Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Tiểu luận môn Chủ nghĩa xã hội khoa học: Xây dựng gia đình mới ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.6 KB, 38 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

TIỂU LUẬN
MÔN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

ĐỀ TÀI: XÂY DỰNG GIA ĐÌNH MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên:
Mã sinh viên:
Lớp:
Hà Nội, tháng 10 năm 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................... 1
1

Tính cấp thiết của đề tài................................................................................. 1

2

Mục tiêu nghiên cứu.......................................................................................2

3

Nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................................................2

4


Kết cấu đề tài..................................................................................................3

NỘI DUNG............................................................................................................4
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIA ĐÌNH VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG
GIA ĐÌNH MỚI...................................................................................................4
1.1 Một số vấn đề lý luận chung về gia đình...................................................4
1.1.1

Khái niệm về gia đình......................................................................4

1.1.2

Chức năng cơ bản của gia đình........................................................5

1.2 Định hướng chủ yếu xây dựng gia đình mới trong Chủ nghĩa xã hội.......8
Chương 2: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH MỚI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY............................................................................................................ 9
2.1 Một số kết quả đạt được trong công tác xây dựng gia đình mới ở nước ta
hiện nay............................................................................................................10
2.2 Những thách thức trong cơng tác xây dựng gia đình mới ở nước ta hiện
nay 14
2.3 Nguyên nhân kết quả đạt được và những khó khăn, thách thức......................16
2.3.1

Nguyên nhân kết quả đạt được.......................................................17

2.3.2

Nguyên nhân những khó khăn, thách thức.....................................18



Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG XÂY DỰNG GIA
ĐÌNH MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY............................................................20
3.1 Đẩy mạnh và làm tốt công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức đối với
các cấp ủy đảng, chính quyền và tồn thể nhân dân về vai trị, vị trí đặc biệt
quan trọng của gia đình....................................................................................20
3.2 Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, kinh tế
hộ gia đình........................................................................................................20
3.3 Cần kế thừa những giá trị của gia đình truyền thống đồng thời tiếp thu những
tiến bộ của nhân loại về gia đình trong xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay
21
3.4 Liên tục xây dựng, nghiên cứu, bổ sung và hồn thiện hệ thống chính sách,
pháp luật về cơng tác gia đình, đưa pháp luật về cơng tác gia đình vào cuộc
sống 22
3.5 Tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình văn
hóa 23
KẾT LUẬN......................................................................................................... 24
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................25


DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

BLGĐ

Bạo lực gia đình

CNXH

Chủ nghĩa xã hội


CNH - HĐH

Cơng nghiệp hóa – Hiện đại hóa

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thơng

VHTTVDL
XHCN

Văn hóa Thể thao và Du lịch
Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là “tế bào” của xã hội, là hình ảnh soi chiếu thu nhỏ của xã hội, gia
đình cịn là cái nơi đầu tiên ni dưỡng và hình thành nhân cách, đạo đức và tâm
hồn con người. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ln quan tâm đến vai trị
của gia đình, Người từng nhấn mạnh: “Quan tâm đến gia đình là đúng vì nhiều
gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì
gia đình càng tốt hơn, hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì vậy, muốn xây
dựng Chủ nghĩa xã hội là phải chú ý hạt nhân cho tốt”. Trải qua nhiều thế hệ, gia
đình Việt Nam được hình thành và phát triển với những chuẩn mực và giá trị tốt
đẹp, góp phần xây dựng bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Những giá trị truyền

thống quý báu như lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu thương đùm bọc lẫn
nhau, thủy chung, hiếu nghĩa, cần cù và sáng tạo trong lao động, bất khuất, kiên
cường vượt qua mỗi khó khăn, thử thách đã được gia đình Việt Nam gìn giữ, vun
trồng và phát huy trong suốt tiến trình dựng nước và giữ nước.
Sau 35 năm tiến hành cơng cuộc Đổi mới, gia đình Việt Nam đã có những
thay đổi sâu sắc trên nhiều khía cạnh. Những giá trị của gia đình truyền thống và
hiện đại đang giao thoa, cùng tồn tại ở những mức độ khác nhau. Chúng ta đang
từng bước chuyển mình trong thời kì CNH – HĐH, nền kinh tế đang vận động và
phát triển theo cơ chế thị trường định hướng XHCN nên gia đình Việt Nam tất yếu
cũng có những sự biến đổi và đứng trước những thách thức mới. Nhiều gia đình
đã tìm cách thích ứng với điều kiện mới, có nhiều tiến bộ trong lối sống, quan hệ
và phương thức làm ăn. Thế nhưng, bên cạnh những điểm tiến bộ đó thì cũng
khơng ít gia đình rơi vào lúng túng, khó khăn, thậm chí đổ vỡ trong giai đoạn
này, có dấu
5


