Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

DIỄN án HÀNH CHÍNH hồ sơ 15

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.57 KB, 12 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
CƠ SỞ TP.HỒ CHÍ MINH
-------------------------

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
MÔN KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ KHI THAM GIA GIẢI QUYẾT VỤ
VIỆC HÀNH CHÍNH

Hồ sơ số: LS.HC-15
Diễn lần:
Ngày diễn:
Giáo Viên:

Họ và tên:
Sinh ngày … tháng …. năm …..
SBD …..
Lớp C Khóa 23 tại Thành phố Hồ Chí Minh

Tp Hồ Chí Minh, ngày ... tháng …. năm 2021


I.

TĨM TẮT VỤ ÁN
......Ngày 14/06/2016 Ơng Bùi Quang Hải (Sinh năm 1971) và bà Đặng Thị Kim

(Sinh năm 1981), nộp hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất (sau đây gọi tắt là “Giấy Chứng Nhận”) tại bộ
phận tiếp nhận và giao trả kết quả thuộc UBND thành phố A, với tổng diện tích là
156,7 m2 đất ở và căn nhà tại địa chỉ số 179/8/1 Trần Phú, Phường 5, Thành phố A.
Ngày 07/09/2016, Chi nhánh Văn phịng Đăng ký đất đai Thành phố A ra


Thơng báo số 2728/TB-CNVPĐK trả hồ sơ xin cấp Giấy Chứng Nhận cho ông Hải và
bà Kim với lý do diện tích đất 54,7 m2 có nguồn gốc thuộc đất lấn biển, khơng phù hợp
với quy hoạch. Theo đó hồ sơ khơng đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận.
Ơng Hải và bà Kim đã khởi kiện Thông báo số 2728/TB-CNVPĐK ngày
07/9/2016 tại Tòa án nhân dân TP.A.
Ngày 9/12/2017 Tòa án nhân dân TP.A ra bản án sơ thẩm sau đó ơng Hải và bà
Kim đã làm đơn kháng cáo.
Ngày 05/04/2018 Tòa án nhân dân tỉnh H ra bản án phúc thẩm số 04/2018/HCPT, buộc chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai nhận lại hồ sơ của ông Hải và Bà Kim
để giải quyết các thủ tục tiếp theo đúng qui định của pháp luật.
Ngày 20/4/2018 ông Hải và bà Kim nộp hồ sơ xin cấp Giấy Chứng Nhận tại bộ
phận tiếp nhận và giao trả hồ sơ thuộc UBND TP A.
Ngày 14/08/2018 Chi nhánh văn phòng đăng ký đất TP.A ra văn bản số
4171/CNVPĐK-ĐKCG giải trình về việc đã trình Hồ sơ lên văn phòng đăng ký đất đai
thành phố A theo Tờ trình số 3187/ PCCNVPĐK ngày 02/07/2018.
Ngày 24/08/2014 ông Hải làm đơn khiếu nại về việc chậm giải quyết cấp Giấy
Chứng Nhận.
Ngày 07/01/2019 ông Hải và bà Kim tiếp tục nộp đơn khiếu nại Ủy ban nhân
dân thành phố A chậm giải quyết cấp Giấy Chứng Nhận của gia đình ơng bà theo bản
án phúc thẩm số 04/2018/HC-PT.

Trang 2


Ngày 30/01/2019 Ủy ban nhân dân thành phố A ra văn bản số 504/UBNDTNMT trả lời cho ông Bùi Quang Hải - bà Đặng Thị Kim vì đang trong thời gian chờ
chỉ đạo nên tạm trả hồ sơ ông Bùi Quang Hải – Đặng Thị Kim.
Ngày 18/03/2019 UBND thành phố A đã ban hành văn bản số 1126/UBNDTNMT, giải quyết đơn khiếu nại ngày 07/01/2019 trả lời lý do tạm trả lại hồ sơ vì lo
vướng mắc trong việc áp dụng qui định của pháp luật, cần xin ý kiến hướng dẫn của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền nếu đủ điều kiện thì sẽ cấp Giấy Chứng Nhận theo qui
định.
Ngày 04/04/2019, ông Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim khởi kiện đến

TAND tỉnh H yêu cầu:
(i)

Hủy Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/1/2019 của UBND TP A về

(ii)

việc tạm trả hồ sơ đăng ký, cấp Giấy Chứng Nhận; và
Hủy Văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 của UBND TP A

(iii)

về giải quyết đơn khiếu nại của ông Bùi Quang Hải.
Buộc UBND thành phố A tiếp nhận lại và giải quyết hồ sơ cấp Giấy
Chứng Nhận cho ông Hải và bà Kim.

