ĐỀ TÀI
"XÂY DỰNG BỘ SƯU TẬP VẬT LIỆU
NỘI THẤT"
Giáo viên hướng dẫn :
Sinh viên thực hành :
ĐẶT VẤN ĐỀ
"Nội thất" là một từ có thể nói là khá mới mẻ, mới xuất hiện trong vài
thập niên gần đây. Vậy "nội thất" là gì? "Nội thất" là thuật ngữ chỉ cách bày
bố, trang trí không gian trong một phạm vi nhất định như: nhà ở, văn phòng,
khách sạn, phòng hát Tuy nhiên, các hoạt động trang trí nội thất không phải
chỉ mới xuất hiện mà nghệ thuật này ra đời cùng với sự xuất hiện của nền
văn minh nhân loại.
Khi xã hội càng phát triển thì các hoạt động này càng diễn ra mạnh mẽ và
con người thì càng quan tâm đến cái đẹp, cái thẩm mỹ. Trong đó, vẻ đẹp của
không gian sống là yếu tố mà con người chú trọng nhất. Một không gian
đẹp, hài hoà sẽ tạo nên sự thoải mái, thư giãn, kích thích các giác quan của
con người, góp phần làm cho cuộc sống của con người tươi đẹp hơn
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của những lĩnh vực về nội thất thì vật
liệu nội thất ngày càng đa dạng và phong phú. Nhiều loại vật liệu mới ra đời
kết hợp vói những loại vật liệu truyền thống tạo nên hệ thống cá loại vật liệu
phục vụ cho nghành nội thất.
Hiện nay, ngành nội thất trong và ngoài nước đang trên đà phát triển
nhưng thực tế cho thấy những tài liệu về vật liệu nội thất nhìn chung còn hạn
chế và mang tính chất đơn lẻ chưa đáp ứng được nhu cầu của người đọc.
Do đó, đứng trước nhu cầu tìm hiểu về vật liệu nội thất của con người,
việc nghiên cứu, phân loại các loại vật liệu nội thất là rất cần thiết.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu, sưu tầm, phân loại các loại vật liệu được
sử dụng chủ yếu trong trang trí nội thất là tiền đề giúp ta đưa ra những sự
lựa chọn phù hợp với từng không gian cụ thể.
Với mong muốn góp phần làm phong phú thêm nguồn tài liệu để phục vụ
cho nghành trang trí nội thất trong nước, chúng tôi chọn đề tài:
"Xây dựng bộ sưu tập vật liệu nội thất"
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN
1.1Lược sử quá trình nghiên cứu
Từ thời nguyên thủy con người đã biết dùng hang động làm chỗ che mưa
che nắng, giữ ấm trong mùa đông và chống thú dữ, tiến xa hơn một bước họ
đã biết dùng các thân cây và các toại sợi thiên nhiên để dựng nhà và che
thân. Đến thời đại của chúng ta - con người hiện đại - đã biết tìm và sáng
tạo ra các loại vật liệu mới để phục vụ cho những công trình kiến trúc của
mình.
Trong lịch sử phát triển, loài người đã phát minh ra không ít vật liệu và
cũng đã có những phát minh có thể nói là bước đột phá trong khoa học công
nghệ, đóng vai trò làm nền tảng, cơ sở hình thành nên nghành khoa hoc vật
liệu nói chung, vật liệu nội thất nói riêng. Dưới đây là một số phát kiến vĩ
đại nhất trong lịch sử nghành vật liệu xây dựng và nội thất:
Năm 3500 trước công nguyên người Ai cập đã nung luyện được sắt (dưới
dạng sản phẩm phụ của việc tinh chế đồng) và sử dụng để làm đồ trang sức
và cho mục đích trang trí vào các dịp trọng đại Khám phá ra bí mật đầu tiên
của nền văn minh đồ sắt.
Năm 2200 trước công nguyên, người dân ở vùng tây bắc Iran đã chế tạo ra
thuỷ tinh. . Nó trở thành vật liệu xây dựng phi kim loại vĩ đại thứ hai trong
lịch sử (sau gốm).
Năm 1755, John Smeaton chế tạo ra bêtông hiện đại (ximăng cứng
trong nước). Bêtông trở thành vật liệu xây dựng chủ yếu của nền văn minh
hiện đại, vật liệu làm thay đổi những phương pháp xây dựng xuất hiện từ
giữa thế kỷ 18.
Trong những năm gần đây nghành vật liệu đã đạt được những thành tựu to
lớn như:
-Phát minh ra vật liệu ứng dụng công nghệ nano có vai trò quan trọng
trong nhiều lĩnh vực đời sống như: may mặc, chế tạo các linh kiện điện tử,
làm vỏ các thiết bị công nghệ cao, trong đó không thể không nhắc đến
thành tựu trong nghành xây dựng đó là tạo ra sơn chống thấm, không bám
bẩn, dễ lau chùi.
-Tìm ra vật liệu siêu nhẹ ETFE - bước ngoặt của kiến trúc thế giới.
-Ngoài ra còn rất nhiều vật liệu nhân tạo như: gỗ, đá, nhựa, sợi tổng hợp
1.2Tình hình sử dụng vật liệu nội thất hiện nay:
1.2.1.Yêu cầu cấp thiết trang trí nội thất với không gian kiến trúc.
Nhu cầu về trang trí nội thất ngày càng cao và cấp thiết trong kiến trúc đáp
ứng nhu cầu vật chất và văn hóa tinh thần của con người đương đại trước sự
phát triển của cuộc sống.
Trước đây, điều kiện kinh tế, nhu cầu thụ hưởng và mức sống còn hạn chế,
trừ một số ít người có điều kiện về kinh tế và tiếp xúc nhiều bên ngoài, đại đa
số người dân tích cóp tài chính suốt thời gian dài làm việc, mong mỏi xây dựng
được căn nhà làm nơi ăn chốn ở, do vậy việc xây dựng hoàn tất thường chỉ
dừng lại ở mức xây dựng cơ bản với các vật liệu phủ, ốp lát đơn thuần. Rất
nhiều công trình người dân tự mò mẫm sao chép, cóp nhặt về hình thức mà
không cần sự tham gia của các kiến trúc sư, nhà thiết kế, dẫn đến sự hỗn loạn
về hình thức kiến trúc, không gian ở bên trong không được phân chia chức
năng sử dụng hợp lý cũng như những đầu tư cần thiết về trang thiết bị nội thất.
Các công trình công cộng cũng trong trình trạng tương tự, chỉ những công trình
có nguồn vốn đầu tư liên doanh với nước ngoài thì được thiết kế xây dựng hoàn
thiện bởi những công nghệ và vật liệu hiện đại, còn lại phần lớn công trình chỉ
hoàn thiện phần xây dựng cơ bản sau đó lắp ghép các thiết bị đồ đạc cho mục
đích sử dụng thực tế. Một thời gian dài quanh quẩn với với phương thức xây
dựng lạc hậu, việc tiếp cận và ứng dụng trang trí nội thất công trình kém phát
triển rất nhiều so với với các nước trong khu vực.
Hiện nay, kinh tế phát triển trình độ nhận thức và nhu cầu cải thiện điều
kiện sống ngày một bức thiết. Trong kiến trúc xây dựng, những quy chuẩn nhà
nước buộc các công trình phải có thiết kế từ các kiến trúc sư và các đơn vị có
chức năng. Hội nhập kinh tế giúp tiếp nhận nhiều tiến bộ khoa học, công nghệ
xây dựng mới cũng như đón nhận nguồn vật liệu xây dựng từ nước ngoài vào
làm nóng thị trường vật liệu xây dựng rất phong phú về chủng loại, đa dạng về
mẫu mã đáp ứng tối đa nhu cầu của các nhà thiết kế và chủ đầu tư. Các lý do
trên đã thúc đẩy làm thay đổi quan điểm để xây dựng công trình kiến trúc phải
đạt tiêu chuẩn tiện nghi tối đa, đáp ứng mọi nhu cầu về công năng thẩm mỹ và
công năng tinh thần của người sử dụng. Đầu tư chi phí cho phần trang trí nội
thất dần chiếm phần quan trọng trong xây dựng cơ bản. Trong tương lai, việc
thiết kế trang trí nội ngoại thất công trình là bắt buộc, như vậy nhu cầu trang trí
nội thất là rất lớn và cấp thiết, liệu ngành thiết kế trang trí nội thất có thể lớn
mạnh, phát triển và đáp ứng kịp thời nhu cầu này của xã hội?
