Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Địa vị kinh tế chính trị và xã hội của GCCN ở các nước xã hội chủ nghĩa và ý nghĩa của việc nghiên cứu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.39 KB, 22 trang )

Địa vị kinh tế chính trị và xã hội của GCCN ở các nước xã hội chủ nghĩa và
ý nghĩa của việc nghiên cứu



LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Giai cấp công nhân là một bộ phận đặc biệt trong lịch sử con người nói chung, trong xã
hội tư bản nói riêng. Khái niệm phản ánh về GCCN cũng là một bộ phận quan trọng
trong chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết giá trị thặng dư và trong chủ nghĩa xã hội
khoa học. Với vị trí như vậy, cho nên trong nhiều tác phẩm kinh điển, C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin thường xuyên đề cập tới khái niệm GCCN với những dấu hiệu
khác nhau. Từ đây đặt ra nhu cầu nghiên cứu khái niệm GCCN từ góc nhìn triết học (vì
các nhà kinh điển cũng tiếp cận từ góc nhìn triết học) nhằm hệ thống hóa những dấu hiệu
ấy trong sự vận động, phát triển của chúng. Ở nước ta, tuy nghiên cứu lý luận về khái
niệm GCCN đã đạt được nhiều kết quả, song vẫn cịn khơng ít những hạn chế. Chẳng hạn
như các thuộc tính của GCCN chưa được sắp xếp thành hệ thống; vị trí, vai trị của các
thuộc tính chưa được xác định rõ ràng; liên hệ giữa khái niệm GCCN với các khái niệm
khác của CNXH khoa học còn mờ nhạt; khái niệm GCCN trong tư tưởng V.I.Lênin về
chủ nghĩa đế quốc chưa được khai thác đầy đủ; sự sinh thành, biến đổi, mất đi những nội
dung của khái niệm GCCN theo dòng chảy của lịch sử chưa được làm sáng tỏ,… Trong
những thập niên gần đây, dưới tác động của những thành tựu khoa học - cơng nghệ, q
trình tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế và nền kinh tế tri thức, GCCN có nhiều biến đổi.
Những biến đổi ấy đòi hỏi cần được khái quát bằng cách nghiên cứu sự vận động của
khái niệm GCCN. Phong trào công nhân quốc tế từ những năm 70 của thế kỷ XX đến nay
có biểu hiện lắng xuống, một phần nguyên nhân là do lý luận chưa hoàn toàn theo kịp sự
biến đổi và yêu cầu của thực tiễn. GCCN đang tự đòi hỏi nhận thức rõ hơn về chính mình
để hoạt động của nó đạt được hiệu quả hơn. Ở Việt Nam, nơi GCCN đang giữ vai trị lãnh
đạo xây dựng đất nước thơng qua chính đảng của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam, thì
nhu cầu đó lại càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Việc làm rõ khái niệm GCCN cũng


góp phần trang bị thêm cơ sở lý luận cho nghiên cứu lý luận về khái niệm GCCN Việt
Nam hiện nay. Xuất phát từ những lý do trên, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề “Địa vị
kinh tế chính trị và xã hội của GCCN ở các nước xã hội chủ nghĩa và ý nghĩa của việc
nghiên cứu” làm đề tài kết thúc mơn của mình.


2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1.
Mục đích:

Phân tích làm rõ nguồn gốc ra đời, bản chất, logic vận động và phát triển của khái niệm
nói chung trong tư duy lý luận và của khái niệm GCCN nhìn từ quan điểm triết học biện
chứng duy vật.
2.2.

Nhiệm vụ:

- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến lý luận chung về khái niệm, vận động của
khái niệm lý luận và khái niệm GCCN nói riêng;
- Chỉ ra các điều kiện kinh tế - xã hội, tiền đề lý luận cho sự hình thành, vận động của
khái niệm GCCN thời kỳ trước Mác;
- Làm rõ bản chất và đặc điểm chủ yếu của các nước xã hội chủ nghĩa.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Giai cấp công nhân hiện đại ở các nước xã hội chủ nghĩa và giai cấp công nhân hiện nay.
Liên hệ giai cấp công nhân Việt Nam ở giai đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về không gian: Trong khuôn khổ của môn học Chủ nghĩa khoa học xã hội, tập
trung làm rõ những vấn đề, đặc điểm của các các nước xã hội chủ nghĩa có ảnh hưởng

đến q trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Đồng thời tập trung làm
rõ một số nhân tố tác động đến quá trình ảnh hưởng đến giai cấp công nhân Việt Nam
hiện nay.
Phạm vi về thời gian: Từ khi phong trào công nhân quốc tế ra đời cho đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp luận


Đề tài sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ nghĩa xã hội, sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân là cơ sở phương pháp luận của đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp logic – lịch sử,
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.

Bài tiểu luận góp phần hệ thống hóa và làm rõ hơn những cách hiểu và nội dung khái
niệm GCCN trong lịch sử tư tưởng XHCN; từ đó tóm lược, khái quát lý luận GCCN ở
các nước tư bản phát triển và GCCN hiện nay.