hiệu khủng hoảng về nếp sống, suy nghĩ, những thói quen mang tỉnh chất phong
kiến, cổ hủ, lạc hậu đang có xu hướng phục hồi, tệ nạn trong gia đình ngày càng
phức tạp, … Vì vậy, cơng tác xây dựng gia đình mới hiện nay là một vấn đề bức
thiết mà Đảng và Nhà nước ta cần đặc biệt quan tâm và sát sao.
Nhận thức được tính cấp thiết của vấn đề, cũng như xuất phát từ thực tiễn nghiên
cứu ở nước ta hiện nay trong lĩnh vực này, tôi chọn đề tài: “Xây dựng gia đình
mới ở Việt Nam hiện nay – thực trạng và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu của
tiểu luận, với mong muốn mang lại góc nhìn tồn diện về thực trạng xây dựng
gia đình mới cũng như đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xây
dựng gia đình mới ở Việt Nam hiện nay.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Tiểu luận tập trung phân tích cơ sở lý luận, thực trạng xây dựng gia đình mới
ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu

quả và chất lượng cơng tác xây dựng gia đình mới ở nước ta trong thời gian tới.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải khái quát những nội dung lý luận cơ bản về gia đình và cơng tác xây
dựng gia đình mới của Đảng và Nhà nước.
- Phân tích thực trạng cơng tác xây dựng gia đình mới của Đảng và Nhà nước ta.
- Nêu giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cơng tác xây dựng gia đình mới của
Đảng và Nhà nước trong thời gian tới.


4. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục, tiểu
luận được kết cấu gồm có 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận của về gia đình và vấn đề xây dựng gia đình mới
Chương 2: Thực trạng xây dựng gia đình mới ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác xây dựng gia đình mới
ở Việt Nam hiện nay.


NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIA ĐÌNH VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG
GIA ĐÌNH MỚI
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về gia đình
1.1.1. Khái niệm về gia đình
Gia đình là một cộng đồng người đặc biệt, có vai trị quyết định đến sự tồn tại
và phát triển của xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen, khi đề cập đến gia đình đã cho
rằng: “Quan hệ thứ ba tham dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển lịch sử:
hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những
người khác, sinh sơi, nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con
cái, đó là gia đình” .
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh ln quan tâm đến vấn đề gia đình, theo Người,

gia đình khơng chỉ là những người bó hẹp với những người có quan hệ ruột thịt
mà gia đình gồm cả những đồng nghiệp và cả xã hội. Đó có thể là những người
cùng lao động trong một nhà máy, trong một hợp tác xã. đều phải đoàn kết và
yêu thương nhau như anh em trong một gia đình, rộng hơn nữa là đồng bào cả
nước.
Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Gia đình là tập hợp những
người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng,
làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau…”
Mặc dù có nhiều định nghĩa, nhưng tựu chung lại, ta có thể hiểu: “Gia đình
là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành, duy trì và củng cố
chủ


yếu dựa trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng, cùng
với những quy định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình”.
1.1.2. Chức năng cơ bản của gia đình
Chức năng tái sản xuất ra con người
Đây là chức năng đặc thù của gia đình, khơng một cộng đồng nào có thể thay
thế. Chức năng này không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm, sinh lý tự nhiên của con người,
đáp ứng nhu cầu duy trì nịi giống của gia đình, dịng họ mà còn đáp ứng nhu cầu
về sức lao động và duy trì sự trường tồn của xã hội.
Việc thực hiện chức năng tái sản xuất ra con người diễn ra trong từng gia
đình, nhưng khơng chỉ là việc riêng của gia đình mà là vấn đề xã hội. Bởi vì,
thực hiện chức năng này quyết định đến mật độ dân cư và nguồn lực lao động
của một quốc gia và quốc tế, một yếu tố cấu thành của tồn tại xã hội. Thực hiện
chức năng này liên quan chặt chẽ đến sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội.
Vì vậy, tùy theo từng nơi, phụ thuộc vào nhu cầu của xã hội, chức năng này được
thực hiện theo xu hướng hạn chế hay khuyến khích. Trình độ phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lực lao động mà gia đình cung
cấp.

Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục
Bên cạnh chức năng tái sản xuất ra con người, gia đình cịn có trách nhiệm
ni dưỡng, dạy dỗ con cái trở thành người có ích cho gia đình, cộng đồng và xã
hội. Chức năng này thể hiện tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm của cha mẹ với
con cái, đồng thời thể hiện trách nhiệm của gia đình với xã hội. Thực hiện chức
năng này, gia đình có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự hình thành nhân cách,


đạo đức, lối sống của mỗi người. Bởi vì, ngay khi sinh ra, trước tiên mỗi người
đều


chịu sự giáo dục trực tiếp của cha mẹ và người thân trong gia đình. Những hiểu
biết đầu tiên, mà gia đình đem lại thường để lại dấu ấn sâu đậm và bền vững
trong cuộc đời mỗi người. Vì vậy, gia đình là một mơi trường văn hóa, giáo dục,
trong môi trường này, mỗi thành viên đều là những chủ thể sáng tạo những giá trị
văn hóa, chủ thể giáo dục đồng thời cũng là những người thụ hưởng giá trị văn
hóa, và là khách thể chịu sự giáo dục của các thành viên khác trong gia đình.
Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng
Cũng như các đơn vị kinh tế khác, gia đình tham gia trực tiếp vào quá trình
sản xuất và tái sản sản xuất ra tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Tuy nhiên,
đặc thù của gia đình mà các đơn vị kinh tế khác khơng có được, là ở chỗ, gia
đình là đơn vị duy nhất tham gia vào quá trình sản xuất và tái sản xuất ra sức lao
động cho xã hội.
Gia đình khơng chỉ tham gia trực tiếp vào sản xuất và tái sản xuất ra của cải
vật chất và sức lao động, mà còn là một đơn vị tiêu dùng trong xã hội. Gia đình
thực hiện chức năng tổ chức tiêu dùng hàng hóa để duy trì đời sống của gia đình
về lao động sản xuất cũng như các sinh hoạt trong gia đình. Đó là việc sử dụng
hợp lý các khoản thu nhập của các thành viên trong gia đình vào việc đảm bảo
đời sống vật chất và tinh thần của mỗi thành viên cùng với việc sử dụng quỹ thời

gian nhàn rỗi để tạo ra một môi trường văn hóa lành mạnh trong gia đình, nhằm
nâng cao sức khỏe, đồng thời để duy tri sở thích, sắc thái riêng của mỗi người.
Thực hiện chức năng này, gia đình đảm bảo nguồn sinh sống, đáp ứng nhu
cầu vật chất, tinh thần của các thành viên trong gia đình. Hiệu quả hoạt động
kinh tế của gia đình quyết định hiệu quả đời sống vật chất và tinh thần của mỗi
thành viên gia đình. Đồng thời, gia đình đóng góp vào quá trình sản xuất và tái
sản xuất ra


của cải, sự giàu có của xã hội. Gia đình có thể phát huy một cách có hiệu quả
mọi tiềm năng của mình về vốn, về sức lao động, tay nghề của người lao động,
tăng vốn của cải vật chất cho gia đình và xã hội. Thực hiện tốt chức năng này,
khơng những tạo cho gia đình có cơ sở để tổ chức tốt đời sống, nuôi dạy con cái,
mà cịn đóng góp to lớn đối với sự phát triển của xã hội.
Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình
Đây là chức năng thường xuyên của gia đình, bao gồm việc thỏa mãn nhu
cầu tình cảm, văn hóa, tinh thần cho các thành viên, đảm bảo sự cân bằng tâm lý,
bảo vệ chăm sóc sức khỏe người ốm, người già, trẻ em. Sự quan tâm, chăm sóc
lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình vừa là nhu cầu tình cảm vừa là trách
nhiệm, đạo lý, lương tâm của mỗi người. Do vậy, gia đình là chỗ dựa tình cảm
cho mỗi cá nhân, là nơi nương tựa về mặt tinh thần chứ không chỉ là nơi nương
tựa về vật chất của con người. Với việc duy trì tình cảm giữa các thành viên, gia
đình có ý nghĩa quyết định đến sự ổn định và phát triển của xã hội. Khi quan hệ
tình cảm gia đình rạn nứt, quan hệ tình cảm trong xã hội cũng có nguy cơ bị phá
vỡ.
Ngồi những chức năng trên, gia đình cịn có chức năng văn hóa, chức năng
chính trị... Với chức năng văn hóa, gia đình là nơi lưu giữ truyền thống văn hóa
của dân tộc cũng như tộc người. Những phong tục, tập quán, sinh hoạt văn hóa
của cộng đồng được thực hiện trong gia đình. Gia đình khơng chỉ là nơi lưu giữ
mà cịn là nơi sáng tạo và thụ hưởng những giá trị hóa của xã hội. Với chức năng