Xu thế hội nhập toàn cầu và việc nước ta vừa ra nhập Tổ chức thương mại
quốc tế (WTO), mở ra nhiều vận hội và thách thức mới. Trong quá trình hội
nhập, chúng ta sẽ tiếp nhận nhiều công nghệ xây dựng và sản xuật vật liệu tân
tiến hiện đại, nguồn vật liệu phong phú với giá thành cạnh tranh, do vậy người
tiêu dùng càng có nhiều cơ hội tiếp cận sử dụng để nâng cao chất lượng không
gian sống của mình, càng khẳng định tính cấp thiết, vai trò và nhu cầu to lớn
của trang trí nội thất trong lĩnh vực kiến trúc, xây dựng để chúng ta không bị tụt
hậu mà có thể lớn mạnh, tạo dựng được phong cách, khẳng định vị thế nước ta
trên trường quốc tế, người dân được hưởng môi trường, điều kiện sống tiện
nghi hiện đại, phù hợp với sự phát triển chung của xã hội.
1.2.2. Nhu cầu về trang trí nội thất
Ngày nay, cuộc sống vật chất và tinh thần trên mặt bằng chung xã hội ngày
một tiến bộ, không chỉ đáp ứng những nhu cầu cơ bản, con người còn muốn
được hưởng thụ chất lượng nhiều và cao hơn từ cuộc sống, nghệ thuật và mỹ
thuật trở nên không thể thiếu bên cạnh các nhu cầu vật chất và tinh thần của
con người như ăn, ở, mặc, đi lại, văn hóa, giải trí, sức khỏe, học tập, phát
triển do vậy, tất yếu vai trò của nghệ thuật và mỹ thuật ngày một quan trọng,
có nhu cầu rất lớn trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, nhất là trong kiến tạo môi
trường sống cho con người. Mặt khác, khi môi trường sống xuất hiện nhiều
bóng dáng của mỹ thuật thì đồng thời cũng có tác dụng giáo dục làm tăng thị
hiếu và khả năng cảm thụ nghệ thuật, thẩm mỹ của đông đảo quần chúng, đẩy
mức sống tinh thần con người ngày một cao hơn, đó cũng làm mục tiêu phát
triển của mọi chế độ xã hội.
Công nghệ tin học phát triển, con người với nền khoa học kỹ thuật biến đổi
nhanh chóng, vật liệu và chất liệu phong phú đa dạng sẽ là mảnh đất màu mỡ
cho nghệ thuật phát triển. Nghệ thuật – mỹ thuật ngày càng đóng vai trò quan
trọng trong nhu cầu cuộc sống của con người. Ngày càng có nhiều hình thức
mới được con người sáng tạo để đáp ứng những nhu cầu ấy. Các vật liệu phong
phú, đa dạng sẽ là những chất liệu để con người khai thác, tạo ra những sản
phẩm, những không gian sống tươi đẹp.
Mỹ thuật cổ truyền dân tộc đã để lại cho chúng ta những hợp thể kiến trúc,
nghệ thuật trang trí và tạo hình. Kiến trúc mà không có mỹ thuật cũng như mỹ
thuật không có cuộc sống thì không thể tồn tại, vươn lên và phát triển. Cái đẹp
của nghệ thuật tạo hình và mỹ thuật trang trí thông qua kiến trúc – trang trí nội
thất, nghệ thuật điêu khắc, hội họa và trang trí phát huy tiếng nói của mình, hòa
hợp trong hợp thể chung, qua đó thể hiện những giá trị nội dung và nghệ thuật
với tư tưởng nhân văn thời đại, được khai thác và kế thừa trong tương lai. Mỹ
thuật truyền thống, nghệ thuật tạo hình, trang trí tham gia rất chặt chẽ vào quá
trình kiến tạo môi trường, không gian sống của con người, nghệ thuật điêu
khắc, tượng đài, chạm khắc, phù điêu, tranh trang trí, tranh ghép, tranh
khắc với các thủ pháp ước lệ, tượng trưng, cách điệu luôn đắc dụng và hiệu
quả trong kiến trúc và trang trí nội ngoại thất. Nội thất thường được dùng điêu
khắc (tượng tròn), trang trí (tranh vẽ) với các đề tài cung đình, tôn giáo hay đời
thường, ngoại thất với tượng tròn, phù điêu đắp phía ngoài qua đó, cho thấy
kiến trúc – tạo hình – trang trí gắn bó mật thiết với nhau để biểu đạt phong cách
và vẻ đẹp của mình.
Như vậy, nghệ thuật và mỹ thuật đóng vai trò quan trọng trong công trình
kiến trúc và trang trí nội thất, xu hướng này ngày càng phát triển mạnh me
nhằm đáp ứng nhu cầu cuộc sống. Các nhà thiết kế và hoạt động mỹ thuật phải
không ngừng tìm tòi, kế thừa từ mỹ thuật truyền thống để đưa ra những thiết kế
thiết thực nhất nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của cuộc sống.
1.2.3. Hiện trạng trang trí nội thất Việt Nam
Từ 1986 đến nay, với những chủ trương chính sách đổi mới về mọi mặt
kinh tế, xã hội, chính trị của Đảng và nhà nước đã đem lại những bước phát
triển lớn về kinh tế xã hội. Đời sống xã hội ngày càng được nâng cao, nhu cầu
sinh hoạt tiêu dùng của người dân ngày một cao, ăn ngon, mặc đẹp, không chỉ
có chỗ để ở mà phải tiện nghi, hiện đại. Người ta không chỉ xây dựng nhà với
hình thức kiến trúc đẹp mà đã giành những phần kinh phí lớn hơn chi phí xây
dựng cơ bản để trang trí nội thất bên trong, tạo những không gian ở bên trong
thật tiện nghi phục vụ cho chính cuộc sống của bản thân và gia đình ở mức cao
nhất mà kinh tế cho phép. Từ lẽ đó mà những năm gần đây, nhu cầu của trang
trí nội thất ngày càng nhiều và không thể thiếu trong qui trình xây dựng nhà ở
cũng như những công trình công cộng khác. Tạo cho người Việt Nam có cách
nhìn mới và nhu cầu trang trí nội thất song hành với việc xây dựng nhà. Những
tiến bộ vượt bậc, nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin làm
cho việc thiết kế, tham khảo, tư liệu về hình thức ngôn ngữ trang trí ngày một
đơn giản, thuận lợi, sự phong phú, đa dạng của các vật liệu trang trí với những
tiến bộ về tay nghề và kỹ thuật trong thi công công trình đã mang lại cho chủ
đầu tư công trình rất nhiều sự lực chọn để có được một không gian ở tiện nghi ,
đạt trình độ thẩm mỹ nhất định phù hợp về tài chính. Cũng nhờ vậy trình độ
hưởng thụ và thẩm mỹ của người dân được nâng cao, góp phần thúc đẩy hoạt
động ngành trang trí nội thất ngày một lớn mạnh để đáp ứng nhu cầu của xã hội
hiện đại.
Về chuyên ngành, từ trước đến nay trang trí nội thất vẫn ít được nhắc đến
trong kiến trúc, chỉ được xem như là một thành tố của kiến trúc mặc dù các
kiến trúc sư không phải ai cũng có thể đi sâu, hiểu tường tận và thiết kế được
những không gian sống cụ thể, đáp ứng được công năng, thẩm mỹ của từng đối
tượng sẽ sống và thụ hưởng không gian ở bên trong công trình kiến trúc ấy hơn
các họa sĩ làm trang trí nội thất vốn còn non trẻ chưa đủ khẳng định vị trí của
mình. Đó còn là những thách thức lớn và hạn chế mà đến nay, trang trí nội thất
vẫn chưa có chỗ đứng đúng tầm của mình.