NỘI DUNG
PHẦN I: PHẦN LÝ LUẬN
1.1. Giai cấp công nhân
1.1.1. Định nghĩa giai cấp công nhân
C. Mác và Ph.Ăngghen đã dùng nhiều thuật ngữ để chỉ giai cấp công nhân, như:
giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghệp, giai cấp công nhân thành
thị, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp vô sản công nghiệp,… Mỗi khái niện ông mà các
ông dùng nhằm nhấn mạnh một đặc trưng của giai cấp công nhân, song về mặt nội hàm

thì đó là những từ đồng nghĩa.
Giai cấp công nhân được phân biệt với các giai cấp – tầng lớp lao động khác bởi
phương thức lao động công nghiệp của họ. Phương thức có những đặc điểm sau: sản xuất
bằng máy móc ngày càng hiện đại, lao động có tính chất xã hơi hóa, năng suất lao động
cao và tạo ra những tiền đề cho xã hội mới. Trong cách nhìn duy vật biện chứng về lịch
sử, sự thống trị của giai cấp tư sản, đặc biệt là của bộ phận tư sản đại công nghiệp, được
chủ nghĩa Mác xem như điều kiện ban đầu cho sự phát triển của GCCN.
Tóm lại, quan niệm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về GCCN có thể khái quát
như sau: GCCN hiện đại là sản phẩm và chủ thể của quá trình cơng nghiệp hóa. Họ gắn
liền với q trình sản xuất vật chất hiện đại, là đại biểu cho phương thức sản , xuất mang
tính xã hội hóa ngày càng cao. Trong CNTB, họ là người làm thuê do không có tư liệu
sản xuất, buộc phải bán sức lao động để sống và bị GCTS bóc lột giá trị thặng dư. Vì vậy,
lợi ích cơ bản của họ đối lập với lợi ích cơ bản của GCTS. GCCN mang tính tổ chức, ý
thức kỷ luật, tính kiên định và triệt để cách mạng, vừa mang bản chất quốc tế, vừa mang
đặc điểm của dân tộc.


1.1.2. Thuộc tính của giai cấp cơng nhân
Thứ nhất, về kinh tế - kỹ thuật.
GCCN là lực lượng sản xuất vật chất hàng đầu của xã hội hiện đại. Xã hội nào
cũng tồn tại và phát triển trên cơ sở sản xuất và tiêu thụ của cải vật chất. Sản xuất hiện
đại về cơ bản bằng phương thức công nghiệp và GCCN là chủ thể tiêu biểu của quá trình
sản xuất đó. Bằng q trình sản xuất vật chất với năng suất ngày càng cao, GCCN là giai
cấp quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội hiện đại. Đây là nhân tố khách quan quy
định sứ mệnh lịch sử của GCCN.
GCCN đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến. Do gắn liền với phương thức
lao động cơng nghiệp mang tính xã hội hóa và có năng suất lao động cao, GCCN có được
những phẩm chất của một giai cấp tiên tiến. Đại công nghiệp đã rèn luyện và tạo ra cho
GCCN những đặc điểm về tính tổ chức, kỷ luật lao động, tinh thần hợp tác, tâm lý lao
động cơng nghiệp. Những đặc điểm ấy chính là những phẩm chất cần thiết cho một giai

cấp có tính cách mạng và có năng lực lãnh đạo cách mạng.
Thứ hai, về chính trị - xã hội.
Họ là giai cấp bị GCTS bóc lột giá trị thặng dư. Sở hữu tư bản tạo ra độc quyền
phân chia giá trị thặng dư. Giá trị thặng dư về bản chất là lao động không được trả công
của người công nhân. Lao động sống của công nhân là nguồn gốc cơ bản của giá trị thặng
dư và sứj giàu có của GCTS cũng chủ yếu nhờ vào việc bóc lột ngày càng nhiều giá trị
thặng dư.
Chính nhà nước pháp quyền tư sản cũng đã tác động đến cơng nhân. Nó hình
thành cho cơng nhân – với tư cách là cơng dân, thói quen tuân thủ pháp luật hiện hành.
Công nhân – với tư cách là giai cấp bị trị, đã học được nhiều biện pháp đấu tranh hợp
pháp từ nền dân chủ tư sản, qua đó tích lũy được nhiều kinh nghiệm đấu tranh chính trị.
Tính chất chuyên chế của chế độ chinhs trị tư sản cũng thúc đẩy GCCN với nhân dân lao
động đấu tranh chính trị chống áp bức, bất cơng. Nó rèn luyện các phẩm chất, năng lực
của một giai cấp cách mạng như tính tổ chức, tinh thần triệt để, khả năng liên minh với
giai cấp, tầng lớp khác.


1.2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
1.2.1. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Một là, nội dung kinh tế
GCCN dù ở chế độ chính trị nào, cũng là chủ thể của q trình sản xuất vật chất
trong lĩnh vực công nghiệp hoặc dịch vụ cơng nghiệp bằng phương thức sản xuất xã hội
hóa cao để sản xuất ngày càng nhiều của cải, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con
người. Ở các nước XHCN, GCCN thơng qua q trình cơng nghiệp hóa và thực hiện
“một kiểu tổ chức xã hội mới về lao động” để tăng năng suất lao động và thực hiện các
nguyên tắc sở hữu, quản lý và phân phối phù hợp với nhu cầu phát triển sản xuất và tiến
bộ, công bằng xã hội. Nội dung kinh tế là yếu tố sâu xa nhất khẳng định sự cần thiết sứ
mệnh lịch sử của GCCN đối với quá trình phát triển của văn minh nhân loại. Thực hiện
đầy đủ và thành công nội dung kinh tế cũng là điều kiện vật chất để CNXH chiến thắng
CNTB.

Hai là, nội dung chính trị - xã hội
GCCN cùng với nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, tiến hành
cách mạng chính trị lật đổ chế độ TBCN, xác lập, bảo vệ và phát triển chế độ dân chủ
XHCN. Nhà nước pháp quyền của GCCN và nhân dân lao động được xác lập và trở
thành cơng cụ có hiệu lực để lãnh đạo chính trị, quản lý kinh tế và xã hội trong quá trình
cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Ba là, nội dung văn hóa tư, tưởng
Nhiệm vụ lịch sử trao cho GCCN trong tiến hành cách mạng của mình là xác lập
hệ giá trị mới (lao động, cơng bằng, dân chủ, bình đẳng, tự do, tiến bộ và phát triển bền
vững…) để thay thế cho hệ giá trị tư sản và những hệ tư tưởng cũ lạc hậu. Thực chất đó
là một cuộc cách mạng về văn hóa, tư tưởng bao gồm cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới
trong sự kế thừa những tinh hoa của nhân loại của thời đại và giá trị truyền thống của văn
hóa dân tộc. Xây dựng nền văn hóa XHCN và con người được phát triển tự do, tồn diện
trong xã hội dân chủ, cơng bằng, văn minh là những mục tiêu hàng đầu của cuộc cách
mạng này.