II.

CÁC VẤN ĐỀ VỀ TỐ TỤNG
1. Tư cách đương sự

Người khởi kiện: Ông Bùi Quang Hải và Bà Đặng Thị Kim.
......Ông Bùi Quang Hải và Bà Đặng Thị Kim là người khởi kiện đối Văn bản số
504/UBND-TNMT ngày 30/1/2019 của UBND TP A, Văn bản số 1126/UBND-TNMT
ngày 18/3/2019 của UBND TP A về giải quyết đơn khiếu nại và yêu cầu UBND TP A
tiếp tục giải quyết hồ sơ cấp Giấy Chứng Nhận cho ơng bà. Ơng Hải và bà Kim cho
rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm vì vậy ơng Hải và Bà Kim được
xác định là người khởi kiện căn cứ theo Khoản 8 Điều 3 Luật tố tụng hành chính 20151
(sau đây gọi tắt là “Luật TTHC”).
Người bị kiện:

UBND thành phố A, tỉnh H: UBND thành phố A là cơ quan có thẩm quyền
cấp Giấy Chứng Nhận lần đầu đối với cá nhân căn cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều
1 Luật tố tụng hành chính 2015 là Luật tố tụng hành chính số 93/2015/QH13 ban hành ngày 25/11/2015

Trang 3


105 Luật đất đai 20132 “Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá
nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở
gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam” và UBND TP A là cơ quan ban hành
ra Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019 về tạm trả hồ sơ đăng ký, cấp Giấy
Chứng Nhận. Vì vậy, căn cứ theo quy định tại Khoản 9 Điều 3 Luật TTHC, UBND
Thành phố A được xác định là tổ chức có quyết định hành chính bị kiện nên được xác
định là người bị kiện.
Chủ tịch UBND thành phố A, tỉnh H: Chủ tịch UBND thành phố A, tỉnh H
cũng được xác định là người bị kiện vì Chủ tịch UBND thành phố A là người ban hành
ra Văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/03/2019 để giải quyết đơn khiếu nại của
ông Hải và bà Kim căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 18 Luật khiếu nại 2011 3:
“Thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có quyền giải quyết khiếu nại
lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình”. Vì vậy, căn cứ
theo quy định tại Khoản 9 Điều 3 Luật TTHC thì Chủ tịch UBND thành phố A cũng
được xác định là người bị kiện.
2. Yêu cầu khởi kiện

Thứ 1: Hủy Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019 của UBND TP A
về việc tạm trả hồ sơ đăng ký, cấp Giấy Chứng Nhận tại phường 5, thành phố A (sau
đây gọi tắt là “Văn Bản số 504”)
Thứ 2: Hủy Văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/03/2019 của UBND TP A
về giải quyết đơn khiếu nại của ông Bùi Quang Hải đối với hồ sơ đề nghị cấp Giấy

Chứng Nhận tại thửa đất số 164 tờ bản đồ số 09 phường 5 thành phố A (sau đây gọi tắt
là “Văn Bản số 1126”).
Thứ 3: Buộc UBND thành phố A tiếp nhận lại và giải quyết hồ sơ Giấy Chứng
Nhận cho ông Hải, bà Kim đối với diện tích 54,7 m 2 đất của thửa đất số 164 tờ bản đồ
số 09 (bản đồ năm 2000), phường 5, thành phố A theo quy định của pháp luật.
2 Luật đất đai 2013 là Luật đất đai số 45/2013/QH13 ban hành ngày 2911/2013 có hiệu lực thi hành ngày
01/07/2014
3 Luật khiếu nại 2011 là Luật khiếu nại số 02/2011/QH13 ban hành ngày 11/11/2011 có hiệu lực thi hành ngày
01/07/2012.