Trang trí nội thất thường tạo lập không gian bên trong cách phù hợp với
kiến trúc bên ngoài công trình. Phân loại dưới đây được nhận định trên cơ sở
của hình thức và phong cách kiến trúc đang phổ biến ở một số thể loại công
trình nhà tiêu biểu như biệt thự, nhà phố, nhà ở cao tầng:
- Nệ cổ, giả cổ
- Kế thừa và chọn lọc những đặc tính truyền thống.
- Kế thừa và phát triển trên cơ sở hiện đại và truyền thống .
- Phong cách hiện đại
- Hình thức khác - tự do tự phát
Xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập trên cơ sở phát huy bản sắc của mỗi
dân tộc, quốc gia, các công trình kiến trúc và trang trí nội thất ở Việt Nam có
xu hướng quay trở về với truyền thống dân tộc, từ hình thức trang trí, sắp đặt
không gian, đồ đạc, chất liệu ánh sáng và màu sắc, hòa nhập vào thiên nhiên
Tuy nhiên chưa đủ để tạo nên phong cách đặc trưng cho một không gian ở Việt
hiện đại. Đấy là nhiệm vụ, gánh nặng mà những lớp họa sĩ thiết kế trang trí nội
ngoại thất kế cận phải gánh vác trong tương lai.
1.2.4. Xu hướng phát triển của trang trí nội thất.
Trang trí nội thất sẽ ngày một phát triển mạnh theo nhịp độ phát triển của
kiến trúc, dựa theo tiêu chí của các yếu tố: kết cấu, công năng, thẩm mỹ theo
quan niệm nhận thức (thẩm mỹ), điều kiện kinh tế Tầm quan trọng của trang
trí nội thất đối với công trình cũng như mức độ đầu tư về trang trí và thiết bị
nội thất đang chiếm tỉ lệ ngày một lớn.
Hình thức biểu hiện trong trang trí vẫn dựa trên một số hình thức đã hình
thành từ trước đến nay đó là nệ cổ, giả cổ hoặc ngoại lai hoặc kế thừa và chọn
lọc những đặc tính truyền thống, kế thừa và phát triển trên cơ sở hiện đại và
dân tộc.
Xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập thế giới trên cơ sở phát huy bản sắc của
mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Các công trình kiến trúc và trang trí nội thất ở Việt
Nam có xu hướng quay trở về với truyền thống dân tộc, từ hình thức trang trí,
bố trí không gian, đồ đạc, chất liệu và màu sắc, hòa nhập vào thiên nhiên cách
nhìn về truyền thống dân tộc của người thiết kế và người sử dụng cũng sẽ có
chiều sâu hơn, không đơn thuần chỉ là những mô típ hay chi tiết bề ngoài. Quá
trình giao lưu kiến trúc và nghệ thuật với các nước, thường bắt đầu là sự phản
ứng, xung đột trước các hình thức mới lạ, sau đó là quá trình đối thoại, tìm
hiểu, để rồi tiếp nhận và thử nghiệm, kế tiếp là sáng tạo và phát triển. Chỉ đến
khi có sự hoán cải, tiếp biến cả nội dung lẫn hình thức giữa truyền thống và tiếp
thu những cái mới thì mới thể hiện được tinh thần dân tộc, nâng nó lên tầng cao
mới và có thể hòa nhập được với thế giới. Việc phát triển ngành thiết kế và tư
vấn thiết kế sẽ giúp nhà thiết kế và người sử dụng phối hợp tạo dựng những
không gian nội thất hoàn thiện.
Kế thừa và phát triển trên cơ sở vừa hiện đại vừa dân tộc cũng là một xu
hướng lớn để phù hợp với hoàn cảnh và cuộc sống hiện đại. Bản sắc dân tộc
luôn có nhu cầu tiếp nhận và vận động để phát triển. Những tiến bộ của khoa
học kỹ thuật và công nghệ trong lĩnh vực vật liệu và thi công công trình sẽ tác
động nhiều vào quá trình này. Tuy nhiên, sẽ có những mặt hạn chế vì sẽ ít dần
những tác phẩm nghệ thuật – mỹ thuật thể hiện bằng phương pháp thủ công
truyền thống. Sử dụng các tác phẩm mỹ thuật một cách lạm dụng thiếu cân
nhắc sàng lọc, chiều theo những yêu cầu thị hiếu hạn chế của chủ công trình đôi
khi làm không gian bị loãng hoặc quá ôm đồm dẫn đến sự rối rắm trong nội
thất đang khá phổ biến trong thời buổi cơ thế thị trường.
Kéo theo sự phát triển của ngành thiết kế trang trí nội thất, việc đào tạo
trang trí nội ngoại thất đang phát triển rất nhanh, để đáp ứng nhu cầu thiết kế và
tư vấn trang trí nội ngoại thất công trình của xã hội, hiện đang thu hút rất đông
sinh viên tham gia đăng ký vào ngành học tiềm năng này trong các trường đại
học có mở khoa mỹ thuật công nghiệp - ngành đào tạo thiết kế nội thất, nhất là
trên điạ bàn thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, nếu không đầu tư xây dựng
chương trình giảng dạy tiên tiến, đội ngũ giáo viên chuẩn mực có đầy đủ kiến
thức và bản lĩnh nghề nghiệp, đồng thời định hướng chiến lược phát triển lâu
dài thì không thể đào tạo được những nhà thiết kế giỏi, đủ sức hình thành
những phong cách thể hiện bản sắc kiến trúc dân tộc Việt Nam, cũng như đáp
ứng kịp thời nhu cầu ngày càng cao của xã hội, thúc đẩy sự lớn mạnh, phát
triển của ngành thiết kế trang trí nội ngoại thất Việt Nam.
1.3Mục tiêu, nội dung, phạm vi và phương pháp nghiên cứu đề tài
1.3.1Mục tiêu nghiên cứu
- Có được bộ sưu tập những vật liệu nội thất phổ biến để mọi người sử
dụng nghiên cứu, tìm hiểu về các loại vật liệu từ đó đưa ra những sự lựa
chọn phù hợp với điều kiện thực tế nhằm tạo nên không gian nội thất đẹp,
hài hoà mà vẫn bộc lộ được sở thích, tính cách của chủ nhà đối với nhà ở
hay vẫn đảm bảo tính năng động nơi công sở.v.v
- Tạo được một webside về vật liệu nội thất dựa trên kết quả nghiên cứu
của đề tài, giúp mọi người tra cứu một cách dễ dàng ở mọi lúc, mọi nơi.
1.3.2Nội dung nghiên cứu
- Phân loại vật liệu nội thất theo tên gọi.
- Khảo nghiệm, tham khảo ý kiến chuyên gia và thu thập số liệu về tình
hình tiêu thụ các loại vật liệu nội thất.
1.3.3Phạm vi nghiên cứu
- Phân loại các loại vật liệu phổ biến nhất, được sử dụng rộng rãi trên thế
giới hiện nay.
- Chỉ khảo nghiệm khu vực Hà Nội, chọn một số gian hàng trưng bày tiêu
biểu để thu thập số liệu về tình hình tiêu thụ các loại vật liệu nội thất đầu
năm 2009 tại khu vực hà nội.
1.3.4Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lý thuyết: Được sử dụng trong cả khoa học tự nhiên,
khoa học xã hội và các khoa học khác, bao gồm nhiều nội dung khác nhau
như: nghiên cứu tư liệu, xây dựng khái niệm, phạm trù, thực hiện các phán
đoán, suy luận,.v.v… và không có bất cứ quan sát hoặc thực nghiệm nào được
tiến hành.
