của nhân loại. Cách mạng tháng Mười vẫn tiếp
tục đi vào lịch sử nhân loại trong thế kỷ XXI với tư cách bài học lịch sử, kinh
nghiệm thực tiễn vô giá và trên thực tế, nó đã thực sự trở thành nhân tố thúc đẩy
lịch sử nhân loại phát triển theo đúng quỹ đạo của mình - phát triển theo con
đường xã hội chủ nghĩa. Lịch sử nhân loại đang có những thăng trầm, những bước
quanh co, song tư tưởng của Cách mạng tháng Mười Nga vẫn toả sáng, con đường
tiến bộ xã hội, giải phóng nhân loại do nó vạch ra vẫn là con đường phát triển tiếp
theo của nhiều quốc gia, dân tộc. Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga cho
thấy đây là con đường được lựa chọn hợp quy luật, dẫu không có con đường nào là

thẳng tắp, tự động dẫn tới tiến bộ xã hội. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa Đông Âu cộng với sự chững lại của phong trào cộng sản quốc tế đã
có ảnh hưởng tiêu cực tới sự nghiệp cách mạng của các dân tộc đang đấu tranh cho
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Tổn thất này đã làm chậm
bước tiến của nhân loại lên chủ nghĩa xã hội, khiến cho cách mạng xã hội chủ
nghĩa rơi vào giai đoạn thoái trào, song không vì thế mà giá trị lịch sử, ý nghĩa
vạch thời đại của Cách mạng tháng Mười Nga không còn và chủ nghĩa xã hội
không còn khả năng phát triển. Thất bại tạm thời ấy khiến cho "chủ nghĩa xã hội
đang đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang phải trải qua
những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa
xã hội, vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử"(5).
Trong thời đại ngày nay, dưới ánh sáng của Cách mạng tháng Mười, các dân tộc
tiến bộ trên toàn thế giới vẫn tiến bước trên con đường đấu tranh cách mạng sôi
động - "cuộc đấu tranh thực tế của hàng triệu người bị áp bức dưới sự lãnh đạo của
giai cấp vô sản để xoá bỏ chiến tranh, để đoàn kết công nhân tất cả các nước
chống lại sự liên minh giữa giai cấp tư sản các nước"(6), giành độc lập, hoà bình,



tự do và tiến bộ xã hội. 92 năm qua và sẽ còn nhiều năm tiếp theo nữa, thắng lợi
của Cách mạng tháng Mười vẫn còn đem đến cho giai cấp vô sản và các dân tộc
trên toàn thế giới niềm tin vào khả năng tiến hành cách mạng giải phóng giai cấp,
giải phóng dân tộc. Và, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Giống như mặt
trời chói lọi, Cách mạng tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng
triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có
cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế"(7) (chúng tôi nhấn mạnh
- Đ.H.T).
Nói đến bài học lịch sử, kinh nghiệm thực tiễn vô giá của Cách mạng tháng Mười
Nga không thể không khẳng định giá trị lớn lao của cuộc cách mạng này ở "tính tất
yếu lịch sử là sẽ tái diễn trong phạm vi quốc tế”. Nhấn mạnh điều này, V.I.Lênin

viết: “Ngày nay, chúng ta đã có trước mắt một kinh nghiệm quốc tế rất phong phú
chứng thực hiển nhiên rằng một số đặc điểm cơ bản của cuộc cách mạng của ta
không phải chỉ có ý nghĩa địa phương, ý nghĩa đặc biệt - dân tộc, ý nghĩa riêng cho
nước Nga mà có ý nghĩa quốc tế”(8).
Thật vậy, Cách mạng tháng Mười Nga đã đem lại cho chúng ta kinh nghiệm đấu
tranh cách mạng và giữ vững thành quả cách mạng mà nó là một tấm gương sáng
ngời. Trong lịch sử nhân loại đã từng có nhiều phong trào đấu tranh anh dũng của
quần chúng nhân dân lao động nhằm giải phóng khỏi sự bóc lột và áp bức, song tất
cả các phong trào đó đều đã thất bại. Ở đây, có nhiều nguyên nhân và một trong
những nguyên nhân cơ bản, theo V.I.Lênin, là ở chỗ bất cứ một cuộc cách mạng
nào cũng chỉ có giá trị khi nó biết tự vệ, nhưng không phải cách mạng có thể biết
ngay được cách tự vệ. Cách mạng là sự thức tỉnh của hàng triệu người về cuộc đời
mới và do vậy, cần phải có thời gian. Cách mạng tháng Mười Nga đã thực hiện
quy luật đó một cách sáng tạo và để lại cho chúng ta một bài học lịch sử quý báu
trong đấu tranh cách mạng và bảo vệ các thành quả cách mạng.
Thực tiễn lịch sử nhân loại 92 năm qua, tiến trình phát triển của cách mạng thế
giới và sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nhiều nước trong nhiều thập niên