Trang 4


3. Đối tượng khởi kiện

Quyết định hành chính: Văn Bản số 504 ngày 30/01/2019 của Ủy ban nhân
dân thành phố A và Văn Bản số 1126 ngày 18/03/2019 của UBND thành phố A.
Hai văn bản này là những Quyết định hành chính do UBND thành phố A ban
hành làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của Ông Bùi Quang Hải
và Bà Đặng Thị Kim căn cứ theo quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 3 Luật TTHC.
Hành vi hành chính: Hành vi của UBND thành phố A về việc không giải quyết
hồ sơ cấp Giấy Chứng Nhận đối với diện tích 54,7 m2 đất của thửa đất số 164 tờ bản
đồ số 09 (bản đồ năm 2000), phường 5, thành phố A theo đúng quy định của pháp luật.
...........Hành vi của UBND thành phố A về việc không giải quyết hồ sơ cấp Giấy
Chứng Nhận cho ông Hải và bà Kim làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của ơng bà
căn cứ theo quy định tại Khoản 3, Khoản 4 Điều 3 Luật TTHC.
4. Thời hiệu khởi kiện

Ông Hải và bà Kim khởi kiện ra TAND tỉnh H là vẫn còn thời hiệu khởi kiện
theo quy định của Luật TTHC.

Văn Bản số 504 do UBND thành phố A ban hành vào ngày 30/01/2019, sau khi
nhận được ông Hải và bà Kim khởi kiện lên Tòa án nhân dân tỉnh H ngày 04/04/2019
là vẫn còn thời hiệu khỏi kiện căn cứ theo quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 116 Luật
TTHC “Thời hiệu khởi kiện đối với từng trường hợp được quy định như sau: a) 01
năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành
chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc”.
Văn Bản số 1126 được ban hành ngày 18/3/2019, sau khi nhận được ông Hải và
và Kim khởi kiện lên Tòa án nhân dân tỉnh H ngày 04/04/2019 là vẫn còn thời hiệu
khỏi kiện căn cứ theo quy định tại Điểm a Khoản 3 Điều 116 Luật TTHC: “Trường
hợp đương sự khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật đến cơ quan nhà nước,
người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện được quy định như
sau: 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại
lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai”.
5. Tòa án thụ lý
Trang 5


....Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc thẩm quyền giải
quyết của Toà án căn cứ vào Khoản 1 Điều 30 Luật TTHC.
Đối với trong vụ việc này thì Tồ án nhân dân tỉnh H sẽ có thẩm quyền giải
quyết vì Văn Bản số 504 và Văn Bản số 1126 đều do UBND Thành phố A tỉnh H ban
hành do đó Tịa án nhân dân tỉnh H có thẩm quyền giải quyết các quyết định hành
chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyên trên cùng phạm vi địa giới hành chính
với tịa án căn cứ vào Khoản 4 Điều 32 Luật TTHC 2015 thì “Thẩm quyền của Tịa án
cấp tỉnh: Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân
cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trên cùng phạm vi địa giới hành
chính với Tịa án”.
III.

KẾ HOẠCH HỎI – BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO

NGƯỜI KHỞI KIỆN
1. Hỏi người bị kiện:
- Nguồn gốc diện tích đất 54,7 m2 đất của ông Hải và bà Kim như thế nào?
- Đại diện của người bị kiện vui lịng cho biết theo bản đồ địa chính được phê

duyệt năm 2002 phần diện tích đất 54,7m 2 là phần diện tích đất tăng thêm
-

trong thửa đất số 164 bản đồ số 9 có phải khơng?
Nhà nước bắt đầu quản lý diện tích đất 54,7 m2 trên từ thời điểm nào?
Theo quyết định số 1352 thì phần thửa đất có phù hợp với quy hoạch đất ở

-

đô thị không?
Đối với diện tích đất mà ơng Hải và bà Kim u cầu cấp Giấy Chứng Nhận,
trong suốt quá trình sử dụng đất có bị xử phạt vi phạm hành chính về hành