- Phương pháp phi thực nghiệm: Là một phương pháp nghiên cứu dựa
trên sự quan sát, quan trắc những sự kiện đã hoặc đang tồn tại, hoặc thu thập
những số liệu thống kê đã tích lũy. trên cơ sở đó phát hiện qui luật của sự vật
hoặc hiện tượng. Trong phương pháp này người nghiên cứu chỉ quan sát
những gì đã và đang tồn tại, không có bất cứ sự can thiệp nào gây biến đổi
trạng thái của đối tượng nghiên cứu.
CHƯƠNGII
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1Khái niệm vật liệu nội thất
Hiện nay, có rất nhiều cách định nghĩa về vật liệu nội thất nhưng chúng
tôi có thể đưa ra một cách định nghĩa dễ hiểu và ngắn gọn như sau:
Vật liệu nội thất:là tổng thể các loại vật liệu được sử dụng để tạo nên
không gian nội thất.
Những vật liệu thường sử dụng trong suốt thế kỷ XX chủ yếu là gỗ, gạch,
kính, bêtông, sắt ,thép và ngày nay có những vật liệu đã dần được thay thế
bằng những vật liệu có độ bền cao hơn và mang lại hiệu quả về mặt thẩm mỹ
cũng như về mặt kinh tế, ít phải bảo trì trong khi giá trị vẫn cao .Những sản
phẩm vật liệu xây dựng và trang trí ngày càng có nhiều cải tiến vế chất
lượng và giá thành , tạo ra sự phấn khích và thẩm mỹ cho người sử dụng.
2.2Tầm quan trọng của vật liệu nội thất
Trước tiên ta phải khẳng định rằng không một công trình nào trên thế giới
được xây dựng mà không dùng bất cứ thứ vật liệu nào hiện nay, không một
không gian nội thất nào đẹp mà không dùng bất cứ vật liệu nội thất nào.
Thứ hai, sự lựa chọn và phối hợp các loại vật liệu với nhau thể hiện con
mắt thẩm mỹ của nhà thiết kế và đặc biệt là nó còn bộc lộ cái tôi của chủ
nhà.
Thứ ba, vật liệu còn có tác động mạnh mẽ tới cảm xúc của con người, sự
kết hợp hài hoà giữa các yếu tố như vật liệu, màu sắc, cách bày trí với không
gian kiến trúc tạo cảm giác thư giãn, sảng khoái cho con người thoát khỏi
những bộn bề của cuộc sống.
Như vậy, để có được một không gian theo đúng các quy chuẩn thiết kế,
thoả mãn được nhu cầu thẩm mỹ của người sử dụng trong xu thế hiện nay,
chúng ta không thể không nói đến vật liệu nội thất - một phần vô cùng quan
trọng trong thiết kế nội thất. Nó tạo nên vẻ lộng lẫy, hoành tráng và quyến rũ
cho công trình - làm tăng cảm xúc của con người khi được sử dụng đúng
cách.
2.3Những yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn vật liệu nội thất
- Truyền thống là những yếu tố được chọn lọc và cấu thành theo thời gian,
sự thay đổi diễn ra theo động lực và sự chon lựa của con người, bảo tồn tính
truyền thống và thay thế dần những nhược điểm của vật liệu truyền thống
cho thích hợp với điều kiện sống hiện nay.
- Công năng là tính năng và công dụng của từng loại vật liệu. Mỗi loại lại
có những tính chất và tác dụng khác nhau, tuỳ vào yêu cầu kỹ thuật và mục
đích biểu đạt khác nhau mà người ta lựa chọn các loại vật liệu khác nhau.
- Thị yếu là xu hướng của thị trường, sự ưa chuộng của đông đảo khách
hàng đối với một hay một số loại vật liệu nào đó. Xu hướng đó không tồn tại
mãi mãi mà chỉ xuất hiện trong một khoảng thời gian nhất định.
- Giá thành sản phẩm là yếu tố đầu tiên được chú ý đến khi lựa chọn vật
liệu. Ai cũng muốn tìm được loại vậ liệu vừa đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật
vừa mang lại hiệu quả về mặt kinh tế cũng như về mặt thẩm mỹ.
Do đó con người ngày càng đòi hỏi hơn nữa một sản phẩm đưa vào xây
dựng trang trí cho ngôi nhà bền hơn, ít phải bảo trì trong khi vẫn đảm bảo
được công năng và giá trị thẩm mỹ.
CHƯƠNG III
PHÂN LOẠI
Hiện nay, với sự phát triển của công nghệ và khoa học lỹ thuật hiện đại đã
tạo ra một thị trường vật liệu phong phú đầy tiềm năng, nhưng cũng không
khó để lựa chọn nếu như ta biết rõ về tính chất và công năng đa dạng của
nhiều loại vật liệu khác nhau.
Để nắm rõ về tính năng của các loại vật liệu ta cần phải phân loại chúng.
Có rất nhiều tiêu chí phân loại các loại vật liệu như: phân loại theo mục đích
sử dụng, theo giá thành Tuy nhiên ở đây chúng tôi chỉ đưa ra phương pháp
phân loại các loại vật liệu theo tên gọi của chúng.
Phân loại theo tên gọi
Vật liệu dùng trong trang trí nội thất thuộc nhiều chủng loại và nhiều
nhóm khác nhau, dưới đy là các nhóm tiêu biểu:
3.1 Chế phẩm hợp kim nhôm và các kim loại khác
- Nhôm nguyên tố chiếm đến 8,13% vỏ trái đất.Nhôm tồn tại trong tự
nhiên là hợp chất,ví như nhôm nguyên chất do luyện các khoáng nhôm sau
đó điện giải mà thành.
3.1.1 Hợp kim nhôm hình:
Nhôm hình là đem phôi nhôm gia nhiệt đến 400 đến 450 độ C đưa vào
máy cán chuyên dụng,lien tục cán thành nhôm hình.Nhôm hình được cán ra
để nguội ở nhiệt độ phòng lại qua máy ép thủy lực để sửa sang hiệu
chỉnh,cắt 2 đầu,qua lò xử lý loại bỏ nội ứng lực,làm cho ổn định nội bộ,sau
khi kiểm tra lại tiến hành xử lý õy hóa và nhuộm màu,cuối cùng hình thành
sản phẩm.
Nhôm hình thường dùng trong công trình có nhôm cửa(thuộc về cửa
kéo đẩy;cửa mở ngang),cửa lớn(nhôm hình cửa lò xo,nhôm hình cửa kéo
đẩy,nhôm hình cửa không khung) nhôm hình bàn quay,tường che(nhôm hình
dấu khung hoặc lỗ khung),nhôm hình thông dụng(ống vuông,góc,chữ C),tấm
cửa cuộn.
Ngoài ra hợp kim nhôm còn dùng làm cửa sổ,cửa cuốn,tấm tường,tấm
treo trần và khung xương hợp kim nhôm.
3.2 Sắt thép
-Thép là hợp kim của than và sắt.Hợp kim than sắt thép gang có hàm
lượng than trên 2%.Thép có hàm lượng than dưới 2%.
3.2.1 Thép lá phủ màu
Thép lá phủ màu còn được gọi là thép màu,nó thường lấy thép cán
nguội hoặc thép lá mạ kẽm làm nền,thông qua công nghệ xử lý hóa học bề
mặt liên tục và phủ sơn làm cho bề mặt tấm thép nền được phủ 1 lớp hay
nhiều lớp chất phủ mà làm thành.Chất phủ của thép màu có loại là chất vô
cơ,có loại là hữu cơ,song chất hữu cơ được sử dụng nhiều hơn.
Thép lá màu,căn cứ vào hình dạng bề mặt phân ra tấm phẳng và tấm
ép.
3.2.2 Tấm men sứ
Tấm men sứ là lấy thép tấm hoặc gang làm nền,trên bề mặt được phủ
một lớp chất vô cơ,sau khi qua nung có thể bám một cách vững chắc lên mặt
nên trở thành vật liệu trang sức.Vật chất hình thành trên mặt nền gọi là men
sứ.