1.2.2. Đặc điểm sự mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Thứ nhất, sứ mệnh lịch sử của GCCN xuất phát từ những tiền đề kinh tế - xã hội
của sản xuất mang tính xã hội hóa với hai biểu hiện nổi bật là:
-

Xã hội hóa sản xuất làm xuất hiện những tiền đề vật chất, thúc đẩy sự phát triển của
xã hội, thúc đẩy sự vận động của mâu thuẫn cơ bản trong lòng phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa.

- Q trình sản xuất mang tính chất xã hội hóa đã sản sinh ra giai cấp cơng nhân và
rèn luyện nó thành chủ thể thực hiện sứ mệnh lịch sử. Do mâu thuẫn về lợi ích cơ
bản khơng thể điều hịa giữa giai cấp vơ sản và giai cấp tư bản, nên mâu thuẫn này
trở thành động lực chính cho cuộc đấu trành giai cấp trong xã hội hiện đại.

Thứ hai, thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sự nghiệp cách
mạng của bản thân giai cấp công nhân cùng với đông đảo quần chúng và mang lại lợi ích
cho đa số. Đây là một cuộc cách mạng của đại đa số mưu lợi ích cho tuyệt đại đa số, nhờ
việc hướng tới xây dựng một xã hội mới dựa trên chế độ công hữu những tư liệu sản xuất
chủ yếu của xã hội. Sự thống nhất cơ bản về lợi ích của giai cấp cơng nhân với lợi ích
của nhân dân lao động tạo ra điều kiện để đặc điểm quan trọng này về sứ mệnh lịch sử
giai cấp công nhân được thực hiện.
Thứ ba, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không phải là thay thế chế độ sở
hữu tư nhân này bằng một chế độ sở hữu tư nhân khác mà là xóa bó triệt để chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất. Đối tượng xóa bỏ ở đây là sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là
nguồn gốc sinh ra những áp bức, bóc lột, bất công trong xã hội hiện đại.
Thứ tư, Việc giai cấp công nhân giành lấy quyền lực thống trị xã hội là tiền để để
cải tạo toàn diện, sâu sắc và triệt để xã hội cũ và xây dựng thành công xã hội mới với
mục tiêu cao nhất là giải phóng con người.
1.2.3. Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của GCCN
Thứ nhất, do địa vị kinh tế của GCCN quy định


Giai cấp công nhân “là sản phẩm của bản thân nền đại cơng nghiệp” và là chủ thể
của q trình sản xuất vật chất hiện đại. Vì vậy, GCCN đại diện cho phương thức sản
xuất tiên tiến và lực lượng sản xuất hiện đại mang trình độ xã hội hóa cao, mà biểu hiện
cụ thể của nó là đại cơng nghiệp – cơng nghiệp hóa và tồn cầu hóa kinh tế. Sản xuất hiện
đại với xu thế xã hội hóa mạnh mẽ hiện nay đang tạo ra “tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần
thiết” cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Thứ hai, do đặc điểm chính trị - xã hội của GCCN quy định
Q trình dân chủ hóa trong đời sống chính trị TBCN là hệ quả của xu thế xã hội
hóa sản xuất và là kết quả của đấu tranh vì dân chủ và tiến bộ xã hội của GCCN và nhân
dân lao động, cũng tạo ra điều kiện thuận lợi để GCCN tập dượt và từng bước thực hiện
sứ mệnh của mình. Do gắn liền với phương thức lao động cơng nghiệp mang tính xã hội
hóa cao, GCCN có những phẩm chất của một giai cấp tiên tiến.

Sự thống nhất cơ bản về lợi ích của GCCN với lợi ích của nhân dân lao động cũng
tạo ra điều kiện để thực hiện hóa đặc điểm này. Trong cuộc đấu tranh ấy, vị trí của GCCN
là giai cấp thống trị về chính trị, giai cấp lãnh đạo của tồn xã hội thơng qua đội tiên
phong của mình là đảng cộng sản trong cuộc đấu tranh lật đổ ách thống trị, áp bức
TBCN, trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới, trong toàn bộ cuộc đấu tranh để thủ tiêu
hoàn toàn các giai cấp.
Thứ ba, do mâu thuẫn cơ bản của CNTB quy định
Sứ mệnh lịch sử của GCCN còn bắt nguồn và được quy định bởi đấu tranh giai
cấp hiện đại đã phát triển đến trình độ, mà GCCN khơng cịn có thể tự giải phóng, nếu
khơng đồng thời và vĩnh viễn giải phóng tồn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức và
khỏi những cuộc đấu tranh giai cấp. Lần đầu tiên trong lịch sử, “Phong trào vô sản là
phong trào độc lập của khối đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số.”. Lực lượng sản
xuất phát triển cao và chế độ sở hữu xã hội về những tư liệu sản xuất chủ yếu tạo ra cơ sở
kinh tế để chấm dứt vĩnh viễn chế độ người bóc lột người.
1.2.4. Những nhân tố chủ quan để GCCN hoàn thành sứ mệnh lịch sử
Thứ nhất, sự phát triển của bản thân GCCN


