Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

GIÁ TRỊ LÝ LUẬN THỰC TIỄN VÀ VIỆC DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216 KB, 35 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA CHÍNH TRỊ HỌC

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
MƠN HỌC: CHÍNH TRỊ HỌC
ĐỀ TÀI: GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH VÀ SỰ VẬN DỤNG
CỦA ĐẢNG TA TRONG QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Họ và tên
MSSV
Lớp

: Bùi Đỗ Ngọc Khánh
: 1850080012
: K38- Chủ nghĩa xã hội khoa học

Hà Nội – 2021

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài....................................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.........................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..........................................................................3
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.............................................................3
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn....................................................................................3
6. Kết cấu tiểu luận.....................................................................................................3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN
TỘC VÀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC..............................................4
1.1. Các khái niệm cơ bản..........................................................................................4


1.1.1. Khái niệm dân tộc.......................................................................................4
1.1.2. Khái niệm cách mạng giải phóng dân tộc...................................................5
1.2. Khái quát sơ lược về cơ sở, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh...................................................................................................................... 5
1.3. Sự thống nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người..........................................................................................6
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC....................12
2.1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường của cách
mạng vô sản................................................................................................................ 12
2.2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo
.................................................................................................................................... 13
2.3. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm tồn dân tộc..................14
2.4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả
năng giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc.......................................17


2.5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết
hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang trong nhân dân........19
CHƯƠNG 3: GIÁ TRỊ LÝ LUẬN THỰC TIỄN VÀ VIỆC DỤNG TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ CÁCH MẠNG GIẢI PHĨNG DÂN
TỘC TRONG CƠNG CUỘC ĐỔI MỚI HIỆN NAY............................................21
3.1. Giá trị lý luận thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân dân tộc hiện
nay.............................................................................................................................. 21
3.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác nghiên cứu, phát triển sáng tạo lý
luận trong giai đoạn hiện nay.....................................................................................25
KẾT LUẬN............................................................................................................... 29
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................32



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra một trang sử mới cho
dân tộc Việt Nam: Đất nước độc lập, nhân dân được tự do sau gần 100 năm thống
khổ dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Cuộc cách mạng ấy vượt tầm ảnh hưởng
ra khỏi biên giới quốc gia, trở thành động lực, niềm tin, cổ vũ cho nhân dân các
nước thuộc địa đứng lên giành độc lập. Rất nhiều nhà sử học nước ngoài khi
nghiên cứu về Việt Nam đều cho rằng, cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 có
một ý nghĩa lịch sử sâu sắc, khơng chỉ mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt
Nam mà cịn khởi nguồn các cuộc đấu tranh giải phóng khỏi ách thống trị thực dân
của các dân tộc thuộc địa trên toàn thế giới. Giáo sư người Jamaica Horet Compel,
người từng nghiên cứu nhiều về lịch sử Việt Nam đã nhận xét: “Thành công của
cuộc Cách mạng tháng Tám ở Việt Nam khơng thể khơng nhắc tới vai trị lãnh đạo
to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người anh hùng dân tộc của Việt Nam và một
nhà lãnh đạo kiệt xuất của thế giới, đã đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc
của Việt Nam”. Và chính thắng lợi của cuộc cách mạng đó đã chứng minh một
cách sinh động những tư tưởng đặc sắc, mẫu mực của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
con đường giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, các phong trào yêu nước chống
Pháp diễn ra sôi nổi, không ngừng khắp Bắc, Trung, Nam. Đó là các phong trào
Cần Vương, cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế, cuộc vận động chống thuế Trung
Kỳ, cuộc vận động Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa thục, các phong trào Đông Du, Tây
Du do các sĩ phu yêu nước chủ xướng, cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam Quốc
dân Đảng tiến hành v.v.. Các phong trào kể trên đều sáng ngời tinh thần yêu nước,

4


bất khuất, song tất cả đều lâm vào bế tắc và cuối cùng thất bại. Đó là sự bế tắc và
thất bại về đường lối cứu nước.

