Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Đánh giá tác động của các hiệp định tự do thương mại FTA đến nền kinh tế Việt Nam thông qua một số phương pháp định lượng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (462.46 KB, 7 trang )

Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng

ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC HIỆP ĐỊNH TỰ DO THƯƠNG
MẠI FTA ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM THÔNG QUA MỘT SỐ
PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH LƯỢNG
PGS.TS. Phạm Tiến Đạt, ThS. Dương Hoàng Linh
Viện chiến lược và chính sách tài chính – Bộ Tài chính

TĨM TẮT
Cho tới nay có khá nhiều các cơng trình đánh giá tác động của các hiệp định thương mại tự do ở Việt Nam.
Trong đó các phương pháp được sử dụng phổ biến nhất hiện nay là phương pháp mơ hình cân bằng tổng thể
(CGE), mơ hình cân bằng từng phần và mơ hình lực hấp dẫn. Bài viết nêu khái quát lịch sử hình thành cũng
như lý thuyết cơ sở của các mơ hình cũng như tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước từ trước tới
nay. Từ đó đưa ra các ưu nhược điểm của 3 dạng mơ hình này để đưa ra gợi ý trong việc lựa chọn các mơ
hình trong phân tích tác động của các FTA tới Việt Nam. Mơ hình cân bằng tổng thể phù hợp nhất trong
trường hợp phân tích các tác động về cơ cấu kinh tế, thương mại và có đủ nguồn lực và số liệu; mơ hình cân
bằng từng phần thích hợp nhất trong việc phân tích theo ngành; mơ hình lực hấp dẫn phù hợp với việc phân
tích tác động của một yếu tố cụ thể tới khối lượng thương mại.
Từ khóa: Mơ hình cân bằng tổng thể (CGE), mơ hình GTAP, mơ hình cân bằng từng phần, mơ hình lực
hấp dẫn (Gravity Model)
Cho tới nay, Việt Nam đã kí kết 12 hiệp định tự do thương mại, gia nhập tổ chức thương mại thế giới
WTO, tham gia khối ASEAN; việc đẩy mạnh thương mại đã đem lại những thành quả to lớn trong việc đẩy
mạnh xuất khẩu, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta theo hướng tích cực.
Tầm ảnh hưởng của các hiệp định tự do thương mại đối nền kinh tế là rất lớn chính vì vậy việc đánh giá tác
động của các hiệp định thương mại đặc biệt là các đánh giá định lượng là nhu cầu cấp thiết đối với Việt
Nam. Cho tới nay có rất các phương pháp định lượng khác nhau được sử dụng để đánh giá các tác động của
hiệp định tự do thương mại của Việt Nam, mỗi phương pháp lại có những ưu nhược điểm riêng. Mục đích
của bài viết này là tổng kết lại các phương pháp định lượng phổ biến nhất được sử dụng trong các nghiên cứu
đánh giá tự do thương mại ở Việt Nam mà cụ thể là 3 phương pháp được sử dụng phổ biến nhất đó là
phương pháp mơ hình cân bằng tổng thể (CGE), phương pháp mơ hình cân bằng từng phần (Partial
Equilibrium) và phương pháp mơ hình trọng lực (Gravity Model).