Tấm men sứ có được độ cứng của kim loại và tính ổn định hóa học của
lớp men và có tính trang sức.Bề mặt của kim loại sau khi được phủ lớp men
thì không rỉ nữa,chịu axit,chịu kiềm,chịu lửa,cách điện,mà khi chịu nhiệt vẫn
không bị oxy hóa.Bề mặt có thể được dán hoa,in lưới hoa và phun hoa…
3.2.3 Thép không rỉ
Thép không rỉ là chỉ trong thép có thành phần Cr hoặc Mn,Ti,Ni là thép
hợp kim.Ngoài tính chất của thép phổ thông mà nó có ra còn có tính chống
ăn mòn rất cao.Bởi vì trong thép không rỉ,Cr có thể hóa hợp ngay với oxy
trong môi trường tạo nên một lớp màng oxy hóa mịn bám chắc vào bề mặt
thép,làm cho thép hợp kim không tái bị tác dụng ăn mòn của oxy nữa,từ đó
mà đạt được mục đích bảo vệ.
Thép không rỉ được chế tạo thành thép lá,thép hình và ống.Độ dài của
nó từ 1000->3000mm,rộng 500->1200mm,dày 0,35->2,0mm.Thép không rỉ
lá đựợc trang sức mặt tường trụ của vũ trường,lối vào khách sạn,siêu thị,cửa
cầu thang điện,ống thép không rỉ dùng để làm tay vịn,lan can,cửa chống
trộm.Thép không rỉ còn được dùng để làm bàn quầy và các loại viền
cạnh.Ngoài những ứng dụng trên nó còn được dùng để làm bảng hiệu,tấm
trần,cửa tự động,cửa kính không khung và cửa thép không rỉ.
3.2.4 Khung Xương Thép Nhẹ
Khung xương thép nhẹ là dùng thép tấm,thép mạ kẽm hoặc thép phủ
màu làm nguyên liệu để dập nguội làm thành thép hình chiều dày
mỏng.Thép khung xương nhẹ căn cứ vào công dụng phân thành khung
xương ngăn và khung xương treo;
Loại khung này có cường độ lớn,tính thông dụng cao,láp ráp thuận
tiện,chống cháy,có thể phối hợp sử dụng với các vật liệu sau: Tấm ép xi
măng,tấm bông khoáng,tấm giấy thạch cao,tấm thạch cao,gỗ dán.Có thể
thích hợp dùng cho trang sức tấm treo và tấm ngăn.
3.3 Vật liệu dán mặt
3.3.1 Giấy,vải dán tường
Loại giấy này lắp giấy làm nền,dùng keo dán dán lên các lọai sợi màu
sắc khác nhau được tấm trang sức nội thất cao cấp.Bề mặt của nó có cảm
giác phong phú,màu sắc đa dạng,mềm mại đem lại cho chúng ta cảm giác
ấm cúng,có thể điều chỉnh độ ẩm của hoàn cảnh,nhưng tính chịu ố bẩn
kém,bề mặt sau khi bẩn rửa sạch không dễ.Loại giấy dán tường này thường
là các sợi dọc mà không có sợi ngang.
Chủng loại của giấy dán tường chủ yếu có giấy dán mặt sợi,giấy dán
mặt vải,giấy dán mặt tơ và giấy dán mặt sợi tổng hợp,thường được dùng cho
khách sạn,phòng tiếp khách,phòng máy,phòng ngủ.Độ rộng của sản phẩm từ
500->1000mm,độ dài của nó có thể theo yêu cầu của khách hàng.
3.3.2 Vải dán tường không dệt
Vải dán tường không dệt này được lấy các sợi tự nhiên hay sợi tổng
hợp qua thành hình không dệt,bề mặt được xoa quét keo và in hoa văn được
làm nên tấm trang sức tường nội thất.Chủng loại của loại vải dán tường này
được căn cứ vào vải nền sau khi hình thành bởi các vật liệu khác
nhau,thường có bông vải,đay,sợi tổng hợp.Đồ án của loại vải này phong phú
trang nhã,bề mặt nổi rõ,có độ đàn tính cao,không bị gấp nếp,màu sợi bóng
sạch có cảm giác tay như nhung,không dễ bay màu,có độ thấu khí nhất
định,có thể giặt sạch,thi công thuận tiện.
3.3.3 Giấy dán tường mặt cỏ
Loại vật liệu này lấy giấy làm nền,mặt của nó được dán bởi “chiếu cỏ”
qua gia công phức hợp mà thành.
Chiếu cỏ có thể được nhuộm màu sắc khác nhau,mật độ khác
nhau,phương thức đan,sắp xếp khác nhau,vì vậy mà nó có được các đồ án
màu khác nhau phong phú.Nó có cảm giác rất tự nhiên giản dị,chống
cháy,hút ẩm,không biến dạng,nhưng rất dễ bị phá hoại cơ giới,không thể giặt
rửa,yêu cầu bảo dưỡng rất cao.
Loại sản phẩm này được trang sức cho phòng hội nghị,phòng tiếp
đón,nhà hát,quán bar vũ trường,siêu thị.Độ rộng là 500->1000,độ dài theo
yêu cầu.
3.3.4 Dán tường kim loại
Đây là vật liệu tấm mỏng kim loại dán trên giấy nền để dán
tường.Lớp kim loại mặt của loại sản phẩm này thường là nhôm mỏng.Bề
mặt của tấm nhôm này được dùng kỹ thuật cán hoa văn đặc biệt gia
công.Cũng có thể được in dấu theo hoa văn thiết kế mà làm thành tấm dán
tường kim loại.Bề mặt của sản phẩm này có văn hoa sáng bóng,phần không
có hoa văn cũng sáng ánh kim tạo nên sự tương phản mà gây nên hiệu quả
mạnh.
Bề mặt có cảm giác kim loại rõ nét,tuổi thọ bền lâu,chịu rửa làm
sạch,chịu ố bẩn tốt.Chiều rộng sản phẩm thường là 800mm,dài
10mm.Thường được sử dụng trang sức tại vũ truờng,siêu thị,quán bar,nhà ăn
và tường hoặc trần.
3.3.5 Giấy dán trực tiếp
Loại dán tường này được làm từ các màng mỏng chất dẻo hay
giấy,mặt sau được phủ một lớp keo không khô.Khi gián chỉ cần bóc đi lớp
giấy bảo vệ là được,dùng tay nhẹ nhàng vuốt lên tấm dán và xoa phẳng.
Loại tấm này có độ sáng đều đặn,màu sắc tươi,bền màu.Chủng loại
sản phẩm được phân theo độ sáng gồm có,giấy bóng gương,mờ và tối
màu.Nó có thể được dùng để làm các chữ mỹ thuật,đồ án hoặc trang sức bề
mặt.
3.3.6 Những loại khác
Trong các loại vật liệu dán tường thì vật liệu da hay da nhân
tạo,rất mềm mại,hút ẩm,bảo ôn,nó thích ứng cho những nơi có yêu cầu cao
về âm thanh và chống va chạm.Loại sản phẩm này có đủ các loại màu sắc,đồ
án,có thể được dùng để trang sức tường nhà ăn quán bar và phòng khách.
Tấm xốp cách ẩm là vật liệu dán tường,trần,đồ mộc cao cấp.Nó là
vật liệu được làm từ bột thạch anh chân châu với PVC,qua quá trình công
nghệ nhất định.Màu sắc và đồ án có rất nhiều,chịu mài,chịu khí hậu,chịu ăn
mòn,có tác dụng chống cháy nhất định,dễ rửa sạch bề mặt.
Ngoài ra còn có các loại vải,các loại này có thể dùng để trang sức
tường,trần có thể làm rèm cửa sổ,khăn trải bàn,phủ ghế và giường.Hoa văn
đồ án của vật liệu vải rất phong phú,màu sắc hoa lệ,giảm dị,tính lựa chọn rất
rộng.Về chất liệu có bông vải,doan,sợi và còn được phân thành loại chống
cháy và phi chống cháy.