Trong bối cảnh ấy, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, đã đáp ứng trúng nhu
cầu lịch sử dân tộc, đưa đất nước đi vào đúng quỹ đạo thời đại mới. Với hành trang
là chủ nghĩa yêu nước - nhân văn Việt Nam và khát vọng giành độc lập cho Tổ
quốc, tự do cho đồng bào, trải qua cuộc sống lao động, học tập, nghiên cứu kinh
nghiệm đấu tranh cách mạng phong phú ở nhiều nước, Nguyễn Ái Quốc đã nhận
thấy vấn đề giải phóng dân tộc và giải phóng con ngưịi là nhu cầu cấp thiết không
chỉ với Việt Nam mà với tất cả các dân tộc thuộc địa và nhân dân bị áp bức trên
toàn thế giới.
Xuất phát từ những lý do trên việc nghiên cứu “Tư tưởng của Hồ Chí Minh
về cách mạng giải phóng dân tộc – Giá trị lý luận thực tiễn” là một đề tài có ý
nghĩa thực tiễn sâu sắc.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Phân tích và làm rõ tư tưởng của Hồ Chí Minh về
cách mạng giải phóng dân tộc qua đó làm rõ giá trị lý luận và thực tiễn Việt Nam
hiện nay
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên cần phải thực hiện các
nhiệm vụ sau:
Thứ nhất: Làm rõ cơ sở lý luận vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc.
Cụ thể: Làm rõ các khái niệm dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí
Minh.
Thứ hai: Phân tích nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
và cách mạng giải phóng dân tộc
5


Thứ ba: Giá trị lý luận thực tiễn và việc dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân
tộc và cách mạng giải phóng dân tộc trong cơng cuộc đổi mới hiện nay
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Phạm vi nghiên cứu: Tư tưởng của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử là cơ sở phương pháp luận khoa học để nghiên cứu, học tập, vận dụng và
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bên cạnh đó tiểu luận cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học
khác như: Phương pháp phân tích và tổng thích hợp thuyết; phương pháp phân loại
và hệ thống hóa lý thuyết, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh,…
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
bao gồm những vấn đề cơ bản có tính quy luật từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, khơng chỉ có giá trị là ngọn đèn soi sáng
sự nghiệp cách mạng Việt Nam trong suốt tiến trình lịch sử, mà cịn mở đường cho
cách mạng các nước có hồn cảnh tương tự Việt Nam. Bên cạnh đó tư tưởng Hồ
Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc có ý nghĩa rất quan
trọng trong công cuộc đổi mới hiện nay.
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo tiểu luận bao
gồm có 3 chương.
6


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ
DÂN TỘC VÀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm dân tộc
Cho đến nay, khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong
đó có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất:
Một là, dân tộc chỉ một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có
sinh hoạt kinh tế chung, có ngơn ngữ riêng và những nét văn hóa đặc thù, xuất hiện
sau bộ lạc, bộ tộc. Với nghĩa này, dân tộc là một bộ phận của quốc gia - quốc gia

nhiều dân tộc.
Hai là, dân tộc chỉ cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có lãnh
thỗ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống
nhất quốc của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống,
văn hóa và truyền thống đấu tranh chung suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước
và giữ nước. Với nghĩa này, dân tộc là toàn bộ nhân dân của quốc gia đó – quốc gia
dân tộc.
Như vậy, dân tộc là cộng đồng người ổn định, hình thành trong lịch sử, tạo lập một
quốc gia, trên cơ sở cộng đồng bền vững về: lãnh thổ quốc gia, kinh tế, ngôn ngữ,
truyền thống, văn hố, đặc điểm tâm lí, ý thức về dân tộc và tên gọi của dân tộc.
Khái niệm được hiểu: Các thành viên cùng dân tộc sử dụng một ngôn ngữ chung
(tiếng mẹ đẻ) để giao tiếp nội bộ dân tộc. Các thành viên cùng chung những đặc
điểm sinh hoạt văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần, tạo nên bản sắc văn hoá dân
tộc. Dân tộc được hiểu theo nghĩa cộng đồng quốc gia dân tộc, là một cộng đồng