-

vi lấn, chiếm đất khơng?
Diện tích đất ơng Hải và bà Kim yêu cầu cấp Giấy Chứng Nhận có thuộc

-

trường hợp thu hồi đất theo quy định của Luật đất đai khơng?
Ơng Hải và bà Kim có vi phạm nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với diện

-


tích đất u cầu cấp Giấy Chứng Nhận khơng?
Ngày 20/4/2018 UBND, có nhận được đầy đủ hồ sơ xin cấp Giấy Chứng

-

Nhận của ông Hải và bà Kim không?
Tại sao ngày 20/04/2018 ông Hải, bà Kim nộp hồ sơ để cấp Giấy Chứng

-

Nhận tuy nhiên đến ngày 30/01/2019 mới có Văn Bản số 504 để trả lời?
Văn Bản số 504 có giải thích rõ lý do trả hồ sơ cấp Giấy Chứng Nhận

-

khơng?
Thể thức ban hành Văn Bản số 1126 là gì?
Trang 6


-

Tại sao ông Hải và Bà Kim không đủ điều kiện để được cấp Giấy Chứng

-

Nhận?
Căn cứ vào quy định pháp luật nào để cho rằng ông Hải và bà Kim không đủ
điều kiện để cấp Giấy Chứng Nhận?


2. Hỏi người khởi kiện
- Diện tích đất ơng bà xin cấp giấy chứng nhận được sử dụng từ thời điểm

IV.

-

nào? Nguồn gốc đất là của ai?
Q trình sử dụng đất ơng bà có bị cơ quan nhà nước xử phạt vi phạm hành

-

chính về đất đai khơng?
Ơng biết được diện tích đất xin cấp Giấy Chứng Nhận thuộc quy hoạch đất

-

ở đơ thị từ khi nào?
Trên đất có những tài sản nào?
Ơng có biết được thời hạn cụ thể mà UBND sẽ cấp Giấy Chứng Nhận cho

-

ông ko?
Từ trước đến nay ông bà có tranh chấp đối với ai về diện tích đất u cầu

-

xin cấp giấy chứng nhận khơng?
Khi nhận được Văn Bản số 504, ơng bà đã có ý kiến như thế nào?


LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO NGƯỜI
KHỞI KIỆN
Kính thưa Hội Đồng Xét Xử!
Thưa vị đại diện Viện Kiểm sát!
Thưa quý Luật sư đồng nghiệp!
.....Tơi là luật sư …………… – Văn Phịng Luật Sư ………………, thuộc Đồn

luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, tham gia phiên tòa với tư cách là người bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp cho ơng Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim, là người khởi kiện
trong vụ án hành chính về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực đất
đai”, vụ án được Tịa án nhân dân tỉnh H thụ lý số 47/2019/TLST-HC ngày 18/4/2019
với yêu cầu khởi kiện như sau:
(i)

Hủy Văn bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/1/2019 của UBND TP A về

(ii)

việc tạm trả hồ sơ đăng ký, cấp Giấy Chứng Nhận; và
Hủy Văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 của UBND TP A

(iii)

về giải quyết đơn khiếu nại của ông Bùi Quang Hải;
Buộc UBND thành phố A tiếp nhận lại và giải quyết hồ sơ cấp Giấy
Chứng Nhận cho ông Hải và bà Kim.
Trang 7



Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án kết hợp với q trình tranh tụng tại phiên tịa hơm
nay, tơi có một số quan điểm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho ông Bùi Quang Hải
và bà Đặng Thị Kim như sau.
Thứ nhất, đối với Văn Bản số 504 ngày 30/1/2019 của UBND thành phố A
Trình tự, thủ tục ban hành Văn Bản số 504 là vi phạm quy định của pháp
luật như sau:
Về thời gian giải quyết: Ông Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim nộp hồ sơ xin
cấp Giấy Chứng Nhận vào ngày 20/04/2018 tuy nhiên đến ngày 30/01/2019 Ủy ban
nhân dân thành phố A mới ban hành ra Văn Bản số 504 để trả lời cho ông Hải và bà
Kim vì đang trong thời gian chờ chỉ đạo nên tạm trả hồ sơ là đã hơn 09 tháng mới giải
quyết thủ tục hành chính, quá thời hạn theo quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 61 Nghị
định số 43/2014/NĐ-CP 4 “2. Thời gian thực hiện thủ tục đăng ký đất đai, tài sản gắn
liền với đất; cấp đổi, cấp lại Giấy chứng nhận được quy định như sau: a) Đăng ký đất
đai, tài sản gắn liền với đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là không quá 30 ngày”.
Về thủ tục giải quyết: UBND Thành phố A ban hành Văn Bản số 504 với nội
dung “tạm trả hồ sơ” là trái với quy định tại Khoản 5 Điều 60 Nghị định 43/2014/NĐCP, nếu trường hợp hồ sơ không đủ điều kiện giải quyết thì cơ quan nhận hồ sơ phải
trả lại hồ sơ và thông báo rõ lý do không đủ điều kiện giải quyết, Khoản 5 Điều 60
Nghị định 43/2014/NĐ-CP khơng có bất cứ quy định nào về việc “tạm trả hồ sơ” như
UBND thành phố A đã ban hành tại Văn Bản số 504.
Cụ thể Khoản 5 Điều 60 Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định nộp hồ sơ và trả
kết quả thực hiện thủ tục hành chính về đất đai như sau: “a) Kết quả giải quyết thủ tục
hành chính phải trả cho người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất trong
thời hạn không quá 03 ngày làm việc kể từ ngày có kết quả giải quyết, trừ trường hợp
quy định tại Điểm b Khoản này;b) Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ tài chính liên
quan đến thủ tục hành chính thì việc trao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất được thực hiện sau khi người sử dụng
4 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai ngày 15/05/2014

Trang 8



đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất nộp chứng từ hồn thành nghĩa vụ tài chính
theo quy định; trường hợp thuê đất trả tiền hàng năm thì trả kết quả sau khi người sử
dụng đất đã ký hợp đồng thuê đất; trường hợp được miễn nghĩa vụ tài chính liên quan
đến thủ tục hành chính thì trả kết quả sau khi nhận được văn bản của cơ quan có thẩm
quyền xác định được miễn nghĩa vụ tài chính;c) Trường hợp hồ sơ khơng đủ điều kiện
giải quyết thì cơ quan nhận hồ sơ có trách nhiệm trả lại hồ sơ và thông báo rõ lý do
không đủ điều kiện giải quyết”
Như vậy, kết quả của thủ tục hành chính là cấp Giấy Chứng Nhận hoặc phải trả
lời bằng văn bản trả lại hồ sơ nêu rõ lý do trả hồ sơ do không đủ điều kiện giải quyết.
UBND TP. A ban hành văn bản với nội dung “tạm trả hồ sơ” là trái với quy định tại
Khoản 5 Điều 60 Nghị định 43/2014/NĐ-CP. UBND phải có trách nhiệm thông báo rõ
lý do không đủ điều kiện giải quyết hồ sơ cấp Giấy Chứng Nhận của ông Hải và bà
Kim là gì. Tuy nhiên, UBND đã khơng thơng báo rõ lý do và chỉ gửi văn bản với nội
dung “ tạm trả hồ sơ” là vi phạm quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết.
Nội dung của Văn Bản số 504 của UBND thành phố A là hồn tồn khơng
có căn cứ, trái quy định của pháp luật.
Về nguồn gốc đất là của ông Bùi Xuân Mĩ bán cho ơng Hải có hợp đồng mua
bán cơng chứng. Căn cứ vào xác nhận của UBND ngày 13/07/2016 và kết quả kiểm tra
hồ sơ số 104/TB-UBND đăng ký cấp Giấy Chứng Nhận thì nguồn gốc thửa đất là 54,7
m2 là sàn phơi cá của ông Mĩ từ năm 1993, đến năm 2000 ơng Mĩ làm phịng trọ và
cho th. Tồn bộ thửa đất này đã được ơng Mĩ lập hợp đồng mua bán vào ngày
14/04/2003 bán cho ông Hải và bà Kim. Vì vậy, có thể thấy đối với thửa đất đã được
ông Mĩ giao cho ông Hải và bà Kim một cách hợp pháp và được sử dụng ổn định,
khơng có tranh chấp.
Đất đai sử dụng ổn định, hợp pháp, nằm trong quy hoạch đất ở đô thị: Ông
Hải và bà Kim là cá nhân sử dụng đất hợp pháp, không vi phạm quy định pháp luật về
đất đai, được UBND phường 5 xác nhận vào ngày 13/07/2016 là đất sử dụng ổn định
khơng có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất (nằm trong quy hoạch đất ở

