Tải bản đầy đủ (.docx) (66 trang)

Biện pháp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh dịch vụ kho hàng của công ty TNHH tiếp vận vinafco 55

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.32 KB, 66 trang )

Lời mở đầu
Trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010, Đảng và Nhà
nước ta đã chỉ rõ nhiệm vụ của ngành thương mại trong thời gian tới đó là “
phát triển mạnh thương mại, nâng cao năng lực và chất lượng hoạt động
để mở rộng thị trường trong nước và hội nhập có hiệu quả”. Đặc biệt trong
giai đoạn xu thế hội nhập toàn cầu nền kinh tế, Việt Nam cũng đang từng
bước cố gắng để hội nhập và phát triển, nền kinh tế mở cửa, Việt Nam đã
mở rộng quan hệ với hơn 170 quốc gia trên thế giới. Hoạt động thương
mại, buôn bán giữa các quốc gia diễn ra với cường độ ngày càng tăng vì
vậy gia tăng tốc độ lưu chuyển hàng hoá và hoạt động thương mại, dịch vụ
trong nước cũng như thương mại quốc tế là một trong những phương
hướng mục tiêu cơ bản của phát triển thương mại nước ta.
Trong cơ chế hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất muốn bán nhanh
hàng hoá và chuyển giao luôn cả một số hoạt động dịch vụ cho doanh
nghiệp kinh doanh thương mại. Dịch vụ thương mại được phát triển tỉ lệ
thuận với sự phát triển sản xuất kinh doanh. Dịch vụ nói chung và dịch vụ
thương mại nói riêng có vai trị vơ cùng to lớn, nó giúp cho doanh nghiệp
bán được nhiều hàng, thu được nhiều lợi nhuận, rút ngắn thời gian ra quyết
định mua hàng của người tiêu dùng, đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển hàng
hoá; tiền tệ. ở các nước phát triển, dịch vụ chiếm 50-60% lực lượng lao
động, chi cho hoạt động dịch vụ chiếm 60-65% thu nhập của cá nhân. ở các
nước đang phát triển thì dịch vụ cũng ở trình độ thấp hơn. Do đó, chúng ta
phải đẩy mạnh hơn nữa hoạt động dịch vụ, kinh doanh dịch vụ, đây là yếu
tố nâng cao hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, tổ
chức, quốc gia. Logistics nói chung và hoạt động kinh doanh dịch vụ kho
bãi nói riêng là hoạt động dịch vụ đã và đang đem lại hiệu quả kinh tế cao


cho nền kinh tế hiện nay. Nó tồn tại tất yếu khách quan như sự tồn tại tất
yếu khách quan của dự trữ và kho hàng.
Cơ chế thị trường và xu hướng tồn cầu hố nền kinh tế, đặc biệt trong


giai đoạn Việt Nam gia nhập AFTA, WTO,…Các hoạt động dịch vụ được
coi là một trong những yếu tố cạnh tranh của bất cứ một doanh nghiệp nào.
Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế hàng hoá được chuyển đưa ra các quốc
gia, Logistics đóng vai trị then chốt trong việc đưa sản phẩm đến tay người
tiêu dùng ở bất cứ nơi đâu. Mục đích của Logistics là cung cấp hàng hố,
dịch vụ cho khách hàng với tổng chi phí là nhỏ nhất. Điều này liên quan
đến việc hạ giá thành sản phẩm, đáp ứng được yêu cầu của khách hàng,
nâng cao khả năng cạnh tranh cuỉa các doanh nghiệp. Qua đó chúng ta có
thể thấy được vai trị quan trọng của hoạt động Logistics trong hoạt động
kinh tế dịch vụ của nền kinh tế. Vì vậy, hoạt động này hiện nay cần có sự
chú trọng đầu tư, tìm cách nâng cao hiệu quả hoạt động hơn nữa để có thể
cạnh tranh với các Cơng ty Logistics của nước ngồi đang mở rộng hoạt
động tại các nước đang phát triển và ngay cả tại Việt Nam.
Vậy thì với vai trị là “trái tim” của hoạt động Logistics, kho hàng có
vị trí vơ cùng quan trọng trong chuỗi hoạt động Logistics. Khơng có kho
hàng hoạt động Logistics khơng thể diễn ra hoặc có hiệu quả. Kho hàng
khơng chỉ đóng vai trị quan trọng cho chính doanh nghiệp mà cịn đóng vai
trị quan trọng cho bạn hàng, các tổ chức, nền kinh tế của quốc gia do tiết
kiệm được chi phí sản xuất, bảo quản và dự trữ tốt hàng hoá,…các hệ thống
kho bãi ngày càng được phát triển và mở rộng, số lượng các Công ty hoạt
động trong lĩnh vực Logistics, cung cấp các hoạt động dịch vụ kho hàng
ngày càng tăng, đặc biệt là các Cơng ty của nước ngồi hoặc có vốn đầu tư
của nước ngồi đang gia tăng mạnh tại Việt Nam. Họ có cơ sở, trang thiết
bị hiện đại, đội ngũ nhân viên giàu kinh nghiệm và có trình độ, bảo quản
rất tốt hàng hố của doanh nghiệp. Đứng trước thực trạng đó, hơn lúc nào
hết VINAFCO Logistics nói riêng và các Cơng ty hoạt động trong lĩnh vực


kho vận nói chung cần phải có biện pháp đẩy mạnh, nâng cao chất lượng,
nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Hoạt động dịch vụ cần

phải được chú ý và có thể nói hoạt động kinh doanh dịch vụ kho hàng là
một yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng dịch vụ Logistics hiện nay.
Hoạt động dịch vụ kho hàng đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng
đang đòi hỏi ngày càng cao và khắt khe hơn, nó là hình thức phục vụ thuận
tiện, lịch sự, văn minh. Uy tín của doanh nghiệp ngày càng được tăng cao
như vậy doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển bền vững trong giai đoạn
cạnh tranh khốc liệt hiện nay. Đây là điều tối cần thiết cho các doanh
nghiệp vì vậy hơn lúc nào hết, các doanh nghiệp cần phải nâng cao hơn nữa
chất lượng hoạt động kinh doanh dịch vụ kho hàng, nâng cao hiệu quả của
hoạt động này trong chuỗi hoạt động Logistics.
Do đó, em đã quyết định lựa chọn đề tài “Biện pháp đẩy mạnh hoạt
động kinh doanh dịch vụ kho hàng của Công ty TNHH Tiếp vận
VINAFCO”. Em mong rằng bài viết đóng góp phần nhỏ vào trong việc
nâng cao hiệu quả kinh doanh kho hàng ở Cơng ty TNHH Tiếp vận
VINAFCO nói riêng và các Công ty hoạt động trong lĩnh vực Logistics nói
chung.


CHƯƠNG I: TổNG QUAN Về DịCH Vụ LOGISTICS Và DịCH
Vụ KHO HàNG TạI VIệT NAM
I. Định nghĩa về Logistics
1. Khái niệm về Logistics
Cho đến nay, thuật ngữ Logistics khá xa lạ và mới với nhiều người.
Chỉ mới gần đây thôi, từ Logistics mới được thu nhập vào Việt Nam như:
khu Logistics, cảng Logistics, kho Logistics. Nhưng thực chất Logistics là
gì? Nó đã được áp dụng rất nhiều ở các nước phát triển để phát triển và
phục vụ các hoạt động dịch vụ hàng hoá cũng như sản xuất.
“Logistics” đang được sử dụng trên thế giới có nguồn gốc từ từ
“Logistics” trong tiếng Pháp và từ này lại xuất phát từ từ “Loger” nghĩa là
nơi đóng quân. Cho đến nay vẫn chưa tìm được thuật ngữ thống nhất, phù

hợp để dịch từ Logistics sang tiếng Việt. Có người dịch là hậu cần, có
người dịch là tiếp vận hoặc tổ chức dịch vụ cung ứng…Cách tốt nhất là giữ
nguyên thuật ngữ Logistics không dịch sang tiếng Việt. Xét trong lĩnh vực
ngôn ngữ thì như vậy, cịn trong lĩnh vực kinh tế-xã hội, ta có thể thấy như
sau:
Ban đầu, Logistics được sử dụng như một từ chuyên môn trong quân
đội, được hiểu là công tác hậu cần. Logistics đã từng được định nghĩa là
hoạt động để duy trì lực lượng quân đội. Sau này thuật ngữ Logistics dần
được áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế, được lan truyền từ Châu lục này
sang Châu lục kia, từ nước này sang nước khác, hình thành nên từ Logistics
toàn cầu. Logistics đã phát triển rất nhanh chóng, đến cuối thế kỷ 20,
Logistics được ghi nhận như một chức năng kinh tế chủ yếu, một công cụ
hữu hiệu mang lại thành công cho các doanh nghiệp cả trong khu vực sản
xuất lẫn trong khu vực dịch vụ. Ngay từ những năm 80 của thế kỷ trước,


người ta đã dự báo sẽ xuất hiện Logistics toàn cầu và điều đó giờ đây đang
thành hiện thực.
Đã có rất nhiều tổ chức, tác giả tham gia nghiên cứu, đưa ra nhiều định
nghĩa khác nhau, cho đến nay vẫn chưa có khái niệm thống nhất về
Logistics. Có thể đưa ra một vài khái niệm sau:
Trước

hết trong lĩnh vực sản xuất, người ta đưa ra định nghia

Logistics một cách đơn giản, ngắn gọn nhất là cung ứng, là chuỗi hoạt động
nhằm đảm bảo nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị, các dịch vụ…cho hoạt
động tổ chức một doanh nghiệp được tiến hành liên tục, nhịp nhàng và có
hiệu quả. Bên cạnh đó cịn tham gia vào q trình phát triển sản phẩm mới.
Dưới góc độ nhà quản trị chuỗi cung ứng, thì Logistics là q trình tối

ưu hố về vị trí, lưu chữ và chu chuyển các tài nguyên, yếu tố đầu vào từ
điểm xuất phát đầu tiên là nhà cung cấp, qua nhà sản xuất, người bán buôn,
bán lẻ, đến tay người tiêu dùng cuối cùng, thông qua hàng loạt các hoạt
động kinh tế.
Định nghĩa cho thấy Logistics bao gồm nhiều khái niệm khác nhau,
cho phép các tổ chức có thể vận dụng các nguyên lý, cách nghĩ và hoạt
động Logistics trong lĩnh vực của mình một cách sáng tạo.
Trước hết ta xem xét từ “q trình”. Điều đó cho thấy Logistics không
phải là một hoạt động đơn lẻ mà là một chuỗi các hoạt động liên tục, có
liên quan mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, được thực hiện một
cách khoa học và có hệ thống qua các bước nghiên cứu, hoạch định, tổ
chức, quản lý, thực hiện, kiểm tra, kiểm sốt và hồn thiện. Do đó,
Logistics là q trình liên quan tới nhiều hoạt động khác nhau trong cùng
một tổ chức, từ xây dựng chiến lược đến các hoạt động chi tiết, cụ thể để
thực hiện chiến lược. Logistics cũng đồng thời là quá trình bao trùm mọi
yếu tố cấu thành nên sản phẩm từ yếu tố đầu vào cho đến giai đoạn tiêu thụ
sản phẩm cuối cùng.


Logistics không chỉ liên quan đến nguyên nhiên vật liệu mà còn liên
quan tới tất cả nguồn tài nguyên, các yếu tố đầu vào cần thiết để tạo nên
sản phẩm hay dịch vụ phù hợp với yếu cầu của người tiêu dùng. ở đây
nguồn tài nguyên không chỉ bao gồm: vật tư, vốn, nhân lực mà còn bao
hàm cả
dịch vụ, thơng tin, bí quyết cơng nghệ,…
Logistics bao gồm cả hai cấp độ hoạch định và tổ chức. Cấp độ thứ
nhất là vấn đề đặt ra là phải lấy nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành
phẩm, dịch vụ… ở đâu?, vào khi nào? và vận chuyển chúng đi đâu?. Do
vậy tại đây xuất hiện vấn đề vị trí. Đây cũng là điểm khác biệt cơ bản trong
khái niệm Logistics cổ điển và hiện đại. Trước đây Logistics chỉ tập trung

vào “luồng”, cịn Logistics ngày nay có phạm vi rộng lớn hơn, bao gồm cả
vị trí. Cấp độ thứ hai quan tâm tới việc làm thế nào để đưa được nguồn tài
nguyên, các yếu tố đầu vào từ điểm đầu đến điểm cuối dây truyền cung
ứng; Từ đây nảy sinh ra vấn đề vận chuyển và lưu trữ. ở Việt Nam hiện
nay, khi nói đến Logistics người ta quá chú tâm vào khâu vận chuyển và
lưu trữ mà chưa quan tâm đúng mức tới vấn đề cực kỳ quan trọng là tài
nguyên lấy từ đâu và đưa đi đâu. Chính quan niệm sai lầm này làm cho
người ta lầm tưởng Logistics chỉ là những hoạt động ngành giao nhận, vận
tải.
Để có thể hiểu thấu đáo bản chất của Logistics cần nghiên cứu các câu
hỏi cơ bản về Logistics mà chúng ta gặp như vị trí tối ưu, và câu hỏi về vận
chuyển và dự trữ nguồn tài nguyên đầu vào từ điểm đầu đến điểm cuối của
dây chuyền cung ứng. Trả lời được các câu hỏi này chúng ta có thể hiểu về
Logistics theo đúng nghĩa của nó.
Cùng với định nghĩa nêu trên, trong thực tế vẫn tồn tại nhiều khái
niệm khác về Logistics như sau:
* Logistics là hệ thống các công việc được thực hiện một cách có kế
hoạch nhằm quản lý ngun vật liệu, dịch vụ, thơng tin và dịng chảy của


vốn…Nó bao gồm cả những hệ thống thơng tin ngày một phức tạp, sự
truyền thơng và hệ thống kiểm sốt cần phải có trong mơi trường làm việc
hiện nay.
* Logistics là sự duy trì, phát triển, phân phối sắp xếp và thay thế
nguồn nhân lực và nguyên vật liệu, thiết bị máy móc…
* Logistics là khoa học nghiên cứu việc lập kế hoạch, tổ chức và quản
lý các dịch vụ cung ứng hàng hố, dịch vụ.
Chắc chắn sẽ có nhiều khái niệm về Logistics nhưng có thể hiểu
Logistics là quá trình tối ưu hố về vị trí, vận chuyển và dự trữ nguồn tài
nguyên của điểm đầu tiên của dây truyền cung ứng cho đến tay người tiêu

dùng cuối cùng thơng qua hàng loạt các hoạt dộng kinh tế.
Hình 1.1- Các bộ phận cơ bản của Logistics
Nguyên vật
liệu
Phụ tùng

Máy móc,
thiết bị
Bán thành
phẩm

Q
trì
nh
sản
xuấ
t

lắp
ráp

Đóng
gói

Dịch vụ

Dịng chu chuyển vận tải
Dịng thơng tin lưu thông

Kho

lưu
trữ
thàn
h
phẩm

Bến
bãi
chứa
T.T
phân
phối

k
h
á
c
h
h
à
n
g


2. Vai trò của Logistics
2.1.Thương mại dịch vụ, khái niệm và đặc điểm
2.1.1.Khái niệm
Thương mại, tiếng Anh là Trade, vừa có ý nghĩa là kinh doanh, vừa có
ý nghĩa là trao đổi hàng hố, dịch vụ. Ngồi ra tiếng Anh còn dùng một
thuật ngữ nữa là Business hoặc Commerce với nghĩa là bn bán hàng hố,

kinh doanh hàng hố hay là mậu dịch. Tiếng Pháp cũng có từ ngữ tương
đương Commerce (tương đương với Business và Trade của tiếng Anh) là
sự bn bán mậu dịch hàng hố, dịch vụ. Tiếng La tinh, thương mại là
“Commercium” vừa có nghĩa là mua bán hàng hố vừa có nghĩa là hoạt
động kinh doanh. Như vậy, khái niệm “Thương mại” cần được hiểu cả
nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, thương mại là hoạt động của toàn bộ các hoạt động
kinh doanh trên thị trường. Thương mại đồng nghĩa với kinh doanh được
hiểu như là các hoạt động kinh tế nhằm mục tiêu sinh lợi của các chủ thể
kinh doanh trên thị trường.
Theo nghĩa hẹp, thương mại là q trình mua bán hàng hố dịch vụ
trên thị trường, là lĩnh vực phân phối và lưu thơng hàng hố. Nếu hoạt động
trao đổi hàng hố (kinh doanh hàng hoá) vượt ra khỏi biên giới quốc gia thì
người ta gọi đó là ngoại thương (kinh doanh quốc tế). Theo Luật thương
mại và các hành vi thương mại bao gồm: Mua bán hàng hoá; Đại diện cho
thương nhân; Môi giới thương mại; uỷ thác mua bán hàng hố; Đại lý mua
bán hàng hố; Gia cơng thương mại; Đấu giá hàng hố; Khuyến mại;
Quảng cáo thương mại; Trình bày và giời thiệu hàng hoá và Hội chợ triển
lãm thương mại.


2.1.2. Đặc điểm của dịch vụ thương mại
Theo nghĩa rộng, dịch vụ được coi là lĩnh vực kinh tế thứ ba trong nền
kinh tế quốc dân. Theo cách hiểu này , các hoạt dộng kinh tế nằm ngồi hai
ngành cơng nghiệp và nông nghiệp đều thuộc ngành dịch vụ.
Theo nghĩa hẹp, dịch vụ là những hoạt động hỗ trợ cho quá trình kinh
doanh, bao gồm cả hỗ trợ trước, trong và sau khi bán, là phần mềm được
cung ứng cho khách hàng.
Với bản chất, dịch vụ và sản phẩm và vật chất có những nét khác biệt,
khiến các nhà kinh doanh dịch vụ khi thiết kế chương trình hoạt động

marketing khơng thể bỏ qua.
Là sản phẩm vơ hình, chất lượng dịch vụ rất khó đánh giá, chỉ sau khi
tiêu dùng thì người mua mới có thể đánh giá được chất lượng dịch vụ, sản
phẩm đã tiêu dùng.
Là sản phẩm vô hình, dịch vụ có sự khác biệt về chi phí so với sản
phẩm dịch vụ. Sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời nên cung
cầu
dịch vụ không thể tách rời nhau mà phải tiến hành cùng lúc.
Dịch vụ là sản phẩm vơ hình, khơng thể lưu kho, lưu bãi, vì vậy các
nhà kinh doanh phải nắm chắc được nhu cầu mới có thể đáp ứng đầy đủ và
tốt nhất các nhu cầu, khi có sự thay đổi về cung cầu.
Trong cơ chế thị trường và xu hướng tồn cầu hố nền kinh tế hiện
nay, các doanh nghiệp sản xuất muốn bán hàng hố nhanh chóng và chuyển
giao cả một số hoạt động dịch vụ cho doanh nghiệp kinh doanh thương
mại. Có thể nói Logistics-một lĩnh vực dịch vụ thương mại đang có nhu cầu
ngày càng cao từ phía các doanh nghiệp và khách hàng. Giúp cho quá trình
vận chuyển, lưu thơng hàng hố diễn ra nhịp nhàng, phát triển thị trường.
Chính nhu cầu về Logistics tại các nước phát triển tăng cao do sự chun
mơn hàng hố trong lao động và sản xuất. Chúng ta cần phải quan tâm hơn


nữa đến một lĩnh vực dịch vụ còn khá mới mẻ này nhưng đã có sự cạnh
tranh khá gay gắt trên thị trường hiện nay.
ở các nước phát triển, dịch vụ chiếm 50-60% lực lượng lao động, chi
cho hoạt động dịch vụ chiếm 60-65% thu nhập cá nhân. Với mục tiêu đưa
GDP năm 2010 lên gấp đôi năm 2000, tỷ trọng GDP của nông nghiệp là
16-17%, công nghiệp 40-41%, dịch vụ 42-43%, thì hơn lúc nào hết cần
phải chú trọng đầu tư phát triển các ngành dịch vụ thương mại và khơng thể
thiếu trong đó hoạt động Logistics, tạo tiền đề cho phát triển nền kinh tế
hàng hoá ở nước ta.

2.2. Vai trò của Logistics
Ta thấy Logistics là một chức năng kinh tế có ảnh hưởng sâu rộng đến
tồn bộ xã hội. Ngày nay, người ta luôn muốn những dịch vụ sẽ hồn hảo
và điều đó sẽ đạt được khi phát triển Logistics. Hãy thử suy nghĩ, làm thế
nào để có thể cùng một lúc mua được nhiều mặt hàng tại cùng một cửa
hàng. Làm thế nào để chọn được một mặt hàng hoàn toàn vừa ý với chất
lượng, mẫu mã, màu sắc? Làm thế nào để tránh được lỗi thất vọng của
khách hàng khi hăm hở ra cửa hàng vừa được quảng cáo nhưng lại được
báo là hàng chưa về?. Tóm lại, để thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng
với
chi phí thấp nhất, điều đó chỉ có thể giải quyết được là nhờ Logistics.
2.2.1. Vai trò của Logistics đối với nền kinh tế
Logistics là một chuỗi các hoạt động liên tục, có liên hệ mật thiết với
nhau và có tác động qua lại lẫn nhau. Nếu xem xét ở góc độ tổng thể ta
thấy Logistics là mối liên kết kinh tế xuyên suốt gần như toàn bộ q trình
sản xuất, lưu thơng và phân phối hàng hố. Mỗi hoạt động trong chuỗi đều
có vị trí và chiếm một khoản chi phí nhất định. Một nghiên cứu gần đây
của các nhà khoa học cho thấy, chỉ riêng hoạt động Logistics đã chiếm từ
10-15% GDP của hầu hết các nước lớn ở Châu Âu, Bắc Mỹ và một số nền


kinh tế Châu á-Thái Bình Dương. Vì vậy nâng cao hiệu quả hoạt động
Logistics thì sẽ góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội.
Logistics hỗ trợ cho việc chu chuyển các giao dịch quốc tế. Nền kinh
tế chỉ có thể phát triển nhịp nhàng, đồng bộ một khi dây chuyền Logistics
hoạt động liên tục, nhịp nhàng.
Hàng loạt các hoạt động kinh tế liên quan diễn ra trong chuỗi Logistics
theo đó các nguồn tài nguyên được biến đổi thành sản phẩm và điều quan
trọng hơn là giá trị được tăng lên cho cả khách hàng lẫn người sản xuất,
giúp thoả mãn nhu cầu của mọi người.

2.2.2. Vai trò của Logistics đối với các doanh nghiệp
Đối với các doanh nghiệp Logistics có vai trị rất to lớn. Logistics giúp
giải quyết các đầu ra lẫn đầu vào của doanh nghiệp một cách hiệu quả. Nhờ
có thể thay đổi các nguồn tài nguyên đầu vào hoặc tối ưu hoá quá trình chu
chuyển ngun vật liệu, hàng hố, dịch vụ…Logistics giúp giảm chi phí,
tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp. Có nhiều doanh nghiệp thành
cơng lớn nhờ có được chiến lược và hoạt động Logistics đúng đắn, ngược
lại có khơng ít doanh nghiệp gặp khó khăn, thậm chí thất bại, phá sản do có
những quyết định sai lầm trong hoạt động Logistics, ví dụ: chọn sai vị trí,
chọn nguồn tài nguyên cung cấp sai, dự trữ không phù hợp, tổ chức vận
chuyển khơng hiệu quả…Ngày nay, để tìm được vị trí tốt hơn, kinh doanh
hiệu quả hơn, các tập đồn đa quốc gia, các công ty đủ mạnh đã và đang nỗ
lực tìm kiếm trên tồn cầu nhằm tìm được nguồn ngun liệu, nhân cơng,
vốn, bí quyết cơng nghệ, thị trường tiêu thụ, môi trường kinh doanh…tốt
nhất và thế là Logistics tồn cầu hình thành và phát triển.
Ngồi ra, Logistics cịn hỗ trợ đắc lực cho hoạt động marketing, chính
Logistics đóng vai trị then chốt trong lĩnh vực đưa sản phẩm đến tay người
tiêu dùng đúng thời gian và địa điểm thích hợp. Sản phẩm, dịch vụ chỉ có
thể làm thoả mãn khách hàng và có giá trị khi và chỉ khi nó đến được với


khách hàng đúng thời hạn và địa điểm quy định. Mục tiêu của Logistics là
cung cấp hàng hoá dịch vụ cho khách hàng với tổng chi phí nhỏ nhất.
Tổng
chi phí

=

chi phí
vận tải


chi phí
+ lưu kho, +
lưu bãi

chi phí giải

chi phí

quyết đơn

sản xuất

hàng và cung
cấp thơng tin

+

và chi phí
dự trữ.

3. Các hoạt động trong quản trị Logistics
Như ta đã biết, Logistics không phải là một hoạt động đơn lẻ mà là
một chuỗi các hoạt động liên tục, liên quan mật thiết lẫn nhau và có hoạt
động qua lại lẫn nhau, được thực hiện một cách khoa học và có hệ thống.
Vì vậy quản trị Logistics là quá trình hoạch định, thực hiện và kiểm sốt có
hiệu lực, hiệu quả việc chu chuyển và dự trữ hàng hố, dịch vụ…và những
thơng tin có liên quan, từ điểm đầu đến điểm cuối cùng với mục tiêu thoả
mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Vì vậy, quản trị Logistics bao gồm
những nội dung sau:

3.1. Dịch vụ khách hàng
Doanh nghiệp muốn tồn tại phải bán được sản phẩm, dịch vụ của
mình, muốn tiêu thụ được phải đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. và
dịch vụ gần như là yếu tố quyết định việc tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ của
doanh nghiệp. Dịch vụ khách hàng có vai trị đặc biệt quan trọng, nếu được
thực hiện tốt, chúng không chỉ giúp tổ chức giữ chân được khách hàng cũ
mà có thể lơi kéo, thu hút thêm được khách hàng mới. Đây chính là điểm
mấu chốt giúp các doanh nghiệp đứng vững trên thương trường và thành
công.


3.2. Hệ thống thông tin
Thực tế đã chứng minh: máy vi tính và những thành tựu của cơng nghệ
thơng tin đã có những đóng góp quan trọng quyết định sự lớn mạnh nhanh
chóng và khơng ngừng của Logistics.
Hệ thống thơng tin Logistics bao gồm thông tin trong nội bộ từng tổ
chức (doanh nghiệp, nhà cung cấp, khách hàng của doanh nghiệp), thông
tin trong từng bộ phận chức năng (kỹ thuật, marketing, kế tốn, tài
chính…) thơng tin ở từng khâu trong dây chuyền cung ứng (kho hàng, bến
bãi, vận tải…) và sự kết nối thông tin giữa các tổ chức, bộ phận, cơng đoạn
nêu trên. Do đó nếu thơng tin trao đổi chậm chạp, sai sót sẽ phát sinh tăng
chi phí lưu kho, lưu bãi, vận tải, giao hàng không đúng thời hạn dẫn đến
mất khách hàng, và nghiêm trọng hơn nếu thơng tin khơng chính xác có thể
đẩy doanh nghiệp đến thua lỗ và phá sản.
Công nghệ thông tin ngày càng phát triển tinh vi, hiện đại, nó thực sự
là vũ khí cạnh tranh lợi hại, giúp những ai biết sử dụng dành chiến thắng,
lĩnh vực Logistics không phải là ngoại lệ.
3.3. Quản trị dự trữ
Dự trữ nguyên vật liệu, sản phẩm, hàng hoá là một nội dung quan
trọng của hoạt động Logistics. Nhờ có dự trữ mà Logistics mới có thể diễn

ra liên tục, nhịp nhàng.
Dự trữ là yếu tố khách quan, nhờ có dự trữ mà cuộc sống nói chung và
hoạt động Logistics nói riêng, mới có thể diễn ra nhưng nói như vậy khơng
có nghĩa là dự trữ càng nhiều càng tốt. Dự trữ là một sự đầu tư vốn cần
thiết, tốn kém và có liên quan mật thiết đến mức độ dịch vụ khách hàng.
Nếu dự trữ được quản lý tốt, công ty sẽ đẩy nhanh vịng vốn, sớm thu hồi
được vốn đầu tư, có điều kiện phục vụ khách hàng tốt. Ngược lại, nếu quản
lý dự trữ kém, sẽ làm cho lượng tồn kho lớn, quay vòng vốn chậm, vốn bị ứ
đọng, lợi nhuận suy giảm và kém hiệu quả.


Vậy, chi phí dự trữ có tác động trực tiếp đến nhiều hoạt động Logistics
nên cần có sự cân đối giữa chi phí dự trữ và các khoản chi phí Logistics
khác. Quản trị dự trữ là khâu quan trọng trong toàn bộ hệ thống Logistics.
3.4. Vận tải
Nguyên vật liệu, hàng hố,…chỉ có thể đi từ nơi sản xuất đến nơi tiêu
dùng nhờ các phương tiện vận tải. Vì thế, vận tải đóng vai trị rất quan
trọng trong Logistics. Để chun chở hàng hoá người bán, người mua hoặc
người cung cấp dịch vụ Logistics có thể chọn một trong số các phương
thức vận tải sau: đường biển, đường sông, đường bộ, đường sắt, đường
hàng không hoặc kết hợp hai hay nhiều phương thức lại với nhau- được gọi
là vận tải đa phương thức. Mỗi một phương thức vận tải có ưu và nhược
điểm riêng vì vậy khi thực hiện phải căn cứ vào điều kiện cụ thể để quyết
định. Điều này quyết định hàng có đến đúng thời gian và địa điểm yêu cầu.
3.5. Kho bãi
Kho bãi là một bộ phận của hệ thống Logistics, nó có vai trị rất quan
trọng. Quản trị kho và lưu kho có quan hệ mật thiết với vận chuyển. Cả hai
cùng đóng góp giá trị gia tăng về thời gian và địa điểm cho sản phẩm. Quản
trị kho tốt sẽ nâng chất lượng dịch vụ khách hàng với chi phí thấp nhất.
Chính vì vậy mà dịch vụ kho hàng cần được chú ý, quan tâm và hồn

thiện. Thực hiện tốt cơng tác này khơng những giảm chi phí cho doanh
nghiệp, cho khách hàng mà cịn là yếu tố tác động đến tâm lý của khách
hàng, lôi kéo khách hàng đến với doanh nghiệp. Vậy kho hàng là gì? Vai
trị của kho hàng thế nào? chúng ta sẽ nghiên cứu trong phần sau đây.


II. Kho hàng và vai trò của kho hàng trong Logistics
1. Khái niệm và phân loại kho hàng
1.1. Khái niệm
Kho bãi là một bộ phận của hệ thống Logistics, là nơi cất giữ nguyên
nhiên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm trong suốt qúa trình chu
chuyển từ điểm đầu cho đến điểm cuối của dây chuyền cung ứng, đồng thời
cung cấp các thơng tin về tình trạng, điều kiện lưu trữ và vị trí của các hàng
hố được lưu kho.
Kho hàng có vị trí quan trọng đối với sản xuất và lưu thông, một mặt
kho gắn chặt với sản xuất và lưu thông, là bộ phận của doanh nghiệp sản
xuất hoặc lưu thơng; mặt khác, kho có vị trí độc lập nhất định đối với sản
xuất và lưu thơng. Tính độc lập và mức độ độc lập của kho phụ thuộc vào
mức độ phát triển của phân công lao động xã hội. Ăngghen đã chỉ rõ: “ở
đâu có sự phân cơng lao động trên quy mơ xã hội, thì ở đó có những q
trình lao động cá biệt trở thành độc lập với nhau”.
Do sự phân công lao động và chun mơn hố lao động ngày càng sâu
sắc, hoạt động kho đã tách rời khỏi hoạt động sản xuất trực tiếp và hoạt
động mua bán hàng hoá trực tiếp. Hoạt động của kho tốt hay khơng có ảnh
hưởng nhiều mặt đến các hoạt động của sản xuất và lưu thông.
Tác dụng của kho hàng đối với sản xuất và lưu thông như sau:
Một là, kho dự trữ những nguyên, nhiên, vật liệu… và hàng hoá cần
thiết để bảo đảm xuất bán như bình thường hoặc cấp phát đầy đủ, đồng bộ,
kịp thời cho sản xuất liên tục và không ngừng mở rộng lưu thơng hàng hố
trong nền kinh tế quốc dân.

Hai là, kho bảo quản, bảo vệ tốt số lượng và chất lượng vật tư-hàng
hoá, hạn chế hao hụt, hư hỏng biến chất mất mát…có tác dụng chống lãng
phí của cải xã hội, góp phần đảm bảo chất lượng của sản phẩm sản xuất ra,
góp phần tăng năng suất lao động xã hội và thúc đẩy sản xuất phát triển.
Đồng thời, góp phần cho lưu thơng hàng hố-vật tư đạt hiệu quả cao.


Ba là, thông qua công tác kiểm tra, kiểm nhận, hố nghiệm khi giao
nhận vật tư-hàng hố, kho góp phần tạo ra những sản phẩm đủ tiêu chuẩn
chất lượng, ngăn ngừa hàng giả, hàng xấu, không đủ tiêu chuẩn chất lượng
vào lưu thơng; góp phần bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng cũng như
các doanh nghiệp kinh doanh và sản xuất hàng hố.
Bốn là, Kho góp phần điều hồ vật tư-hàng hoá, cân đối cung-cầu
hàng hoá trên thị trường. Kho là nơi dự trữ tập trung một số lớn vật tư-hàng
hố. Do đó, nó đảm bảo cho việc điều hoà vật tư từ nơi thừa sang nơi thiếu,
đảm bảo thoả mãn kịp thời cho các nhu cầu; góp phần thực hiện cân đối
cung cầu.
1.2. Các loại kho hàng
Trong sản xuất và lưu thơng thì kho là một tất yếu khách quan nhưng
một doanh nghiệp không nhất thiết phải xây dựng hệ thống kho cho riêng
mình. Khi có nhu cầu có thể lựa chọn hay sử dụng loại kho nào mang lại
hiệu quả kinh tế cao nhất, thuận lợi nhất cho cơng việc của mình. Xin đưa
ra một vài loại kho sau
1.2.1. Kho đa năng
Kho có nhiệm vụ phân loại, tổng hợp, hồn thiện hàng hố để phục vụ
cho nguời tiêu dùng. Kho có chức năng cơ bản giống như một “Trung tâm
phân phối tổng hợp”. Sản phẩm sẽ được chuyển từ nơi sản xuất đến kho
theo những lô hàng lớn, tại đây lô hàng sẽ được tách ra, chuẩn bị theo
những yêu cầu cần thiết của khách hàng rồi gửi đi cho khách. Do đã được
chuẩn bị đầy đủ nên khi chở đến nơi hàng sẽ được đưa vào sử dụng ngay

mà không cần phải qua kho nữa.
1.2.2.Kho thuê theo hợp đồng
Kho thuê theo hợp đồng là một sự lựa chọn mà các cơng ty có thể
quan tâm. Hợp đồng thuê kho là sự thoả thuận giữa bên cho thuê kho và
bên đi thuê về nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên, trong đó bên cho thuê
kho sẽ cung cấp những dịch vụ kho bãi theo thoả thuận cho khách hàng và


bên đi thuê sẽ thanh toán tiền thuê kho cho bên cho thuê. Thuê kho theo
hợp đồng là sự thoả thuận về lợi ích dài hạn của các bên, các bên sẽ cùng
chia sẻ những rủi ro trong những hoạt động chung nhằm nâng cao chất
lượng dịch vụ, năng suất và hiệu quả kinh doanh.
1.2.3.Các loại kho cơng cộng
Có nhiều loại kho công cộng, như: Kho hàng tổng hợp, kho đông lạnh,
kho hải quan, kho gửi hàng các nhân, kho đặc biệt, kho hàng rời, kho hàng
lỏng.
1.2.4. Kho bảo thuế
Là kho của chủ hàng dùng để chứa hàng hoá nhập khẩu đã được thông
quan nhưng chưa nộp thuế.
1.2.5. Kho ngoại quan
Là kho lưu trữ hàng hoá sau: hàng hoá đã làm thủ tục hải quanđược
gửi để chờ xuất khẩu; Hàng hố từ nước ngồi đưa vào gửi để chờ xuất ra
nước ngoài hoặc nhập khẩu vào Việt Nam theo quy định của pháp luật.
2. Vai trò của kho hàng trong hoạt động Logistics
Là nơi cất giữ bảo quản, trung chuyển hàng hố, kho bãi có vai trị
quan trọng sau
 Giúp các tổ chức tiết kiệm được chi phí vận tải: nhờ có kho các
tổ chức có thể gom nhiều lơ hàng nhỏ thành một lô hàng lớn để
vận chuyển một lần, do đó tiết kiệm được chi phí vận tải.
 Tiết kiệm được chi phí cho sản xuất: Kho giúp bảo quản tốt

nguyên, nhiên, vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm, giảm bớt
hao hụt, mất mát, hư hỏng; kho giúp cung cấp nguyên vật liệu
đúng lúc, tạo điều kiện cho sản xuất tiến hành liên tục nhịp
nhàng…nhờ đó giảm được chi phí sản xuất.
 Tổ chức được hưởng lợi từ các khoản giảm giá do mua số lượng
lớn và mua theo kì hạn.


 Giúp duy trì nguồn cung ứng ổn định.
 Hỗ trợ cho chính sách dịch vụ khách hàng của tổ chức.
 Giúp tổ chức có thể đương đầu với những thay đổi của thị
trường ( do tính thời vụ, nhu cầu thay đổi, cạnh tranh…).
 Giúp vượt qua những khác biệt về không gian và thời gian giữa
người sản xuất và người tiêu dùng.
 Giúp thoả mãn được nhu cầu của khách hàng với chi phí
Logistics thấp nhất.
 Cung cấp cho khách hàng những sản phẩm đồng bộ, chứ không
phải chỉ là những sản phẩm đơn lẻ, giúp phục vụ tốt những nhu
cầu của khách hàng.
 Kho là nơi tập hợp, lưu trữ các phế liệu, phế phẩm, các bộ phận
sản phẩm thừa…trên cơ sở đó tiến hành phân loại xử lý, tái chế.
Kho là bộ phận quan trọng giúp hoạt động Logistics ngược thực
hiện thành công.
Cùng với thời gian vai trò của kho bãi ngày càng được khẳng định và
nâng cao, các hệ thống các kho hàng ngày càng phát triển. Nhưng một kho
hàng để có thể hoạt động hiệu quả cần phải chú ý và tổ chức tốt các nghiệp
vụ xuất-nhập kho, bao gồm nhiều các hoạt động trong đó có thể kể đến các
hoạt động cơ bản:
 Nhập hàng, gồm
Chuẩn bị nhập hàng: Chuẩn bị kho chứa, chuẩn bị các thiết bị,

dụng cụ để nhận hàng, kiểm tra hàng; chuẩn bị nhân lực.
Tiến hành nhập hàng: Kiểm tra sơ bộ hàng hoá từ phương tiện chở
đến; dỡ hàng từ phương tiện xuống; song song tiến hành theo dõi tình trạng
hàng hố; đối chiếu hố đơn hoặc chứng từ gửi hàng khác; tiến hành kiểm
tra số lượng, chất lượng bằng cách cân, đo, đong, đếm và các phương pháp
chuyên môn khác; kiểm tra lại chứng từ gửi hàng, nếu có vấn đề phát sinh
thì cần có biện pháp xử lý kịp thời.
 Xuất hàng, gồm


Chuẩn bị hàng để xuất công việc chủ yếu là gom hoặc tách thành
những lô hàng phù hợp với đơn đặt hàng của khách hàng; có thể làm thêm
các cơng việc đóng gói bao bì, dán nhãn… theo u cầu. Chuẩn bị chứng
từ, thủ tục cần thiết để phục vụ cho việc xuất hàng.
Tiến hành xuất hàng: Tổ chức giao hàng cho khách hàng hoặc
người chuyên chở, lấy các bằng chứng cần thiết (vận đơn, biên nhận…);
nhập số liệu vào máy tính, sổ kho, thẻ kho.
 Lưu kho, bảo quản hàng hoá trong kho
Đây là nghiệp vụ quan trọng của kho nhằm: giữ gìn đầy đủ số lượng
và chất lượng hàng hoá trong kho; giảm các hư hao, mất mát, góp phần
giảm phí lưu thơng trong quản lý kho hàng; tạo điều kiện nắm bắt được số
lượng, chất lượng hàng hố thực có trong kho, trên cơ sở đó có thể làm tốt
nghiệp vụ xuất nhập hàng hoá. Nghiệp vụ này bao gồm các cơng việc chính
như: chất xếp hàng hoá trong kho một cách khoa học và dùng các biện
pháp chun mơn để chăm sóc bảo quản hàng hố.
Một cơng việc có vai trị đặc biệt quan trọng trong quản trị kho là hệ
thống thông tin. Phải thường xuyên cập nhật các thông tin về mức dự trữ,
lượng hàng nhập kho, xuất kho, thực có trong kho, vị trí tình trạng hàng
hố, các u cầu của khách hàng…Đặc biệt lưu ý, thơng tin phải chính xác,
kịp thời, cơng nghệ thông tin ngày càng tiến bộ cho phép sử dụng hệ thống

trao đổi thơng tin đã được vi tính hố, sử dụng EDI và hệ thống mã vạch để
nâng cao tốc độ và tính chính xác trong chuyển tải thơng tin.
Có thể nói, ngày nay dịch vụ đang ngày càng chiếm tỷ trọng cao tại
các nước phương Tây, tại Mỹ 70%, tại Anh là 67%, tại Pháp là 65% và tại
Đức là 56%. ở Việt Nam, khu vực dịch vụ-thương mại có sự phát triển
mạnh, tỷ trọng ở khu vực này trong cơ cấu GDP không ngừng tăng lên năm
1985 chiếm 33,06%, năm 2001 đạt hơn 37%, phấn đấu đưa tồn bộ các
hoạt động dịch vụ tính theo giá trị gia tăng đạt nhịp độ tăng trưởng bình
quân 7-8%/năm và đến năm 2010 chiếm 42-43% GDP và 26-27% tổng số
lao động. Vậy cũng là một sản phẩm dịch vụ thì hoạt động kinh doanh dịch
vụ kho hàng hiện nay hoạt động ra sao, phát triển như thế nào?.


III. Dịch vụ kho hàng và nội dung kinh doanh dịch vụ kho hàng
Tất cả các độc quyền đang tan biến đi, các chiến lược quảng cáo tung
ra những “kiểu dáng tân kỳ nhất” đang rút ngắn tuổi thọ của hàng hoá và
dịch vụ. Các cải tiến kỹ thuật đã giúp làm dễ dàng hơn việc tiêu chuẩn hoá
cung cấp các hàng hoá và dịch vụ. Các thị trường ngày càng trở nên phân
tán và khách hàng thì trở nên rất khó chiều. Đối phó với điều này, một cơng
ty muốn thành công phải triển khai một lợi thế cạnh tranh độc đáo và lâu
dài. Hiện nay không một lợi thế nào có thể bảo đảm được nếu thiếu một
chiến lược dịch vụ. Một chiến lược dịch vụ có thể là một cách duy nhất để
thu hút khách hàng và củng cố mối quan hệ với các khách hàng hiện có. Và
kinh doanh kho hàng khơng nằm ngồi quy luật này.
1. Dịch vụ kho hàng
1.1.Tính tất yếu khách quan của hoạt động kinh doanh dịch vụ
kho hàng
Như ta đã biết dự trữ vật tư hàng hoá, nguyên, nhiên, vật liệu tại bất kỳ
một doanh nghiệp sản xuất hay kinh doanh thương mại đều là một tất yếu
khách quan. Nhờ có dự trữ mà các hoạt động sản xuất kinh doanh mới có

thể diễn ra liên tục, nhịp nhàng.
Nguyên nhân chủ yếu của việc hình thành các loại dự trữ là do sự phân
công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội dẫn đến chun mơn hố
sản xuất, sản phẩm được sản xuất ở một nơi nhưng có thể được sử dụng
hoặc bán ở nơi khác, thời gian và tiến độ sử dụng loại sản phẩm ấy và thời
gian, tiến độ sản xuất khơng khớp nhau. Vì vậy, để đảm bảo cho quá trình
tái sản xuất xã hội liên tục, nhịp nhàng thì phải tích luỹ lại một phần sản
phẩm hàng hố ở q trình vận động từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng, gọi
là dự trữ. Như vậy, có dự trữ tất yếu cần có kho hàng để chứa, đựng, bảo
quản và quản lý vật tư-hàng hoá. Nhưng như trình bày ở trên, hiện nay do
cơ chế thị trường đang phát triển ngày càng mạnh mẽ, cạnh tranh ngày
càng gay gắt, các doanh nghiệp ln tìm cách tăng năng suất bằng cách tập


trung mọi nguồn lực và sản xuất để hạ giá thành sản phẩm. Trong khi đó
hoạt động kho hàng ở doanh nghiệp đòi hỏi một sự đầu tư lớn về cơ sở vật
chất kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực và quản lý kho. Đây thực sự là một
khó khăn cho doanh nghiệp do yêu cầu ngày càng cao của khách hàng, sản
phẩm phải được bảo quản tốt, đảm bảo chất lượng khi đến tay người tiêu
dùng. Nó địi hỏi doanh nghiệp phải có sự đầu tư nhiều, chính vì vậy nhiều
khi chi phí do doanh nghiệp tự làm lại cao hơn chi phí đi th ngồi. Nắm
bắt được nhu cầu đó, nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
Logistics ra đời và hoạt động cho thuê kho, bãi là một trong những hoạt
động đem lại hiệu quả kinh tế cao hiện nay. Sự ra đời của hàng loạt các
doanh nghiệp trong lĩnh vực kinh doanh kho bãi tất yếu dẫn đến sự cạnh
tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp cùng hoạt động trong lĩnh vực này.
Đúng với xu hướng phát triển hiện nay, các Công ty phải triển khai một lợi
thế cạnh tranh độc đáo và lâu dài, và khơng có một lợi thế nào có thể đảm
bảo được nếu thiếu một chiến lược dịch vụ. Mục tiêu của dịch vụ kho hàng
là duy trì mối quan hệ tốt với khách hàng, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của

người sử dụng dịch vụ. Hiện nay, dịch vụ kho hàng là một trong những yếu
tố cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực Logistics.
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, xu hướng mở cửa nền kinh tế,
chúng ta chú trọng xuất khẩu các loại hàng hoá ra nước ngồi thì dịch vụ
hoạt động kho hàng đáp ứng tốt các nhu cầu của hoạt động này. Do đó cả
người sử dụng và doanh nghiệp đều thuận lợi và có hiệu quả kinh tế rõ rệt,
sẽ giúp cho quá trình phân cơng lao động và chun mơn hố trong sản
xuất kinh doanh ngày càng sâu sắc, đem lại hiệu quả kinh tế, nâng cao tiến
bộ xã hội.
Như vậy, hoạt động kinh doanh dịch vụ kho hàng nó tồn tại như một
tất yếu khách quan tại các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực
Logistics, giống như sự tồn tại tất yếu của dự trữ và kho hàng.


1.2. Khái niệm và ý nghĩa của dịch vụ kho hàng
Chúng ta có thể hiểu dịch vụ kho hàng là dịch vụ thực hiện từ khâu thu
gom, chuyển đến kho hàng rồi chuyển vận hàng hoá theo yêu cầu của
người sử dụng dịch vụ.
Việc cung cấp đúng sản phẩm, hàng hoá; đúng địa điểm; đúng thời
gian và trong điều kiện tốt nhất, phương thức thanh toán thuận tiện nhất với
chi phí hợp lý làm thoả mãn nhu cầu khách hàng là những vấn đề quan
trọng dẫn đến sự thành công của dịch vụ kho hàng.
Hình vẽ 1.2. Dịch vụ kho hàng
Đặt hàng tiền và thơng
tin lịch trình
Khách
hàng
Nhà cung
cấp


Vận
chuyển
Điểm sản
xuất

Nhà cung
cấp

Vận
chuyển

T.T phân
phối

Vận
chuyển

Vận
chuyển
T.T phân
phối

Hàng hố và phí dịch
vụ

Vận
chuyển
Khách
hàng


Đối với dịch vụ kho hàng thì bất kể đối tượng nào cũng đều có thể là
khách hàng, tuy nhiên các khách hàng lớn của dịch vụ này thường là: Các
nhà cung ứng nguyên vật liệu; các nhà sản xuất linh kiện; các doanh nghiệp
sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh; các siêu thị; các cửa hàng bán lẻ và người
tiêu dùng cuối cùng.
Hoạt động dịch vụ kho hàng nhằm tiếp tục hoàn thiện, nâng cao giá trị
sử dụng của hàng hoá, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng và hiệu
quả kinh doanh kho hàng. Nó tuy khơng phải là yếu tố quyết định q trình


kinh doanh của một kho hàng. Song tác dụng của hoạt động dịch vụ kho
hàng rất tích cực, hỗ trợ đắc lực, như là một điều kiện để thúc đẩy quá trình
kinh doanh và cạnh tranh.
Hoạt động kinh doanh dịch vụ kho hàng đem lại hiệu quả kinh tế rõ rệt
cho các doanh nghiệp chuyên làm kinh doanh kho vận vì nó có ý nghĩa rất
to lớn như sau:
Thứ nhất, đối với doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kho hàng thì đây
là hoạt động cho phép huy động tối đa năng lực vê cơ sở vật chất kỹ thuật,
về lao động và nguồn lực hiện có tại kho.
Hoạt động dịch vụ kho hàng tạo ra giá trị và giá trị thặng dư, do đó
góp phần nâng cao mức doanh thu cho doanh nghiệp, tạo điều kiện nâng
cao hiệu quả và mở rộng kinh doanh, cải thiện đời sống cán bộ công nhân
viên. Điều này giúp cho hoạt động của doanh nghiệp diễn ra nhịp nhàng và
ổn định, nhân viên yên tâm lao động, đây là yếu tố cần thiết cho bất cứ một
doanh nghiệp nào.
Hoạt động dịch vụ kho hàng để phục vụ cho nhu cầu ngày càng cao và
khắt khe của khách hàng, là hình thức phục vụ thuận tiện, lịch sự, văn
minh. Đây là tiền đề để nâng cao uy tín của doanh nghiệp đối với khách
hàng. Do đó mới có thể tồn tại và phát triển bền vững trên thị trường.
Thứ hai, đối với khách hàng: Các hoạt động dịch vụ kho hàng sẽ làm

giảm bớt những công việc thứ yếu, sự vụ trong mua bán, tập trung mọi
nguồn lực để thực hiện sản xuất kinh doanh, là điều kiện giúp cho doanh
nghiệp tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm.
Giúp các doanh nghiệp sản xuất có thể dự trữ, bảo quản được một
lượng hàng hoá, thành phẩm, bán thành phẩm hoặc nguyên nhiên vật liệu…
mà không cần phải xây dựng hệ thống kho hàng, nhân viên quản lý…Giảm
được chi phí trong khâu nghiệp vụ kho hàng, tập trung cho sản xuất.
Kho hàng còn nhận uỷ thác đại lý hoặc uỷ thác xuất-nhập hàng hoá
trong kho. Hoạt động diễn ra linh hoạt đáp ứng được nhu cầu đang rất cần


thiết của khách hàng. Tạo thuận lợi trong tiêu thụ hàng hoá của doanh
nghiệp.
Qua số lượng hàng hoá tồn, xuất và ghi chép sổ sách ở kho hàng giúp
cho doanh nghiệp sản xuất có thể nắm bắt được nhu cầu, sự biến động về
nhu cầu để điều chỉnh cho hợp lý.
Do hoạt động dịch vụ kho sẽ thông tin cho bên gửi hàng về hàng, tuổi
thọ tuổi đời của các sản phẩm nên các sản phẩm sẽ được đưa ra thị trường
bảo đảm chất lượng và như vậy khách hàng đảm bảo mua được sản phẩm
có chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu của khách hàng và khách hàng là người
được lợi.
Ngồi ra, dịch vụ kho hàng cịn có ý nghĩa lớn đối với nền kinh tế
quốc dân. Dịch vụ bảo quản hàng hoá giúp giảm bớt hao hụt, mất
mát,…làm giảm chi phí, lãng phí xã hội. Hoạt động dịch vụ là hoạt động
văn minh, lịch sự góp phần thúc đẩy xã hội ngày càng phát triển.
2. Nội dung kinh doanh dịch vụ kho hàng
Hoạt động kinh doanh dịch vụ kho hàng tại Công ty được thực hiện
theo nội dung sau:
+ Quá trình liên quan khách hàng: Các cá nhân, đơn vị chức năng của
công ty khi khai thác thị trường phải mô tả dịch vụ, mô tả phạm vi, mức độ

triển khai, mức độ sẵn sàng của việc cung cấp từng loại hình dịch vụ, giải
thích với khách hàng về mối quan hệ tương tác giữa một dịch vụ cụ thể với
các yêu cầu để thực hiện nó cũng như các chi phí liên quan. Giải thích với
khách hàng tác động của bất kỳ vấn đề nào và cách thức để giải quyết nếu
nó xảy ra. Họ cũng phải tạo lập, cung cấp cho khách hàng phương thức
thích hợp để trao đổi thông tin, đảm bảo rằng khách hàng nhận thức được
và khách hàng thực sự tham gia đóng góp có các hướng dẫn bằng văn bản
quy định trách nhiệm, phương thức tiếp nhận, thể hiện các yêu cầu của
khách hàng thành những điều khoản cụ thể trong hợp đồng về dịch vụ và
thực hiện dịch vụ. Các hướng dẫn này đảm bảo mọi yêu cầu của khách


hàng được ghi nhận, cân nhắc về năng lực, hiệu quả, kể cả xem xét việc
huy động nguồn lực của các nhà thầu phụ. Mặt khác vì việc thực hiện các
dạng hình dịch vụ này ln địi hỏi các biện pháp xử lý, điều chỉnh mang
tính tức thời và nhiều khi phải có ý kiến của khách hàng nên giữa khách
hàng và từng cá nhân, bộ phận thực hiện luôn phải có mối liên hệ thơng tin
trực tiếp để trao đổi, hỗ trợ. Mọi thông tin phản hồi, khiếu nại khách hàng
về chất lượng dịch vụ đều được các đơn vị chức năng ghi nhận, xử lý, phản
ánh cho ban giám đốc cơng ty.
+ Q trình thiết kế phương án lựa chọn: q trình chuyển đổi mơ tả
dịch vụ thành quy định kỹ thuật của dịch vụ. Quá trình này nhằm: làm rõ và
chuyển đổi các đặc tính của dịch vụ thành các quy định kỹ thuật (năng lực,
khối lượng cơng việc, thời gian, tính chính xác, an tồn, tiện nghi, thẩm
mỹ, tác phong cung cách thực hiện lịch sử…) để khách hàng xem xét hoặc
hình dung được quy mơ, yêu cầu cụ thể của dịch vụ.
Phương án dịch vụ có ý nghĩa như phần thiết kế khả thi, ở đây thông
tin đầu vào là những yêu cầu cụ thể do khách hàng cung cấp hoặc thơng tin
do chính cơng ty khảo sát vì có liên quan đến loại hình dịch vụ (chẳng hạn
loại hàng, loại công việc, các thông số kỹ thuất như kích thước, trọng

lượng, yêu cầu liên quan đến đặc điểm cầu đường, bến bãi, thời gian, cước
phí...). Thơng tin đầu ra bao gồm giải pháp, u cầu liên quan năng lực
trang thiết bị, nhân lực, thời gian cần thiết để thực hiện và các hạng mục
chi phí riêng biệt hoặc chi phí tổng thể. Phương án dịch vụ nhất thiết phải
được xem xét, kiểm tra tùy tính chất phức tạp và địi hỏi cụ thể, việc xem
xét do nhân viên của ban giám đốc, ban thị trường, ban quản lý thực hiện.
+ Chuẩn bị hợp đồng, làm rõ thêm các quy định kỹ thuật của dịch vụ
và ký hợp đồng.
+ Xây dựng kế hoạch thực hiện dịch vụ ( cịn gọi là quy trình kỹ thuật
của việc thực hiện dịch vụ) là việc xác định phương tiện và phương pháp
được thực hiện để sử dụng các bước dịch vụ, quy định phương tiện, phương


×