1. Các phương pháp đánh giá tác động hội nhập thuế quan tới thương mại quốc tế
1.1. Mơ hình cân bằng tổng thể (CGE)
Lý thuyết cân bằng tổng thể (CGE) được Léon Walras phát triển từ những năm 1870, và trở thành một
nhánh quan trọng của lý thuyết kinh tế vĩ mơ. Lý thuyết này tìm cách giải thích cung, cầu và giá của tổng thể
một nền kinh tế với rất nhiều thị trường của rất nhiều mặt hàng. Theo đó giá cân bằng của các mặt hàng có
tồn tại, và rằng khi giá thị trường của tất cả các mặt hàng đạt tới trạng thái cân bằng thì nền kinh tế đó đạt tới
cân bằng tổng thể. Trong các thập kỷ qua, mơ hình cân bằng tổng thể đã ngày càng được ứng dụng phổ biến
để nghiên cứu các mối quan hệ tương tác của các thị trường và các chủ thể cũng như xu hướng biến động của
giá cả và sản lượng trong nền kinh tế. Cân bằng tổng thể (CGE) là phương pháp phân tích mơ phỏng nền
kinh tế dựa trên lý thuyết của Léon Walras, trong đó nền kinh tế được xem xét như một hệ thống bao gồm
các bộ phận (các ngành sản xuất, hộ gia đình, nhà đầu tư, chính phủ, nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu) có liên
quan chặt chẽ tới nhau. Mơ hình CGE là một công cụ rất hữu hiệu để phân tích các chính sách kinh tế ở tầm
vĩ mơ, là chiếc cầu nối giữa các nhà nghiên cứu kinh tế, các nhà hoạch định chính sách và ra quyết định. Mô
102


Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
hình này giúp giải thích các nhân tố tác động đến cung, cầu và giá cả trên tất cả các thị trường trong tồn bộ
nền kinh tế. Mơ hình cân bằng tổng thể địi hỏi sử dụng máy tính và các cơng cụ tốn do việc mơ phỏng hoạt
động của nền kinh tế là tương đối phức tạp. Với sự phát triển mạnh mẽ của cơng nghệ, khả năng tính tốn
được tăng cường nhanh chóng, mơ hình cân bằng ngày càng được sử dụng một cách rộng rãi hơn trong việc
phân tích kinh tế. Dữ liệu đầu vào của mơ hình cân bằng tổng thể thường là bảng ma trận hạch toán xã hội
(SAM), các dữ liệu về thuế, về thuế hải quan, …
Hiện tại có 2 dạng mơ hình cân bằng tổng thể là mơ hình cân bằng tổng thể dạng tĩnh (Static CGE
Model) và mơ hình cân bằng tổng thể dạng động (Dynamic CGE Model). Trong đó mơ hình tổng thể dạng
động được sử dụng nhiều hơn do nó cho phép đưa vào trong trạng thái cân bằng những cú sốc khi có sự thay
đổi về các điều kiện bên ngồi từ đó tìm ra trạng thái cân bằng mới. Mơ hình cân bằng dạng động cho phép
việc phân tích tác động của các thay đổi bên ngồi như tác động thay đổi của chính sách, tác động thay đổi
của khủng hoảng, tác động thay đổi giá dầu một cách toàn diện đối với toàn nền kinh tế. Tuy nhiên ở Việt
Nam việc ứng dụng các mơ hình cân bằng tổng thể hầu hết mới chỉ áp dụng mô hình CGE dạng tĩnh1. Mơ