3.4 Vật liệu trang sức nền
3.4.1 Thảm đan
Thảm đan có loại đan thủ công và có loại bằng máy.Thảm đan
thường dùng sợi lông cừu,qua nhuộm màu,tiến hành đan,sửa chữa,sau chỉnh
lý mà thành.Các gút đan thảm rất nhiều mật độ vết cắt càng dày chất lượng
càng cao.Thảm gia dụng là 90->100,thảm cao cấp lớn hơn 200.
Đồ án của thảm đẹp,màu sắc tươi,có độ đàn hồi tốt,mềm mại dễ
chịu,chịu mài mòn,độ sáng tốt,có độ bảo ôn,cách nhiệt tốt,hiệu quả cách âm
cao.
Thảm đan được dùng trong các phòng của khách sạn,hành
lang,phòng yến tiệc,hội nghị và buồng ngủ.
3.4.2 Thảm “Gút”
Nguyên liệu của thảm này là sợi tổng hợp hay sợi thiên nhiên
qua máy gia công gút mà hình thành lớp mặt,sau đó mặt sau được phức hợp
bởi vật liệu khác mà thành thảm.Lớp mặt có sợi dẫn nhiệt tốt thì thảm có
tính chống tĩnh điện cao.Nếu sử dụng loại chịu mài mòn chống cháy thì
thảm sẽ có tính năng đó.Trước mắt được dùng nhiều nhất là thảm gút lông
cừu và hỗn hợp.
Chỉ tiêu kỹ thuật của thảm gút có cường độ bóc,lực liên kết của
sợi thảm,tính chịu mài,đàn hồi,chống tĩnh điện,chống lão hóa,chống
cháy,chống khuẩn nấm,chất lượng ngoại quan.
3.4.3 Thảm khâu (Móc)
Thảm khâu còn được gọi là thảm không dệt,nó được dùng loại
kim móc đặc biệt mà đem các sợi thảm móc trên vải đáy sau đó dùng keo
dán phủ lên mặt trái để cố định bền lâu.Thảm móc gia công giản tiện,giá
thành thấp,chống ẩm ướt,chống côn trùng,chống cháy,chống mục,nhưng đàn
hồi kém.
Trước mắt các công trình sử dụng thảm móc dưới dạng miếng
tương đối nhiều,đem màu sắc khác nhau từng miếng mà tổ thành mặt nền có
đồ án hoa văn nào đó,nâng cao hiệu quả trang sức,hơn nữa miếng nào hư
hỏng thì chỉ cần thay miếng đó là được,sử dụng rất thuận tiện.Quy cách của
loại thảm miếng vuông này là: 500mm x 500mm
3.5 Chất phủ
Chất phủ là chỉ những chất được phủ trên bề mặt mà có thể liên
kết thành màng đồng thời có khả năng bảo vệ,trang sức,hoặc những tính
năng khác.Phạm vi sử dụng của chất phủ rất rộng rãi,có thể dùng trong kiến
trúc,dụng cụ trong gia đình…Chất phủ có màu sắc phong phú,cảm quang
đẹp,nhã nhặn,đơn giản và kinh tế,thi công thuận tiện.Trong đề tài này chủ
yếu giới thiệu chất phủ trong kiến trúc và chất phủ vecny dầu.
3.5.1 Chất phủ tường nội thất
Chất phủ tường nội thất màu sắc phong phú cảm giác mượt
mà,tính thấu khí tốt,chịu nước,chịu kiềm,thi công thuận tiện,ô nhiễm môi
trường ít.
3.5.1.1 Chất phủ thủy tinh nước VINYL ALCHOL POLIME
Chất phủ này lấy vinyl alchol tan trong nước làm chất kết
dính,cho thêm một lượng nhất định chất màu và một ít chất trợ giúp qua
quấy trộn,nghiền mà thành.Nó còn được gọi là chất phủ 106,nó là loại được
dùng rộng rãi.
Vinyl alchol thủy tinh nước không độc,không mùi có thể thi công
tại nơi tường ẩm ướt,nó có độ bám nhất định với tường,lớp chất phủ khô
nhanh,bề mặt trơn nhẵn hình thành một bề mặt phẳng nhẵn có hiệu quả trang
sức nhất định,giá thành rẻ,chủng loại của nó có trắng,trắng sữa,xanh da trời,
…thích ứng để sơn tường nội thất trong các công trình bệnh viện,trường
học,nhà hát,nhà ở.
3.5.2 Chất phủ mặt nền nhựa PU Chất phủ mặt nền làm cho mặt
nền nội ngoại thất mỹ quan,nó có tính chịu mài mòn cao,chịu kiềm,chịu
nước và tính tránh xung kích,gia công giản tiện.
Loại chất phủ này có loại mỏng mặt và dày mặt đàn tính.
Loại chất phủ mỏng mặt chủ yếu dùng cho trang sức bề mặt đồ
gỗ,như sơn thủy tinh là một loại sơn Pu 2thành phần.Màng chất phủ rắn
chắc,đầy đặn bằng phẳng sáng sủa,độ cứng cao,chịu mài mòn,không sợ cháy
thuốc lá,có tính chịu nước tốt,chịu axit và chịu các hóa chất khác.
Chất phủ mặt nền mặt dày đàn tính chủ yếu dùng cho trang sức
mặt nền ximăng,nó có thể hình thành trên mặt nền không có khe tiếp xúc,lớp
chất phủ chịu mài mòn,có tính đàn hồi nhất định.Chất phủ nền PU đàn tính
là loại chất phủ 2 thành phần A+B,cứng hóa ở nhiệt độ bình thường.Khi thi
công căn cứ vào tỷ lệ nhất định của thành A và B mà pha chế,quấy trộn,xoa
quét trên mặt nền là có thể được lớp chất phủ có màu,có đàn tính nhất
định.Có độ bám cao với nền ximăng,không dễ nứt,chịu mài mòn,có thể chịu
ăn mòn của các loại hóa chất,màu sắc phong phú,nhưng công nghệ thi công
tương đối phức tạp,giá đắt.
3.5.3 Chất phủ đặc biệt
Chất phủ đặc biệt không chỉ có tác dụng trang sức đối với công
trình kiến trúc và sản phẩm mà còn có công năng đặc biệt nào đó như chống
nước,chống cháy,chống nấm,chống mục,cách nhiệt,cách âm…Do vậy chất
phủ này có thể dùng để trang sức cho những nơi có yêu cầu đặc biệt.
Chất phủ đặc biệt chịu kiềm,chịu nước và phải có tính năng liên
kết với lớp nền ximăng hoặc gỗ,có được tính trang sức nhất định và công
năng đặc biệt nào đó,thi công và duy tu bảo dưỡng đơn giản.Chất phủ đặc
biệt thường dùng có: Chất phủ chống cháy,chất phủ chống nước,chất phủ
chống nấm và chất phủ chống mục.
3.5.3.1 Chất phủ chống cháy
Chất phủ chống cháy là chỉ sau khi bề mặt của vật liệu chống
cháy được trang sức thì nó có thể nâng cao được tính chống cháy hoặc có thể
làm hòa hoãn quá trình cháy và tốc độ cháy,trong một thời gian nhất định có
thể ngăn cản cháy.Những chất này còn được gọi là chất phủ chậm cháy.
Chất phủ chống cháy có thể được phủ lên bề mặt và chế phẩm
của nó,sắt thép và bê tông từ đó mà đạt được tác dụng chống cháy.
3.5.3.2 Chất phủ chống nước
Chất phủ chống nước là một loại chất phủ có thể hình thành
chống nước mưa hoặc chống nước ở đất xâm nhập vào.Nó bao gồm chất phủ
chống nước cho nhà cửa và các công trình ngầm.Căn cứ vào hình thức và
trạng thái phân thành 3 loại: Loại nhũ,loại dung dịch và loại phản ứng.