7


chính trị-xã hội, được chỉ đạo bởi một nhà nước, thiết lập trên một lãnh thổ chung,
như: dân tộc Việt Nam, dân tộc Trung Hoa.
1.1.2. Khái niệm cách mạng giải phóng dân tộc
Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân, trên cơ sở
liên minh cơng – nơng. Hồ Chí Minh viết: cách mạng “là việc chung cả dân chúng
chứ không phải việc việc của một hai người”, vì vậy phải đồn kết tồn dân, “sĩ,
nơng, cơng, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”.
1.2. Khái quát sơ lược về cơ sở, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng
Hồ Chí Minh
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
a) Cơ sở khách quan
Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh sinh ra và

lớn lên trong hồn cảnh đất nước và thế giới có nhiều biến động: các phong trào
cứu nước của nhân dân ta muốn giành được thắng lợi phải đi theo một con đường
mới; trên thế giới, chủ nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ thù chung của các dân tộc
thuộc địa; sự thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga và sự ra đời của Quốc tế
Cộng sản
Những tiền đề tư tưởng – lý luận: Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam; tinh hoa văn hóa nhân loại; chủ nghĩa Mác-Lênin
b) Nhân tố chủ quan
Khả năng tư duy; trí tuệ phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn
của Hồ Chí Minh
Q trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
- Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước
- Thời kỳ 1911 – 1920: Tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc
8


- Thời kỳ 1921 – 1930: Hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam
- Thời kỳ 1930 – 1945: Vượt qua thử thách, kiên trì giữ vững lập trường cách mạng
- Thời kỳ 1945 – 1969: Tiếp tục phát triển, hoàn thiện.
1.3. Sự thống nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người.
* Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do”
Dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài lịch sử. Từ những hình
thức cộng đồng thị tộc, bộ tộc, bộ lạc đầu tiên đã hình thành nên các cộng đồng dân
tộc, các quốc gia dân tộc. Khi chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh
tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các nước đế quốc thi hành chính sách vũ
trang xâm lược, cướp bóc, nơ dịch các dân tộc nhược tiểu, vấn đề dân tộc trở nên
gay gắt, từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa; độc lập, tự do của các dân tộc trở
thành vấn đề thời đại.
Nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc là độc lập, tự

do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc. Thấm đượm
tinh thần yêu nước truyền thống Việt Nam, trong tư tưởng Hồ Chí Minh cái quý
nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Hồ Chí Minh nói: “Cái
mà tơi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập...”.
Trên đường tiếp cận chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu Tun ngơn độc
lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của cách mạng
Pháp, Người hiểu rõ chân lý bất di bất dịch về quyền cơ bản của các dân tộc: Tất cả
các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống
quyền sung sướng và quyền tự do.

9


Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết thiêng liêng đã được các
đồng minh thắng trận trong chiến tranh thế giới thứ nhất thừa nhận, thay mặt cho
những người Việt Nam yêu nước, Người gửi đến Hội nghị hịa bình Vécxây một
bản u sách 8 điểm địi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Bản yêu
sách đã không được dư luận chú ý đến. Người rút ra bài học: “Muốn được giải
phóng, các dân tộc chỉ có thể trơng cậy vào mình, trơng cậy vào lực lượng của bản
thân mình”1. Trong Chánh cương vắn tắt cũng như trong Lời kêu gọi sau khi thành
lập Đảng, Hồ Chí Minh đã xác định mục tiêu chính trị của Đảng là: Đánh đổ đế
quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn thành độc
lập”. Đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nước, chủ trì Hội nghị Trung ương 8 của
Đảng, viết thư Kính cáo đồng bào, chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải
phóng cao hơn hết thảy”. Hồ Chí Minh đã đúc kết ý chí đấu tranh cho độc lập, tự
do của nhân dân ta trong một câu nói bất hủ: “Dù có phải đối cháy cả dãy Trường
Sơn cũng phải quyết giành cho được độc lập!” 2. Cách mạng Tháng Tám thành
cơng, người thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, long trọng
khẳng định trước quốc dân đồng bào và thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng
tự do độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt

Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do, độc lập ấy”. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, thể hiện quyết tâm bảo
vệ độc lập và chủ quyền dân tộc, Người ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: “...
thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm
nô lệ”.
Khi đế quốc Mỹ điên cuồng tiến hành chiến tranh cục bộ ở miền Nam, mở
rộng chiến tranh miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một chân lý bất
1 Trần Dân Tiên (1986), “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”, Nxb Sự thật, Nà Nội, trang 31.
2 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 3, trang 198