hình cân bằng tổng thể hiện được sử dụng khá rộng rãi để đánh giá các tác động việc điều chỉnh thuế suất nói
chung và điều chỉnh thuế quan nói riêng. Trên thế giới, trong nghiên cứu tác động của các hiệp định tự do
thương mại tới nền kinh tế cũng có nhiều các cơng trình xây dựng mơ hình cân bằng tổng thể riêng để phân
tích như nghiên cứu Fan và Zheng (2001) đánh giá tác động việc gia nhập WTO với tự do hoá thương mại
của Trung Quốc; nghiên cứu của Young Man Yoon,Chi Gong,Taek-Dong Yeo (2009) đánh giá tác động của
các hiệp định thương mại giữa Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Bên cạnh đó cũng có nhiều các cơng
trình đánh giá sử dụng mơ hình GTAP (một trong các dạng mơ hình tổng thể được áp dụng rộng rãi trong
việc đánh giá tác động của gia nhập WTO hay tự do hố thương mại). Có thể kể một số các cơng trình sử
dụng mơ hình này đó là: báo cáo của ủy ban thương mại quốc tế của Hoa Kỳ2 (2015) sử dụng mơ hình
GTAP, mơ hình BDS và mơ hình EK để đánh giá tác động hiệp định NAFTA; nghiên cứu ; nghiên cứu của
Ali, Ashfaque (2017) đánh giá tác động của hiệp định thương mại Thổ Nhĩ Kỳ và Pakistan. Trong những
năm gần đây, mơ hình cân bằng tổng thể đã được sử dụng một cách rộng rãi hơn ở Việt Nam trong phân tích
tác động của các hiệp định thương mại tới nền kinh tế, bên cạnh các nghiêu cứu xây dựng mơ hình cân bằng
tổng thể chun biệt cho Việt Nam như nghiên cứu của Viện chiến lược phát triển – Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(2008) đánh giá tác động của việc gia nhập WTO đối với nền kinh tế Việt Nam; nghiên cứu của Fucase, E.,
và Martin, W (1999) đánh giá thực hiện các cam kết AFTA đối với Việt Nam; nghiên cứu của Nguyễn Chân
và Trần Kim Dung (2003) đánh giá tác động của các hiệp định thương mại đối với Việt Nam; nghiên cứu của
Phạm Lan Hương (2007) phân tích ảnh hưởng của hội nhập kinh tế quốc tế tới Việt Nam. Trong các nghiên
cứu trên hầu hết các cơ sở dữ liệu được xây dựng trên bảng đầu ra năm 1996, bảng ma trận hạch toán xã hội
(SAM) năm 1999, 2000, 2003 và 2007. Bên cạnh hướng tiếp cận này, một số nghiên cứu khác ứng dụng mơ
hình GTAP để phân tích tác động của các hiệp định tự do thương mại tới kinh tế Việt Nam như báo cáo của
Multrap (2011) sử dụng mơ hình GTAP để đánh giá tác động của các hiệp định khu vực thương mại tự do
(FTA) đến hoạt động sản xuất, thương mại của Việt Nam; nghiên cứu của Lê Thị Thùy Vân (2015) đánh giá
tác động của Hiệp định thương mại tự do đến các ngành kinh tế và thu ngân sách nhà nước.
Phân tích chung các mơ hình cân bằng tổng thể cho thấy điểm mạnh của mơ hình cân bằng tổng thể là
nó mơ phỏng nền kinh tế do đó có thể đánh giá một cách toàn diện nhiều yếu tố khác nhau liên quan tới nền
kinh tế. Ngay cả trong việc phân tích thương mại, mơ hình cân bằng tổng thể cũng có khả năng đánh giá tồn
diện các mặt hàng, và tác động lan toả sự thay đổi trong một mặt hàng tới các mặt hàng khác từ đó có thể
đánh giá được tương đối đầy đủ tác động của thuế quan tới cơ cấu nhập khẩu.
Tuy nhiên, mơ hình cân bằng tổng thể cũng có những hạn chế nhất định. Mơ hình cân bằng tổng thể

địi hỏi dữ liệu tương đối lớn và đầy đủ. Đồng thời, việc xây dựng mơ hình cân bằng tổng thể cũng địi hỏi
phải phải khái quát hoá các ngành trong nên kinh tế, do đó phải xử lý dữ liệu trong mơ hình bằng cách lấy
1
2

Nguyễn Mạnh Toàn (2010)
U.S. International Trade Commission)