qua, cũng như công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam và ở một số nước khác trên thế giới trong những năm gần đây đã cho
thấy, Cách mạng tháng Mười Nga là một sự kiện mang ý nghĩa thời đại, là cuộc
cách mạng có tác động mạnh mẽ tới toàn bộ tiến trình phát triển của thế giới.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga không chỉ là thắng lợi vĩ đại của giai
cấp vô sản và nhân dân các dân tộc Nga, mà còn là thắng lợi vĩ đại của giai cấp vô
sản, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Đã không có và
cũng sẽ "không thể có bức tường ngăn cách giữa những chiến thắng của Cách
mạng tháng Mười và những chiến thắng của cách mạng xã hội chủ nghĩa quốc
tế"(9). Thực tiễn lịch sử nhân loại đã, đang và sẽ còn cho thấy, chính thắng lợi của

Cách mạng tháng Mười Nga đã tạo ra cơ hội cho nhân loại thực hiện bước quá độ
lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, trong
đó bao hàm cả khả năng quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đối với các nước
chậm phát triển mà Việt Nam ta là một trong những nước đó. Cơ hội đó đã được
thực tiễn lịch sử nhân loại 92 năm qua xác nhận và là điều không thể phủ nhận
được, cho dù những biến động đầy bi kịch mà nhân loại đang phải chứng kiến từ
những thập niên cuối thế kỷ XX đến nay có làm cho tiến trình phát triển của lịch
sử nhân loại chậm lại.
Nếu học thuyết Mác - Lênin là một giá trị trường tồn trong lịch sử phát triển tư
tưởng nhân loại, thì thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga với tư cách thắng
lợi đầu tiên của học thuyết đó, thắng lợi đưa chủ nghĩa xã hội khoa học từ chỗ chỉ
là ước mơ cao đẹp của giai cấp vô sản, của quần chúng nhân dân lao động và các
dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới "trở thành một hiện thực trong xã hội, có sức
mạnh vô cùng to lớn lôi cuốn hàng nghìn triệu người vào hành động cách mạng, vì
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội"(10), cũng là một giá trị lịch
sử trường tồn. Cách mạng tháng Mười Nga không chỉ đánh dấu thắng lợi lịch sử
của học thuyết Mác - Lênin đối với chủ nghĩa cơ hội và chủ nghĩa cải lương xã
hội, mà còn khẳng định sức mạnh cải tạo to lớn của các tư tưởng xã hội chủ nghĩa.



Thắng lợi của cuộc Cách mạng ấy cho thấy tính tất yếu của việc sử dụng bạo lực
cách mạng đánh đổ quyền thống trị của giai cấp tư sản, thiết lập chính quyền cách
mạng của những người lao động và xây dựng một xã hội không còn chế độ người
bóc lột người. Thắng lợi đó đem lại cho nhân loại toàn thế giới một chân lý không
thể bác bỏ là bất cứ một chế độ xã hội nào đã tỏ ra lỗi thời trong lịch sử tất yếu sẽ
bị thay thế bởi một chế độ xã hội tiến bộ hơn, khi quần chúng nhân dân lao động
được một đảng cách mạng chân chính lãnh đạo nhất loạt nổi dậy đấu tranh để tự
giải phóng. Thắng lợi ấy là một tất yếu khách quan, nó bác bỏ những quan niệm
sai lầm về tính vĩnh hằng của chủ nghĩa tư bản, của chế độ người bóc lột người và