10


hủ, có giá trị cho mọi thời đại:“Khơng có gì q hơn độc lập, tự do”. “Khơng có gì
q hơn độc lập, tự do” không chỉ là tư tưởng mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách
mạng của Hồ Chí Minh. Vì thế, Người khơng chỉ được tơn vinh là “anh hùng giải
phóng dân tộc” của Việt Nam mà còn được thừa nhận là “Người khởi xướng cuộc
đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX”.
* Kết hợp nhuần nhuyển dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc cần được
tiến hành dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, giành độc lập dân tộc để tiến
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là một vấn đề lý luận quan trọng, có ý nghĩa
thực tiễn to lớn trong thời đại cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Theo
Người, chỉ đứng trên lập trường của giai cấp vô sản và cách mạng vô sản mới giải
quyết được đúng đắn vấn đề dân tộc. Ra đi tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa
Mác – Lênin, Hồ Chí Minh tìm thấy con đường giải phóng cho dân tộc mình theo
con đường của cách mạng vô sản. Người viết rằng: “Sự nghiệp của người bản xứ
gắn mật thiết với sự nghiệp của vơ sản tồn thế giới; mỗi khi chủ nghĩa cộng sản
giành được chút ít thắng lợi trong một nước nào đó,... thì đó càng là thắng lợi cả

cho người An Nam”3. Hồ Chí Minh đã đấu tranh, phê phán quan điểm sai trái của
một số đảng cộng sản châu Âu trong cách nhìn nhận, đánh giá về vai trị, vị trí
cũng như tương lai của cách mạng thuộc địa. Người đưa ra dư luận điểm: các dân
tộc thuộc địa phải dựa vào sức của chính mình, đồng thời biết tranh thủ sự đồn
kết, ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới để trước hết phải đấu
tranh giành lại độc lập cho dân tộc, rồi từ thắng lợi của cách mạng giải phóng dân

3 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 1, trang 469

11


tộc tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và đóng góp thiết thực vào sự nghiệp
cách mạng vơ sản thế giới.
Mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở
những luận điểm sau đây:
+ Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn của đất nước.
Năm 1924, từ sự phân tích đặc điểm giai cấp, dân tộc ở các nước phương Đơng,
Hồ Chí Minh khẳng định: Đối với các dân tộc thuộc địa ở phương Đông: “Chủ
nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước” 4; “Người ta sẽ khơng thể làm gì được
cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời
sống xã hội của họ”5. Nguyễn Ái Quốc kiến nghị về Cương lĩnhhành động của
Quốc tế Cộng sản: “Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng
sản... Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi,... nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ
biến thành chủ nghĩa quốc tế”.
+ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Ngay từ khi gặp được Luận
cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn
bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Trong bài Cuộc kháng chiến viết đầu những năm 20 của thế kỷ XX,
nói về giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cả

hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách
mạng thế giới”. Năm 1930, trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Hồ Chí
Minh xác định cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng (tức cách mạng dân tộc – dân chủ) để đi tới xã hội
cộng sản (tức cách mạng xã hội chủ nghĩa). Đến năm 1960, Người khẳng định lại
4 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 1, trang 466
5 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 1, trang 467

12


rõ hơn: “... chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các
dân tộc bị áp bức và những người lao động trên toàn thế giới khỏi ách nơ lệ”. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời
đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải
phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp.
+ Độc lập cho dân tộc mình đồg thời độc lập cho tất cả các dân tộc. Hồ Chí
Minh đã khẳng định quyền tự do, độc lập là quyền bất khả xâm phạm của các dân
tộc, “dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Là một
chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh khơng chỉ đấu tranh cho độc lập của dân
tộc mình mà cịn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức. Ở Hồ Chí
Minh, chủ nghĩa u nước chân chính ln luôn thống nhất với chủ nghĩa quốc tế
trong sáng.
Ngay từ năm 1941, trên đất Anh, Người nói: “Chúng ta phải tranh đấu cho tự
do, độc lập của các dân tộc khác như là tranh đấu cho dân tộc ta vậy”. Người đã
nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc cuộc
kháng chiến chống Pháp của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu “Giúp
bạn là tự giúp mình”, và chủ trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước
mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.