tại đô thị + một phần nằm trong quy hoạch mở đường giao thơng) nên hồn tồn đủ
điều kiện để được cấp Giấy Chứng Nhận. Căn cứ vào Khoản 2 Điều 101 Luật đất đai
2013: “2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất khơng có các giấy tờ quy định tại
Trang 9


Điều 100 của Luật này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng 7
năm 2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã
xác nhận là đất khơng có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch
chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch thì được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”.
Không vi phạm quy định pháp luật về đất đai: Quá trình sử dụng đất, ông Hải
và bà Kim không bị xử phạt vi phạm hành chính về đất đai. Ngày 29/02/2004, ơng Hải
có bị Chủ tịch UBND TP.A bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng,
quản lý nhà và hạ tầng kĩ thuật, tuy nhiên hành vi của ông Hải khơng phải là hành vi vi
phạm hành chính về đất đai mà là về xây dựng.
Hoạt động lấn biển được nhà nước khuyến khích theo quy định tại Luật đất
đai 1993: Mặt khác, căn cứ theo xác nhận của UBND phường 5 vào ngày 13/07/2016,
ông Mĩ đã sử dụng diện tích đất 54,7m 2 từ trước năm 1993 và hoạt động lấn biển của
ơng Mĩ đối với diện tích 54,7m2 là được nhà nước khuyến khích vào thời điểm đó, căn
cứ theo quy định tại Điều 5 Luật đất đai 1993: “Nhà nước khuyến khích người sử dụng
đất đầu tư lao động, vật tư, tiền vốn và áp dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật vào
các việc sau đây:…- Khai hoang, vỡ hoá, lấn biển, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc,
đất cồn cát ven biển để mở rộng diện tích đất sản xuất nơng nghiệp, lâm nghiệp, nuôi
trồng thuỷ sản và làm muối…;”. UBND thành phố A lại xác định nguồn gốc đất là đất
lấn, chiếm sông biển nên cần phải xin hướng dẫn là không phù hợp với bất kỳ quy
định nào của pháp luật đất đai hiện hành và vi phạm quy định. Ngoài ra, căn cứ theo
quy định tại Khoản 2 Điều 9 Luật đất đai 2013 cũng có quy định: “Khuyến khích đầu
tư vào đất đai: 2. Khai hoang, phục hóa, lấn biển, đưa diện tích đất trống, đồi núi

trọc, đất có mặt nước hoang hóa vào sử dụng theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất”.
Theo quy định trên, hoạt động lấn biển là một hoạt động được nhà nước khuyến
khích và hoàn toàn khác biệt với hoạt động lấn chiếm đất là vi phạm pháp luật đất đai
năm 1993 vào thời điểm ông Mĩ khai hoang lấn biển và cho đến thời điểm hiện tại theo
quy định của Luật đất đai năm 2013 nhà nước vẫn khuyến khích hoạt động lấn biển
này. Vì vậy, phần diện tích lấn biển này không vi phạm quy định của pháp luật.