những quan điểm cải lương chủ nghĩa về "sự chuyển hoá dần dần" từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội. Không chỉ thế, thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga
đã mở đầu cho "một sự nghiệp mới mẻ" trong xã hội loài người - "sự nghiệp sáng
tạo ra một kiểu chế độ nhà nước xưa nay chưa từng có" - "chế độ dân chủ ở mức
cao nhất cho công nhân và nông dân", "chế độ dân chủ kiểu mới", "chế độ dân chủ
vô sản"(11).
Thật vậy, thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga không chỉ đánh dấu sự ra đời
của nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới, mà còn đặt nền móng cho một chế độ
xã hội phù hợp nhất với các lợi ích cơ bản của con người. Nó khẳng định các cơ sở
chưa từng có trong lịch sử tồn tại xã hội của con người: chính quyền của người lao
động trong đời sống chính trị, sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất trong đời sống kinh
tế, sự công bằng trong đời sống xã hội, sự bình đẳng trong quan hệ giữa người với
người. Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga còn khai phá con đường mới
cho cả nhân loại - con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, dẫn tới khả năng sáng tạo to
lớn và triệt để nhất nhằm thực hiện lý tưởng giải phóng đông đảo quần chúng lao
động bị áp bức, đưa "con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự
do". Nó cho thấy sức mạnh sáng tạo của con người, của quần chúng nhân dân lao
động trong cuộc đấu tranh tự giải phóng và mở đầu một sự nghiệp kiến tạo xã hội
mới chưa từng có khuôn mẫu trong lịch sử hiện thực.



Trong thời đại ngày nay, ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga đến sự phát
triển xã hội là hết sức lớn lao. Người ta khó có thể chỉ ra một lĩnh vực nào của đời
sống xã hội hiện đại mà lại không thể hiện, phản ánh kinh nghiệm thực tiễn của
cuộc cách mạng ấy. Các tư tưởng của Cách mạng tháng Mười Nga, kinh
nghiệm thực tiễn của nó trong việc thay thế một chế độ chính trị - xã hội lạc hậu
bằng một xã hội công bằng, bình đẳng, xã hội vì con người và sự phát triển con
người đã đưa nhân loại tới tiến bộ xã hội, phát triển văn hoá và văn minh, tới chủ
nghĩa nhân văn cao cả. Với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, các dân tộc

trên thế giới ngày càng tin tưởng và kiên quyết nắm lấy hiện tại và tương lai của
nền văn minh nhân loại, đẩy mạnh sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, dân chủ và tiến
bộ xã hội, tiến hành công cuộc xây dựng kinh tế, xã hội và văn hoá. Bộ mặt chính
trị - xã hội hiện thời của thế giới, có thể khẳng định, là kết quả hợp quy luật của
tiến trình phát triển lịch sử mà Cách mạng tháng Mười Nga đã mở ra.
Bài học lịch sử, kinh nghiệm thực tiễn vô giá của Cách mạng tháng Mười Nga còn
là ở chỗ, thắng lợi của cuộc Cách mạng này đã cho thấy, trong thời đại ngày
nay, sự kết hợp tất yếu, hữu cơ giữa cuộc đấu tranh vì dân chủ và cuộc đấu tranh
vì chủ nghĩa xã hội, giữa dân chủ và chủ nghĩa xã hội không chỉ là mục tiêu, mà
còn là động lực mạnh mẽ thúc đẩy tiến bộ xã hội, đưa cộng đồng nhân loại tới
công bằng và bình đẳng xã hội. Rằng, với thắng lợi của cuộc Cách mạng này, lần
đầu tiên trong lịch sử, cộng đồng nhân loại không những có được công bằng và
bình đẳng xã hội, mà còn có được những điều kiện bảo đảm thực hiện công bằng
và bình đẳng xã hội ấy vào thực tiễn cuộc sống. Chủ nghĩa tư bản đã sản sinh ra
một cộng đồng lịch sử mới của con người - cộng đồng dân tộc, song do sự duy trì
chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, nên nó cũng tạo ra
sự không công bằng, sự bất bình đẳng trong đời sống xã hội và sự đối kháng giữa
các dân tộc trong cộng đồng; tạo ra chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa sô vanh
nước lớn và dẫn đến những cuộc chiến tranh giữa các nước, các dân tộc. Cách
mạng tháng Mười Nga đã chỉ ra cho cả cộng đồng nhân loại thấy con đường duy



nhất đúng đắn để giải quyết vấn đề dân tộc, tạo ra một xã hội có bình đẳng dân tộc,
thịnh vượng và đoàn kết dân tộc - đó là con đường gắn kết độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội, mà Việt Nam chúng ta là một trong những minh chứng lịch sử.