103


Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
thuế quan trung bình của một số ngành, mặt hàng lớn mà không thể đi chi tiết từng ngành hàng nhỏ (mơ hình
cân bằng tổng thể có thể tiếp cận khoảng 25 tới khoảng hơn 100 mặt hàng so với việc phân loại hàng nghìn
mặt hàng theo thuế quan HS. 6 chữ số). Bên cạnh đó mơ hình cân bằng tổng thể tĩnh chỉ xem xét dữ liệu
trong 1 thời điểm (thường là 1 năm) và bỏ qua các dữ liệu trong q khứ, chính vì vậy kết quả phân tích của
mơ hình cân bằng tổng thể thường bỏ qua yếu tố xu thế do dó việc đánh giá tiềm năng trong tương lai có
những hạn chế nhất định. Điểm yếu này có thể được khắc phục thơng qua việc sử dụng phương pháp ước
lượng “đệ quy” đối với mơ hình tổng thể hay phương pháp “viễn cảnh hoàn hảo”. Tuy nhiên ngay cả hai
phương pháp này cũng có những nhược điểm nhất định, phương pháp “đệ quy” bỏ qua yếu tố lý thuyết kinh
tế trong khi đó phương pháp “viễn cảnh hoàn hảo” lại dùng những giả định về nhân tố trong mơ hình là có
thể xác định được trong tương lai.
1.2. Mơ hình cân bằng từng phần
Lý thuyết cân bằng từng phần (Partial equilibrium model) được Alfred Marshall xây dựng và phát
triển. Cân bằng từng phần là trạng thái cân bằng cục bộ trong từng phần của nền kinh tế hay từng phần của
thị trường. Theo định nghĩa của Gorge Stiger thì mơ hình cân bằng từng phần là mơ hình dựa trên khoảng số
liệu hạn chế ví dụ như cân bằng cung cầu trong một sản phẩm trên thị trường. Từ đó có thể khái qt: mơ
hình cân bằng từng phần là mơ hình giả lập hoạt động của một bộ phận trong nền kinh tế, và ở đó trạng thái
cân bằng của bộ phận này phải được xác lập.
Mơ hình cân bằng cung cầu là một trong những mơ hình cân bằng từng phần phổ biến nhất. Trong đó

điểm cân bằng cung cầu đạt được trên thị trường đối với một loại hàng hoá đơn lẻ ở mức giá xác định. Bên
cạnh mơ hình cung cầu cịn có các mơ hình cân bằng từng phần khác trong nền kinh tế như mơ hình tiền tệ
IS/LM.
Mơ hình cân bằng từng phần do tập trung trên mảng dữ liệu tương đối hạn chế do đó để mơ hình cân
bằng từng phần có thể hoạt động được địi hỏi phải sử dụng một số giả định như sau:
+ Giá xác định trong mơ hình cân bằng từng phần là như nhau đối với tất cả các đối tượng trong mơ
hình.
+ Hành vi của các bộ phận trong mơ hình khơng thay đổi theo thời gian.
+ Hay nói cách khác các phần khác của nền kinh tế ngồi mơ hình là khơng thay đổi).
+ Các nhân tố có thể linh động và có thể dễ dàng chuyển dịch từ ngành này sang ngành khác.
Mơ hình cân bằng từng phần cũng được áp dụng một cách khá rộng rãi trong phân tích tác động
thương mại. Trong đó mơ hình phổ biến nhất là mơ hình SMART, mơ hình SMART là một cơng cụ đo lường
để phân tích tác động của thương mại. Mơ hình này có thể áp dụng trong việc đánh giá cơ cấu hàng hố nhập
khẩu thơng qua việc phân tích tác động của từng loại hàng hố và các hàng hoá liên quan (hàng hoá thay thế
và hàng hoá bổ sung). Theo mơ hình này sự thay đổi chính sách thuế sẽ tác động không chỉ tới giá hàng hố
trực tiếp chịu điều chỉnh thuế quan mà cịn tác động tới giá cả của các hàng hoá liên quan. Mơ hình cân bằng
từng phần sử dụng hệ số co giãn cung và cầu và hệ số co giãn thay thế để xác định điểm cân bằng trong
thương mại.
Mơ hình SMART chuẩn mà WB xây dựng với các giả định là:
- Các phân tích của mơ hình khơng chịu ảnh hưởng của thu nhập
- Giả định về độ co giãn: hàng hố nhập từ các quốc gia khác nhau khơng phải là hàng hố thay thế
hồn hảo.
- Cung xuất khẩu là hồn tồn co giãn.
Việc tính tốn hiệu ứng thương mại tạo lập và chuyển hướng thương mại ở mô hình SMART được
tính tốn theo 2 bước:
Bước 1: Ước lượng hàm lợi ích