+ Giành độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội vì hạnh phúc của con
người. Xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước, từ thương nước, thương nịi, Hồ Chí Minh
ln ln gắn liền mục tiêu giải phóng dân tộc với việc mang lại hạnh phúc cho
nhân dân. Người lựa chọn con đường giải phóng dân tộc trên lập trường vơ sản
chính vì cách mạng vơ sản khơng chỉ giải phóng giai cấp cơng nhân mà cịn giải
phóng mọi giai cấp và tầng lớp khác thốt khỏi sự áp bức, bóc lột giai cấp. Người
13


nói: giành độc lập rồi phải xây dựng chủ nghĩa xã hội vì chủ nghĩa xã hội “làm
cho dân giàu, nước mạnh”,... “làm cho mọi người được ăn no, mặc ấm, sung
sướng, tự do”.
Quan điểm giải phóng con người của Hồ Chí Minh được nâng lên, trở thành
tâm điểm của hoạt động cách mạng của Người. Khi chưa giành được độc lập,
Người thể hiện ý chí độc lập bằng câu nói“dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn
cũng quyết giành cho được tự do, độc lập”. Nhưng sau đó Người nói: “Nếu nước
độc lập mà dân khơn được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì”. Do đó theo tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc phải gắn liền
với giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Hồ Chí minh viết: “Tơi chỉ có một
sự ham muốn, ham muốn tột bậc,... đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành”.
Như vậy, tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người ln ln gắn chặt, hịa quyện với nhau trong ttư tưởng Hồ Chí Minh.

14


CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ CÁCH MẠNG GIẢI PHĨNG DÂN TỘC
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể tóm tắt

thành một hệ thống các luận điểm như sau:
2.1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường của
cách mạng vô sản.
Thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chứng tỏ rằng, những con đường giải phóng dân tộc
dưới ngọn cở tư tưởng phong kiến hoặc tư tưởng từ sản là không đáp ứng được yêu
cầu khách quan là giành độc lập, tự do của dân tộc do lịch sử đặt ra. Hồ Chí Minh
rất khâm phục ấy mà quyết tâm ra đi tìm một con đường cứu nước mới.
Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực
tiễnViệt Nam qua các chặng đường gian nan thử thách, Hồ Chí Minh ln ln
khẳng định một chân lý là: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con
đường nào khác là cách mạng vơ sản. Từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ: chủ nghĩa đế quốc là một con đỉa hai vịi, một vịi bám vào
chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc phải
đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạng vơ sản ở chính
quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa; phải xem cách mạng ở thuộc
15


địa như là “một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”, phát triển nhịp nhàng
với cách mạng vô sản.
Như vậy là, vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà
cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết
cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản.
Từ đó, Người quyết tâm đưa dân tộc Việt Nam đi theo con đường đó. Con đường
cách mạng vơ sản, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, bao hàm những nội dung chủ
yếu sau:
Thứ nhất, tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc và dần dần từng bước “đi
tới xã hội cộng sản”.
Thứ hai, lực lượng lãnh đạo cách mạng là giai cấp cơng nhân mà đội tiên

phong của nólà Đảng cộng sản.
Thứ ba, lực lượng cách mạng là khởi đồn kết tồn dân, tơng cốt là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và lao động trí óc.
Thứ tư, sự nghiệp cách mạng của Việt Nam là một bộ phận không khác của
cách mạng thế giới, cho nên phải đoàn kết quốc tế.
2.2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng Cộng sản
lãnh đạo
Các nhà yêu nước Việt Nam đã ý thức được tầm quan trọng và vai trò của tổ
chức cách mạng. Phan Châu Trinh cho rằng ngày nay muốn độc lập, tự do, phải có
đồn thể. Rất tiếc là ông chưa kịp thực hiện ý tưởng của mình. Phan Bội Châu đã
tổ chức ra Duy tân hội (1904) và Việt Nam Quang phục hồi (1912), dụ định sau sẽ
cải tổ thành Việt Nam quốc dân đang theo kiểu Tôn Trung Sơn. chưa kịp thực hiện
thì ơng đã bị bắt và giam lỏng tại Huế. Dù đã thành lập hay chưa thì các tổ chức
16


cách mạng kiểu cũ không thể dựa cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thành cơng,
vì nó thiếu một đường lối chính trị đúng đắn và một phương pháp cách mạng khoa
học, khơng có cơ sở rộng rãi trong quần chúng. Những nỗ lực đấu tranh cửu nước
nhưng không thành công của Việt Nam quốc dân đảng tổ chức chính trị tiêu biểu
nhất của giai cấp tư sản Việt Nam, đã chứng minh điều đó.
Hồ Chí Minh đã sớm khẳng định: muốn sự nghiệp giải phóng dân tộc thành
cơng “Trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành
cơng”6. “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.Hồ Chí Minh đã khẳng định nguyên tắc xây dựng
Đảng: Đảng của giai cấp công nhân phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng
kiểu mới của Lênin.
Đầu năm 1930, Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một chính đáng
của giai cấp cơng nhân Việt Nam có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh và liên