Sự phát triển về lượng của GCCN bao gồm sự phát triển về số lượng, tỷ lệ và cơ
cấu phù hợp với yêu cầu của sản xuất công nghiệp hiện đại và cơ cấu kinh tế. Thông qua
sự phát triển vè lượng của GCCN có thể thấy được trình độ, quy mơ của cơng nghiệp hóa
và sự chuẩn bị về lượng của GCCN để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.
Sự phát triển về bản chất của GCCN được thể hiện trên hai mặt: năng lực làm chủ
công nghệ hiện đại và ý thức giác ngộ giai cấp, ý thức dân tộc.
Thứ hai, Đảng Cộng sản là điều kiện chủ quan quan trọng nhất để GCCN thực
hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử.
Mục tiêu của đảng cộng sản là thực hiện nội dung chính trị trong sứ mệnh lịch sử
của GCCN, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã chỉ rõ: “Mục đích trước mắt của những
người cộng sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản khác; tổ chức
những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của GCTS, GCVS giành lấy chính

quyền”.
Thứ ba, thực hiện khối liên minh giai cấp giữa công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ tri thức; vươn lên nắm ngọn cờ dân tộc và thực hiện chủ nghĩa quốc tế
của GCCN là những điều kiện chủ quan để tăng cường sức mạnh của GCCN.
Thực chất là sự thống nhất về tư tưởng, ý chí và đoàn kết, hợp tác hành động của
GCCN trên toàn thế giới đã được liên hiệp lại để chống CNTB tồn cầu và xây dựng hình
thái kinh tế - xã hội CSCN trên thế giới.
Tóm lại, chủ nghĩa Mác – Lênin đã phản ánh đươmột cách khoa học toàn bộ
những cơ sở khách quan và điều kiện chủ quan để GCCN thực hiện thành cơng sứ mệnh
lịch sử của mình. Đó là hệ tư tưởng dẫn đường và vũ khí lý luận của GCCN toàn thế giới
trong cuộc đấu tranh giai cấp hiện đại.
Thực hiện nội dung chính trị - xã hội của sứ mệnh lịch sử trong Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư
Theo quan niệm của C. Mác, sở dĩ giai cấp cơng nhân có sứ mệnh lịch sử là vì họ
là giai cấp đại diện cho xu thế xã hội hóa của lực lượng sản xuất hiện đại. Trong sản xuất


công nghiệp, họ vừa là “sản phẩm của nền đại cơng nghiệp”, vừa là chủ thể của q trình
này. Do gắn liền với phương thức lao động này, giai cấp cơng nhân có được những phẩm
chất, như tính tổ chức, kỷ luật lao động, tinh thần hợp tác, tâm lý lao động cơng nghiệp...
Đó là những phẩm chất cần thiết cho một giai cấp cách mạng và có năng lực lãnh đạo
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
C. Mác là người đầu tiên chỉ ra quan hệ lợi ích phức tạp giữa công nhân và tư bản.
Hai bên vừa đối lập nhau về lợi ích cơ bản, vừa phụ thuộc nhau về lợi ích hằng ngày
trong thị trường sức lao động. Lao động sống của công nhân là nguồn gốc cơ bản của giá
trị thặng dư và sự giàu có của giai cấp tư sản cũng chủ yếu nhờ vào việc bóc lột được
ngày càng nhiều giá trị thặng dư. “Trong xã hội ấy, những người lao động thì khơng được
hưởng, mà những kẻ được hưởng lại không lao động”(8). Đây là mâu thuẫn cơ bản về lợi
ích giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản và là cốt lõi của bất công và đấu tranh giai
cấp trong xã hội hiện đại. Mâu thuẫn ấy khơng thể điều hịa và chỉ có thể được giải quyết

bằng việc xóa bỏ chế độ bóc lột giá trị thặng dư trên cơ sở xác lập một quan hệ sản xuất
mang tính chất cơng hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu. Chính lực lượng sản xuất mang
tính chất xã hội hóa đã chỉ ra biện pháp giải quyết ấy.
Theo đó, nội dung chính trị - xã hội của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
được xác định là cuộc đấu tranh vì các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, như cơng bằng,
bình đẳng, dân chủ… và tập trung nhất là việc xác lập chế độ chính trị - xã hội mới do
giai cấp công nhân lãnh đạo - chế độ xã hội chủ nghĩa để tạo ra tiền đề chính trị cho xây
dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, Cách mạng công nghiệp 4.0 đang tạo cơ hội và làm nổi bật các nội dung
sau: Dân chủ hóa - cơng nghệ số góp phần mở rộng truyền thơng, tạo điều kiện để thông
tin đến với mọi người, qua đó phát triển dân chủ. Với những nước phát triển, thông qua
thành tựu khoa học - công nghệ, người dân có điều kiện tốt hơn để giám sát và chia sẻ
quyền lực với nhà nước đương trị. Công nghệ và thiết bị ngày càng cho phép người dân
tiếp cận gần hơn với chính phủ để nêu ý kiến, để cùng phối hợp hoạt động. Đồng thời,
các chính phủ cũng sở hữu sức mạnh về công nghệ để tăng cường sự quản trị của mình
đối với người dân dựa trên những hệ thống giám sát rộng rãi và khả năng điều khiển kết


cấu hạ tầng số. “Tuy nhiên, xét về tổng thể, các chính phủ sẽ ngày càng phải đối mặt với
áp lực phải thay đổi cách thức tiếp cận hiện nay của họ đối với sự tham gia của công
chúng và quy trình đưa ra quyết định khi vai trị trung tâm của họ trong việc thực thi
chính sách bị suy giảm trước sự xuất hiện của các nguồn cạnh tranh mới, sự phân phối lại
và phân bổ quyền lực dưới sự hỗ trợ đắc lực của công nghệ”(9).
Cùng với những cơ hội để phát triển dân chủ, cơng bằng, bình đẳng, cuộc cạnh
tranh - đấu tranh giữa “hai con đường”, giữa chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ tư bản
chủ nghĩa dường như cũng sắp bước vào một bước ngoặt lịch sử mới. Hãy thử sắp xếp
các dữ kiện chính trị, xã hội lớn gắn với các chu kỳ cách mạng công nghiệp: Cách mạng
công nghiệp lần thứ nhất và Công xã Pa-ri - năm 1871; Cách mạng công nghiệp lần thứ
hai với Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917; Cách mạng công nghiệp lần thứ ba với
sự kiện Đông Âu - Liên xô và cải cách, đổi mới… Lơ-gíc đó cho phép chúng ta dự báo và