Trang 10


Ông Hài và bà Kim đã nộp đầy đủ hồ sơ để được Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất : Căn cứ giấy tiếp nhận
hồ sơ ngày 20/4/2018 và sự hướng dẫn của bộ phận tiếp nhận hồ sơ, gồm có đơn đăng
ký, đơn cấp Giấy Chứng Nhận đối với tồn bộ diện tích đất đang sử dụng, Giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất, Giấy mua bán nhà, Bản án 04/2018,
Danh sách công khai số 104/TB-UBND, Phiếu lấy ý kiến dân cư, Bộ sao lục, Sơ đồ vị
trí năm 2003, phù hợp với các giấy tờ theo Điểm a Khoản 3 Điều 9a Thông Tư số
33/TT-BTNMT quy định: “Trường hợp diện tích đất tăng thêm có giấy tờ theo Khoản
16 Điều 2 của Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ( giấy đăng ký quyền sử dụng đất ngày
8/4/2016)”. Vì vậy hồ sơ ông Hải và bà Kim đã nộp đầy đủ theo quy định của pháp
luật về việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất.
Từ những căn cứ trên, có thể chứng minh rằng Ông Hải và bà Kim đủ điều kiện
được cấp Giấy Chứng Nhận theo quy định của pháp luật. Do đó, UBND thành phố A
phải cấp Giấy Chứng Nhận cho ông Hải, bà Kim căn cứ theo quy định tại Khoản 2
Điều 101 Luật đất đai 2013 và Khoản 2 Điều 20 Nghị định 43/2014/NĐ-CP. Việc
UBND TP. A lấy lý do Luật đất đai 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành không
quy định để tạm trả hồ sơ chờ hướng dẫn là trái quy định của pháp luật.
Thứ hai, Văn Bản số 1126 ngày 18/3/2019 về giải quyết đơn khiếu nại của
ông Hải và bà Kim cũng vi phạm quy định của pháp luật
Về thể thức Văn Bản số 1126: Thể thức văn bản số 1126 trái quy định của

pháp luật, thuộc các hành vi bị nghiêm cấm của Luật khiếu nại 2011. Chủ tịch UBND
thành phố A đã giải quyết đơn khiếu nại của ông Hải và bà Kim bằng hình thức cơng
văn là đã trái với quy định tại Khoản 3 Điều 6 Luật khiếu nại 2011: “Các hành vi bị
nghiêm cấm: 3. Ra quyết định giải quyết khiếu nại khơng bằng hình thức quyết định”.
Chủ tịch UBND thành phố A phải giải quyết đơn khiếu nại của ơng Hải và bà Kim
bằng hình thức ra quyết định.
Về nội dung Văn Bản số 1126: Văn Bản số 1126 có nội dung Văn Bản số 504
được ban hành đúng pháp luật. Tuy nhiên, như đã phân tích trên đây, Văn bản số 504
được ban hành trái pháp luật do sai trình tự, thủ tục, nội dung văn bản vi phạm các quy
định của pháp luật nêu trên. Do đó, nội dung Văn Bản số 1126 cũng trái quy định của
pháp luật. Ơng Hải và bà Kim có tồn quyết và đủ căn cứ để được UBND cấp Giấy
Trang 11


Chứng Nhận theo đúng quy định của pháp luật, UBND phải giải quyết để cấp Giấy
Chứng Nhận cho ông Hải và bà Kim.
Văn Bản số 1126 có sự sai phạm về thể thức và nội dung do đó ơng Hải và bà
Kim có tồn quyền để u cầu hủy Văn Bản số 1126 về việc giải quyết khiếu nại.
Từ các lý do trên, căn cứ vào Điểm b, Điểm c Điều 193 Luật TTHC, tơi kính
mong Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện:
(i) Hủy Văn Bản số 504/UBND-TNMT ngày 30/01/2019 của UBND TP. A,
(ii) Hủy Văn Bản giải quyết khiếu nại có liên quan là Công văn số 1126/UBND-

TNMT ngày 18/3/2019 của Chủ tịch UBND TP. A.
(iii) Buộc UBND TP. A tiếp nhận lại và giải quyết hồ sơ cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất cho
ông Hải, bà Kim đối với diện tích 54,7 m 2 đất thuộc thửa đất số 164 tờ bản
đồ số 09 (bản đồ năm 2000), phường 5, thành phố A theo quy định của pháp
luật.
Cảm ơn HĐXX đã chú ý lắng nghe


Trang 12



×