U = Σug(mg) + n
104



Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
Trong đó n là số lượng tiêu thụ hàng hố trong nước cịn lại.
ug là hàm lợi ích của hàng hố g
mg là lượng cầu nhập khẩu trung bình của hàng hố g
Tối đa hố hàm lợi ích theo cơng thức:
mg,c = ʄ(pdg,c pdg,#c), Ɣ g,c
n = y – Σ Σ(pdg,c. mg,c)
pdg,c = pwgc (1 + tg,c)
tg,c = tgMFN (1-Ɵg,c)
Trong đó:
- pdgc là giá nhập khẩu từ quốc gia c
- pdg,#c là giá nhập khẩu trung bình tất cả các hàng hoá từ các quốc gia khác quốc gia c.
- tg,c là thuế suất của hàng hoá g từ quốc c, tgMFN là thuế suất nhập khẩu theo quy chế tối huệ quốc, Ɵg,c
là tỷ suất ưu tiên khi nhập khẩu từ quốc gia c.
- pwg,c là giá thế giới
- y là thu nhập quốc dân
- n là phần tiêu dùng còn lại sau khi nhập khẩu của thu nhập quốc dân.
Bước 2: Tính tốn hiệu ứng chuyển hướng thương mại và tạo lập thương mại:
Đối với hiệu ứng tạo lập thương mại:

Trong đó
εg,c là co giãn cầu của hàng hố g từ quốc gia c.
TC là khối lượng tạo lập thương mại (kim ngạch gia tăng do điều chỉnh thuế)
Đối với hiệu ứng chuyển hướng thương mại:

105


Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng


Trong đó:
TD là hiệu ứng chuyển hướng thương mại
σg,c,#c là độ co giãn thay thế giữa hàng hoá g từ nước c và các nước khác c
Có khá nhiều các nghiên cứu quốc tế sử dụng mơ hình SMART để đánh giá tác động của các hiệp định
tự do thương mại như nghiên cứu của Meredith A. McIntyre (2005) đánh giá sự hội nhập của cộng đồng các
nước đông phi (EAC) đối với Kenya, nghiên cứu của Vani archana (2017) về tác động của vốn đầu tư nước
ngoài và các hiệp định tự do thương mại đến ngành công nghiệp của Ấn Độ, v.v.... Ở Việt Nam cũng có một
số các nghiên cứu sử dụng mơ hình SMART để đánh giá tác động của các hiệp định thương mại tới Việt
Nam như báo cáo Multrap (2011) sử dụng mơ hình SMART để đánh giá tác động của FTA tới Việt Nam đặc
biệt trong phân tích ngành và việc phân bổ nguồn lực nhằm bổ sung các hạn chế của phương pháp GTAP;
nghiên cứu của Lê Thị Thùy Vân (2015) cũng sử dụng SMART đánh giá song song cùng với các phương
pháp khác, v.v...
Nhìn chung, ưu điểm của mơ hình cân bằng từng phần là khá đơn giản dễ giải thích, đồng thời có thể
phân tích giữa hai tác động về tạo lập thương mại và chuyển hướng thương mại. Tuy nhiên, mơ hình cân
bằng từng phần có khá nhiều điểm hạn chế, mơ hình này có tính chủ quan khá cao do người nghiên cứu phải
xác định được độ co giãn cầu của nước nhập khẩu. Bên cạnh đó mơ hình cân bằng từng phần sử dụng giả
định việc điều chỉnh một dịng thuế khơng có tác động tới các dịng thuế khác và các hiệu ứng lan toả là tối
thiểu. Tuy nhiên trên thực tế giả định này thường ít thoả mãn, do đó độ chính xác của mơ hình từng phần vẫn
cịn nhiều hạn chế.
1.3. Mơ hình lực hấp dẫn (Gravity Model)
Mơ hình lực hấp dẫn lần đầu tiên được sử dụng bởi Tinbergen (1962), từ đó tới nay, mơ hình lực hấp
dẫn đã khơng ngừng được hồn thiện. Mơ hình lực hấp dẫn (gravity model) là mơ hình được xây dựng trên
cơ sở thương mại giữa hai quốc gia tuân theo quy luật tương tự với quy luật trọng lực hấp dẫn của Newton
tức là kim ngạch thương mại giữa hai quốc gia tỷ lệ thuận với quy mô của hai nền kinh tế đồng thời tỷ lệ
nghịch đối với khoảng cách giữa hai nước. Mơ hình lực hấp dẫn chuẩn có dạng:

Xij = G(Mi*Mj/Dij)
Và có thể được viết lại dưới dạng:


Trong đó:
G: là hằng số
Xij là kim ngạch thương mại giữa hai nước i và nước j
Mi là biến số đại điện cho quy mô nền kinh tế của nước i.
Mj là biến số đại điện cho quy mô nền kinh tế của nước j.
Dij là khoảng cách giữa 2 quốc gia i và j.
Các nghiên cứu ban đầu thường sử dụng tổng thu nhập quốc dân (GDP) là thước đo quy mô của nền
kinh tế tuy nhiên các nghiên cứu sau này bổ sung thêm nhiều biến số khác nhau như biến số về mặt chính
sách, biến số như giá cả vận tải, đầu tư nước ngồi, các yếu tố chính trị, các yếu tố về thuế quan, các yếu tố
liên quan tới chỉ số giá, lạm phát cũng yếu tố tỷ giá vào trong mô hình.
Mơ hình lực hấp dẫn là mơ hình tương đối hiệu quả trong phân tích thương mại, mơ hình lực hấp dẫn
có thể phân tích thương mại từ nhiều nhân tố khác nhau. Đồng thời, do xét tới yếu tố khoảng cách mơ hình
106


Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
này đặc biệt phù hợp trong việc phân tích cơ cấu xuất nhập khẩu phân theo đối tác thương mại. Mô hình lực
hấp dẫn đã được áp dụng rộng rãi cả trong nước và quốc tế như nghiên cứu của Khatibi (2008) đánh giá tác
động của việc gia nhập WTO đối với ngoại thương của Ka- dắc-tan, nghiên cứu của Wee Chain Koh (2013)
về triển vọng thương mại của Bru-nây trong hội nhập ASEAN; nghiên cứu của Francesco Di Comite và cộng
sự (2014) về cắt giảm thuế quan, các đối tác thương mại và khoảng cách tiền lương của 17 nước OECD;
nghiên cứu của Okubo (2003) nghiên cứu về hiệu ứng thương mại nội vùng ở Nhật Bản. Trong nước cũng có
nhiều nghiên cứu sử dụng mơ hình lực hấp dẫn để phân tích tác động tự do thương mại tới Việt Nam như
nghiên cứu của của Từ thuý Anh và Đào Ngun Thắng (2008) tiếp cận theo mơ hình lực hấp dẫn theo dạng
mơ hình của Frank và Rose, theo đó việc tập trung thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN được xác
định là chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố bao gồm có GDP của các nước, thu nhập bình quân của Việt Nam và
các quốc gia ASEAN, và khoảng cách địa lý giữa Việt Nam và các quốc gia trên; nghiên cứu của Trí Thái
Đỗ (2006) dùng mơ lực hấp dẫn để phân tích thương mại giữa Việt Nam và 23 nước Châu Âu.
Nhìn chung mơ hình lực hấp dẫn có u điểm là có u cầu thấp hơn về số liệu so với các mô hình
khác. Mơ hình lực hấp dẫn cũng có thể sử dụng vào nhiều mục đích và có thể sử dụng để tập trung phân tích