kỳ vọng vào những thay đổi của đời sống chính trị, xã hội theo hướng tích cực. Khơng ai
khác, chính giai cấp cơng nhân với trình độ được tri thức hóa, với tổ chức khoa học và
tinh thần cách mạng sẽ vẫn là chủ thể hàng đầu của những cuộc cách mạng trong tương
lai.
Cách mạng công nghiệp 4.0 với những tiền đề mà nó tạo ra sẽ cho thấy những
bước tiến mới của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Hiện nay, hầu hết các quốc gia đang phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa đều rất quan tâm và quyết tâm mạnh mẽ hướng tới
Cách mạng công nghiệp 4.0. Đây cũng là một con đường để phát triển rút ngắn, để xây
dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
Những nhận thức mới về giai cấp công nhân hiện nay
Thứ nhất, q trình cơng nghiệp hóa cùng với cải cách, đổi mới đang tạo ra
nhiều đặc điểm mới cho GCCN.
Tác nhân hàng đầu làm biến đổi GCCN hiển nhiên là các cuộc cách mạng công
nghiệp với chu kỳ ngày càng ngắn hơn, yêu cầu đa diện hơn. Trong hơn 100 năm gần đây
nhất người ta đã thấy 3 cuộc cách mạng công nghiệp: lần thứ hai, lần thứ ba và lần thứ tư.
Trong thế kỷ XX, nhân loại cũng đã tiến hành 2 kiểu cơng nghiệp hóa là cơng nghiệp hóa


tư bản chủ nghĩa (TBCN) và cơng nghiệp hóa XHCN. Các cuộc cách mạng công nghiệp
với chu kỳ ngày càng ngắn dần: Từ “đại công nghiệp” tức là từ “công nghiệp 1.0” đến
“công nghiệp 2.0” mất gần hai thế kỷ; nhưng từ “công nghiệp 2.0” đến “công nghiệp 3.0”
chỉ khoảng một thế kỷ; cịn từ “cơng nghiệp 3.0” đến “cơng nghiệp 4.0” chỉ mất 30
năm!
Cơng nghiệp hóa theo kiểu mới với các đặc trưng: Rút ngắn (diễn ra không tuần tự
từ A đến Z mà phải tận dụng lợi thế so sánh của mỗi quốc gia); gắn với hiện đại hóa (sử
dụng thành tựu khoa học và cơng nghệ mới, đáp ứng những yêu cầu mới về phát triển bền
vững về xã hội và môi trường, sinh thái...); nguồn nhân lực cho cơng nghiệp hóa được
chuẩn bị sớm và kỹ hơn; các u cầu ngồi cơng nghiệp như tính nhân văn, bảo vệ môi
trường, sinh thái, tài nguyên cao hơn; và hội nhập thị trường quốc tế cấp thiết hơn...
Theo đó, lý luận “GCCN là sản phẩm và chủ thể của đại công nghiệp” đã được bổ

sung thêm nhiều nhận thức lý luận mới. Sự phát triển của công nhân gắn liền với hội
nhập kinh tế thế giới, chẳng hạn, tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu từ lợi thế và chấp
nhận hợp tác, hội nhập quốc tế. Quá trình sản xuất hàng hóa cơng nghiệp của cơng nhân
buộc phải đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế, đáp ứng những nhu cầu “khó tính”
của thị trường... Và kết quả là một sản phẩm công nghiệp được công nhân tạo ra không
chỉ là kết quả của công nghệ - kỹ thuật mà cịn là sự tích hợp những giá trị kinh tế, xã hội,
môi trường. Nhiều nước phát triển đã ứng dụng cơ chế quản lý linh hoạt (FMS) trong
cơng nghiệp để khuyến khích tính linh hoạt, sáng tạo, tối ưu hóa q trình sản xuất bằng
nhiều ngun tắc, như thường xuyên đổi mới công nghệ, tiết kiệm tối đa năng lượng và
vật tư, hạn chế thời gian lưu kho bãi, linh hoạt thời gian và địa điểm làm việc (chế độ làm
việc tại nhà). Công nhân hiện đại khơng cịn là “chiếc đinh ốc trong dây chuyền sản xuất
TBCN” mà có tính chủ động hơn, tư duy năng động và đa diện hơn.
Sự phát triển của GCCN ở “các nước đang chuyển đổi” hiện nay còn là kết quả
của sự kết hợp các cơ chế, quy luật của kinh tế thị trường với vai trò của nhà nước và
thành phần kinh tế nhà nước; với chính sách đổi mới cơng nghệ, nâng cao trình độ nhân
lực, dần chuyển dịch mơ hình kinh tế từ phát triển “bề rộng” là chủ yếu sang phát triển
theo “chiều sâu”. Công nhân khơng chỉ là sản phẩm của cơng nghiệp hóa mà còn là kết


quả tổng thành của chế độ chính trị và cơ chế kinh tế thị trường. Trình độ làm chủ và
sáng tạo công nghệ, tư duy kinh tế thị trường, năng lực tổ chức quản lý của GCCN ở các
nước cải cách, đổi mới đều đã có bước tiến lớn. Quan tâm đến lợi ích chính đáng của
người lao động, kết hợp hài hịa lợi ích của người lao động với lợi ích của tập thể và lợi
ích của xã hội..., vừa là tư duy kinh tế phù hợp, vừa là sự thể hiện tính chất XHCN trong
phát triển.
Tư duy mới về chính trị có thể thúc đẩy sự phát triển của GCCN. Chế độ XHCN
đã tạo ra một chất lượng mới, quy mô và tốc độ mới cho công nghiệp hóa. Ngay trong
kiểu cơng nghiệp hóa này cũng có 2 trình độ là cơng nghiệp hóa theo mơ hình cơng
nghiệp hóa cũ và theo mơ hình cơng nghiệp hóa mới. Hiện nay, cùng với lý luận cơng
nghiệp hóa mới của thế giới và xu thế tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế, các nước XHCN có