chính trị, gia đình là một tổ chức chính trị của xã hội, là nơi tổ chức thực hiện
chính sách, pháp luật của nhà nước và quy chế (hương ước) của làng xã và
hưởng lợi từ hệ thống pháp luật, chính sách và chế đó. Gia đình là cầu nối của
mối quan hệ giữa nhà nước với công dân.


1.2. Định hướng chủ yếu xây dựng gia đình mới trong Chủ nghĩa xã hội
Gia đình mới được hiểu là gia đình trong chế độ xã hội mới – XHCN, một
chế độ xã hội mới, tiến bộ, văn minh, phân biệt với các chế độ xã hội cũ. Trong
thời kỳ quá độ lên CNXH, các điều kiện để hình thành gia đình mới khơng xuất
hiện và có tác dụng đầy đủ ngay lập tức mà chỉ có thể hồn chỉnh dần từng bước.
Xây dựng gia đình mới bắt đầu từ việc cải tạo những gia đình cũ theo tinh thần
của CNXH, gắn liền với việc giáo dục lớp thanh niên đến với tình u và hơn
nhân tiến bộ. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, vẫn cần thiết đề ra những định
hướng chủ yếu để xây dựng gia đình mới:
Thứ nhất, gia đình mới của CNXH ra đời trên sự kế thừa những nét đẹp gia
đình truyền thống, đồng thời tiếp thu những tiến bộ của thời đại về gia đình.
Thứ hai, phương hướng quan trọng để hình thành ngày càng nhiều các gia
đình mới là việc thực hiện hơn nhân tiến bộ.
Thứ ba, gia đình mới ở Việt Nam được xây dựng trên cơ sở các quan hệ bình
đẳng, thương yêu, có trách nhiệm cùng chia sẻ, gánh vác công việc của các thành
viên để thực hiện các chức năng cơ bản của gia đình và nghĩa vụ xã hội.
Thứ tư, xây dựng gia đình mới ở Việt Nam hiện nay gắn liền với hình thành
và củng cố từng bước các quan hệ gắn bó với cộng đồng, với các thiết chế, tổ
chức ngồi gia đình.
Thứ năm, trong những phương hướng xây dựng gia đình mới của CNXH, cịn
có vấn đề bảo đảm quyền tự do ly hôn


Chương 2: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH MỚI Ở VIỆT NAM

HIỆN NAY
Tại Đại hội XI, Đảng ta đã nhấn mạnh: “Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ,
hạnh phúc thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội”. Trên cơ sở đó, ngày 29-52012, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án “Chiến lược phát triển gia đình
Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”. Đặc biệt, Nghị quyết Đại hội
XII của Đảng nêu rõ: “Xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh trong mỗi gia
đình, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, đạo đức, lối sống.
Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam. Phát huy giá trị truyền thống
tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh”. Nhận thức
được vai trò to lớn của gia đình, Đảng và Nhà nước ta vẫn ln quan tâm chăm
lo, xây dựng, phát triển gia đình Việt Nam ấm no, tự do, phồn vinh, hạnh phúc,
đảm bảo tiến bộ và cơng bằng xã hội, bởi vì gia đình có no ấm, tự do, hạnh phúc,
bình đẳng, tiến bộ thì mới có điều kiện để xây dựng và phát triển đất nước.
Trong 35 năm Đổi mới, gia đình mới ở Việt Nam đã có những đổi thay đáng
kể. Kinh tế hộ gia đình đã có bước phát triển mạnh, trở thành bộ phận quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân, góp phần khơng nhỏ vào q trình xố đói giảm nghèo.
Cơng tác dân số, kế hoạch hố gia đình, chăm sóc giáo dục trẻ em đã tích cực
góp phần xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, xã hội ngày càng ổn định và phát
triển. Gia đình mới ở Việt Nam được xây dựng với những giá trị nhân văn tiến
bộ, tiêu biểu là bình đẳng giới và quyền trẻ em. Vai trò của phụ nữ trong xã hội
và gia đình được đề cao, quyền trẻ em được pháp luật thừa nhận. Các hoạt động
cưới xin, tang lễ cũng có nhiều chuyển biến tích cực. Cuộc vận động “Tồn dân
đồn kết xây dựng đời sống văn hố” đã làm cho xã hội ngày càng có nhiều gia


đình văn hố. Các phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc người có cơng thu
hút sự tham gia


rộng rãi của các tầng lớp nhân dân, thể hiện tinh thần uống nước nhớ nguồn của
dân tộc và tô đậm thêm giá trị nhân văn của gia đình Việt Nam.