sâu một yếu tố tác động tới thương mại. Mặc dù vậy, mơ hình lực hấp dẫn cũng có những hạn chế, dạng mơ
hình lực hấp dẫn là dạng phi tuyến tính nên khi ước lượng mơ hình có thể gập những khó khăn khi giải thích
các biến số bổ sung vào mơ hình; bên cạnh đó mơ hình lực hấp dẫn chỉ có thể phân tích các yếu tố tác động
vào thương mại chứ khơng thể phân tích theo chiều ngược lại.
2. Đánh giá chung các phương pháp định lượng phân tích tác động
Qua các nghiên cứu thực nghiệm này có thể thấy các phương pháp phân tích thương mại được áp dụng
một cách khá đa dạng, mỗi phương pháp phân tích có những ưu nhược điểm riêng và được sử dụng tuỳ theo
mục đích phân tích và nguồn dữ liệu phân tích. Bên cạnh đó để thể có một đánh giá tồn diện tác động
thương mại của các hiệp định tự do thương mại việc sử dụng kết hợp nhiều phương pháp đánh giá khác nhau
để cái nhìn đa chiều và đầy đủ các tác động của các hiệp định thương mại đối với nền kinh tế.
Phương pháp áp dụng mơ hình cân bằng tổng thể: Việc sử dụng mơ hình cân bằng tổng thể có ưu điểm
là hiệu quả và độ chính xác cao cũng như có những đánh giá đầy đủ và tồn diện về nhiều vấn đề trong đó có
cơ cấu nhập khẩu. Tuy nhiên, mơ hình tổng thể bỏ qua yếu tố xu hướng trong một giai đoạn dài và chỉ xét
điều kiện cân bằng trong một thời điểm do đó thường chỉ đánh giá được tác động ban đầu của hội nhập. Mơ
hình tổng thể dạng động, kết hợp với các phương pháp “đệ quy” hoặc “viễn cảnh hoàn hảo – G-Cubed” có
thể đánh giá và dự báo tác động trong dài hạn tuy nhiên hai phương pháp này khá phức tạp và cũng có khá
nhiều giả định dẫn tới các hạn chế về độ chính xác trong dự báo. Thêm vào đó mơ hình cân bằng tổng thể địi
hỏi số liệu tương đối lớn do đó việc sử dụng mơ hình cân bằng tổng thể có hiệu quả nhất trong việc đánh giá
hiện trạng thương mại và nền kinh tế và đánh giá cơ cấu kinh tế, cơ cấu thương mại.
Phương pháp áp dụng mơ hình cân bằng từng phần mà cụ thể là mơ hình cân bằng từng phần
(SMART) cũng tỏ ra khá hiệu quả trong việc đánh giá tác động hội nhập. Ưu điểm của mô hình SMART là
có thể tách biệt được 2 hiệu ứng chuyển hướng thương mại và tạo lập thương mại cũng như đưa ra được các
nguyên nhân rõ ràng trong việc thay đổi thương mại. Tuy nhiên, mơ hình SMART bỏ qua hiệu ứng lan toả
giữa các ngành với giả định các ngành này ít có tác động qua lại do đó khó có thể sử dụng mơ hình SMART
để đánh giá tác động về cơ cấu trong trung và dài hạn. Mơ hình SMART được sử trong việc phân tích ngành
hoặc phân tích một mặt hàng cụ thể.
Phương pháp áp dụng mơ hình lực hấp dẫn: Mơ hình lực hấp dẫn được áp dụng khá phổ biến trong
việc phân tích thương mại giữa các nước. Các nghiên cứu thực nghiệm về mơ hình lực hấp dẫn tỏ ra hữu hiệu
trong việc phân tích tác động thương mại và đặc biệt là thay đổi cơ cấu thương mại theo các nước đối tác do
có xét tới các yếu tố về quy mơ và khoảng cách. Mơ hình lực hấp dẫn cũng có thể dễ dàng chỉnh sửa để sử

dụng phân tích với nhiều mục đích khác nhau bằng việc đưa thêm các biến số phù hợp vào phương trình ước
lượng. Một ưu điểm khác là mơ hình lực hấp dẫn là mơ hình có xét tới các xu thế trong q khứ nên kết quả
của mơ hình này có thể dùng để phân tích các xu hướng dài hạn.
107


Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ali, Ashfaque (2017) , “A CGE Analysis of Pakistan-Turkey Free Trade Agreement”, MPRA Paper
78318.
[2] Arastou Khatibi (2008), “Kazakhstan’s Accession to the WTO: A Quantitive Assessment”, ECIPE
Working Paper • No. 02/2008.
[3] Francesco Di Comite, Antonella Nocco Gianluca Orefice (2014), “Tariff reductions, trade patterns and
the wage gap”, CEPII Working Paper, N2014-02.
[4] Fucase, E., and Martin, W., (1999). “Evaluating the Implication of Vietnam’s Accession to the ASEAN
Free Trade Area (AFTA): A Quantitative Evaluation, Draft, Washington DC”
[5] Lê Thị Thùy Vân (2015), “Đánh giá tác động của các Hiệp định thương mại tự do đến các ngành kinh
tếvà thu ngân sách nhà nước củaViệt Nam, định hướng và giải pháp đến năm 2020”, Đề tài cấp Bộ - Bộ
Tài chính.
[6] Meredith A. McIntyre (2005), “Trade Integration in the East African Community: An Assessment for
Kenya”, IMF Working paper, WP/05/143.
[7] Mutrap (2011), Báo cáo “Đánh giá tác động mở cửa thị trường trong WTO và các hiệp định khu vực
thương mại tự do (FTA) đến hoạt động sản xuất, thương mại của Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện
cơ chế điều hành xuất nhập khẩu của Bộ công thương giai đoạn 2011-2015”.
[8] Nguyen Chan, and Tran Kim Dung (2003), “Using Structuralist CGE Model to Evaluate Impacts of
Trade Liberalization in Vietnam”, Using Structuralist CGE Model to Evaluate Impacts of Trade
Liberalization in Vietnam, Paper Presented at the Final Dissemination Workshop of Research Project
“The effects of External Liberalization on Vietnam Economic Performance and Income Distribution”
funded by the Ford Foundation, 21 October 2003, Hanoi.
[9] Nguyễn Mạnh Toàn (2010), “Giới thiệu cấu trúc cơ bản và nguyên lý hoạt động của mơ hình cân bằng

tổng thể dạng động”, Tạp chí khoa học và cơng nghệ, Đại học Đà Nẵng - số 6 (41).2010.
[10] Phạm Lan Hương (2007), “Phân tích ảnh hưởng của hội nhập kinh tế quốc tế qua mơ hình cân bằng
tổng thể”, Báo cáo số 5A tại Hội thảo “Tác động của hội nhập nền kinh tế quốc tế đến nền kinh tế - tài
chính Việt Nam”.
[11] Tri Thai Do (2006), “A Gravity model for Trade between Vietnam and twenty-three European
contries”, />[12] Tinbergen, Jan. (1962), “Shaping the World Economy: Suggestions for an International Economic
Policy”, American Journal of Agricultural Economics, Volume 46, Issue 1, 271–273.
[13] Từ Thuý Anh và Đào Nguyên Thắng (2008), “Các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ tập trung thương mại
của Việt Nam với Asean+3”, CEPR Bài nghiên cứu NC-05/2008.
[14] Vani
Archana
(2017),
“Impact
Of
Fdi
/>
And

Fta

On

Indian

Industries”,

[15] Viện chiến lược Phát triển – Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2008), “Đánh giá tác động của gia nhập WTO tới
nền kinh tế Việt Nam - Sử dụng mơ hình cân bằng tổng thể (CGE)”.
[16] Young Man Yoon, Chi Gong, Taek-Dong Yeo (2009), “A CGE Analysis of Free Trade Agreements
among China, Japan, and Korea”, Journal of Korea Trade, 13(1), 45-64.

[17] Wee Chian Koh (2013), “Brunei Darussalam’s Trade Potential and ASEAN Economic Integration: A
Gravity Model Approach”, Southeast Asian Journal of Economics 1(1), December 2013: 67-89.

108



×