thể thơng qua hợp tác - phân công lao động quốc tế để thực hiện cơng nghiệp hóa. Chính
CNTB cũng cần đến CNXH và tìm đến để hợp tác trong sản xuất toàn cầu. Đổi mới tư
duy chính trị, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, đẩy mạnh hội nhập quốc tế...
là xu thế chung của nhiều quốc gia. Giai cấp công nhân đã xuất hiện với số lượng, chất
lượng và diện mạo mới khơng chỉ từ cơng nghiệp hóa mà cịn từ cải cách, đổi mới.
Nhưng quan trọng hơn, là khả năng phát triển, cơ động xã hội của GCCN và các giai cấp
khác. Trước đây, như nhận định của một tác giả Trung Quốc: “Nhà nước trao cho GCCN
địa vị giai cấp lãnh đạo và thực hiện chính sách phúc lợi tồn xã hội khiến cho GCCN có
được địa vị xã hội và kinh tế “trời phú” rất cao, ở vào vị trí trung tâm trong tồn bộ kết
cấu xã hội, được hưởng một loạt quyền lợi đặc thù, có sự khác biệt với giai cấp nông dân
trên nhiều phương diện và cao hơn nhiều so với nông dân”. Nhưng hiện nay, “thân phận
“trời phú” của GCCN Trung Quốc đương đại bị phá vỡ, chuyển biến từ tượng trưng thân
phận sang khái niệm nghề nghiệp”. “Phương thức hợp đồng hóa nghề nghiệp” thay cho
chế độ công nhân, viên chức vĩnh viễn; quan hệ lợi ích kinh tế thay cho quan hệ hành
chính, “từ trạng thái do quá khứ lưu truyền đến trạng thái do khế ước quy định”. Rõ ràng,
công nhân hiện nay không chỉ là sản phẩm của công nghiệp hóa mà cịn là sản phẩm của
đổi mới chính trị. Trong một số trường hợp, chính trị, chính sách đã tác động mạnh mẽ,
trực tiếp và tạo biến đổi sâu sắc đối với GCCN.


Thứ hai, kinh tế thị trường làm cho cơ cấu GCCN ngày càng đa dạng hơn.
Nhận thức mới về vai trò của kinh tế thị trường là tạo ra một không gian rộng mở
hơn cho sự phát triển về nhiều mặt của GCCN với nhiều thành phần kinh tế cùng tham
gia q trình cơng nghiệp hóa. Từ thực tế này, lý luận về GCCN hiện đại được bổ sung,
phát triển thêm. Chẳng hạn, hiệu quả sản xuất  - kinh doanh, năng suất lao động, lợi ích
của người lao động, người sử dụng lao động, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, chuỗi
giá trị toàn cầu, chủ động hội nhập, tổ chức chính trị   - xã hội của cơng nhân trong bối
cảnh mới,... đều là những vấn đề lý luận mới mẻ và rộng lớn, phức tạp hơn.
Có thể, khái niệm “GCCN trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở giai đoạn cải cách,
đổi mới” sẽ là một vấn đề mà lý luận về GCCN đang tích hợp thêm các nội hàm từ thực

tiễn hiện nay. Có một số dấu hiệu khá rõ là, trên thế giới đang có những khái niệm “lưỡng
tính” để phản ánh trình độ như “cơng nhân tri thức”, “cơng nhân - trí thức”, “trí thức cơng nhân” hoặc ở Trung Quốc có khái niệm “nơng dân - cơng” để chỉ tính chất đang
chuyển biến giai tầng; lại cũng có những khái niệm mang tính chi tiết hơn về vị trí mà họ
tham gia: cơng nhân trong thành phần kinh tế nhà nước, công nhân trong thành phần kinh
tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Cùng với đó là các khái niệm mang tính
phân lớp nghề nghiệp, như công nhân cổ cồn trắng, cổ cồn xanh, cổ cồn vàng, cổ cồn
nâu(11). Trình độ mới của sản xuất và dịch vụ cùng với cách tổ chức xã hội hiện đại cũng
làm cho cơ cấu của giai cấp công nhân hiện đại đa dạng tới mức nội hàm của nó liên tục
phải điều chỉnh theo hướng mở rộng: theo lĩnh vực (công nhân làm việc trong lĩnh vực
cơng nghiệp - nơng nghiệp - dịch vụ); theo trình độ công nghệ (công nhân áo xanh - công
nhân của công nghiệp truyền thống; công nhân áo trắng - công nhân có trình độ đại học,
cao đẳng, chủ yếu làm công việc điều hành, quản lý sản xuất; công nhân áo vàng - công
nhân của các ngành công nghệ mới, cơng nhân áo tím - cơng nhân dịch vụ - lao động đơn
giản như gác cầu thang, vệ sinh đô thị...). Lại có cả những phân loại cơng nhân theo sở
hữu (có cổ phần, có tư liệu sản xuất và trực tiếp lao động tại nhà để sống và công nhân
khơng có cổ phần, chỉ sống bằng sức lao động của mình). Phân loại cơng nhân theo chế
độ chính trị (công nhân ở các nước phát triển theo định hướng XHCN; ở các nước G7; ở
các nước đang phát triển...).