hệ mặt thiết với quần chúng.
2.3. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm tồn dân tộc
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc "là việc chung cả dân
chúng chứ không phải việc một hai người". Người phân tích: "dân tộc cách mệnh
chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường
quyền". Trong lực lượng đó, cơng nơng "là gốc cách mệnh", "là người chủ cách
mệnh"; "cịn học trị, nhà bn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song
không cực khổ bằng công nông: 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của cơng
nơng thơi7. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trị của nhân dân trong khởi nghĩa vũ
6 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, trang 267-268
7 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, trang 266

17


trang. Người coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của quần chúng là
then chốt bảo đảm thắng lợi. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người phê phán
việc lấy ám sát cá nhân và bạo động non làm phương thức hành động. Người
khẳng định: "Dân khí mạnh thì qn lính nào, súng ống nào cũng khơng chống
lại"8.
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Người xác định lực lượng
cách mạng bao gồm toàn dân tộc: Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai cấp công
nhân, tập hợp đại bộ phận nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo
nông dân làm cách mạng ruộng đất; lơi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông... đi
vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam
mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, chí ít là làm cho họ đứng trung
lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (như Đảng Lập hiến) thì phải đánh đổ.
Chủ trương tập hợp lực lượng của Hồ Chí Minh phản ảnh tư tưởng đại đồn kết
dân tộc của Người. Trong Bài ca du kích (1942), Người chủ trương mọi người già,
trẻ, gái, trai, dân, lính đều tham gia đánh giặc. Trong Chỉ thị thành lập Đội Việt

Nam tuyên truyền giải phóng quân (ngày 22-12-1944), Người viết: "Cuộc kháng
chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân, cần phải động viên toàn dân, vũ
trang toàn dân"9.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ. Hồ
Chí Minh lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh. Quan điểm "lấy dân làm gốc" xuyên
suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh của Người. Người đặt niềm tin ở truyền thống
yêu nước nồng nàn của nhân dân Việt Nam. Người khẳng định: "Địch chiếm trời,
địch chiếm đất, nhưng chúng khơng làm sao chiếm được lịng nồng nàn yêu nước
của nhân dân ta". Khi phát động cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp
(tháng 12-1946), Người kêu gọi toàn dân đánh giặc và đánh giặc bằng mọi vũ khí
8 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, trang 275
9 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 3, trang 507

18


có trong tay: "Bất kỳ đàn ơng, đàn bà, bất kỳ người giả, người trẻ, không chia tôn
giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân
Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, khơng có
gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp
cứu nước.
Kêu gọi toàn dân kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh khẳng định:
Chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu
nước. "Cuộc kháng chiến của ta là toàn dân, thực sự là cuộc chiến tranh nhân dân".
"31 triệu đồng bào ta ở cả hai miền, bất kỳ già trẻ, gái trai, phải là 31 triệu chiến sĩ
anh dũng diệt Mỹ, cứu nước, quyết giành thắng lợi cuối cùng"10. Ngày 9-4-1965,
trả lời phóng viên báo Acahata (Nhật Bản) Hồ Chí Minh khẳng định, trong thời đại
chúng ta, một dân tộc đoàn kết chặt chẽ, đấu tranh kiên quyết, hồn tồn có thể
đánh bại bọn đế quốc xâm lược hung hãn, gian ác và có nhiều vũ khí.
Xuất phát từ tương quan lực lượng lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, Hồ

Chí Minh khơng chủ trương tiến hành kiều chiến tranh thông thường, chỉ dựa vào
lực lượng quân đội và tiến hành một số trận quyết tử với kẻ thủ, mà chủ trương
phát động chiến tranh nhân dân. Kháng chiến toàn dân gắn với kháng chiến toàn
diện. Lực lượng toàn dân là điều kiện để đấu tranh tồn diện với kẻ thủ đế quốc,
giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh nói: "Khơng dùng tồn lực của nhân dân về đủ
mọi mặt để ứng phó, khơng thể nào thắng lợi được". Trong chiến tranh, "quân sự là
việc chủ chốt", nhưng đồng thời phải kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị. Theo
Người, thắng lợi quân sự đem lại thắng lợi chính trị, thắng lợi chính trị sẽ làm cho
thắng lợi quân sự to lớn hơn. Đấu tranh ngoại giao cũng là một mặt trận có ý nghĩa
chiến lược, có tác dụng thêm bạn bớt thù, phần hóa và cơ lập kẻ thù, phát huy yếu
tố chính nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, tranh thủ
10 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 13, trang 323