2.1. Một số các kết quả đạt được trong công tác xây dựng gia đình mới ở nước ta
hiện nay
Sau 35 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành
tựu to lớn, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được cải
thiện, nâng cao, kinh tế hộ gia đình từng bước được phát triển. Theo báo cáo của
Tổng cục Thống kê, thu nhập bình quân đầu người nước ta tăng khoảng 17 lần,
lên mức
3.512 USD. Hầu hết hộ dân cư đang sống trong các ngôi nhà kiên cố hoặc bán
kiên cố (93,1%); năm 2020, diện tích nhà ở bình qn đầu người trên cả nước đạt
mức 25,2 m2, tăng 7,3 m2 so với năm 2010, tăng 40,8%. Hệ thống thiết chế văn
hóa, giáo dục, y tế được đầu tư xây dựng, 99,7% số xã đã có trường tiểu học và
mẫu giáo; 99,5% số xã có trạm y tế; 58,6% số xã có nhà văn hóa. Điều kiện ở và
sinh hoạt của hộ dân cư cũng được cải thiện rõ rệt, số liệu thống kê năm 2019
cho biết có 99,4% hộ sử dụng điện lưới thắp sáng, tăng 3,3% so với năm 2009.
Tỷ lệ hộ dân sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh là 97,4%. Tiện nghi sinh hoạt của
hộ dân cư đã được cải thiện với 91,9% hộ có sử dụng ti vi; 91,7% hộ có sử dụng
điện thoại hoặc máy tính bảng; 30,7% hộ có sử dụng máy vi tính. 88% hộ dân có
phương tiện giao thơng cá nhân có động cơ.
Tỉ lệ hộ nghèo trung bình nước ta mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58%
năm 1993 xuống cịn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và 2,75%
năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều. Năm 2020 cả nước đạt gần 95% hộ gia
đình được cung cấp thơng tin về chính sách, pháp luật phúc lợi xã hội dành cho


các gia đình chính sách, gia đình nghèo. Trong giai đoạn 2016-2020, tại địa bàn
các huyện,


xã nghèo, đặc biệt khó khăn đã có khoảng 18.000 cơng trình cơ sở hạ tầng được
đầu tư, đã đưa vào sử dụng trên 15.000 cơng trình. Cơ sở hạ tầng kết nối vùng

được đầu tư như: điện, đường, trường, trạm và các cơng trình thiết yếu khác phục
vụ sản xuất, lưu thơng hàng hóa, dân sinh. Việt Nam đã hồn thành mục tiêu
thiên niên kỷ về xóa đói giảm nghèo trước 10 năm và được cộng đồng quốc tế
đánh giá là hình mẫu giảm nghèo hiệu quả. Sau 5 năm đã có 6 triệu người thốt
nghèo và 2 triệu người thoát khỏi cận nghèo. Tỷ lệ nghèo giảm nhanh ở xã đặc
biệt khó khăn và vùng đồng bào các dân tộc thiểu số.
Bên cạnh điều kiện về mức thu nhập tăng thì cơ hội tiếp cận với các loại hình
dịch vụ về giáo dục, văn hóa, giải trí, du lịch của mỗi thành viên trong gia đình
cũng được mở rộng, góp phần nâng cao trình độ nhận thức, năng lực hiểu biết,
kỹ năng làm chủ cuộc sống. Cũng theo đánh giá của Tổng cục Thống kê về tình
hình chất lượng giáo dục trên tồn quốc cho thấy: “Trình độ dân trí đã được cải
thiện, gần 96% dân số từ 15 tuổi trở lên biết đọc biết viết; hầu hết trẻ em trong
độ tuổi đi học phổ thông đang được đến trường, tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường
giảm mạnh trong thập kỷ qua. Tồn quốc có khoảng 91,7% dân số trong độ tuổi
đi học phổ thông hiện đang đi học. Tỷ lệ đi học chung của bậc tiểu học là
101,0%, bậc THCS là 92,8%, bậc THPT là 72,3%. Số sinh viên đại học, cao
đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Cả nước có 95,8% người dân từ 15 tuổi
trở lên biết đọc biết viết, tăng 1,8 điểm phần trăm so với năm 2009.
Trong bối cảnh chuyển đổi mơ hình từ xã hội nơng nghiệp làng xã sang xã hội
đơ thị, văn minh, hiện đại thì cấu trúc, chức năng của gia đình truyền thống cũng
có sự biến đổi để thích ứng. Tuy nhiên chức năng cơ bản và những giá trị tốt đẹp
của gia đình truyền thống vẫn được gìn giữ, phát huy trong gia đình mới hiện