Thứ ba, một bộ phận lớn công nhân hiện nay xuất thân từ đô thị.
Giai cấp công nhân thời C. Mác là giai cấp lao động làm thuê, bị bóc lột và xuất
thân chủ yếu từ nông dân và nông thôn. Nhưng từ những năm 80 của thế kỷ XX trở lại
đây, xu thế đơ thị hóa và đơng đảo cư dân đô thị đã bổ sung một lượng lớn vào nguồn
nhân lực của giai cấp công nhân. Trước đây, các vùng tụ cư trong lịch sử nhân loại
thường ở lưu vực các con sông lớn, nơi thuận tiện cho canh tác nơng nghiệp và có nguồn
nước cho sinh hoạt. Ngày nay, đặc biệt là từ giữa thế kỷ XX, bắt đầu xuất hiện những
thành phố lớn trên sa mạc, như Lát Ve-gát (LasVegas) cùng nhiều đô thị ở Trung Đông...,
chúng hầu như được xây dựng và phát triển dựa trên nguyên lý mới là khắc phục giới hạn
của tự nhiên, nhân tạo hóa các điều kiện sống bằng khoa học và cơng nghệ hiện đại. Đây

là một q trình gắn liền với phát triển văn minh và công nghệ. Đó là những thành phố
được dịch vụ bởi cơng nghệ hiện đại. Nó cần đến cơng nghệ mới, cơng nghiệp và cơng
nhân.
Đơ thị hóa làm xuất hiện ngày một đơng đảo hơn đội ngũ lao động làm thuê, vốn
có mặt từ thời “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, gồm “bác sĩ, luật gia, tu sĩ, thi sĩ, bác
học đều bị giai cấp tư sản biến thành những người làm thuê...”(12). Song, hiện nay họ
đông đúc hơn, đa dạng hơn với hàng nghìn ngành, nghề khác nhau. Xét về cơ cấu nghề
nghiệp, các nhà nghiên cứu đều thấy sự tăng lên của những nhóm lao động dịch vụ mới.
Họ là những người kết hợp cả lao động chân tay với lao động trí óc. Trong các quốc gia
phát triển đã xuất hiện một cơ cấu xã hội mới với vai trò mới của trí thức, cơng nhân trí
thức. Cũng bởi vậy, ở nhiều nước phát triển hiện nay (các nước G7 lao động nông nghiệp
hoặc nông dân chỉ chiếm từ 2% - 3% lực lượng lao động) liên minh giữa GCCN với giai
cấp nơng dân đã khơng cịn cơ sở xã hội như thế kỷ XIX và thay vào đó là liên minh giữa
những người lao động, mà chủ yếu là hai nhóm lao động đơng đảo ở đơ thị là sản xuất
công nghiệp và dịch vụ bằng phương thức công nghiệp.


PHẦN 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN
2.1. Thực trạng
Đại hội XIII của Đảng có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển của đất nước từ
nay đến năm 2025, 2030, tầm nhìn đến 2045 gắn với hai sự kiện trọng đại: 100 năm
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và 100 năm thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các dự thảo văn kiện trình Đại hội
được chuẩn bị cơng phu, nghiêm túc, khoa học, có nhiều điểm mới, điểm nhấn, trong đó
có những nội dung quan trọng liên quan đến vấn đề tiếp tục xây dựng và phát huy vai trị,
địa vị của giai cấp cơng nhân trong thời kỳ mới. Nội dung dự thảo các văn kiện, nhất là
văn kiện trung tâm - Báo cáo Chính trị đề cập đến vấn đề này trên hai khía cạnh:
1) Giai cấp cơng nhân với tư cách là một bộ phận quan trọng trong nhân dân;
2) Giai cấp công nhân với tư cách là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, có địa
vị đặc biệt.

Ở khía cạnh thứ nhất, dự thảo các văn kiện, đặc biệt là dự thảo Báo cáo Chính trị, đề cao
vai trò, quyền làm chủ và chăm lo đời sống của nhân dân nói chung, của giai cấp cơng
nhân nói riêng. Đúc kết bài học kinh nghiệm từ thực tiễn đổi mới, trực tiếp là 5 năm thực
hiện Nghị quyết Đại hội XII, dự thảo Báo cáo Chính trị nhấn mạnh: quán triệt sâu sắc,
thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”, nhân dân là trung tâm, là chủ thể của cơng
cuộc đổi mới; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền
và lợi ích chính đáng của nhân dân; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu


phấn đấu, củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ
xã hội chủ nghĩa. Về định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, dự thảo Báo
cáo Chính trị chỉ rõ: bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội; xây dựng môi trường văn hóa, đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh;
quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện
tốt an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân. Đề cập đến vấn đề bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát
triển kinh tế thị trường, giải quyết tốt quan hệ Nhà nước - thị trường - xã hội, dự thảo xác
định: các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội có vai trị tạo sự liên kết, phối hợp họat
động, giải quyết những phát sinh giữa các thành viên, bảo vệ lợi ích của các thành viên
trong quan hệ với các chủ thể, đối tác khác; phản ánh nguyện vọng, lợi ích của các tầng
lớp nhân dân với Nhà nước; giám sát các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
trong việc thực thi pháp luật. Những định hướng nêu trên là đúng đắn, có ý nghĩa sâu sắc
đối với việc chăm lo bồi dưỡng sức dân, phát huy vai trị, quyền làm chủ của nhân dân,
trong đó, đặc biệt phù hợp với yêu cầu bảo đảm, phát huy địa vị của giai cấp cơng nhân
và tổ chức cơng đồn.
Ở khía cạnh thứ hai, dự thảo Báo cáo Chính trị xác định ba vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp
thiết về xây dựng, phát huy vai trị giai cấp cơng nhân và tổ chức cơng đồn.
Một là, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng, trọng tâm là nâng cao
bản lĩnh chính trị, nhận thức chính trị, tư tưởng, trình độ học vấn, chun mơn, kỹ năng
nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động thích ứng với cuộc cách mạng cơng

nghiệp lần thứ tư.
Hai là, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, nhà ở, phúc lợi xã hội cho công nhân, người
lao động; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân.
Ba là, đổi mới tổ chức và hoạt động của cơng đồn với ba u cầu: 1) phù hợp với biến
đổi cơ cấu lao động, nhu cầu của công nhân và yêu cầu hội nhập quốc tế; 2) lấy nhu cầu,
lợi ích hợp pháp, chính đáng của tập thể công nhân làm cơ sở cho hoạt động; 3) định