19


sự đồng tỉnh ủng hộ quốc tế. Hỗ Chí Minh chủ trương: "vừa đánh vừa đàm", "đánh
là chủ yếu, đàm là hỗ trợ.
Đấu tranh kinh tế là ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, phát triển
kinh tế của ta, phá hoại kinh tế của địch. Người kêu gọi “hậu phương thi đua với
tiền phương”, coi “ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nơng là chiến
sĩ” “tay cay tay súng, tay búa tay súng, ra sức phát triển sản xuất để phục vụ kháng
chiến”. “Chiến tranh về mặt văn hóa hay tư tưởng so với những mặt khác cũng
khơng kém quan trọng”11
Mục đích cách mạng và chiến tranh chính nghĩa - vì độc lập tự do, làm cho
khả năng tiến hành chiến tranh nhân dân trở thành hiện thực, làm cho toàn dân tự
giác tham gia kháng chiến. Tư tưởng chiến tranh nhân dân của Hồ Chí Minh là
ngọn cờ cổ vũ, dẫn dắt cả dân tộc ta đứng lên kháng chiến và kháng chiến thắng
lợi, đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ trong 30 năm chiến tranh cách mạng
Việt Nam, làm nên thắng lợi vĩ đại có tính thời đại sâu sắc.

2.4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và
có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc.
Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi
của cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính
quốc. Để cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa
được thông qua tại Đại hội VI Quốc tế cộng sản (ngày 1-9-1928) cho rằng: Chỉ có
thể thực hiện hồn tồn cơng cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vơ sản
giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến. Quan điểm này, vơ hình chung đã
làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa.

11 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, trang 319

20


Đầu thế kỷ XX, trong phong trào Cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan
điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của
cách mạng vơ sản ở chính quốc. Quan điểm này vơ hình trung đã làm giảm tính
chủ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa. Phát biểu tại Đại hội
V Quốc tế cộng sản (tháng 6-1924), Hồ Chí Minh đã phân tích: “Vận mệnh của
giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi
xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc
địa”; “nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các
thuộc địa”, nếu khinh thường cách mạng ở thuộc địa tức là “muốn đánh chết rắn
đằn đi”12.
Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách
mạng vơ sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn
nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó là mối
quan hệ bình đẳng chứ khơng phải là quan hệ lệ thuộc, hoặc quan hệ chính - phụ.
Năm 1925, Hồ Chí Minh viết: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vịi

bám vào giai cấp vơ sản ở chính quốc và một cái vịi khác bám vào giai cấp vô sản
ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả
hai vịi. Nếu người ta chỉ cắt một vịi thơi, thì cái vịi kia vẫn tiếp tục hút máu của
giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”13.
Vận dụng cơng thức của Mác: “Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là
sự nghiệp của bản thân giai cấp cơng nhân”, Hồ Chí Minh đã đi tới luận
điểm: “Cơng cuộc giải phóng anh em (tức nhân dân thuộc địa) chỉ có thể thực hiện
được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”. Do nhận thức được thuộc địa là một
12 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 1, trang 196
13 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 1, trang 298

21


khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc và do đánh giá đúng đắn sức mạnh
của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, năm 1924, Hồ Chí Minh cho
rằng: Cách mạng thuộc địa khơng những khơng phụ thuộc vào cách mạng vơ sản ở
chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước.
Khẳng định vị trí và vai trị của cách mạng giải phóng thuộc địa trong mối
quan hệ với cách mạng chính quốc, Hồ Chí Minh cho rằng: “trong khi thủ tiêu một
trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể
giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hồn
tồn”.
Những luận điểm trên đây là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin
trong thời đại đế quốc chủ nghĩa của Hồ Chí Minh. Nó có giá trị lý luận và thực
tiễn rất to lớn và đã được thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam
cũng như trên thế giới chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
2.5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo
lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang trong
nhân dân.