Đi theo con đường mà Cách mạng tháng Mười Nga đã mở ra, vận động trong quỹ
đạo của cách mạng vô sản, trong lôgíc tiến tới chủ nghĩa xã hội, Cách mạng Việt
Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam mà người sáng lập và rèn luyện là Chủ tịch Hồ

Chí Minh lãnh đạo đã giành được những chiến công và thắng lợi có ý nghĩa lịch sử
và thời đại trong cuộc đấu tranh oanh liệt giành lại độc lập, tự do, thống nhất Tổ
quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt
Nam đã được mở ra - kỷ nguyên độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Vận dụng một cách khoa học và sáng tạo những bài học lịch sử, những kinh nghiệm
thực tiễn mang tính phổ biến và sâu sắc của Cách mạng tháng Mười Nga, Cách
mạng Việt Nam đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và đang chứng minh cho
giá trị lịch sử trường tồn của nó. Có thể khẳng định, thắng lợi của Cách mạng Việt
Nam là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, của lý tưởng
Cách mạng tháng Mười, của mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Với thắng lợi vĩ đại đó, cùng với nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới,
Cách mạng Việt Nam đã góp phần không nhỏ vào việc khẳng định và tạo nên sức
mạnh của thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi toàn thế giới mà Cách mạng tháng Mười Nga đã mở đầu.
92 năm qua, dưới ánh sáng của Cách mạng tháng Mười Nga, sự nghiệp cách mạng
thế giới, dù phải trải qua bao bước thăng trầm, khủng hoảng, thậm chí cả sự đổ vỡ
của chủ nghĩa xã hội với tư cách một hệ thống thế giới, song chủ nghĩa xã hội, với
tất cả những cống hiến lịch sử của nó đối với tiến trình phát triển lịch sử nhân loại
đã, đang và vẫn còn là một giá trị trường tồn. Con đường mà Cách mạng tháng
Mười Nga đã mở ra vẫn tiếp tục là con đường phát triển tất yếu, hợp quy luật của
lịch sử nhân loại. Giờ đây, "chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành
công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện



và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài
người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội"(12).
92 năm qua, thực tiễn lịch sử nhân loại đã minh chứng một cách xác đáng rằng, thời
đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội mà
Cách mạng tháng Mười Nga là điểm khởi đầu. Thực tiễn lịch sử ấy, nhất là thực

tiễn diễn ra trong những thập niên vừa qua, cũng cho chúng ta thấy, chủ nghĩa xã
hội không thể phát triển và đi đến thắng lợi hoàn toàn nếu không thường xuyên tự
đổi mới một cách có nguyên tắc và coi đó là con đường tất yếu khách quan để giữ
vững độc lập dân tộc, ổn định đất nước, đẩy nhanh tiến độ xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Với tư cách một phong trào xã hội hiện thực, vận động và phát triển trên cơ sở
khoa học là chủ nghĩa Mác - Lênin, mở đầu bằng Cách mạng tháng Mười Nga, chủ
nghĩa xã hội không thể không tự làm phong phú thêm, sâu sắc hơn bằng những tri
thức mới, bài học lịch sử mới, kinh nghiệm thực tiễn mới, đồng thời thay thế, loại
bỏ những kết luận, luận điểm đã trở nên lạc hậu và bị thực tiễn lịch sử vượt qua.(12)
Khi khẳng định rằng chúng ta hoàn toàn đứng trên cơ sở lý luận của C.Mác, lý luận
lần đầu tiên đã biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng thành khoa học, lý luận đã
dựng lên những cơ sở vững chắc cho khoa học ấy và vạch rõ con đường mà chúng
ta cần phải theo, để phát triển khoa học đó thêm nữa và phát huy nó với đầy đủ chi
tiết, V.I.Lênin đã chỉ rõ: Chúng ta không hề coi lý luận của C.Mác như là một cái gì
đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt
nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển
hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống. Thực
tiễn cay đắng của những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga theo
“chính sách cộng sản thời chiến” và thắng lợi bước đầu của những năm thực hiện
“chính sách kinh tế mới” đã đưa V.I.Lênin tới chỗ thừa nhận rằng: “Ngày nay,
chúng ta có quyền nói… toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã
thay đổi về căn bản”(13).
Theo đó, có thể nói, đổi mới chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan nhằm đáp ứng
những đòi hỏi, yêu cầu về phương diện lý luận của chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, thực



tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội 92 năm qua, kể từ thắng lợi của Cách mạng tháng
Mười Nga, cho thấy chủ nghĩa xã hội không phải là một xã hội đã hoàn chỉnh ngay
từ đầu, mà cũng như mọi chế độ xã hội khác trong lịch sử, nó cần phải thường

xuyên tự đổi mới theo tiến trình vận động và phát triển hiện thực của lịch sử. Chỉ có
trên cơ sở tự đổi mới cả lý luận lẫn thực tiễn, chủ nghĩa xã hội hiện thực mới có khả
năng tìm ra động lực phát triển của chính nó và tự vạch ra con đường cho sự phát
triển tiếp theo của nó và của nhân loại tiến bộ toàn thế giới.
Công cuộc cải cách, đổi mới chủ nghĩa xã hội không thành công ở Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã đẩy chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng, đưa
phong trào cách mạng vô sản thế giới vào giai đoạn thoái trào tạm thời. Song,
không thể vì sự không thành công ấy mà coi đó là "sự phá sản" của chủ nghĩa Mác -
Lênin và lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, là "sự thất bại" của lý tưởng Cách mạng
tháng Mười. Không thể vì thế mà Cách mạng tháng Mười đã không còn giá trị lịch
sử. Thành công của công cuộc đổi mới ở Việt Nam, Trung Quốc, Cuba; việc tiếp
tục phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nhiều nước trên thế giới cho
thấy lý tưởng Cách mạng tháng Mười vẫn còn giữ nguyên giá trị lịch sử của nó và
lý tưởng đó đang dần được thực hiện.(13)
Trong lịch sử nhân loại, chủ nghĩa xã hội khoa học do các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác đưa ra chỉ có một, Cách mạng tháng Mười do V.I.Lênin và Đảng Cộng sản
Nga lãnh đạo thực hiện chỉ có một, song con đường đến với chủ nghĩa xã hội khoa
học đó, đến với lý tưởng của Cách mạng tháng Mười không phải là một, mô hình
thể hiện các luận điểm khoa học và lý tưởng đó cũng không phải là một. Sự nghiệp
cải tổ, đổi mới không thành công ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu
chỉ là sự không thành công của một mô hình trên con đường thực hiện lý luận chủ
nghĩa xã hội khoa học, lý tưởng Cách mạng tháng Mười. Việc lý tưởng cách mạng
xã hội chủ nghĩa, lý tưởng Cách mạng tháng Mười “bị đẩy lùi” ở đây không có
nghĩa là nó bị xoá bỏ. Những thành công đáng khích lệ của công cuộc đổi mới, sự
ổn định và tiếp tục phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhờ đổi mới một
cách có nguyên tắc, sáng tạo và năng động trên cơ sở kiên trì mục tiêu độc lập dân



tộc và chủ nghĩa xã hội, với nền tảng lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh, đổi mới dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn
cách mạng sinh động, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạng thời đại, lấy đường
lối đổi mới đúng đắn của Đảng làm nhân tố quyết định mà chúng ta đã có được hơn
20 năm qua cho thấy, lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, lý tưởng Cách mạng tháng
Mười vẫn sống và đang dần được thực hiện, vẫn là những giá trị trường tồn trong
lịch sử tư tưởng nhân loại.
92 năm qua đã có rất nhiều bài viết, tác phẩm, công trình viết về Cách mạng tháng
Mười, song mỗi lần bắt đầu suy nghĩ về ý nghĩa xã hội và ảnh hưởng của nó tới sự
phát triển xã hội, thì Cách mạng tháng Mười lại thể hiện ra là cuộc cách mạng mà ý
nghĩa lịch sử của nó ngày càng lớn lao. “Cái ngày vĩ đại ấy càng cách xa chúng ta, -
V.I.Lênin khẳng định, - thì ý nghĩa của cuộc cách mạng vô sản ở Nga càng trở nên
rõ rệt, chúng ta cũng càng suy nghĩ sâu về toàn bộ kinh nghiệm thực tiễn của công
tác của chúng ta”(14).
Đúng như vậy. Cùng với năm tháng, bài học lịch sử, kinh nghiệm thực tiễn của
Cách mạng tháng Mười ngày càng được nhân loại tiến bộ trên phạm vi toàn thế giới
nhận thức một cách rõ ràng và sâu sắc hơn. Mặc dù vậy, chúng ta vẫn khó có thể
đưa ra một sự đánh giá toàn diện, đầy đủ về giá trị lịch sử, về ý nghĩa quốc tế, ý
nghĩa vạch thời đại của cuộc cách mạng này, thậm chí cả trong tương lai xa. Một
trong những nguyên nhân của điều đó là ở chỗ, Cách mạng tháng Mười - đó là một
cuộc cách mạng chưa từng có không chỉ trong thế kỷ XX, mà trong cả toàn bộ lịch
sử nhân loại, cuộc cách mạng mở đầu “một sự nghiệp mới mẻ” - “sự nghiệp sáng
tạo ra một kiểu chế độ nhà nước xưa nay chưa từng có”, “mở ra một thời đại mới
trong lịch sử thế giới”. Lịch sử nhân loại cả trước và sau Cách mạng tháng Mười đã
từng có không ít các cuộc cách mạng xã hội có ảnh hưởng tới sự phát triển xã hội,
nhưng Cách mạng tháng Mười Nga vẫn cứ là cuộc cách mạng mang ý nghĩa đặc
biệt trong lịch sử nhân loại, không có cuộc cách mạng nào có thể so sánh với cuộc
cách mạng này. ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười tới tiến bộ xã hội là vô cùng
vĩ đại, sâu sắc so với ảnh hưởng của các cuộc cách mạng xã hội khác.




Cách mạng tháng Mười Nga tròn 92 tuổi, song đó không phải là thắng lợi đã thuộc
về quá khứ của nhân loại. Cách mạng tháng Mười Nga vẫn sống, vẫn đang thực
hiện và sẽ thực hiện thành công chức năng của nhân tố thúc đẩy lịch sử nhân loại
phát triển theo đúng quỹ đạo của nó. Cách mạng tháng Mười Nga vẫn đang và sẽ
còn tiếp tục là bài học lịch sử, kinh nghiệm thực tiễn, là nguồn cổ vũ lớn lao để
nhân loại tiến lên chủ nghĩa xã hội. Bài học lịch sử, kinh nghiệm thực tiễn của Cách
mạng tháng Mười Nga cho chúng ta thấy rõ không trở ngại nào, không xu hướng
đối lập nào có khả năng chặn đứng sự phát triển tiến bộ của nhân loại trên con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
(14)

Lịch sử vốn phức tạp và chưa bao giờ phát triển theo con đường thẳng tắp. Nó là
dòng chảy liên tục, nhiều chiều và không thuần nhất. Và, trong sự phát triển biện
chứng, trong quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, theo Ph.Ăngghen, lịch sử
nhân loại sẽ có cả “những sự vận động chữ chi” và “những bước thụt lùi tạm thời”.
Đó là quy luật của lịch sử nhân loại. Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội 92 năm qua
cho thấy nó không nằm ngoài quy luật đó. Khi phát triển không ngoài quy luật đó,
chủ nghĩa xã hội dù đang lâm vào khủng hoảng, đang bị sụp đổ ở nơi này, nơi khác,
cách mạng xã hội chủ nghĩa đang ở giai đoạn thoái trào, song tất yếu chủ nghĩa xã
hội vẫn tiếp tục tồn tại, phục hồi và phát triển, cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ đến
giai đoạn cao trào, lý tưởng nhân đạo, giải phóng con người, giải phóng xã hội, thực
hiện công bằng và hạnh phúc cho con người do Cách mạng tháng Mười Nga đem
lại sẽ nhất định được thực hiện trên quy mô toàn cầu.
Với tư cách là kết quả phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại, Cách mạng tháng
Mười và lý tưởng cao đẹp của nó, ý nghĩa lịch sử toàn cầu của nó không bao giờ
mất. Ngày nay, dẫu chủ nghĩa xã hội không còn tồn tại với tư cách một hệ thống thế
giới, cách mạng xã hội chủ nghĩa đang ở giai đoạn thoái trào, song con đường tiến
lên chủ nghĩa xã hội vẫn là một tất yếu khách quan, nhân loại tiến bộ trên toàn thế
giới vẫn hướng theo những lý tưởng của Cách mạng tháng Mười - đó là hoà bình,

độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Tiếp thu và phát triển sáng tạo những lý
tưởng đó, nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới vẫn đang tiến hành đấu tranh cho hoà

×