hướng, quản lý tốt sự ra đời, hoạt động của các tổ chức của người lao động tại doanh
nghiệp.
Những định hướng lớn từ cả hai khía cạnh nêu trên phù hợp với địi hỏi khách quan của
q trình tiếp tục xây dựng giai cấp cơng nhân, tổ chức cơng đồn Việt Nam trong bối
cảnh mới; phù hợp với nguyện vọng của cơng nhân, lao động và cán bộ, đồn viên cơng
đồn Việt Nam hiện nay.
2.2. Giải pháp
Để hồn thiện dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII, đặc biệt là dự thảo Báo cáo Chính
trị, nhằm phát triển mạnh mẽ giai cấp cơng nhân, tổ chức cơng đồn; bảo đảm, bảo vệ,
phát huy hiệu quả hơn vai trò, địa vị của giai cấp cơng nhân Việt Nam trước tình hình,
nhiệm vụ mới, cần thiết đề xuất, kiến nghị một số vấn đề sau đây:
Thứ nhất, các văn kiện Đại hội cần quán triệt và thể hiện đậm nét hơn tư tưởng Hồ Chí
Minh về giai cấp cơng nhân, cơng đồn và tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 khóa IX
về xây dựng giai cấp công nhân trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Những quan điểm, định hướng rất sâu sắc về vai trò, địa vị của giai cấp công
nhân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước; về mối quan hệ máu thịt giữa giai cấp công nhân với Đảng, giữa Đảng với giai
cấp công nhân và những quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục xây dựng giai
cấp công nhân, cho đến hôm nay và trong giai đoạn sắp tới vẫn là kim chỉ nam về nhận
thức và hành động của Đảng, của hệ thống chính trị và bản thân giai cấp công nhân trên
con đường phấn đấu xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh, đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Thứ hai, trong nội dung về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh tồn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ, cần nhấn mạnh yêu
cầu giữ vững và phát huy bản chất giai cấp công nhân; xây dựng tư tưởng, lập trường,
đạo đức, ý thức tổ chức, kỷ luật của giai cấp công nhân; chú trọng bồi dưỡng kết nạp
những công nhân ưu tú vào Đảng và quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí thành cán bộ
chủ chốt các cấp.


Cần đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về giai cấp công nhân trong thời kỳ
mới; chú trọng giáo dục, tuyên truyền trong Đảng, trong hệ thống chính trị và tồn xã hội
về vai trị, sứ mệnh lịch sử, truyền thống vẻ vang của giai cấp công nhân Việt Nam; hình
thành nhận thức chung về yêu cầu, trách nhiệm tồn Đảng, cả hệ thống chính trị, tồn xã
hội chung tay xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh.
Thứ ba, về nội dung phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa cần nhấn mạnh yêu cầu thực hiện đầy đủ quyền làm chủ về mọi mặt của
giai cấp công nhân, trực tiếp là quyền làm chủ ở cơ sở. Cần hồn thiện hệ thống pháp
luật, cơ chế, chính sách để bảo đảm, bảo vệ địa vị, quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp
của giai cấp công nhân, nhất là địa vị về chính trị. Dù làm việc ở loại hình doanh nghiệp
nào - doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi - cơng nhân vẫn là chủ thể chính trị, chủ thể xã hội của một đất nước độc lập,
của một thể chế do nhân dân làm chủ. Cần định hướng và có cơ chế, chính sách bảo đảm
xây dựng quan hệ lao động hài hòa, lành mạnh; đề cao trách nhiệm, nghĩa vụ của người
sử dụng lao động đối với cơng nhân; có chế tài đủ mạnh và kiên quyết xử lý theo pháp
luật những hành vi xâm hại quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của cơng nhân.
Thứ tư, để giai cấp cơng nhân có thể thật sự thực hiện, phát huy địa vị chính trị, kinh tế,
xã hội và quyền làm chủ, Đảng, Nhà nước cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư xây
dựng giai cấp công nhân về mọi mặt. Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ tư đang và sẽ thâm nhập, tác động rất nhanh, toàn diện đến nước ta, ảnh hưởng lớn
đến cơ cấu lao động, việc làm, cần đặc biệt chú trọng đào tạo, đào tạo lại lực lượng công
nhân theo hướng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là trình độ học vấn, chun

mơn, nghiệp vụ, kỹ năng công nghệ, tác phong công nghiệp, đào tạo cơng nhân lành
nghề, cơng nhân kỹ thuật theo hướng trí thức hóa cơng nhân. Cần chăm lo nhiều hơn
phúc lợi xã hội đối với công nhân, giải quyết từng bước, hiệu quả những nhu cầu thiết
yếu về nhà ở, nhà trẻ, mẫu giáo, chế độ chăm sóc sức khỏe, phịng chống dịch bệnh, nâng
cao mức hưởng thụ văn hóa..., bảo đảm để cơng nhân được thụ hưởng lợi ích tương xứng
với thành quả đổi mới và cơng sức đóng góp. Những vấn đề này cần được thể hiện đậm
nét hơn trong các dự thảo văn kiện Đại hội XIII.


Thứ năm, cần nhấn mạnh hơn trong dự thảo văn kiện vai trị, vị trí, mối quan hệ của tổ
chức cơng đồn với các tổ chức trong hệ thống chính trị nói chung, các tổ chức chính trị
- xã hội nói riêng, tương thích với vai trị nịng cốt của giai cấp công nhân trong khối liên
minh giai cấp công nhân, đội ngũ trí thức, đội ngũ doanh nhân. Trên cơ sở đó, xây dựng
các tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh, đồng bộ và có sự liên kết, phối hợp chặt chẽ với
tổ chức cơng đồn vì sự nghiệp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam phát triển toàn
diện.



×