nay. Nếu trước đây các thành viên trong gia đình ứng xử, giao tiếp chủ yếu theo
chuẩn


mực đạo đức, quy ước cộng đồng thì hiện nay các cơ quan ban ngành đã xây
dựng hệ thống cơ chế, chính sách pháp luật, bổ sung và làm rõ hơn các mối quan

hệ trong gia đình và ngồi xã hội, có thể kể tới như Luật Hơn nhân và gia đình
(2000), Luật Bình đẳng giới (2006), Luật Phịng, chống bạo lực gia đình (2007),
Luật Người cao tuổi, Luật Trẻ em (2016) cùng các thông tư, nghị định, pháp lệnh
hướng dẫn thi hành, đảm bảo những điều kiện tốt nhất để mọi gia đình đều được tơn
trọng, bình đẳng, đều có cơ hội phát triển. Bên cạnh đó, cơ quan quản lý nhà
nước về gia đình cũng đã được thành lập từ trung ương đến địa phương. Nghị
định 02/2013/NĐ-CP của Chính phủ xác định cơ quan quản lý nhà nước về cơng
tác gia đình thuộc chức năng, quyền hạn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và
Ủy ban nhân dân các cấp. Việc thành lập cơ quan quản lý nhà nước về gia đình
với những chính sách cụ thể, thiết thực, đảm bảo mọi gia đình đều được quan
tâm, chăm lo, phát triển. Năm 2020, cả nước đạt trên 82.6% hộ gia đình được
cung cấp thơng tin về chính sách, pháp luật về hơn nhân, gia đình.
Cùng với việc hồn thiện hệ thống chính sách pháp luật về cơng tác gia đình,
thời gian qua, nhiều phong trào thi đua sơi nổi, tích cực liên quan đến cơng tác
xây dựng gia đình mới, gia đình văn hóa đã được các địa phương triển khai thực
hiện, tạo chuyển biến sâu sắc trong nhận thức của người dân về vai trò, vị trí của
gia đình. Tiêu biểu như các phong trào: Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng
tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc; Xây dựng gia đình 5 khơng, 3 sạch; Xây dựng
gia đình hạnh phúc; Ơng bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền…, đã mang
lại những hiệu ứng tích cực, giúp mỗi người thêm trân trọng, giữ gìn những giá
trị văn hóa tốt đẹp của gia đình. Trong giai đoạn 2009 - 2019, số vụ BLGĐ được
các địa phương phát hiện trên cả nước có xu hướng giảm qua các năm: 53.206 vụ
năm 2009, giảm xuống còn 20.108 vụ vào năm 2015 và còn 8.176 vụ trong năm
2019.


Qua tổng kết phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa giai
đoạn 2000-2018, báo cáo của Chính phủ cho thấy: “Năm 2017, đã cơng nhận
hơn 19 triệu gia đình văn hóa. Đến nay, cả nước đã có trên 1,2 triệu tấm gương
người tốt, việc tốt; đã cơng nhận hơn 69 nghìn làng, thơn, ấp, bản, bn, tổ dân

phố văn hóa”. Cịn sau gần 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển gia đình Việt
Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, cũng đã đặt được nhiều thành tựu nổi bật.
Về kết quả thực hiện Mục tiêu 2 “Kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống tốt
đẹp của gia đình Việt Nam...” với 4 chỉ tiêu cụ thể, qua số liệu báo cáo của 63
tỉnh thành cho thấy trong 8 năm thực hiện Mục tiêu 2 của Chiến lược 2020, “có
44 tỉnh đạt Chỉ tiêu 1 (70%), 38 tỉnh đạt Chỉ tiêu 2 (60%), 43 tỉnh đạt Chỉ tiêu 3
(68%) và 36 tỉnh đạt Chỉ tiêu 4 (57%)”. Những con số trên cho thấy nỗ lực của
các cấp chính quyền, đồn thể, của mỗi người dân trong gìn giữ, phát huy những
giá trị văn hóa tốt đẹp của gia đình, góp phần vào sự ổn định, phát triển của quốc
gia, dân tộc.
Ngày 04/5/2001, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
72/2001/QĐ-TTg về “Ngày Gia đình Việt Nam”, chọn ngày 28/6 hàng năm là
ngày Gia đình Việt Nam. Qua 20 năm thực hiện, Ngày Gia đình Việt Nam đã
thực sự trở thành một sinh hoạt văn hóa chính trị cộng đồng sâu rộng, lành mạnh,
có ý nghĩa giáo dục, động viên cao đến mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, tôn
vinh những giá trị truyền thống. Qua đó, tạo cơ hội cho các gia đình giao lưu,
chia sẻ kinh nghiệm trong xây dựng gia đình văn hóa, hướng tới sự phát triển
bền vững của gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới; nhắc nhở mọi người dân cố
gắng xây dựng cuộc sống ấm no, bình đẳng, hạnh phúc, tiến bộ, không những
biết yêu thương, giữ gìn và có trách nhiệm đối với hạnh phúc gia đình mà cịn
thể hiện trách nhiệm đối với tương lai của đất nước.


Một trong những yếu tố thuận lợi trong xây dựng gia đình mới ở Việt Nam
hiện nay là trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, sự phát triển của Internet,
mạng xã hội đã mang lại nhiều cơ hội, điều kiện thuận lợi để mỗi thành viên
trong gia đình nâng cao năng lực hiểu biết, khả năng tiếp cận với những thông
tin, tri thức mới. Tỉ lệ hộ gia đình ở nước ta được phổ cập Internet hiện nay đạt
71,3%, trong khi trung bình thế giới chỉ là 57,4%, cao hơn trung bình khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương.

Là thành viên của Liên hợp quốc, Việt Nam đã tham gia ký kết hầu hết các
công ước quốc tế về quyền con người, trong đó có quyền của trẻ em và phụ nữ nhóm người yếu thế cần được quan tâm, bảo vệ trong mỗi gia đình. Qua giao
lưu, hội nhập, nhiều giá trị văn hóa mới đến từ các nước tiên tiến cũng được các
gia đình tiếp thu, vận dụng, như các giá trị về quyền bình đẳng, không phân biệt
đối xử; quyền bảo vệ trẻ em; quyền tiếp cận, thụ hưởng văn hóa, tinh thần
thượng tơn pháp luật; vận dụng khoa học, kỹ thuật vào lao động, sản xuất, phát
triển kinh tế gia đình; từng bước loại bỏ những tư tưởng lạc hậu, kìm hãm sự
phát triển. Đồng thời qua giao lưu, hội nhập, những nét đẹp của gia đình Việt
cũng được quảng bá, giới thiệu với bạn bè quốc tế, tạo được ấn tượng, cảm xúc
đẹp đối với du khách về hình ảnh đất nước, con người Việt Nam.
2.2. Những thách thức trong công tác xây dựng gia đình mới ở nước ta hiện nay
Bên cạnh những tín hiệu tích cực thì cơng tác xây dựng gia đình mới tại Việt
Nam hiện nay cũng đứng trước những khó khăn, thách thức:
Thứ nhất, trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, bên cạnh những cái mới, tiến bộ,
tích cực đang nảy sinh, hình thành trong gia đình mới thì những tư tưởng lạc hậu,


bảo thủ, những tập tục mang màu sắc mê tín dị đoan, tâm linh, thần bí vẫn hiện
diện. Ở một số địa phương vùng sâu, vùng xa, vùng có đồng bào dân tộc sinh sống,
nhiều hủ tục vẫn còn ăn sâu trong nếp nghĩ của khơng ít gia đình như vấn đề tảo
hôn, chữa bệnh bằng bùa ngải, phép thuật của thầy mo; những nghi lễ rườm rà
trong ma chay, cưới hỏi... ảnh hưởng lớn đến sự phát triển toàn diện của cá nhân,
trở thành những rào cản trên con đường tiếp cận với cái tiến bộ, văn minh.
Thứ hai, thành tựu trong công cuộc đổi mới giúp nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của người dân. Tuy nhiên chênh lệch về mức sống, khoảng cách giàu
nghèo gia tăng. Cuộc sống của người dân vùng sâu, vùng xa, gia đình cơng nhân
cịn gặp nhiều khó khăn; khả năng tiếp cận các loại hình dịch vụ xã hội, vui chơi
giải trí cịn hạn chế. Hệ thống các thiết chế văn hóa cịn thiếu, chưa đồng bộ, ảnh
hưởng đến việc nâng cao chất lượng đời sống tinh thần cho nhân dân.
Thứ ba, mặt trái của nền kinh tế thị trường, q trình cơng nghiệp hóa, đơ thị