Ngay từ đầu năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Hồ Chí
Minh đã đề cập khả năng một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương. Theo
Người, cuộc khởi nghĩa vũ trang đó: phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần
chúng chứ khơng phải một cuộc nổi loạn... Luận điểm trên đây của Hồ Chí Minh
bắt nguồn từ sự phân tích vai trị của quần chúng nhân dân, bản chất phản động của
chính quyền thực dân Pháp và bài học kinh nghiệm của dân tộc Việt Nam, của cách
mạng Nga, từ sự thất bại của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX.

22


Tháng 5 – 1941, Hội nghị Trung ương 8 do Người chủ trì đã đưa ra nhận
định: Cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang,
mở đầu có thể là bằng một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương.. mà
mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn. Để chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ
trang, Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng chỉ đạo xây dựng căn cứ địa, đào
tạo, huấn luyện cán bộ, xây dựng các tổ chức chính trị của quần chúng, lập ra các
đội du kích vũ trang, chủ động đón thời cơ, chớp thời cơ, phát động Tổng khởi
nghĩa Tháng Tám và chỉ trong vòng 10 ngày đã giành được chính quyền trong cả
nước.
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của
Lênin về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ, ság tạo, bao
gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách mạng giải
phóng dân tộc ở thuộc địa. Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, những thành tựu to lớn và rất quan
trọng của sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã chứng minh tính khoa học đúng đắn, tính
cách mạng sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

23



CHƯƠNG 3: GIÁ TRỊ LÝ LUẬN THỰC TIỄN VÀ VIỆC DỤNG TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ CÁCH MẠNG GIẢI
PHĨNG DÂN TỘC TRONG CƠNG CUỘC ĐỔI MỚI HIỆN NAY
3.1. Giá trị lý luận thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân dân
tộc hiện nay
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về nghiên cứu, phát triển sáng tạo lý luận ở Việt Nam càng mang giá trị
lý luận và thực tiễn sâu sắc. Nghiên cứu và phát triển lý luận được coi là công cụ
nền tảng để xây dựng Đảng, nâng cao vai trị lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng;
đồng thời, tìm ra lời giải cho những bài tốn hóc búa mà thực tiễn đặt ra, hoàn
thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp và dân tộc trong thời đại mới. Những chỉ dẫn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nghiên cứu, phát triển sáng tạo lý luận ở Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của
loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá
24


trình lịch sử”. Vì vậy, “lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho
chúng ta trong cơng việc thực tế”.
Nghiên cứu lý luận là quá trình đi sâu tìm tịi, nắm bắt cái tất yếu, bản chất,
quy luật của sự vật, hiện tượng cùng mọi quan hệ phức tạp ẩn giấu đằng sau các sự
vật, hiện tượng đó. Lý luận mà Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt đời nghiên cứu, phát
triển là lý luận về cuộc đấu tranh giải phóng con người khỏi áp bức, bất cơng,
nghèo nàn và lạc hậu, đưa giai cấp công nhân, nhân dân và toàn dân tộc đi tới xã
hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về nghiên cứu và phát triển sáng tạo lý luận được thể hiện rõ nét trên ba
phương diện:
(1) Đặc biệt đề cao, coi trọng vai trò của lý luận đối với cách mạng, với Đảng, với

mỗi con người, nhất là cán bộ, đảng viên;
(2) Quan tâm, thường xuyên đề ra nội dung, phương pháp nghiên cứu lý luận và
yêu cầu phải không ngừng kiên định và phát triển sáng tạo lý luận để đáp ứng thực
tiễn cách mạng;
(3) Bản thân là một nhà lý luận thực hành lỗi lạc, Người dày công nghiên cứu, vận
dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin một cách triệt để, sáng tạo, phù hợp với thực
tiễn nước ta. Nhờ đó, cách mạng Việt Nam đã giành được nhiều thắng lợi vĩ đại,
trở thành biểu tượng của một dân tộc anh hùng cách mạng trên toàn thế giới.
Bằng phương pháp tiếp cận khoa học, sáng tạo, bám sát thực tiễn của đất
nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh, một mặt, ln trung thành với những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin; mặt khác, vận dụng sáng tạo các nguyên lý đó vào
điều kiện cụ thể của Việt Nam. Người đã bổ sung nhiều luận điểm góp phần làm
phong phú thêm chủ nghĩa Mác - Lênin; đồng thời, xây dựng được một hệ thống lý
luận về cách mạng giải phóng dân tộc phù hợp về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
25


×