3.5.3.3 Chất phủ chống nấm
Chất phủ chống nấm là chỉ loại chất phủ có công năng ức chế sự
sinh trưởng của khuẩn nấm.Nó chủ yếu được cho vào chất phủ một số chất
ức chế nấm mà đạt được tác dụng này.
Căn cứ vào vật chất tạo thành màng và dung môi phân tán khác
nhau có thể phân thành kiểu dung dịch và kiểu nhũ nước.Căn cứ vào công
dụng được phân thành loại dùng ngoài,loại dùng trong và loại dùng đặc
biệt.Chất phủ chống nấm không chỉ có tính trang sức và chống nấm tốt mà
còn sau khi đã tạo thành màng không có độc hại đối với người.
Các loại chất phủ chống nấm thường dùng có nhũ acrylic axit
dùng chống mốc bên ngoài,dầu gai,PR,Vinyl alchol.
3.5.3.4 Chất phủ chống ăn mòn
Vật chất ngoại giới xâm nhập vào vật liệu chủ yếu thông qua
không khí,hơi nước,ánh sáng,axit,bazơ,muối và các loại hữu cơ ăn mòn
khác.Chất phủ chống ăn mòn là một dạng nhằm tránh sự xâm thực đối với
vật liệu bởi axit,kiềm và các vật liệu hữu cơ khác.Tính chống chịu ăn mòn
tốt hơn các loại chất phủ khác duy tu thuận tiện,bền lâu,có thể cứng hóa tạo
thành màng trong nhiệt độ thường.Chủng loại của chất phủ này có chất phủ
epoxy,có chất phủ PU…
3.6 Chất dẻo
Chất dẻo là chỉ lấy nhựa thiên nhiên hoặc nhựa tổng hợp là vật
liệu chủ,sau khi cho vào một số chất khác,được hỗn hợp phản ứng dưới điều
kiện nhất định mà nó được cao phân tử hóa,thành hình mà trong điều kiện
nhiệt độ thường dùng duy trì hình dạng không thay đổi.Nó cùng với cao su
tổng hợp,cellulose tổng hợp trở thành 3 “Đại gia” trong họ vật liệu cao phân
tử.
Căn cứ vào sự thu nhiệt mà nó đã phát sinh ra những thay đổi để
phân thành nhựa nhiệt dẻo và nhựa nhiệt rắn.Nhựa nhiệt dẻo có kết cấu phân
tử mạch thẳng,khi chịu tác động của nhiệt có thể tái thành hình.Nhựa nhiệt
rắn,trước khi cứng hóa cũng có kết cấu phân tử mạch thẳng,nhưng trong quá
trình hình thành đã phát sinh phản ứng hóa học mà có cấu tạo mạch không
gian,do vậy sau khi đã cứng hóa không thể gia nhiệt để tái thành hình.Chất
dẻo PE,PVC,PS…thuộc loại nhựa nhiệt dẻo Phenolformaldehyde,Epoxy,PR
thuộc về nhựa nhiệt rắn.
Chất dẻo do có những tính năng rất đặc biệt mà nó có ưu thế nhất
định trong ngành: - Tính năng gia công tốt
- Đa công năng
- Tỷ trọng rất nhẹ
- Tính trang sức đặc biệt
- Tính kinh tế
3.6.1 Chế phẩm chất dẻo
3.6.1.1 Tấm dán tường chất dẻo
Tấm dán tường chất dẻo là trên bề mặt của tấm nền (như
giấy,thủy tinh) sau khi tiến hành phủ chất dẻo tiếp đến là xử lý in hoa hoặc
ép hoa,hoặc làm nổi bóng.
Tính năng của loại tấm này rất ưu việt,có thể căn cứ vào yêu cầu
mà làm thành những loại cách nhiệt,chống nấm mốc hút ẩm,mà hiệu quả
trang sức rất tốt,thi công thuận tiện để sửa chữa bảo dưỡng.Nó được chia
thành loại phổ thông,loại nổi bóng và loại đặc biệt.
3.6.1.2 Tấm dán tường phổ thông
Loại tấm này là dùng giấy có mật độ 80g/m2 làm nền sau đó
được phủ nhựa PVC ở dạng hồ 100g/m2 qua in hoa hay ép hoa mà thành.Nó
có những loại ép hoa 1màu,in ép hoa,quang in hoa.Tấm dán phổ thông có rất
nhiều loại nó được dùng trong trang sức tường nhà gia đình và khách sạn.Bề
mặt của nó có thể là giả vân đá,tơ lụa.
3.6.1.3 Tấm dán tường nổi bóng
Loại tấm này dùng giấy có mật độ 100g/m2 làm nền sau đó
được phủ nhựa PVC ở dạng hồ có pha thêm chất tạo bọt lượng phủ 300-
>400g/m2,in hoa xong gia nhiệt nổi bóng.Chủng loại có in hoa nổi bóng
cao,in hoa nổi bóng thấp và in ép hoa nổi bóng thấp.Tính lập thể của loại
tấm này rất mạnh,hút ẩm và đàn hồi tốt.Bề mặt được làm thành vân gỗ,vân
đá hoa,gạch men.Thích hợp để trang sức tường nội thất và trần.
3.6.1.4 Tấm dán tường đặc biệt
Tấm dán chịu ẩm,chống cháy và tấm màu phun cát,những loại
này đều được gọi là tấm dán đặc biệt.Tấm chịu ẩm được làm từ sợi thủy tinh
làm nền bề mặt cũng được phủ chất dẻo,được dùng tại nơi ẩm ướt,nhà vệ
sinh.Tấm chống cháy lấy amiăng làm nền sau đó phủ PVC có pha chất
chống cháy thích hợp trong nơi có nguy cơ cháy cao.Tấm màu phun cát,trên
mặt nền được phun đều đặn cát màu sau đó phun keo dán để cố định cát.Nó
được dùng để trang sức cửa sảnh,đầu cột,hành lang.
Tấm dán tường còn có loại không có lớp dày,giả nhung hoặc
được phun một lớp keo dán chuẩn bị
3.6.2 Ván sàn
3.6.2.1 Ván sàn đơn sắc bán cứng
Bề mặt của loại này có độ cứng và đàn hồi nhất định,chịu cháy
thuốc lá,chịu ố và lõm rất tốt,nhưng kém chịu khắc,dễ gãy.Ván sàn đồng
chất PVC chỉ có một thành phần PVC.Ván sàn phức hợp PVC có kết cấu lớp
đáy và lớp mặt,lớp đáy thường là PVC tái sinh,lớp mặt là PVC mới.Ván sàn
tái sinh PVC là dùng PVC tái sinh để làm.Màu sắc của bề mặt ván sàn bán
cứng đơn sắc là một màu và dải tạp sắc.
3.6.2.2 Ván sàn in hoa PVC
Ván sàn in hoa PVC là loại vật liệu được dùng kỹ thuật in hoa
nhất định để in hoa văn trên bề mặt của ván sàn.PVC nó gồm loại ván dán
mang in hoa và loại ép in hoa.Ván sàn dán màng in hoa được tổ thành bởi
lớp mặt,lớp in hoa và lớp đáy,tính trang sức,chịu mài mòn,khắc vết đều tốt
hơn ván cứng.Bề mặt của ván ép in hoa là màng PVC không trong suốt,hoa
văn in có dạng lõm xuống,mà có rất nhiều đường vạch hoặc các điểm.Tính
năng của ván sàn ép in hoa cũng tương tự như ván sàn PVC bán cứng PVC
đơn sắc.
3.6.2.3 Ván trang sức chất dẻo
Ván trang sức chất dẻo là chỉ loại ván có công năng trang sức
mà keo được thấm vào vật liệu hay được phủ lên vật liệu nền.Cụ thể có
những loại sau: Ván PVC cứng,tấm nhựa dán mặt,thủy tinh hữu cơ và thủy
tinh thép.
3.6.3. Tấm PVC cứng
Tấm này có lọai là tấm phẳng,sóng,ô vuông và dị hình.