hóa đang tạo ra những khoảng cách với những rạn nứt trong quan hệ gia đình.
Nhịp sống cơng nghiệp, con người chạy đua với công việc cùng những áp lực về
thời gian, tiền bạc và cuộc sống mưu sinh khiến họ khơng có nhiều thời gian bên
gia đình, con cái, nhất là với những gia đình có bố mẹ làm cơng nhân xa nhà.
Thứ tư, một hiện tượng gây nhức nhối dư luận và xuất hiện ngày càng nhiều
trong những năm gần đây là những vụ việc liên quan đến cha mẹ, anh em, vợ
chồng chỉ vì mâu thuẫn cá nhân, tranh giành lợi ích đã dẫn đến bất đồng, xô xát,
đẩy nhiều gia đình vào cảnh tang thương, đổ máu vì những tốn tính nhỏ nhen,
ích kỷ. Vì lợi ích vật chất nhiều người sẵn sàng đánh đổi, thậm chí chà đạp lên
giá trị, danh dự của gia đình, dịng họ, bất chấp chuẩn mực đạo đức cộng đồng.
Những vụ việc về tham nhũng, buôn bán ma túy; buôn bán phụ nữ và trẻ em,
tình trạng


bạo lực gia đình, bạo lực học đường vẫn xuất hiện, đặt ra nhiều vấn đề về tình
trạng suy thối đạo đức xã hội, sự tha hóa nhân cách con người.
Thứ năm, q trình đơ thị hóa mang lại diện mạo, khơng gian mới cho các gia
đình. Tuy nhiên mặt trái của đơ thị hóa cũng đang làm mất đi khơng gian, cảnh
quan văn hóa truyền thống trong đó có khơng gian, hình ảnh của những ngơi nhà
cổ xưa. Vì mục tiêu phát triển, vì lợi ích vật chất, nhiều địa phương sẵn sàng
đánh đổi không gian sinh hoạt cộng đồng, hy sinh cảnh quan, môi trường sinh
thái nhân văn để đổi lấy những dự án thương mại, nhà ở cao tầng. Sự thay đổi
của không gian, môi trường sống dẫn đến sự đổi thay trong nghề nghiệp, phương
thức mưu sinh của các gia đình, từ nghề nơng, thủ cơng truyền thống sang kinh
doanh, buôn bán, dịch vụ khiến nhiều gia đình chưa kịp thích ứng, trong khi các
hiện tượng phức tạp của lối sống đô thị không ngừng nảy sinh, đặt nhiều gia đình
trước những thử thách trong việc lựa chọn, định hình giá trị. Về nhiều làng quê
hiện nay, hình ảnh của những nếp nhà cấp bốn ba gian hai chái, xung quanh là
sân vườn, cây cối, ao hồ đang trở nên thưa vắng, thay vào đó là những ngơi nhà
ống cao tầng, cửa đóng then cài, đồng nghĩa với việc giao lưu, chia sẻ của tình

nghĩa láng giềng cũng bị vơi đi ít nhiều.
Thứ sáu, tình trạng mâu thuẫn, xung đột và nạn ly hôn trong các gia đình trẻ
có chiều hướng gia tăng. Bên cạnh đó, việc tiếp thu dễ dãi các tư tưởng, trào lưu,
lối sống khác lạ đến từ bên ngoài khiến nhiều bạn trẻ khơng kiểm sốt được hành
vi, suy nghĩ, có lối sống bng thả, dễ dãi trong quan hệ tình dục, hơn nhân, gây
suy giảm sức khỏe, nịi giống, để lại những hệ lụy lớn cho bản thân, gia đình và xã
hội.


Thứ bảy, trong điều kiện Internet và mạng xã hội phát triển mạnh mẽ, bên
cạnh những lợi ích mang lại thì mặt trái của nó cũng đặt ra nhiều thách thức với
các gia


×