Trong loại phẳng và sóng lại được chia thành trong suốt
hoặc không trong suốt.Tấm PVC trong suốt phẳng hay lượn sóng có thể làm
mái che phát quang,mái trong suốt và vật liệu trang sức cách âm trên đường
cao tốc.Tấm PVC không trong suốt,phẳng và lượn có tính bền lâu,tính trang
sức tốt,dễ thi công.
Ván dị hình cứng PVC là thông qua công nghệ ép dùn mà
có các loại hình dạng tiết diện ngang khác nhau,nó có loại một mặt và có
loại rỗng mà bề mặt có thể là hoa văn đồ án nhất định.Loại ván này có chiều
rộng là 100->200mm,dài 6m,dày 1+2mm.Ván dị hình PVC cứng chủ yếu
dùng trong tường nội thất,khu vệ sinh,vách ngăn.Loại ván này tính chịu lão
hóa tốt,chống cháy,tính trang sức bề mặt tốt,có thể cách nhiệt,chống nước và
có độ cứng nhất định,thi công và sữa chữa thuận tiện,nhưng xung kích
kém,khi sử dụng nên tránh tác dụng xung kích của ngoại lực.Nó đươc dùng
trong phòng vệ sinh,nhà ăn,bếp và những nơi có độ ẩm lớn.
3.6.4 Tấm chất dẻo dán bề mặt
Tấm chất dẻo dán bề mặt còn gọi là tấm trang sức melamin
hoặc ván trang sức chống cháy.Đây là loại ván có lớp đáy là giấy.Lớp giấy
trang sức được dùng keo phenol hoặc keo melamin để ngâm tẩm,sau khi sấy
khô chúng được xếp phôi và ép nhiệt thành ván,các hoa văn đồ án rất phong
phú,chịu mài mòn cao,chịu nhiệt,chịu axit,chống cháy,dễ rửa sạch.Độ sáng
của ván này có 2 loại là loại mờ và loại sáng.
3.6.5Tấm thủy tinh hữu cơ
Tấm thủy tinh hữu cơ là lấy methyl methảcylale làm
nguyên liệu chủ yếu cho thêm vào một số chất phụ gia và tiến hành tụ hợp
để trở thành chất dẻo.
Thủy tinh hữu cơ có độ thấu quang cao đạt đến
99%,cường độ cơ giới của nó cũng cao,chịu nhiệt,chịu sự phá hoại của sâu
nấm,chịu sự băng giá,không bị biến dạng,cách điện tốt,dễ gia công.Nhưng
nó tương đối giòn,độ cứng thấp,bề mặt dễ để lại thương tổn,dễ tan trong
dung môi hữu cơ,khi sử dụng tránh vật cứng va chạm.
Thủy tinh hữu cơ được phân thành: không màu,có màu và
các loại màu lóng lánh khác.
3.6.5.1Tấm thủy tinh thép trang sức
Thủy tinh thép là vật liệu được gắn kết với nhau bởi nhựa
nhiệt rắn không bão hòa và epoxy,lấy sợi thuỷ tinh làm chất phức hợp tăng
cường.Loại vật liệu này có trọng lượng nhẹ,cường độ cao,độ thấu quang và
tính trang sức tốt,chịu nước và chống chịu mài mòn,tấm trang sức thủy tinh
thép thường được dùng làm vật liệu mặt cho nhà cửa,như mái che nơi buôn
bán ,mui xe,nhà đợi xe.Hình dạng của nó thường là sóng,có loại sóng
lượn,sóng vừa và sóng nhỏ.Vật liệu thủy tinh thép ngoài việc dùng để trang
sức còn có thể dùng làm các chao đèn và các dụng cụ trong nhà vệ sinh.
3.7Cửa nhựa
Cửa chất dẻo thường được làm từ nhựa PVC có cho thêm
chất độn,chất màu,qua gia công,ép,để nguội mà thành hình,lại qua ghép nối
dán sữa chữa được sản phẩm.So với cửa nói chung nó có ưu điểm độc
đáo.Nó có khẳ năng bảo ôn,cách nhiệt,kín khít,chịu ăn mòn,chịu nước,tính
trang sức và chống lão hóa sữa chữa thuận tiện.
Cửa nhựa có rất nhiều chủng loại,có loại cố định,có loại
đẩy,có loại lật,v v…Có loại cửa cánh gấp,cửa có khung,cửa vật liệu trong
suốt.Vì để nâng cao độ cứng của vật liệu định hình,thông thường trong
khoang rỗng của khung được tăng cường,kim loại.
Cửa sổ nhựa do vật liệu khung dị hình,tấm cánh,thanh cố
định,thủy tinh (PVC cứng) và các loại linh kiện ngũ kim tạo thành.Nó được
dùng làm cửa trong nội thất hoặc cửa mặt tường.
3.8Vật liệu gỗ
Gỗ là loại vật liệu cơ bản trong kiến trúc,nó có thể dùng
làm cột kèo xà nhà cũng có thể làm cửa,sàn.Tùy theo trình độ khoa học kỹ
thuật ngày một phát triển,mà tài nguyên gỗ ngày càng khan hiếm,người ta đã
mở ra nhiều sản phẩm trang sức gỗ kiểu mới nhằm nâng cao tỷ lệ lợi dụng
gỗ.Như vậy vừa thỏa mãn yêu cầu sử dụng gỗ của con người mà lại vừa tiết
kiệm được gỗ.
Gỗ là loại vật liệu hữu cơ cao phân tử tự nhiên,nhẹ,cường
độ cao,đàn hồi và mềm dẻo tốt,có vân thớ và màu sắc đẹp,dễ dàng nhuộm
màu và trang sức vecny.Gỗ có tính năng nhiệt,dễ gia công,kết cấu đơn giản
và hợp lý.Nó có thể để làm dụng cụ gia đình và trang sức đồ gỗ.
3. 8.1 Gỗ ván sàn
Gỗ ván sàn căn cứ vào hình thức để phân thành dạng
thanh và dạng miếng.Loại ván sàn này nhẹ,đàn hồi tốt,cảm giác chân dễ
chịu,dẫn nhiệt kém,dễ vệ sinh lau chùi.Chất gỗ của ván sàng dạng miếng
thường là gỗ cứng.Vân thớ hoa văn của ván sàng dạng miếng thường rất
đẹp,tính trang sức mạnh,chịu mài mòn,biến dạng ít.Có thể dùng keo dán trực
tiếp các miếng ván sàng lên mặt bê tông.
Gỗ làm ván sàn có chất gỗ mềm(như gỗ Thông,gỗ Sha
Mu) thường nên dùng keo nhựa tổng hợp để quét phủ.Nếu là gỗ cứng
thường hay dùng sơn trong để quét phủ.
Ván sàn gỗ chủ yếu trang sức mặt sàn,công sở,khách
sạn,gia đình,nhà trẻ,nhà thể thao.
3. 8.2 Ván nhân tạo dán giấy in hoa văn
Ván nhân tạo dán giấy in hoa văn là dùng giấy trang sức
có in vân gỗ hoặc đồ án,dán lên bề mặt gỗ nền sau đó dùng keo quét phủ xử
lý mà thu được ván.Ván loại này có tính trang sức tốt,màu sắc tươi sáng,có
độ sâu,sản xuất đơn giản,sử dụng thuận tiện,có thể tiến hành gia công
cưa,khoan,chịu ố bẩn,nước nhưng tính chịu mài mòn và độ sáng kém.
Ván này được dùng để chế tạo đồ mộc trang sức tường và
trần nội thất.
3. 8.3 Gỗ làm phào gỗ
Phào gỗ được chọn từ các loại gỗ có tính chất rắn chắc
mịn,chịu mài mòn,mục,không bị nứt,mặt gia công trơn nhẵn,tính gia công và
nhuộm màu vecny tốt,thông qua xử lý sấy khô,tiến hành gia công bằng cơ
giới hay thủ công mà thành.
CHƯƠNG IV
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
CHƯƠNG V
KẾT LUẬN
5.1Kết luận chung
5.2Một số kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO